Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Đề 12 Mã số: LS.DS/TN-12/240 P2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.56 KB, 16 trang )

Đề 12 Mã số: LS.DS/TN-12/240
*
Theo lời trình bày của chị Nguyễn Thị Tuyết ngày 2/6/X: Chị xây dựng gia đình với
anh Bình năm 1985 có tìm hiểu có đăng ký kết hôn ngày 07/01/1985 tại UBND xã H, huyện
B, tỉnh Hải Dương. Sau khi cưới, vợ chồng sống bình thường, đến năm 2001 thì phát sinh
mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do kinh tế khó khăn, anh Bình không có công ăn việc
làm nên hay la cà quán xá, rượu say về đánh đập chị Tuyết và đuổi chị Tuyết ra khỏi nhà. Từ
năm 2003 đến nay, chị phải đi thuê nhà tại thị trấn M, huyện T, Hải Dương để ở và mở cửa
hàng gội đầu để kiếm tiền nuôi con. Vợ chồng chị sống ly thân đã 5 năm. Nay chị Tuyết xác
định tình cảm vợ chồng không còn nên xin được ly hôn.
Về con chung: Anh chị có 02 con chung là cháu Nguyễn Quốc Thái sinh ngày
15/2/1986 và cháu Nguyễn Kiều Ngân sinh ngày 08/04/1990. Khi ly hôn các cháu ở với ai chị
Tuyết cũng đồng ý, nếu ở với chị thì chị không yêu cầu anh Bình cấp dưỡng nuôi con, nếu các
cháu ở với anh Bình thì chị cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 200.000 đồng.
Về tài sản chung: Vợ chồng có 01 ti vi sony, 1tủ, 1 đầu video. Sau khi kết hôn, vợ
chồng chị được cấp đất dãn dân với diện tích là 220m
2
đất tại xã H, huyện B, tỉnh Hải Dương.
Anh Bình, chị Tuyết đóng gạch xây một nhà cấp 4, bếp, công trình phụ. Diện tích đất này đã
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên anh Bình. Năm 1998 vợ chồng anh chị
đã bán cho vợ chồng anh Tính 55m
2
đất được 37.000.000đ, cả hai vợ chồng ký giấy bán, hợp
đồng chuyển nhượng không qua công chứng chứng thực, khi ly hôn chị không tranh chấp gì
với hợp đồng này. Vợ chồng không nợ nần gì ai và cũng không cho ai nợ nần gì. Ngoài ra vợ
chồng và cháu Thái, cháu Minh còn được cấp 2100m
2
đất cấy lúa tại xã H, huyện B, Hải
Dương. Nhà nước đã lấy hơn 300m
2
đất cấy lúa vào các dự án. Tiền đền bù anh Bình cầm hết,


nay còn hơn 1000m
2
đất cấy lúa. Chị Tuyết đề nghị Toà chia cho chị để chị có ruộng cấy lúa.
Khi ly hôn các đồ dùng sinh hoạt đã cũ nên chị Tuyết để anh Bình sử dụng. Chị Tuyết chỉ đề
nghị Toà chia phần đất để chị làm nhà ở và chia đất để chị cùng các con cấy lúa.
Câu hỏi 1: (1 điểm)
Anh (chị) hãy xác định Tòa án có thẩm quyền thụ lý giải quyết yêu cầu của chị Tuyết.
Câu hỏi 2: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy giúp chị Tuyết soạn thảo đơn xin ly hôn và chuẩn bị hồ sơ khởi kiện cho
chị Tuyết.
Tình tiết bổ sung
Sau khi nhận được thông báo của Tòa án về việc thụ lý giải quyết vụ án ly hôn của chị
Tuyết, anh Bình có văn bản ghi ý kiến trình bày: Thời gian và điều kiện kết hôn như cô Tuyết
trình bày là đúng. Năm 2000 vợ chồng có va chạm về kinh tế, cô Tuyết xúc phạm tôi, tôi có
bảo nếu không ở được thì đi, nên cô Tuyết đã bỏ nhà đi, cô Tuyết viết đơn ly hôn ra xã, xã
hoà giải cô Tuyết về được 3 năm đến năm 2003 cô Tuyết lại bỏ nhà đi, nay cô Tuyết xin ly
hôn, tôi xác định tình cảm không còn tôi đồng ý ly hôn.
Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung như cô Tuyết trình bày. Khi ly hôn tôi xin
được nuôi cả hai con, việc cấp dưỡng nuôi con là tuỳ cô Tuyết.
Về tài sản chung: Các đồ dùng sinh hoạt như cô Tuyết trình bày là đúng. Riêng về đất
thì năm 1985 xã cấp đất dãn dân tiêu chuẩn thương binh cho tôi. Năm 1997 chúng tôi trồng
cây bị thua lỗ nên vợ chồng tôi đã bán cho vợ chồng anh Tính, chị Nguyệt 55m
2
đất để trả nợ,
vợ chồng tôi không tranh chấp gì hợp đồng chuyển nhượng đất này. Đến nay vợ chồng tôi
không nợ nần gì ai. Khi ly hôn tài sản chung vợ chồng đề nghị chia đôi, riêng mảnh đất là tài
sản riêng của tôi, còn nhà là của mẹ tôi. Đề nghị Toà không chia nhà đất. Phần ruộng cấy lúa
xã cấp cho 4 người gồm tôi, cô Tuyết, cháu Thái, cháu Ngân mỗi người 1,5 sào. Khi Nhà
nước lấy 1 sào đất để đưa vào dự án đã đền bù tiền, số tiền này tôi đã trả nợ hết. Cô Tuyết bỏ
không cấy nhiều năm nay, vì vậy đề nghị Toà chia cho hai cháu Thái và Ngân mỗi cháu 1,5

