1
Luận văn:
“Một số vấn đề huy động vốn trong nước cho
sự nghiệp công nghiệp hoá - Hiện đại hoá ở Việt
Nam hiện nay”
2
Lời mở đầu
Trong giai đoạn hiện nay, vốn là một hoạt động vật chất quan trọng cho
mọi hoạt động của nền kinh tế. Nhu cầu về vốn đang nổi lên như một vấn đề cấp
bách. Đầu tư và tăng trưởng vốn là một cặp phạm trù của tăng trưởng kinh tế, để
thực hiện chiến lược phát triển nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay ở nước ta
cần đến một lượng vốn lớn.
Vốn cho phát triển kinh tế- xãhội luôn là vấn đề quan trọng và cấp bách
trong cuộc sống hiện nay và nhiều năm tới ở nước ta. Đương nhiên để duy trì
những thành quả đãđạt được của nền kinh tế nhờ mấy năm đổi mới vừa qua, giữ
vững nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao, tránh cho đất nước rơi vào tình trạng lạc
“tụt hậu” so với nhiều nước láng giềng trong khu vực và trên thế giới. Trong giai
đoạn hiện nay nước ta đang tìm mọi cách khơi dậy mọi nguồn vốn trong nước từ
bản thân nhân dân và việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đãcó tại các cơ sở
quốc doanh. Nguồn nước ngoài từ ODA, NGO và từ đầu tư trực tiếp nước ngoài
FDI. Tuy nhiên cần thấy rõ nguồn vốn trong nước là chủ yếu, nguồn vốn trong
nước vừa phong phú vừa chủ động nằm trong tầm tay. Nguồn trong nước vừa là
tiền đề vừa là điều kiện để “ đón” các nguồn vốn từ nước ngoài. Nguồn vốn
nước ngoài sẽ không huy động được nhiều và sử dụng có hiệu quả khi thiếu
nguồn vốn “bạn hàng” trong nước.
Mặc dù điều kiện quốc tế thuận lợi đãmở ra những khả năng to lớn để huy
động nguồn vốn từ bên ngoài, nhưng nguồn vốn ở trong nước được xem là quyết
định cho sự phát triển bền vững và độc lập của nền kịnh tế.
Qua nghiên cứu thực tế, và với cơ sở kiến thức đãtích luỹ được trong thời
gian qua em nhận thấy tầm quan trọng của việc huy động nguồn vốn đầu tư
trong nước phục vụ cho phát triển kinh tế Việt nam trong giai đoạn hiện nay.
Cũng như xuất phát từ tính cấp thiết của vấn đề này, em chọn đề tài: “Một số
3
vấn đề huy động vốn trong nước cho sự nghiệp công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
ở Việt Nam hiện nay”.
Nội dung của đề tài này bao gồm các nội dung sau:
Phần 1: Cơ sở phương pháp luận để huy động nguồn vốn.
PHầN 2: Thực trạng huy động vốn trong nước trong thời gian qua ở Việt
nam.
Phần 3: Định hướng và giải pháp huy động vốn trong nước ở Việt nam
trong thời gian tới.
PHầN 1
Cơ sở phương pháp luận để huy động nguồn vốn
1/ Nh
ững vấn đề lý luận về vốn phục vụ cho phát triển kinh tế Việt nam.
Trước hết, vốn là điều kiện tiên quyết để duy trì và phát triển sản xuất,
đồng thời là cơ sở để phân phối lợi nhuận và đánh giá hiệu qủa các hoạt động
kinh tế, nó bao gồm những nguồn vật tư và tài sản trong các doanh nghiệp,
nguồn tiền mặt hoặc các tài sản khác dự trữ trong dân. Vì vậy, chính sách tạo
vốn cơ bản phải tuân thủ nguyên tắc lợi ích của người có vốn và do đó, việc sử
dụng vốn nhất thiết phải tuân thủ nguyên tắc hiệu quả kinh tế.
Mục tiêu của chính sách tạo vốn trước hết và chủ yếu là tạo ra môi trường
kinh tế và tiền đề pháp lý để biến mọi nguồn tiền tệ thành tư bản sinh lợi và tăng
trưởng trong quá trình tái sản xuất xãhôị. Các nguồn chủ yếu bao gồm :vốn đầu
tư kinh tế của nhà nước, vốn tự có của các doanh nghiệp, vốn bằng tiền và tiền
nhàn rỗi của dân cư và vốn của các doanh nghiệp và tổ choc tài chính quốc tế.
Trong giai đoạn hiện nay vốn là yếu tố vật chất quan trọng nhất cho tăng
trưởng. Để tao ra tốc độ tăng trưởng kinh tế từ 7-8% thì cần tích luỹ một lượng
vốn từ 20- 25% GDP. Nếu trong những năm tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế là
4
hai con số trong vài thập niên tới thì cần thì tỷ lệ tích luỹ vốn phải lên tới trên
30% GDP. Đây là một nhu cầu lớn cần phải giải quyết để khai thác nguồn vốn
đặc biệt là nguồn vốn trong nước.
Vốn ngân sách nhà nước một thời gian giảm xuống nay đãbắt đầu tăng
lên. năm 1990 là 20% thì tới năm 1994 đãtăng lên là 44% ngân sách. Để đạt
được kết quả đó thì nguyên nhân cơ bản là chính sách thuế đãđược cải cách một
cách toàn diện và thu được nhiều kết quả cho ngân sách. Năm1990 thu ngân
sách từ thuế phí chiếm 73,69%, năm 1993 phần thu đó là 93,8%. Nếu so với
GDP thì các tỷ trọng tương tự là 17,3% và 17,06% vốn huy động từ các nguồn
khác cũng có xu hướng tăng do chính sách khuyến khích đầu tư, tư nhân và tạo
dựng được môi trường đầu tư cho mọi thành phần kinh tế phát triển. Điều mà ai
cũng có thể đồng ý với nhau là một nền kinh tế kém phát triển có thể cất cánh
được nếu không có sự tham gia của các nguồn vốn từ nước ngoài. Vai trò của
nguồn vốn bên ngoài có ý nghĩa quan trọng nhằm hỗ trợ khai thông những cản
ngại, tạo sức bật cho nền kinh tế phát triển. Vì vậy chúng ta nên nỗ lực huy động
nguồn vốn từ bên ngoài dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta
không nên trông chờ và ỷ lại vào nguồn vốn từ bên ngoài. Trong việc huy động
vốn để đầu tư phát triển, chúng ta cần phải khẳng định vai trò của nguồn vốn
trong nước đóng vai trò quan trọng hay quyết định. Mặc dù nguồn vốn này còn
thấp so với vốn dài hạn ( cho thời kỳ 1996- 2000) vẫn còn khó huy động trong
hiện tại. Theo ý kiến của các chuyên gia trong và ngoài nước , cùng với kinh
nghiệm của các nước đang phát triển cho thấy: Nguồn vốn trong nước vẫn là
nguồn vốn có tính chất quyết định, người dân trong nước vẫn chưa dám bỏ vốn
ra đầu tư thì người nước ngoài cũng chưa mạnh dạn bỏ vốn dầu tư vào Việt
nam.