sào theo tiêu chuẩn, còn lại Tòa giao cho tôi để tôi có điều kiện sinh sống.
Câu hỏi 3: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy xác định những vấn đề cần chứng minh trong vụ án này.
Tình tiết bổ sung
Theo lời trình bày của bà Mão (là mẹ đẻ anh Bình): “Anh Bình lấy chị Tuyết năm
1985, tôi xây nhà cấp 4 năm 1986, trên mảnh đất anh Bình được cấp tháng 12 năm 1985, sau
đó cho 2 vợ chồng ra đó ở riêng. Quá trình ở anh chị không có công sức gì ngoài làm giếng
khoan nhưng đã hỏng. Nếu anh chị ly hôn phải trả lại giá trị nhà cho tôi”.
Anh Tính, chị Nguyệt cũng có văn bản trình bày gửi Tòa: Năm 1997 vợ chồng tôi mua
của vợ chồng chị Tuyết, anh Bình 55m
2
đất với giá 45.000.000đ. Chúng tôi đã xây nhà ăn ở
ổn định. Nay vợ chồng chị Tuyết ly hôn đề nghị Toà bảo vệ quyền lợi cho vợ chồng tôi.
Chúng tôi xin được vắng mặt tại Toà.
Câu hỏi 4: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy xác định tư cách đương sự trong vụ án.
Tình tiết bổ sung
Qua xác minh tại chính quyền địa phương thì cuối năm 1985 xã có chủ trương cấp đất
dãn dân cho các hộ gia đình. Thời điểm này anh Bình mới xây dựng gia đình với chị Tuyết,
do anh Bình là thương binh nên được ưu tiên được gắp thăm nhận đất trước. Khi làm ăn thua
lỗ cả hai vợ chồng cùng thỏa thuận chuyển nhượng đất cho vợ chồng anh Tính 55m
2
. Đất cấy
lúa gia đình anh Bình có 4 nhân khẩu gồm anh Bình, chị Tuyết, cháu Thái, cháu Ngân được
cấp 2.100m
2
. Sau đó Nhà nước lấy đất làm các công trình phúc lợi, gia đình anh Bình cũng bị
thu hồi 281m
2
đất và được đền bù, tiền do anh Bình đại diện hộ gia đình nhận. Riêng 170m

2
đất cũng nằm trong diện giải toả và đã có phương án đền bù nhưng chưa nhận tiền, do vậy vẫn
còn 1.725m
2
là tiêu chuẩn của 4 nhân khẩu.
Anh Bình khẳng định đất ở cấp cho riêng anh, nhà do mẹ anh bỏ tiền ra xây, về ngôi
nhà cấp 4 chị Tuyết có công đóng gạch để xây nhà, và từ khi hai vợ chồng ra ở riêng có làm
các công trình phụ như xây bếp, láng sân.
Câu hỏi 5: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy xác định tài sản chung của vợ chồng chị Tuyết.
Câu hỏi 6: (1 điểm)
Xác định những vấn đề cơ bản cần tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm
Tình tiết bổ sung
Tại phiên tòa, các bên vẫn giữ nguyên yêu cầu và quan điểm của mình. Kết quả thẩm
vấn tại phiên tòa thể hiện đất tranh chấp thuộc loại đất dãn dân, cấp cho hộ gia đình anh Bình,
chị Tuyết.
Bà Mão khẳng định đất chỉ cấp riêng cho anh Bình, chứng cứ là giấy tờ đất chỉ đứng
tên anh Bình. Về nhà ở, năm 1986 chị Tuyết và anh Bình mới lấy nhau chưa có tài sản nên bà
Mão xây nhà hai gian, sau này do xã cấp tiền chính sách thương binh nên anh Bình có xây
thêm một gian nhà, vì vậy đề nghị chia giá trị ngôi nhà là 4 phần, của bà Mão 2 phần, anh
Bình 1 phần, chị Tuyết 1 phần để hỗ trợ cho chị Tuyết khi ly hôn.
Câu hỏi 7: (2 điểm)
Trên cơ sở tất cả các tình tiết của vụ án, anh (chị) hãy viết bản luận cứ bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của chị Tuyết tại phiên tòa sơ thẩm.
Tóm tắt:
Chị Nguyễn Thị Tuyết kết hôn với anh Bình năm 1995 (có đăng ký kết hôn ngày 07/01/1985
tại UNND xã H, huyện B, Tỉnh Hải Dương). Vợ chồng sống hòa thuận đến năm 2001 thì phát
sinh mâu thuẫn (Kinh tế gia đình khó khăn, anh Bình không có việc làm, hay la cà quán xá
nhậu nhẹt, say rượu đánh đập và đưổi chị Tuyết ra khỏi nhà). Từ năm 2003 đến nay chị Tuyết
đi thuê nhà ở Thị trấn M huyện B, Tỉnh Hải Dương để mở tiệm gội đầu. Vợ chồng C.Tuyết đã