Vấn đề đặt ra là không phải tìm mọi cách để huy động cho được các
nguồn vốn, mà phải coi trọng việc quản lý và sử dụng nguồn vốn ấy cho đầu tư
5
phát triển sao cho có hiệu quả để nguồn vốn ấy sinh sôi nảy nở và đạt được
chiến lược hiệu quả kinh tế - xãhội đề ra.
Đầu tư phát triển phải đảm bảo được các yêu cầu sau:
Phải được tính bền vững trong đầu tư phát triển, tức là tự bản thân nó phải
có mầm mống cho tăng trưởng trong tương lai, nhằm sử dụng tài nguyên một
cách hợp lý để không ngừng khai thác lợi thế so sánh của tiềm năng đất nước.
- Sử dụng nguồn vốn đầu tư phát triển phải có hiệu quả để tái tạo và phát
triển các nguồn vốn, tạo tiền đề cho việc huy động vốn ở giai đoạn tiếp theo.
- Nền kinh tế Việt nam có xuất phát điểm thấp, thu nhập bình quân đầu
người khoảng 300 đô la/ năm, lại nằm trong khu vực ASEAN có tốc độ tăng
trưởng cao, nên Việt nam phảt duy trì tốc độ tăng trưởng cao để đuổi kịp các
nước trong khu vực trong vài thập niên, mặc dù chịu tác đông nhất định của
cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực .
Vì vậy Chính phủ phải có kế hoạch,huy động vốn phù hợp với khả năng
phát triển của nền kinh tế, tập quán tiêu dùng và tiết kiệm của nhân dân.
trong việc duy trì và phát triển nền kinh tế, nếu không có vốn thì mọi hoạt
động sản xuất kinh doanh không thể thực hiện được.
. Vốn đầu tư:
- Khái niệm: Vốn đầu tư là những chi phí để tái sản xuất tài sản cố định
bao gồm các chi phí để thay thế những tài sản cố định bị thải loại để tăng mới
các tài sản cố định và để gia tăng các tài sản cố định tồn kho.
- Các hình thức đầu tư:
+ Đầu tư trực tiếp.
+ Đầu tư gián tiếp.
. Cơ cấu vốn đầu tư:
a. Nguồn vốn trong nước bao gồm các loại vốn chủ yếu sau:
6
- Vốn huy động từ ngân sách nhà nước.
- Vốn huy động trong dân cư.
- Vốn huy động từ tiết kiệm của các doanh nghiệp.
b. Nguồn vốn ngoài nước bao gồm:
- Vốn đầu tư trực tiếp
- Vốn đầu tư gián tiếp
- Vốn hỗ trợ và phát triển chính thức.
2/ Các bộ phận cấu thành vốn trong nước.
2.1/ Vốn huy động từ ngân sách nhà nước
Là bộ phận quan trọng trong toàn bộ khối lượng đầu tư, nó có vị trí rất
quan trọng trong việc tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi nhằm thúc đẩy mạnh
đầu tư của mọi thành phần kinh tế theo định hướng chung của kế hoạch. Chính
sách và pháp luật đồng thời trực tiếp tạo ra năng lực sản xuất của một số lĩnh
vực quan trọng của nền kinh tế đảm bảo theo đúng định hướng của chiến lược và
quy hoạch phát triển kinh tế- xãhội.
Nguồn ngân sách bao gồm: Nguồn thu trong nước và nguồn thu bổ sung
từ bên ngoài, chủ yếu thông qua nguồn vốn ODA và một số ít là vay nợ của tư
nhân nước ngoài. Để nâng cao hiệu quả nguồn vốn từ ngân sách nhà nước cần
có những sửa đổi trong chính sách đầu tư.
Nguồn thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước:là các nguồn tàI
chính có khả nămg tạo lập nên quỹ ngân sách nhà nước do kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh trong nước mang lại.
-Nguồn thu được hình thành và thực hiện trong khâu sản xuất.
-Nguồn thu được thực hiện trong khâu lưu thông-phân phối.
-Nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ.
7
Thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản:
-Thuế ,phí và lệ phí.
-Thu về bán và cho thuê các tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước.
-Thu lợi tức cổ phần của Nhà nước.
-Các khoản thu khác theo luật định.
Trong các khoản thu trên, thuế là khoản thu quan trọng nhất. Thuế không
chỉ chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách Nhà nước hàng năm mà còn
là công cụ của Nhà nước để quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân.
Tỷ lệ động viên GDP vào ngân sách nhà nước không ngừng tăng lên qua
các năm, bình quân từ 13,1% GDP (thời kỳ1986- 1990) lên 20,5% ( thời kỳ
1991- 1995) ngân sách nhà nước từ chỗ thu không đủ chi đến nay đãcó một phần
tích luỹ dành cho đầu tư phát triển từ 2,3% GDP năm 1991 tăng lên 6,1% GDP
vào năm 1996 ( nếu cả do khấu hao cơ bản).
Nguyên nhân chủ yếu của nó là:
- Ngân sách nhà nước đãđiều chỉnh lại cơ cấu đầu tư nhằm tạo ra các tiền
đề thu hút vốn đầu tư.
- Chi của ngân sách nhà nước dành cho đầu tư phát triển chủ yếu tập trung
vào cơ sở hạ tầng của nền kinh tế xãhội.
- Ngân sách nhà nước không còn bao cấp cho các xí nghiệp nhà nước
thông qua cổ phần hoá và tập trung đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp-
lâm nghiệp.
Mục tiêu của huy động vốn ngân sách nhà nước phải dành khoảng từ 20-
25% tổng số chi ngân sách cho đầu tư phát triển hàng năm. Khai thác có hiệu
quả tín dụng nhà nước đầu tư phát triển, đồng thời phải đẩy mạnh hình thức vay
vốn trong nhân dân, cho đầu tư phát triển kinh tế là quốc sách hàng đầu. Muốn
đạt được các hiệu quả trên cần phải thực các biện pháp sau:
8
Hình thành nguồn vốn đầu tư trong ngân sách: Các biện pháp quan trọng
nhất để tăng thu là thu đúng, thu đủ các khoản vay trong nước.
Thu ngân sách nhà nước trong sự phát triển bền vững, tức là thu nhưng
không làm suy yếu các nguồn thu quan trọng mà phải bổi dưỡng phát triển và
mở rộng các nguồn thu một cách vững chắc, lâu bền. Điều đó nghĩa là cần xác
định mức thu hợp lý vừa đảm bảo NSNN có nguồn thu cao, vừa đảm bảo để các
đối tượng NSNN có đủ điều kiện tài chính tiếp tục phát triển. Xác định mức thu
tại diểm “giới hạn tối ưu”này không đơn giản mà cần phân tích, cân nhắc nhiều
nhân tố khác nhau. Những nguồn thu thuộc khu vực kinh tế quốc doanh và có ý
nghĩa đặc biệt thì cần chú ý bồi dưỡng thông qua các biện pháp hỗ trợ đầu tư, trợ
giúp về khoa học kỹ thuật, công nghệ và nhân lực trong một chừng mực không
bao cấp.
Không tận thu NSNN quá mức để bao cấp trong cấp phát mà chỉ thu trong
chừng mực tốt nhất để đáp ứng các nhu cầu chi của Nhà nước. Đối với những
ngành , những địa phương có thất thu lớn thì cần tăng cường thu và tận thu,
nhưng quan điểm bao trùm thì không phải là tận thu-Vì điều đó sẽ ảnh hưởng
đến khả năng tăng trưởng của nền kinh tế.
+ Cải tiến các hệ thống thuế, làm cho diện thu thuế tăng lên, nhưng thuế
xuất đơn giản hoá. Kết quả là: giảm được tỷ lệ trốn lậu thuế, tăng nguồn thu cho
ngân sách, đáp ứng được nhu cầu chi thường xuyên và chi cho đầu tư phát triển,
đồng thời tránh được các khoản lạm thu, gây khó khăn phiền hà đến sinh hoạt và
các hoạt động khác của đời sống dân cư.
+ Quản lý tốt vấn đề nợ, đảm bảo đúng đối tượng trả nợ và tính kỹ các
điều kiện trả trước khi ký hợp định khung vay vốn, và hiệp định vay cho từng
công trình, chương trình dự án đầu tư.
9
Các chính sách về ngân sách nhằm huy động vốn dàI hạn cho phát triển
kinh tế -xãhội cần thường xuyên đổi mới cảI tiến các hình thức huy động, đặc
biệt là hệ thống thuế.
- Phân bổ và sử dụng tốt các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước
+ Tăng quy mô đầu tư từ ngân sách nhà nước và sử dụng đúng hướng
nguồn vốn này với biện pháp bao chùm là chống thất thu và tiết kiệm chi thường
xuyên để tăng quy mô nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước.
+ Từng bước xoá bỏ triệt để cơ chế bao cấp trong lĩnh vực cấp phát quản
lý đầu tư xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn của nhà nước.
+ Tăng cường công tác quản lý sau dự án. Những dự án này dùng nguồn
vốn nhà nước thường có quy mô vốn rất lớn, hiện nay việc thẩm định các dự án
là tương đối chặt chẽ thì trái lại việc quản lý sau dự án lại bị buông lỏng dẫn đến
tình trạng chi tiết trên danh nghĩa nhưng lại l•ng phí trên thực tế. Sử dụng nhiều
cơ chế khác nhau để quản lý vốn, với nguồn vốn nhà nước được thông qua vay
nước ngoài với điều kiện ưu đ•i thì tiến hành cho vay lại để tạo điều kiện bình
đẳng trong sản xuất kinh doanh và tái tạo nguồn vốn. Tiết kiệm trong chi tiêu
ngân sách hiện vẫn là một khả năng rất lớn cần tận dụng, bởi lẽ so với các nước
tỷ lệ động viên thu nhập quốc dân vào ngân sách nhà nước là tương đối cao. Tỷ
lệ thuế ở các nước so với GDP là tương đối cao ( thường đạt mức dưới 20% ).
2.2/ Nguồn vốn huy động từ doanh nghiệp nhà nước.
Trong chiến lược ổn định kinh tế Việt nam đến năm 2000, Đảng ta đãchỉ
rõ “ chính sách tài chính quốc gia hướng vào việc huy động vốn và sử dụng vốn
có hiệu quả trong toàn xãhội, tăng nhanh sản phẩm xãhội và thu nhập quốc dân”
. Tạo vốn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả là một vấn đề mà Đảng và các
doanh nghiệp nhà nước luôn quan tâm. Bởi có huy động được vốn mới tiến hành
được quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
10
Đối với doanh nghiệp, chính sách tài chính hướng vào các việc mở rộng
khả năng hoạt động mạnh mẽ có hiệu quả cao của các đơn vị sản xuất kinh
doanh, đó là những tế bào tài chính; làm cho các nguồn vốn chu chuyển nhanh
và linh hoạt, đồng thời tạo ra cơ sở để nhà nước có khả năng kiểm soát được nền
tài chính quốc gia.
Trong lĩnh vực đầu tư cho khu vực doanh nghiệp nhà nước cần phải thực
hiện một số giải pháp và chính sách sau:
-Các doanh nghiệp nhà nước thuần tuý kinh doanh tự huy động nguồn vốn
trong xãhội hoặc tín dụng ngân hàng để đảm bảo được điều kiện đầu tư bình
đẳng với các thành phần kinh tế của doanh nghiệp.
-Sớm sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, chỉ giữ lại một số doanh nghiệp
thật cần thiết, còn cho phép chuyển đổi hình thức sở hữu, với sở hữu đan xen, cổ
phần hoá" Đồng thời trong cơ chế chính sách cần đảm bảo sự bình đẳng tối đa,
cùng loại hình hoạt động, nếu như không có các quy chế đặc biệt thì đều có cơ
chế về thuế, tín dụng và l•nh thổ.
- Cùng với quá trình hình thành các tập đoàn kinh tế, cần xây dựng cơ chế
chính sách đồng bộ để tránh tình trạng thêm tầng lớp trung gian, gây khó khăn
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các bộ chuyển nhanh
sang các chức năng quản lý nhà nước và chuyển nhanh về cơ chế Bộ chủ quản
để các doanh nghiệp tự chủ trong bảo bảo toàn và phát triển nguồn vốn.