ly thân 05 năm, nay C.Tuyết xin ly hôn.
Về con chung: Cháu Nguyễn Quốc Thái – SN: 15/02/1986
Cháu Nguyễn Kiều Ngân – SN: 08/04/1990
C.Tuyết không tranh chấp về vấn đề nuôi con và cấp dưỡng, nếu các con ở với anh Bình thì
C.Tuyết đồng ý cấp dưỡng 200 ngàn/tháng/người.
Về Tài sản chung:
2
- Vật dụng: 01 Tivi Sony; 01 Tủ Lạnh; 01 đầu video (Phần này C.Tuyết để anh Bình sử
dụng).
- Một mảnh đất 220 m2 tại xã H, huyện B, Tỉnh Hải Dương (đất được cấp dãn dân sau
khi kết hôn) trên đất có một căn nhà cấp 4, bếp và công trình phụ do chị tuyết đóng
gạch xây dựng. Miếng đất trên được cắt 55m2 bán cho người khác được sự đồng ý của
2 vợ chồng, dù hợp đồng mua bán không có công chứng nhưng C.Tuyết không tranh
chấp gì hợp đồng này. C.Tuyết đề nghị tòa chia phần đất này để chị làm nhà ở.
- 2100 m2 đất cấy lúa tại xã H, huyện B, Tỉnh Hải Dương (nhà nước cấp cho 2 vợ
chồng và 02 con để gieo gặt), sau đó nhà nước thu hồi 300 m2 và đã đền bù cho Gia
đình C.Tuyết (số tiến này do anh Bình giữ), nay còn khoảng hơn 1000 m2 C.Tuyết đề
nghị tòa chia phần đất này để chị và các con canh tác.
Hai vợ chồng không nợ nần gì ai.
Câu 1: Xác định tòa có thẩm quyền thụ lý, giải quyết yêu cầu của C.Tuyết ?
Căn cứ điểm a khoản 1Đ 33 và khoản 1 điều 35 BLTTDS thì tòa án có thẩm quyền thụ lý, giải
quyết yêu cầu của C.Tuyết là Tòa án Nhân dân Huyện B, Tỉnh Hải Dương.
Câu 2: Hãy giúp C.Tuyết soạn đơn ly hôn và chuẩn bị hồ sơ khởi kiện cho C.Tuyết ?
Đơn xin ly hôn:
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ViỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
……., ngày…tháng…năm…
ĐƠN XIN LY HÔN
Kính gửi: Toà án nhân dân Huyện B, Tỉnh Hải Dương
Nguyên đơn:

- Họ và tên: Nguyễn Thị Tuyết , Ngày sinh…, CMND…;
Địa chỉ: UNND xã H, huyện B, Tỉnh Hải Dương
Bị đơn: Họ và tên:….Bình, Địa chỉ: UNND xã H, huyện B, Tỉnh Hải Dương, CMND:…….
Trình bày nội dung: Tôi kết hôn với anh Bình năm 1995 (có đăng ký kết hôn ngày
07/01/1985 tại UNND xã H, huyện B, Tỉnh Hải Dương). Vợ chồng tôi sống hòa thuận đến
năm 2001 thì phát sinh mâu thuẫn.Kinh tế gia đình khó khăn, anh Bình không có việc làm lại
hay la cà quán xá nhậu nhẹt, say rượu đánh đập và đưổi tôi ra khỏi nhà. Từ năm 2003 đến nay
tôi đi thuê nhà ở Thị trấn M huyện B, Tỉnh Hải Dương để mở tiệm gội đầu. Tính đến nay Vợ
chồng tôi đã ly thân 05 năm, xét thấy tình cảm vợ chồng không thể cứu vãn, cuộc sống vợ
chồng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, nay tôi làm đơn này đề nghị tòa
án xem xét cho chúng tôi được ly hôn.
Chúng tôi có 02 con chung là háu Nguyễn Quốc Thái – SN: 15/02/1986 và cháu Nguyễn Kiều
Ngân – SN: 08/04/1990.
Về Tài sản chung, chúng tôi có:
- Vật dụng: 01 Tivi Sony; 01 Tủ Lạnh; 01 đầu video (Phần này C.Tuyết để anh Bình sử
dụng).
- Một mảnh đất 220 m2 tại xã H, huyện B, Tỉnh Hải Dương (đất được cấp dãn dân sau
khi kết hôn) trên đất có một căn nhà cấp 4, bếp và công trình phụ do tôi đóng gạch xây
dựng. Miếng đất trên được cắt 55m2 bán cho người khác được sự đồng ý của 2 vợ
chồng.
- 2100 m2 đất cấy lúa tại xã H, huyện B, Tỉnh Hải Dương (nhà nước cấp cho 2 vợ
chồng tôi và 02 con để gieo gặt), sau đó nhà nước thu hồi 300 m2 và đã đền bù cho
Gia đình tôi (số tiến này do anh Bình giữ).
Hai vợ chồng không nợ nần gì ai.
3
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tôi kính đề nghị Toà án nhân dân Xem xét giải
quyết giúp tôi những yêu cầu cụ thể sau:
1) Cho phép chúng tôi được ly hôn
2) Về con chung: tôi không tranh chấp về vấn đề nuôi con và cấp dưỡng, nếu các con ở
với anh Bình thì tôi đồng ý cấp dưỡng 200 ngàn/tháng/cháu.