- Hiện nay nguồn tích luỹ của các doanh nghiệp còn rất hạn chế. Bởi
lẽ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hiệu quả còn thấp, công nghệ chưa
được đổi mới, chất lượng của sản phẩm chưa cao, nên khả năng tiết kiệm cho
đầu tư chưa nhiều. Mặt khác vốn khấu hao chưa được quản lý nghiêm ngặt và
khấu hao đủ. Vì vậy để huy động được nguồn vốn lớn trong doand nghiệp nhà
nước thì đòi hỏi nhà nước phải tiến hành sửa đổi và ban hành các chính sách để
11
khuyến khích doanh nghiệp làm ăn có hiệu , để có thể đầu tư phát triên sản
xuất.
- Trong giai đoan 1996- 2000 vốn của doanh nghiệp nhà nước tự đầu
tư khoảng14-15% tổng số của toàn xãhội. Mở rộng quyến tự chủ của các doanh
nghiệp theo hướng cơ cấu lại vốn sản xuất và tài sản của doanh nghiệp một cách
hợp lý, tính đầy đủ giá trị quyền sử đất vào vốn vào tài sản tại doanh nghiệp.
2.3/ Nguồn vốn huy động từ trong dân cư:
Theo ước tính của các chuyên gia về kinh tế tài chính nguồn vốn trong
dân cư có khoảng 6 tỷ USD được sử dụng qua điều tra của bộ kế hoach kế
hoạch đầu tư và tổng cục thống kê như sau:
- 44% để dành của dân là dùng để mua vàng và ngoại tệ
- 20% để dành của dân được dùng để mua nhà đất và cải thiện đời
sống sinh hoạt.
- Tuy nhà nước cho phép các doanh nghiệp nhà nước huy động vốn
từ trong dân với nhiều chính sách khác nhau, khi thực tế áp dụng còn nhiều ràng
buộc. Để tăng cường sử dụng nguồn vốn của nhân dân hay vốn ngoài vùng
ngân sách thì cần phải có chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, thực
hành tiết kiệm, làm giàu chính đáng tạo lòng tin cho nhân dân yên tâm bỏ vốn ra
đầu tư, tiềm lực trong nhân dân còn rất rất lớn, muốn vậy nhà nước phải ổn dịnh
tiền tệ.
Vốn đầu tư của tư nhân và dân cư có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc
phát triển nông nghiệp, mở mang ngành nghề ở nông thôn phát triển công
nghiệp thủ công, thương mại , dịch vụ, vận tải…Vì vậy chúng ta cần phải thực
hiện các chính sách sau:
- Đa dạng hoá các công cụ, huy động vốn để cho mọi ngườ dân ở bất cứ
nơI nào cũng có đIều kiện sản xuất kinh doanh.
- Tăng l•i xuất tiết kiệm đảm bảo l•i xuất dương.
12
- Khuyến khích sử dụng tài sản cá nhân, thực hiện chế độ thanh toán
tiền gửi ở một nơi và rút ra bất cứ lúc nào, có vậy chúng ta mới đưa được nguồn
vốn dưới dạng cất giấu vào lưu thông.
- Tao môi trường đầu tư thông thoáng và thực hiện theo quy định
của luật pháp để người dân dễ dàng bỏ vốn đầu tư.
- Chính phủ ban hành các chính sách khuyến khích các hộ gia đình ở
các vùng nông thôn, vốn vào sản xuất trên cơ sơ khai thác thế mạnh của từng
vùng, phát huy truyền thống hiện có của địa phương.
- Chính phủ ban hành chính sách khuyến khích tư nhân trong nước
như tự đầu tư
- Thực hiện chính sách xãhội hoá dần đầu tư phát triển sự nghiệp
giáo dục và đào tạo, y tế nhằm huy động thêm nguồn lực của nhân dân.
2. 4. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài .
Nó có tầm quan trọng đặc biệt cho việc phát triển kinh tế với phần
lớn các nước đang phát triển và là điều kiện để nhang chóng thiết lập cacad quan
hệ kinh tế quốc tế, gắn thị trường nội dịa với thị trường thế giới trên cả bốn mặt
:thị trường hàng hoá, thị trường tàI chính, thị trường lao động và thị trường
thông tin. Vì vậy, phảI xây dung một chiến lược kinh tế đối ngoại đúng đắn, phù
hợp voí những chuyển biến to lớn về kinh tế, chính trị -xãhội và khoa học hiện
nay. Cần có chính sách tàI chính thích hợp để khuyến khích đầu te nước ngoàI
dưới hình thức vay nợ, đầu tư tàI chinh, đầu tư trực tiếp, mở chi nhánh kinh
doanh, thuê chuyên gia… Thực hiện chế độ tàI chính ưu tiên như thuế nhập
khẩu vật tư kỹ thuật , dịch vụ thông tin, thuế xuất nhập khẩu thành phẩm, thuế
thu nhập , quyền được đảm bảo tàI sản, đIều kiện chuyển lợi nhuận và vốn về
nước và các dịch vụ đầu tư ưu đ•I khác. Khuyến khích đặc biệt đôi với đầu tư
nước ngoàI cho các công trình cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc, công nghệ mũi
nhọn, các ngành sử dụng nhiều lao độngvà những dự án khai thác tài nguyên có
13
số vốn khổng lồ. Mở rộng thị trường hối đoái bằng cách cho phép nhiều ngân
hàng thương mại có đủ điều kiện về vốn và nghiệp vụ, được kinh doanh ngoại
hối và thực hiện dịch vụ thanh toán ngoại thươong nhanh chóng, thuận lợi cho
các doanh nghiệp trong và ngoài nước .
Tóm lại, việc kết hợp giữa “khơi trong “ và “hút ngoài”;giữa vốn tập
trung của Nhà nước và vốn doanh nghiệp (có được từ mọi nguồn )theo một định
hướng đầu tư đúng đắn trong một cơ chế hoạt động tài chính thích hợp với tong
giai đoạn phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta là yếu tố có ý
nghĩa quyết định đối với việc củng cố và làm lành mạnh nền tài chính quốc gia,
đồng thời cũng là nhân tố tạo nên bước chuyển biến có ý nghĩa cơ bản của công
cuộc đổi mới cơ chế kinh tế.
3/ Vai trò của vốn trong nước với phát triển kinh tế và ý nghĩa của
vấn đề huy động vốn trong nước.
3.1/ Vốn trong nước với vấn đề đáp ứng nhu cầu của đẩu tư cho phát triển
kinh tế.
- Chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá có tính kế hoạch nhiều
thành phần , định hướng XHCX nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất của
xãhội, khai thác và sử dụng có tiềm năng vốn của đất nước đãđặt nền kinh tế
nước ta đến một loạt các mâu thuẫn lớn cần giải quyết cấp bách. Trong đó có
mâu thuẫn giữa nhu cầu đầu tư và nguồn vốn đáp ứng cho nhu cầu ấy. Việc đánh
giá đúng nguồn vốn và việc sử dụng nó trong thời gan vừa qua nó cho chúng ta
những cơ sở để tạo ra chiến lược tạo vốn nhằm khai thác mọi tiềm năng về vốn
và định hướng chính sách sử dụng nguồn vốn có hiệu
- Đối với việc huy động vồn trong nước thì đây chính là nguồn vốn
đóng vai trò quan trọng, quyết định. Trong khi đất nước nghèo nàn, khả năng
tích luỹ còn thấp thì tiết kiệm những phần chi tiêu không mang lạI hiệu quả thì
nó không những là quốc sách mà chúng ta cần có các giảI pháp để hoàn thiện
14
dần; Nhà nước , các doanh nghiệp, hộ gia dình, các tổ chứ tài chính…Phải gắn
tiết kiệm với tích luỹ trong sự tác động của các các nhân tố kích thích về lợi ích
kinh tế đãhuy động tối đa các nguồn vốn trong nước.
- Vốn đầu tư trong nước được hình thành từ các nguồn vốn trong các
khu vực: Như ngân sách nhà nước, tín dụng nhà nước, doanh nghiệp nhà nước
và các tổ chức tín dụng tư nhân.
- Vốn đầu tư từ khu vực nhà giữ vai trò quan trọng trong việc đầu tư
vào khu vực doanh nghiệp nhà nước để phát triển cơ sở hạ tầng, kinh tế xãhội,
các công trình công cộng, hỗ trợ các vùng chậm phát triển, vùng sâu, vùng xa,
hải đảo
Vốn đầu tư của tư nhân có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc phát triển
kinh tế nông nghiệp- nông thôn,mở mang các ngành nghề ở nông hôn phát triển,
tiểu thủ công nghiệp, vận tải, dịch vụ và thương nghiệp.
Nguồn vốn trong nước tiếp tục tăng cả về tốc độ tuyệt đối và tốc độ
tương đối trong GDP từ 10,1% năm 1991 lên tới 19% năm 1995, sau đó ổn định
ở mức 16-17% GDP và là động lực chủ yếu gia tăng tổng nguồn vốn đầu tư toàn
xãhội mà kết quả cuả nó là sự phát triển của nền kinh tế. Tổng sản phẩm trong
nước thời kỳ 1991- 1995 tăng lên với tốc độ 8,5% trong đó nông nghiệp và thuỷ
sản tăng 4,4% , công nghiệp và dịch vụ tăng 13,2%, dịch vụ tăng 8,6%. Trong
tương lai cần tiến hành làm thông thoáng thị trường vốn, tích cực hình thành thị
trường chứng khoán để đầu tư. Nguồn vốn trong dân cư còn rất bé, vốn nhàn rỗi
trong dân cư không huy động được, theo kết quả đIều tra mức sống gần đây của
uỷ ban nhà nước và tổng cục thống kê cho thấy số tiền của người dân được tích
luỹ dưới nhiều hình thức.
Vì vậy việc bán tín phiếu với l•i xuất thích hợp đang thu hút nhanh nguồn
vốn nhàn rỗi trong dân cư. Và gần đây chính phủ cho phép thành lập quỹ tín
dụng nhân nhân, cũng như ngân hàng dành cho người nghèo để hỗ trợ cho các
15
doanh nghiệp còn nhiều khó khăn.
3.2/ Huy động vốn trong nước với vấn đề phát triển kinh tế.
Trong năm năm 1991- 1995 vốn đầu tư xãhội khoảng 18 tỷ USD, trong đó
đó đầu tư nhà nước chiếm khoảng 43%. Đầu tư của khu vực tư nhân chiếm
khoang 1/3 tổng số vốn đầu tư.Tổng mức tiết kiệm mà các tổ chức huy động
dược tăng từ 5300 tỷ đồng năm 1990 lên trên 24000 tỷ đồng, chiếm 35,5% tổng
đầu tư xãhội . Sang kế hoạch 1996- 2000 lượng vốn dự báo cần cho đầu tư phát
triển khoảng 41- 43 tỷ USD trong đó thì 50% từ nguồn vốn trong nước. Phần
vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước dự kiến chỉ chiếm 12,6%, do đó phải đẩy
mạnh việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, khuyến khích các doanh
nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp khác tự bỏ vốn ra hoạt động sản xuất kinh
doanh. Trước yêu cầu mới, vấn đề huy động và sử dụng vốn vẫn đang gặp nhiều
khó khăn phức tạp cần phải khắc phục. Ngân sách nhà nước luôn ở trong tình
trạng căng thẳng, không thể đáp ứng đủ cho nhu cầu đầu tư phát triển. Đầu tư
của nhà nước bị phân tán do phải đáp ứng nhiều nhiệm vụ, các nguồn thu từ
thuế, các khoản lệ phí, dịch vụ công cộng còn nhiều thất thoát và l•ng phí. Số
vốn huy động được thông qua tín dụng chủ yếu là vốn vay ngắn hạn không đáp
ứng được nhu cầu đầu tư phát triển và chuyển đổi cơ cấu sản xuất. Vốn đầu tư
trực tiếp từ khu vực tư nhân h•y còn chiếm tỷ lệ nhỏ tập trung chủ yếu (80%)
vào các lĩnh vực thương mại dịch vụ, phục vụ tiêu dùng. Một bộ phận không
nhỏ nguồn vốn huy động ở trong nước còn đang nằm ở ngân hàng thương mại
đang bị ứ đọng không trở thành nguồn vốn đầu tư được.
Theo các ý kiến dự báo thì khoảng 50- 70 nghìn tỷ đồng của nhân dân
đang cất giữ dưới dạng tiền mặt, ngoạI tệ, tàI sản có giá trị cao…Chưa chuyển
được thành nguồn vốn đầu tư và kinh doanh. Khoản tiền kiều hối hàng năm gửi
về nước khoảng từ 0,6- 1 tỷ USD chưa được khai thác và sử dụng hợp lý.
Nguyên nhân của các yếu kém trên là do:
16
- Trình độ phát triển kinh tế của nước ta vẫn còn thấp, mức độ tiền tệ hoá
nền kinh tế và các quan hệ tài chính tiền tệ mới ở giai đoạn đầu của sự phát
triển, mức độ phân tán ở trong nước vừa nhỏ vừa phân tán.
- Cơ cấu sản xuất nói chung kém hiệu quả, sau hơn 10 năm đổi mới cầu
về những sản phẩm truyền thống gần như đãb•o hoà cần phải thay bằng những
sản phẩm mới có chất lượng và hình thức cao hơn.
- Chính sách quản lý vĩ mô chưa hoàn thiện và đồng bộ, chưa khuyến
khích mọi người bỏ vốn ra mở rộng sản xuất, môi trường đầu tư chưa ổn định
còn nhiều rủi ro cho các nhà đâù tư.
- Khả năng kinh doanh sinh lợi cao hơn l•i trả ngân hàng của nhiều
doanh nghiệp còn hạn chế. Điều đó cũng kéo theo các ngân hàng cũng gặp rủi ro
khi cho vay, khó thu hồi vốn, phải sử dụng thế chấp như một công cụ chủ yếu.
Đây chính là yếu tố hạn chế phân bổ có hiệu quả nguồn vốn
Để huy động nguồn vốn một cách có hiệu quả thì chúng ta nên áp dụng
một số biện pháp sau:
- Đẩy mạnh thu hút vốn trực tiếp từ dân cư và doanh nghiệp, thúc đẩy đa
dạng hoá các hình thức đầu tư.
- ủng hộ chủ trương của nhà nước đang dự thảo về cơ chế” Đổi
quyền sử dụng đất lấy công trình”. Biện pháp có thể là nhà nước giao quyền sử
dụng đất (có thời hạn) cho chủ đầu tư để lấy công trình do chủ đầu tư xây dựng
theo yêu cầu của nhà nước.
- Củng cố các ngân hàng thương mại và tín dụng theo hướng bảo đảm
mục tiêu an toàn vốn cho gửi tiết kiệm. Mở thêm các điểm gửi thuận lợi cho
người gửi và rút tiền linh hoạt khi xử lý các mức thời hạn
- Quán triệt chủ trương của Đảng nguồn vốn trong nước là quyết định
cuối cùng với việc tích cực tranh thủ các nguồn vốn bên ngoài, nhân dân ta góp
tiền của và sẽ tiếp tục bỏ tiền của để xây dựng đất nước nhanh chóng thiết lập
17
các cơ chế chính sách thích hợp đồng bộ hoá các thủ tục hành chính và các giải
pháp vi mô để lập môi trường đầu tư lành mạnh, an toàn, hiệu quả.
3.3/ Huy động vốn trong nước với các vấn đề xãhội.
Trong 5 năm (1991- 1995) vốn đầu tư thực hiện toàn xãhội là 193,537 tỷ
đồng ( tính theo giá hiện hành) tương đương 18,6 tỷ USD. Trong đó vốn đầu tư
trong nước là 137,305 tỷ đồng chiếm 29%. Vốn đầu tư trong nước thuộc khu
vực nhà nước là: 70.011 tỷ đồng ( bao gồm vốn ngân sách, tín dụng nhà nước,
doanh nghiệp nhà nước đầu tư ), chiếm 31,6%, bình quân hàng năm tăng 16%.
Khu vực ngoàI nhà nước đãđầu tư 67,294 tỷ đồng chiếm 37,7% so với vốn đầu
tư trong nước.
Trong 3 năm (1996- 1998) tổng mức vốn đầu tư toàn xãhội thực hiện
là253,614 tỷ đồng tương đương khoảng 20- 21 tỷ USD. So với mục tiêu toàn
xãhội của kế hoạch 5 năm 1996- 2000 là 41- 42 tỷ USD thì 3 năm1996- 1998
đãthực hiện được khoảng 40- 50%.
Nguồn vốn đầu tư huy động toàn xãhội ngày càng tăng so với GDP.
Naawm 1989 chỉ đạt 8-9% GDP, thì đến năm 1991 đạt 15,22%, năm 1993 đạt
21%, năm 1995 đạt 26,3%, năm 1996 đạt 26,9% , nawm 1997 đạt 27,5% và năm
1998 đạt28,2%.
Nguồn vốn đầu tư toàn xãhội ngày càng đa dạng hoá, hình thức huy động
được huy động qua nhiều kênh như vốn ngân sách nhà nước, phát hành tráI
phiếu công trình. Hiện nay hình thức cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước để
tái đầu tư hoặc đầu tư xây dựng mới đang được mở rộng. Hình thức doanh
nghiệp tự vay vốn của nước ngoào để đầu tư có sự bảo l•nh của nhà nước cũng
đãđược mở rộng và hoàn thiện dần. Những năm gần đay đãtriển khai nhiều dự
án đầu tư theo hình thức BOT ( xây dựng- chuyển giao- kinh doanh), BTO ( xây
dựng – kinh doanh- chuyển giao). Đối tượng sử dụng vốn đầu tư đãcó sự thay
đổi căn bản, theo hướng xoá bỏ dần bao cấp.
18
Vốn đầu tư từ nguồn ngoài quốc doanh cos tốc độ tăng trưởng rõ rệt và
ngày càng chiếm tỷ trọng quan trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xãhội. Nguồn
vốn này chủi yếu tập trung trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, nhà đất, khách
sạn nhà hàng
Vốn đầu tư thực hiện toàn xãhội 1996- 1998
Nguồn vốn huy động 1996 1997 1998 1996- 1998
Tỷ đồng % Tỷ đồng % Tỷ đồng % Tỷ đồng
%
Tổng vốn đầu tư.
Vốn nhà nước
Vốn ngoài QD
Vốn dân cư
Vốn FDI
Hệ số icor 778,14
30614
21773
15600
26400
- 100
39,4
28,0
20,1
33,9
19
3,04 90800
38000
22000
14743
30800
- 100
41,9
24,2
16,2
33,9
3,49 85000
39000
20000
13500
26000
- 100
45,9
23,5
15,9
30,6
3,6 253614
107614
63733
20
43843
83200
- 100
42,43
25,19
17,28
32,80
-
Để đảm bảo đầu tư đúng định hướng, phù hợp với quy hoạch phát triển
kinh tế của vùng, l•nh thổ, nâng cao sử dụng vốn tín dụng đầu tư ưu đ•i, cần đổi
mới cơ chế quản lý và chính sách đầu tư theo chương trình dự án. Tất cả các
công trình dự án đều phải tân thủ một cách nghiêm ngặt các trình tự đầu tư xây
dựng cơ bản.