3) Về tài sản chung: Một mảnh đất 220 m2 tại xã H, huyện B, Tỉnh Hải Dương (đất được
cấp dãn dân sau khi kết hôn) trên đất có một căn nhà cấp 4, bếp và công trình phụ do
tôi đóng gạch xây dựng. Miếng đất trên được cắt 55m2 bán cho người khác được sự
đồng ý của 2 vợ chồng, dù hợp đồng mua bán không có công chứng nhưng tôi không
tranh chấp gì hợp đồng này. tôi đề nghị tòa chia phần đất này để tôi làm nhà ở;2100
m2 đất cấy lúa tại xã H, huyện B, Tỉnh Hải Dương (nhà nước cấp cho 2 vợ chồng tôi
và 02 con để gieo gặt), sau đó nhà nước thu hồi 300 m2 và đã đền bù cho Gia đình tôi
(số tiến này do anh Bình giữ), nay còn khoảng hơn 1000 m2 tôi đề nghị tòa chia phần
đất này để chị và các con canh tác.
Kính đơn.
Nguyễn Thị Tuyết
Các tài liệu đính kèm:
- Giấy CMND của C.Tuyết, anh Bình;
- Giấy khai sinh của cháu Thái, cháu Ngân;
- Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn
- Giấy CNQSDĐ ở và đất cấy lúa và các giấy tờ có liên quan khác
Chuẩn bị hồ sơ khởi kiện bao gồm:
- Đơn xin ly hôn;
- Giấy CMND của C.Tuyết, anh Bình;
- Giấy khai sinh của cháu Thái, cháu Ngân;
- Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn
- Giấy CNQSDĐ ở và đất cấy lúa và các giấy tờ có liên quan khác.
Tình tiết bổ sung:
Sau khi nhận được thông báo của tòa, anh Bình có ý kiến phản hồi rằng đồng ý ly hôn vì cũng
không còn tình cảm với C.Tuyết (vì C.Tuyết nhiều lần xúc phạm anh Bình và ý bỏ nhà đi).
Anh Bình xin được nuôi 02 con và không bắt buộc C.Tuyết phải cấp dưỡng.
Mảnh đất 220 m2 là của nhà nước cấp cho thương binh năm 1985 nên là của riêng anh Bình,
vì vậy phần còn lại sau khi đã bán 55m2 là của anh Bình, còn căn nhà là của mẹ anh Bình
xây.
Phần đất ruộng sau khi nhà nước thu hồi thì anh Bình đề nghị tòa án chia cho hai con mỗi đứa

1,5 sào, phần còn lại giao cho anh Bình để sinh sống (vì anh bình cho rằng chị Tuyết đã bỏ
ruộng lâu không canh tác, còn tiền nhà nước đền bù thì anh Bình đã lấy trả nợ)
Câu 3: Xác định những vấn đề cần chứng minh trong vụ án này ?
Những vấn đề cần chứng minh trong vụ án này bao gồm:
1. Mảnh đất ở 220 m2 là tài sản riêng của A.Bình hay tài sản chung của Vc (C.Tuyết &
A.Bình) ?
2. Những ai là người xây dựng căn nhà cấp 4 trên mảnh đất nói trên ?
3. Số tiền nhà nước đền bù phần đất ruộng A.Bình đã sử dụng vào mục đích gì ?
Tình tiết bổ sung:
Mẹ anh Bình là bà Mão trình bày: bà xây nhà cấp 04 năm 1986 trên mảnh đất anh Bình được
cấp, sau đó cho 2 vợ chồng anh Bình ra đó ở riêng. Vì vậy khi ly hôn, vợ chồng anh Bình phải
trả lại giá trị căn nhà cho bà.
4
Anh Tính, C.Nguyệt (người mua 55m2 của vợ chồng anh Bình) có văn bản gửi tòa yêu cầu
tòa bảo vệ quyền lợi cho mình khi vợ chồng anh Bình ly hôn (hai đương sự này xin được
vắng mặt tại tòa).
Câu 4: Xác định tư cách đương sự trong vụ án?
- Căn cứ khoản 2 điều 56 BLTTDS và tình tiết của vụ án thì Nguyên Đơn trong vụ án
này là C.Tuyết (vì C.Tuyết là người đã làm đơn yêu cầu tòa án giải quyết…)
- Căn cứ khoản 3 điều 56 BLTTDS và tình tiết của vụ án thì Bị đơn trong vụ án này là
A.Bình (vì anh Bình là người mà C.Tuyết yêu cầu tòa án xem xét cho ly hôn với mình
và giải quyết các vấn đề về con chung và tài sản…)
- Căn cứ khoản 4 điều 56 BLTTDS và tình tiết của vụ án thì người có quyền và nghĩa
vụ liên quan đến vụ án này là Bà Mão và Vc A.Tính & C.Nguyệt (vì việc giải quyết vụ
án này liên quan đến quyền và lợi ích của họ).
Tình tiết bổ sung:
Qua xác minh tại chính quyền địa phương thì: cuối năm 1985 xã có chủ trương cấp đất dãn
dân cho dân, do anh Bình là thương binh nên được ưu tiên cấp trước. Hai vợ chồng cùng
chuyển nhượng 55 m2 cho anh Tính. Đất cấy lúa được cấp cho 04 nhân khẩu của gia đình anh
Bình, sau đó nhà nước thu hồi 281 m2 và đã thực hiện đền bù (tiền đền bù do anh bình đại