4/ Kinh nghiệm của một số nước về huy động vốn đầu tư trong nước.
Nguồn vốn luôn là một vấn đề đặt ra hàng đầu cho mọi nền kinh tế công
nghiệp hoá. Tuy nhiên do lợi thế của mỗi một quốc gia là khác nhau và do sự
khác nhau về lợi thế so sánh nên con đường để kiến tạo nguồn vốn sản xuất là
hết sức đa dạng.
4.1/ Kinh nghiệm của Nhật Bản.
Nhật bản là một cường quốc kinh tế ở Châu á với cách tạo nguồn vốn cho
phát triển kinh tế khác với nhiều nước khác. Những năm cuối thế kỷ XIX dưới
thời Minh Trị, Nhật còn là một nước rất nghèo, nền kinh tế mới đi vào công
cuộc cải cách. Để có khoản tích luỹ vốn đầu tư ban đầu cho công cuộc phát triển
kinh tế xãhội. Nhật đãdựa vào cơ cấu chính quyền rất mạnh cộng với thu thuế rất
21
lớn từ nhân dân. Thông qua biện pháp này Nhật đãhuy động được nguồn vốn rất
lớn cho phát triển kinh tế
Các nhà kinh tế đãtổng kết và đưa ra các nhân tố tác động đến sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng kinh tế của Nhật là:
- Sự gia tăng nguồn vốn nhanh chóng, đa dạng hoá cơ cấu sản xuất, đẩy
mạnh công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất,
tăng cường điều tiết và vai trò của chính phủ trong nền kinh tế quốc dân, mở
rộng thị trường.
- Bước đàu bước vào thời kỳ công nghiệp hoá Nhật đãcó tỷ lệ tích
luỹ vốn hàng năm là 21,8% đến năm 1968 là 29,2% lớn hơn hai lần so với Mỹ
và gần bằng 2 lần của Anh.
Năm 1959 GDP của Nhật bằng 81% của Đức nhưng tổng đầu tư vào tư
bản cố định của Nhật đãvượt Đức.
- Nhật duy trì được mức tích luỹ cao là nhờ mức lương thấp trong khi
năng xuất lao động thì rất cao và có xu hướng ngày càng tăng nhanh. Huy động
được khối lượng lớn nguồn vốn từ người dân vào trong kinh doanh, chi phí cho
quan sự thấp, chi phí sử dụng nguồn vốn thấp và khống chế được mức chi tiêu
công cộng ở mức thấp.
4.2/ Kinh nghiệm của Hàn Quốc.
Kinh tế Hàn Quốc bắt đầu cất cách từ thập kỷ 60, kể từ kế hoạch phát
triển kinh tế xãhội 5 năm lần thứ nhất ra đời năm 1962, nền kinh tế đãduy trì
được tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh. Bình quân tốc độ tăng GDP hàng năm là
9% cao hơn rất nhiều so tốc độ tăng bình quân của thế giới. Trong cùng thời
gian công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến có tốc độ tăng trên 20% năm,
dịch vụ tăng trên 14%/ năm. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh đãgiúp cho Hàn
Quốc giải quyết được nhiều vấn đề như giảm thất nghiệp, giảm tỷ lệ nghèo đói,
giảm mức chênh lệch về thu nhập giữa nông thôn và thành thị.
22
- Tài trợ cho các nhu cầu đầu tư trước tình hình kinh tế trong nước
kém phất triển, nguồn tích luỹ từ nội bộ ít, nguồn tài trợ bên ngoài giảm sút
chính phủ đãkhuyến khích đầu tư làm tăng việc sử dụng nguyên liệu trong công
nghiệp, khuyến khích đầu tư nước ngoài, khuyến khích du nhập công nghệ kỹ
thuật mới.
- Sử dụng công cụ thuế và tăng cường tiết kiệm của chính phủ, sử
dụng công cụ thuế như một công cụ kích thích đầu tư, tăng cường sử dụng chính
sách l•i suất thấp, chính phủ đưa ra các điều kiện để hoàn lại vốn và trả l•i cho
các nhà đầu tư. Để tập trung vốn cho phát triển các ngành mũi nhọn.
4.3/ Kinh nghiệm ở Anh.
Học thuyết Mác đãnhận định là sự tích luỹ tư bản nguyên thuỷ nhất thiết
phải diễn ra trước khi có sự phát triển kinh tế. Cơ sở thực tiễn của học thuyết
này bắt nguồn từ thực tiễn kinh nghiệm phát triển kinh tế của nước Anh, nơi mà
buôn bán, bóc lột thuộc địa và một số hình thức khác đãtạo cho nước Anh có
được nguồn vốn tích luỹ khổng lồ. Đến cuối thế kỷ XIIX nguồn vốn tích luỹ của
nước Anh biến thành tư bản đầu tư vào công nghiệp. Từ thực tiễn đó cho thấy,
trước cách mạng công nghiệp nước Anh đãtrải qua chủ nghĩa tư bản thương mại
hàng thế kỷ. Như vậy thì con đường và giải pháp cơ bản để tạo dựng vốn đầu tư
vào công nghiệp hoá và phát triển kinh tế là phát triển mạnh tự do thương mại
nhằm tạo ra từ tích luỹ nội bộ nền kinh tế kết hợp với sự cướp bóc từ các nước
thuộc địa.
4.4/ Những bài học vận dụng vào Việt nam.
Kinh nghiệm huy động vốn từ các nước rất đa dạng không theo một
khuôn mẫu định trước nào. Điểm chung có thể rút ra là các nước thành công
trong chính sách này đều tân thủ những quy luật kinh tế cơ bản, tận dụng tối đa
các lợi thế so sánh của nước mình và tính đến một cách cặn kẽ đIều kiện tự
nhiên, địa lý, các nguồn lực tự nhiên cũng như các phong tục tập quán, tâm lý
23
người dân, đặc đIểm riêng của dân tộc mình. Tuy nhiên có những điểm riêng
đáng chú ý của từng nước được nghiên cứu có thể mang lại nhiều lợi ích cho quá
trình phát triển kinh tế ở nước ta.
Kinh nghiệm ở một số nước còn cho thấy quỹ đầu tư còn là một định chế
tài chính trung gian tương đối thích hợp để huy động và sử dụng nguồn vốn lớn.
Đây là một mô hình kinh tế bổ ích cho quá trình phát triển kinh tế ở Việt nam vì
vậy chúng ta phải tiến hành công tác nghiên cứu nó một cách tỉ mỷ xem cái gì
có thể vận dụng được và cái gì không áp dụng được.