diện hộ gia đình nhận), và trong đó còn có 170 m2 đất cũng nằm trong diện giải tỏa đã có
phương án đền bù nhưng chưa nhận tiền, còn lại là 1725 m2 cho 04 nhân khẩu.
Anh Bình khẳng định đất ở cấp cho riêng anh, nhà do mẹ anh xây dựng, C.Tuyết có công
đóng gạch và cùng anh xây dựng các công trình phụ.
Câu 5: Xác định tài sản chung của vợ chồng C.Tuyết ?
Căn cứ khoản 1, khoản 3 điều 27 Luật HNGĐ thì tài sản chung của Vc C.Tuyết bao gồm:
- Phần đất ở được nhà nước cấp đất dãn dân 1985 còn lại 165 m (sau khi đã bán 55 m2).
- Phần đất ruộng nhà nước cấp cho 04 nhân khẩu trong gia đình để canh tác.
- Một phần căn nhà cấp 4 (phần hai Vc bỏ tiền ra xây dựng).
Câu 6: Xác định những vấn đề cơ bản cần tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm?
Chủ yếu xoay quanh vấn đề xác định tài sản chung hay tài sản riêng của Vc, cụ thể như sau:
- Phần đất dãn dân được cấp như thế nào, đối tượng được cấp, tiêu chuẩn…để xác định
xem nhà nước cấp cho hộ gia đình (cả hai vợ chồng) hay chỉ cấp riêng cho A.Bình ?
- Phần đất ruộng thì đã rõ là cấp cho 04 nhân khẩu của hộ, nhưng xác định xem số tiền
được nhà nước đền bù A.Bình đã sử dụng vào việc gì ?
- Phần công lao mà C.Tuyết đóng góp để xây dựng, cải tạo, sữa chữa căn nhà cấp 4,
bằng chứng chứng minh bà Mão đã xây dựng 01 gian nhà này.
Tình tiết bổ sung:
Tại phiên tòa, các bên vẫn giữ nguyên quan điểm của mình. Kết quả thẩm vấn tại phiên tòa
thể hiện đất tranh chấp thuộc loại đất dãn dân, cấp cho hộ gia đình anh Bình, C.Tuyết.
Bà Mão khẳng định đất chỉ cấp riêng cho anh Bình, chứng cứ là GCNQSDĐ chỉ đứng tên anh
Bình, về nhà thì do bà Mão xây dựng 01 gian cho vợ chồng chị Tuyết, sau nay anh Bình được
cấp tiền chính sách nên vợ chồng chị Tuyết có xây dựng thêm 01 gian nữa. Vì vậy đề nghị
chia giá trị căn nhà làm 04 phần, trong đó bà Mão 02 phần, anh Bình 01 phần và C.Tuyết 01
phần.
Câu 7. Trên cơ sở tất cả các tình tiết của vụ án, hãy viết bản luận cứ bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của C.Tuyết tại phiên tòa sơ thẩm.
5
Bài luận cứ:
Kính thưa: Hội đồng xét xử

Thưa Vị đại diện Viện Kiểm sát tham gia Phiên tòa (nếu có)
Thưa Quý luật sư đồng nghiệp
Tôi, luật sư Nguyễn Thị T là Luật sư của Văn phòng luật sư Nguyễn Gia, thuộc Đoàn Luật sư
thành Phố Hồ Chí Minh. Theo yêu cầu của Nguyên đơn là C.Tuyết, được sự chấp thuận của
Hội đồng xét xử tôi có mặt trong Phiên tòa hôm nay để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
C.Tuyết.
Căn cứ vào diễn biến của vụ án trên thực tế, căn cứ vào truyền thống của dân tộc Việt Nam,
trên cơ sở các quy định của pháp luật tôi xin trình bày quan điểm pháp lý của mình như sau:
Thứ nhất, tôi đề nghị Hội đồng Xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của thân chủ tôi vì Qua
xác minh trên thực tế thì thân chủ của tôi đã ly thân với A.Bình hơn 5 năm nay, tình cảm vợ
chồng đã rạn nứt không thể hàn gắn được, hai bên không còn chăm sóc cho nhau vì A.Bình đã
không thực hiện được bổn phận của người chồng người cha. Một mình thân chủ tôi làm lụng
vất vả để chăm sóc gia đình, nuôi dạy và chăm sóc con cái, trong khi đó C.Tuyết hoàn toàn
không hề nhận được sự chia sẻ của chồng. Chẳng những vậy A.Bình còn nhậu nhẹt, đánh đập
C.Tuyết vì vậy đời sống hôn nhân rất trầm trọng, không thể kéo dài, mục đích của Hôn nhân
đã không đạt được, nếu tiếp tục sống chung thì chỉ gây thêm sự ức chế cho thân chủ của tôi,
nên thiết nghĩ ly hôn sẽ là điều tốt cho cả hai (căn cứ Điều 89 Luật HNGĐ và mục 8 Nghị
quyết 02/2000/NQ-HĐTP).
Thứ hai, về vần đề quyền nuôi con sau khi ly hôn tôi xin trình bày quan điểm như sau. Theo
quy định của của pháp luật thì cả C.Tuyết và A.Bình đều có quyền nuôi con, tuy nhiên thân
chủ tôi không tranh chấp về vấn đề nuôi con và cấp dưỡng, nếu các con ở với A.Bình thì thân
chủ tôi đồng ý cấp dưỡng 200 ngàn/tháng/cháu.
Thứ ba, về phần chia tài thì căn cứ vào các quy định của pháp luật, căn cứ vào xác minh trên
thực tế và các giấy tờ hiện hữu thì tôi xin xác định tài sản chung của Vc C.Tuyết bao gồm:
- Phần đất ở được nhà nước cấp đất dãn dân 1985 còn lại 165 m (sau khi đã bán 55 m2).
- Phần đất ruộng nhà nước cấp cho 04 nhân khẩu trong gia đình để canh tác.
- Một phần căn nhà cấp 4 (phần hai Vc bỏ tiền ra xây dựng).
Trên cơ sở những phân tích nêu trên, để có một bản án thấu tình đạt lý, vì vậy sau khi ly hôn
thì tôi xin đề nghị HĐXX tuyên chia đôi hai phần đất nói trên để C.Tuyết có điều kiện làm
nhà ở và canh tác, ổn định cuộc sống…và nếu A.Bình lấy phần đất có căn nhà cấp 4 thì phải

hoàn trả cho C.Tuyết một khoản tiền xác định theo công sức đóng góp của chị…
Xin cảm ơn Hội đồng xét xử, Đại diện Viện Kiểm sát và những người tham dự phiên toàn đã
lưu tâm đến phần trình bày của tôi.
6
Đề 13: Mã số: LS.DS/TN-13/240
*
Theo lời trình bày của bà Nguyễn Thị Xuân: Bà là chủ sở hữu ngôi nhà hai tầng trên
diện tích đất 90m
2
tại thửa số 95 tờ bản đồ số 32 (bản đồ năm 1994) ở khu T, xã X, huyện Đ,
Hà Nội. Nhà và đất này hiện do vợ chồng con trai bà là anh Đoàn và chị Huyền quản lý sử
dụng. Nguồn gốc đất do bố mẹ bà để lại, còn nhà do bà bỏ tiền ra xây dựng. Diện tích đất này,
năm 1987 bà Xuân đã được đứng tên trong sổ địa chính xã. Bà Xuân xuất trình trích lục bản
đồ thửa đất năm 1987 đứng tên chủ sử dụng đất bà Nguyễn Thị Xuân, diện tích đất 273m
2
loại
đất thổ cư. Sau đó bà Xuân đã bán đi 183 m
2
đất, nay còn 90m
2
. Năm 2004 bà Xuân đã làm
đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được UBND huyện Đ, Hà nội cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích đất là 90m
2
đất tại khu T, xã X, huyện Đ, Hà nội.
Tháng 12/2004 con gái của bà là chị Ngọc sinh con ở Hải Dương, bà xuống thành phố
Hải Dương ở với vợ chồng con gái để tiện chăm sóc cháu ngoại. Vì vậy, bà đã viết giấy giao
cho vợ chồng con trai bà là anh Đoàn và chị Huyền ở trên mảnh đất này để trông nom nhà cửa
khi bà đi vắng. Tháng 3/X bà về quê, thấy nhà bà đã bị vợ chồng anh Đoàn tự ý sửa chữa kết
cấu nhà, xây tường bao quanh nhà mà không hề hỏi ý kiến bà và bà không biết gì. Vợ chồng

con trai bà không cho bà vào nhà, đuổi bà về Hải Dương ở với con gái là chị Ngọc vì cho rằng
nhà đất bà đã cho vợ chồng anh Đoàn, bà không còn quyền gì đối với nhà, đất này nữa.
Do vợ chồng anh Đoàn đối xử với bà rất thậm tệ, vì vậy ngày 1/4/X bà Xuân muốn
khởi kiện ra Tòa yêu cầu vợ chồng anh Đoàn phải trả lại nhà đất cho mình. Bà Xuân nhờ anh
(chị) là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
Câu hỏi 1: (1,5 điểm)
Anh (chị) cần trao đổi với bà Xuân những vấn đề gì trước khi khởi kiện?
Câu hỏi 2: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy giúp bà Xuân lựa chọn quan hệ pháp luật để khởi kiện ra Tòa án có thẩm
quyền.
Tình tiết bổ sung
Qua trao đổi, bà Xuân đề nghị Luật sư giúp bà khởi kiện với các yêu cầu cụ thể sau:
- Yêu cầu Toà án xác định nhà đất nói trên thuộc quyền sở hữu, sử dụng của bà;
- Buộc anh Đoàn và chị Huyền trả lại diện tích đất 90m
2
tại thửa số 95 tờ bản đồ số 32
khu T, xã X, huyện Đ, Hà Nội. Bà Xuân sẽ thanh toán toàn bộ công sức cải tạo nhà cho vợ
chồng con trai bà và tự nguyện tạo điều kiện về chỗ ở cho vợ chồng anh Đoàn với số tiền là
80 triệu đồng.
Câu hỏi 3: (1 điểm)
Anh (chị) hãy giúp bà Xuân soạn thảo đơn khởi kiện
Câu hỏi 4: (1 điểm)
Hãy giúp bà Xuân chuẩn bị hồ sơ khởi kiện.
Tình tiết bổ sung
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành gửi thông báo về việc thụ lý tới các đương sự.
Ngày 20/6/X vợ chồng anh Đoàn có văn bản ghi ý kiến gửi Tòa với nội dung: Anh chị không
đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn. Anh chị khẳng định nguồn gốc đất là của bà Xuân nhưng
bà đã cho vợ chồng anh. Vợ chồng anh Đoàn xuất trình cho Toà án biên bản họp gia đình năm
2001 và giấy giao quyền sử dụng, sở hữu đất ở năm 2004 có nội dung: Bà Xuân cho con trai
là anh Đoàn, chị Hiền nhà đất nói trên. Quá trình ở trên mảnh đất này, vợ chồng anh chị đã

xây dựng và cải tạo lại nhà, bà Xuân thỉnh thoảng vẫn về quê, bà biết mà không có ý kiến gì.
Vợ chồng anh chị cũng đã làm thủ tục gửi UBND xã X, huyện Đ, Hà nội xin chuyển quyền sử
dụng đất nhưng chưa hoàn tất. Anh Đoàn, chị Huyền đề nghị Toà án xử bác yêu cầu của
nguyên đơn.
Câu hỏi 5: (1 điểm)
Yêu cầu của anh Đoàn, chị Huyền có phải là yêu cầu phản tố không?
Tình tiết bổ sung
Chứng cứ do bị đơn xuất trình gồm có:
- Bản “Di chúc thư” ngày 05/05/2001 của bà Xuân;
7
- Biên bản họp gia đình ngày 05/05/2001 và “Giấy giao quyền sử dụng đất, sở hữu nhà
ở” cùng lập ngày 05/05/2001 với nội dung “bà Xuân giao quyền sử dụng đất, sở hữu nhà và
đất ở cho vợ chồng con trai cả là anh Đoàn”.
Tất cả các chứng cứ này đều được viết bằng tay, có chữ ký của bà Xuân, anh Đoàn và
chị Ngọc. Di chúc thư và giấy giao quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở đều không qua Cơ quan
nhà nước có thẩm quyền công chứng hoặc chứng thực. Nội dung giấy thể hiện bà Xuân giao
cho con trai quyền sử dụng đất và nhà ở tại khu T, xã X, huyện Đ, Hà Nội.
Các giấy tờ trên do anh Đoàn xuất trình, bà Xuân đều thừa nhận chữ ký của mình,
nhưng do bà ký trong lúc bị ốm, tinh thần không minh mẫn không nhận thức được, toàn bộ
nội dung viết như thế nào là do anh Đoàn viết bà cũng không nghe đọc lại. Bà đề nghị Tòa án
hủy Bản “Di chúc” ngày 5/5/2001 của bà và đề nghị Tòa án tuyên bố “Giấy giao quyền sử
dụng đất, sở hữu nhà ở” được lập cùng ngày 05/05/2001 là vô hiệu.
Có ý kiến cho rằng, Tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án này (căn cứ theo
quy định tại khoản 2 Điều 192 BLTTDS) vì yêu cầu Tòa án tuyên bố “Giấy giao quyền sử
dụng đất, sở hữu nhà ở” đã hết thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu,
căn cứ theo quy định tại Điều 143 và khoản 1 Điều 145 BLDS 1995.
Câu hỏi 6: (1 điểm)
Ý kiến của anh (chị) về vấn đề này như thế nào?
Câu hỏi 7: (1,5 điểm)
Xác định trọng tâm vấn đề cần chứng minh trong vụ án