Nó góp phần vào giải quyết bài toán khó về huy động vốn đầu tư trong
nước, tích luỹ trong nước chỉ được cải thiện nhờ chính sách l•i suất mà còn nhờ
tiết kiệm chi tiêu của chính phủ. Việc hạn chế phần chi tiêu này góp phần tích
cực trở lại với vấn đề huy động vốn trong nước. Một chính phủ gọn nhẹ với
những nguyên tác chi tiêu một cách hợp lý có ý nghiãthực sự đối với tích luỹ
cho nội bộ nền kinh tế quốc dân.
phần 2
Thực trạng của việc huy động vốn trong nước của việt nam trong thời
gian vừa qua.
1 /Tthực trạng của việc huy động vốn trong nước.
1.1. Tình hình chung
Nền kinh tế nước ta mới bước ra khỏi cuộc chiến tranh trên mình còn
mang đầy thương tích, khủng hoảng trầm trọng. Vì thế nền kinh tế nước ta
mang nặng tính tập trung , quan liêu, bao cấp cho nên chưa tạo ra động lực kinh
doanh phát triển. Chính Phủ tiến hành đổi tiền theo tỷ lệ 10 đồng tiền cũ lấy một
đồng tiền mới, mỗi người dân chỉ được đổi ở một mức độ giới hạn, nếu vượt qua
giới hạn thì bị giữ lại ở ngân hàng một thời gian khá dài sau đó mới được rút ra.
24
Bằng việc đổi tiền sẽ hy vọng sớm cải thiện được cán cân tiền tệ trong nền kinh
tế. Tuy nhiên biện pháp này chỉ cắt giảm được lượng tiền tích trữ ngoài sổ sách
của các doanh nghiệp trong khu vực kinh tế quốc doanh còn trong khu vực tư
nhân và trong nhân dân kết quả thu được rất hạn chế vì phần lớn tiền tồn tại dưới
dạng vàng và đô la Mỹ. Sau khi tiến hành đổi tiền mặt thì các doanh nghiệp
quốc doanh gàn như bị tê liệt, gây nên tình trạng thiếu tiền mặt nghiêm trọng.
Để giải quyết vấn đề này buộc Chính phủ phải phát hành tiền để duy trì sự hoạt
động cho các doanh nghiệp quốc doanh và vì vậy làm tăng thêm mức độ lạm
phát. Trong khi đó:
- Công suất sử dụng thực tế máy móc thiết bị thấp, chỉ đạt 30%, riêng
ngành cơ khí đạt 20% công suất thiết kế.
- Chi phí năng lượng để làm ra một sản phẩm cao hơn so với tiêu
chuẩn tiên tiến của thế giới từ 1,5- 2 lần.
- Chất lượng sản phẩm thấp, so với tiêu chuẩn xuất khẩu chỉ đạt
15%. Sản phẩm sản xuất ra không đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế
- Tình trạng thua lỗ của các xí nghiệp khá phổ biến, gần 30% trong
số 1695 xí nghiệp quốc doanh trung ương và 40% trong số 10389 xí nghiệp
quốc doanh địa phương hoạt động bị lỗ vốn.
Nguyên nhân của việc sử dụng nguồn vốn kém hiệu quả là do quản lý và
sử dụng vốn theo cơ chế quan niêu bao cấp, thể hiện:
- L•ng phí vốn do bao cấp và bao cấp tín dụng thể hiện:
+Tỷ trọng vốn đầu tư cho thiết bị quá thấp, công nghệ lạc hậu và không
đồng bộ.
+ Chi phí quá lớn, 1 đồng vốn bỏ ra chỉ có 0,54 đồng chuyển thành tài sản
cố định.
- Đầu tư tràn lan thiếu trọng điểm, không tính toán rõ hiệu quả đầu
tư. Còn nguyên nhân khác quan là do các nguồn vốn vay và các khoản viện trợ,
25
ta không có toàn quyền lựa chọn và quyết định các dự án có hiệu quả, thậm trí
nhiều trường hợp phải nhận các thiết bị lạc hậu.
Nguồn vốn trong nước trong thời gian qua còn nhiều hạn chế, một phàn là
do tích luỹ nội bộ là chưa lớn, nhưng nguyên nhân quan trọng là chưa có các
chính sách thích hợp để khuyến khích đầu tư của mọi thành phần kinh tế, trong
đó có kinh tế tư nhân và kinh tế hộ gia đình.
1.2/ Sau cả cách kinh tế (từ 1996- 1999).
Chính sách đổi mới nhằm phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đãbước đầu
khơi đậy những tiềm năng, động lực to lớn còn tiềm tàng trong dân cư. Tuy
nhiên, kết quả quan trọng nó cũng còn có nhiều hạn chế và thaaps xa so với
tiềm năng và khả năng khaio thác của nước ta, cũng như chưa tương xứng với
công cuộc đổi mới ở nước ta đang trong giai đoạn thực hiện quá trình công
nghiệp hoá nền kinh tế. Trong quá trình công nghiệp hoá nó đòi hỏi phải phát
triển nền kinh tế với tốc độ cao, ổn định và bền vững, đồng thời phải chuyển đổi
cơ cấu kinh tế một cách mạnh mẽ theo hướng các nước công nghiệp phát triển.
Bên cạnh nguồn vồn nước ngoài, nguồn vốn trong nước phaior được huy động
một cách tối đa, đảm bảo vai trò có ý nghĩa to lớn cho công cuộc công nghiệp
hoá- hiện đại hoá đất nước .
Nhìn vào bảng cơ cấu tốc độ nguồn vốn trong nước ta thấy cơ cấu vốn
trong nước tăng dần qua các năm, còn vốn ngoài quốc doanh và các vốn khác thì
giảm dần cả về tỷ trọng và tốc độ. Qua đó cho ta thấy được tầm quan trọng của
vốn đầu tư trong nước ngày càng quan trọng và quyết định mọi hoạt động trong
lĩnh vực sản xuất và kinh tế. Giai đoạn 1991- 1997 các chính sách về đầu tư
đãthực sự phát huy tác dụng thu hút mọi tầng lớp dân cư và mọi thành phần kinh
tế tham gia vào hoạt động đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh bằng tất cả các
nguồn lực của mình, nhiều người đãbỏ cả phần của cải tích luỹ vào đầu tư phát
triển sản xuất. Tổng cộng trong 7 năm từ năm 1991- 1997 cả nước đãhuy động