Tình tiết bổ sung
Qua xác minh ở địa chính xã thì các giấy tờ về nhà đất đang tranh chấp vẫn đứng tên
bà Xuân không hề có sự chuyển dịch nào. Tại phiên tòa các bên vẫn giữ nguyên yêu cầu và
quan điểm của mình. Anh Đoàn khẳng định bà Xuân không xuất trình được chứng cứ nào để
chứng minh khi ký giấy giao quyền sử dụng đất và sở hữu nhà ở bà đã bị lừa dối, không nhận
thức được hành vi của mình. Vì vậy, đề nghị Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của bà Xuân.
Phía bà Xuân khẳng định năm 2001, bà chỉ giao cho vợ chồng anh Đoàn quản lý nhà
đất giúp bà khi bà đi vắng chứ không phải là cho quyền sử dụng đất và sở hữu nhà ở.
Câu hỏi 8: (1,5 điểm)
Trên cơ sở tất cả các tình tiết của vụ án, anh (chị) hãy trình bày bản luận cứ bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của nguyên đơn tại phiên tòa sơ thẩm
Bà Nguyễn Thị Xuân trình bày: Bà là CSH ngôi nhà 2 tầng S: 90 m2 (tại tờ bản đồ số 32
( năm 1994) thửa 95) ở khu T, xã X, huyện Đ, Hà Nội. Hiện nhà đất này do Vc con trai bà là
anh Đoàn và C.Huyền quản lý & sử dụng.
Nguồn gốc nhà đất: Đất do cha mẹ bà Xuân để lại, còn nhà do bà Xuân bỏ tiền ra xây (diện
tích đất này bà Xuân đứng tên trong sổ địa chính năm 1987 (bà Xuân có xuất trình trích lục
bản đồ thửa đất năm 1987 do bà Xuân đứng tên chủ sử dụng đất (S đất thổ cư là 273 m2) sau
đó bà Xuân bán đi 183 m2 nay còn lại 90 m2 đã được UNND xã X, huyện Đ, Hà Nội cấp
GCNQSDĐ.
Đến 12/2004 con gái bà Xuân là Ngọc sinh con ở Hải Dương, bà Xuân xuống ở cùng để chăm
sóc con gái. Lúc đi bà Xuân có viết giấy giao cho Vc anh Đoàn ở trên mảnh đất này để trông
nom nhà cửa. Cuối tháng 03/2007 bà Xuân về nhà thì thấy Vc anh Đoàn đã tự ý sửa chữa kết
cấu nhà và không cho bà vào nhà vì cho rằng bà Xuân đã cho mình căn nhà, đất này và đối xử
rất thậm tệ với bà.
Ngày 01/04/2007 bà Xuân muốn khởi kiện ra tòa để đòi lại phần nhà đất nói trên, bà Xuân
nhờ anh (chị) bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
Câu 1: Cần trao đổi với bà Xuân việc gì trước khi khởi kiện ?
Những vấn đề cần trao đổi với bà Xuân trước khi khởi kiện là:
- Yêu cầu bà Xuân trình bày rõ hơn những điểm mà chúng ta chưa nắm chi tiết, chưa rõ.
- Đặt câu hỏi đối với bà Xuân để xác định lại một số điểm quan trọng và hệ thống hóa

lại nội dung vụ việc.
- Hỏi bà Xuân về những tài liệu, giấy tờ chứng minh làm cơ sở cho những lời trình bày
của bà.
8
- Xác định lại yêu cầu cụ thể của bà Xuân khi khởi kiện (có thể kết hợp với tư vấn nếu
cần thiết).
- Tìm hiểu mong đợi, yêu cầu của bà Xuân đối với chúng ta, đồng thời xác nhận phạm
vi dịch vụ mà chúng ta cung cấp, cũng như thỏa thuận với bà Xuân về cách làm việc
sắp tới cũng như dự đoán các khả năng có thể xảy ra.
Câu 2: Giúp bà Xuân lựa chọn Quan hệ pháp luật để khởi kiện ra tòa có thẩm quyền?
Căn cứ vào nội dung vụ việc thì đây là Quan hệ pháp luật về tranh chấp quyền sử dụng đất và
tài sản gắn liền với đất.
Tình tiết bổ sung:
Bà Xuân đề nghị Luật sư khởi kiện với các yêu cầu cụ thể sau:
- Yêu cầu tòa xác định nhà, đất nói trên thuộc quyền sở hữu của bà.
- Buộc Vc anh Đoàn trả lại phần nhà, đất nói trên và bà Xuân sẽ trả lại chi phí và công
sức cải tạo nhà của Vc anh Đoàn và tự nguyện tạo điều kiện về chỗ ở cho Vc anh
Đoàn là 80 triệu đồng.
Câu 3: Hãy giúp bà Xuân soạn thảo đơn khởi kiện?
Đơn khởi kiện:
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ViỆT NAM
__Độc lập – Tự do – Hạnh phúc__
Tp.Hà Nội, ngày 02 tháng 04 năm 2007
ĐƠN KHỞI KIỆN
(V/v tranh chấp quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà)
Kính gửi: Toà án nhân dân Đ, Tp.Hà Nội
Nguyên đơn:
- Họ và tên: ….Xuân, Ngày sinh…, CMND…;
Địa chỉ….
Bị đơn:

- Họ và tên: …Đoàn và ….Huyền
- Địa chỉ……… ;
Nội dung vụ việc như sau:
Tôi là CSH ngôi nhà 2 tầng S: 90 m2 (tại tờ bản đồ số 32 ( năm 1994) thửa 95) ở khu T, xã X,
huyện Đ, Hà Nội. Hiện nhà đất này do Vc con trai tôi là anh Đoàn và C.Huyền quản lý & sử
dụng.
Nguồn gốc nhà đất: Đất do cha mẹ tôi để lại, còn nhà do tôi bỏ tiền ra xây (diện tích đất này
tôi đứng tên trong sổ địa chính năm 1987 sau đó tôi bán đi 183 m2 nay còn lại 90 m2 đã được
UNND xã X, huyện Đ, Hà Nội cấp GCNQSDĐ.
Đến 12/2004 con gái tôi là Ngọc sinh con ở Hải Dương, tôi xuống ở cùng để chăm sóc con
gái. Lúc đi tôi có viết giấy giao cho Vc anh Đoàn ở trên mảnh đất này để trông nom nhà cửa.
Cuối tháng 03/2007 tôi về nhà thì thấy Vc anh Đoàn đã tự ý sửa chữa kết cấu nhà và không
cho tôi vào nhà vì cho rằng tôi đã cho anh chị căn nhà, đất này và đối xử rất thậm tệ với tôi.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tôi kính đề nghị Toà án nhân dân
Xem xét giải quyết tranh chấp trên theo những yêu cầu cụ thể sau:
1) Yêu cầu tòa xác định nhà, đất nói trên thuộc quyền sở hữu của tôi.
2) Buộc Vc anh Đoàn trả lại phần nhà, đất nói trên và tôi sẽ trả lại chi phí và công sức cải
tạo nhà của Vc anh Đoàn và tự nguyện tạo điều kiện về chỗ ở cho Vc anh Đoàn là 80
triệu đồng.
Kính đơn.
Đính kèm:
-……………
9
Câu 4: Hãy giúp bà Xuân chuẩn bị hồ sơ khởi kiện?
Hồ sơ khởi kiện bao gồm:
- Đơn khởi kiện;
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và các giấy tờ tương tự;
- Các giấy tờ chứng minh nguồn gốc nhà đất;
- Giấy xác nhận của những người lân cận và chính quyền địa phương (nếu có);
- Giấy bà Xuân giao cho Vc anh Đoàn ở trên mảnh đất này để trông nom nhà cửa trước

khi về Hải Dương nuôi con gái.
Tình tiết bổ sung:
Sau khi thụ lý, tòa gửi thông báo cho đương sự. Ngày 20/06/2007 Vc anh Đoàn có văn bản
gửi tòa với nội dung không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn. Vc anh Đoàn đồng ý về
nguồn gốc nhà đất, nhưng Vc anh Đoàn xuất trình cho tòa biên bản họp gia đình năm 2001 và
giấy giao quyền sử dụng, sở hữu đất ở năm 2004 cho Vc anh Đoàn có nội dung: bà Xuân cho
Vc anh Đoàn phần nhà, đất nói trên. Trong thời gian ở trên mảnh đất này Vc anh Đoàn đã xây
dựng cải tạo, việc này bà Xuân biết nhưng không có ý kiến gì vì bà thỉnh thoảng có về thăm
nhà. Hiện Vc anh Đoàn cũng đang làm thủ tục xin chuyển quyền sử dụng đất nhưng chưa
hoàn tất. Vc anh Đoàn đề nghị tòa bác yêu cầu của nguyên đơn.
Câu 5: Yêu cầu của Vc anh Đoàn có phải là yêu cầu phản tố không ?
Yêu cầu của Vc anh Đoàn không phải là yêu cầu phản tố, mà đây chỉ là văn bản thể ý kiến
phản hồi của anh Đoàn đối với vụ án và nó cũng không đảm bảo theo quy định của pháp luật
về nội dung cũng như thủ tục tại các điều 176 và 178 BLTTDS.
Tình tiết bổ sung:
Các chứng cứ do bi đơn cung cấp gồm:
- Bản “di chúc thư của bà Xuân” ngày 05/05/2001
- Biên bản họp gia đình ngày 05/05/2001 và giấy giao quyền sử dụng, sở hữu đất cho
Vc anh Đoàn ngày 05/05/2001
Tất cả các giấy tờ này đều được viết tay và có chữ ký của của bà Xuân, chị Ngọc, anh Đoàn,
nhưng không có công chứng, chứng thực. Nội dung các giấy tờ này thể hiện bà Xuân cho anh
Đoàn quyền sử dụng đất và nhà tại khu T xã X, huyện Đ, Hà Nội.
Các chứng cứ này đều do anh đoàn cung cấp, bà xuân thừa nhận chữ ký của mình trên các
giấy tờ trên nhưng bà cho rằng các giấy này do anh Đoàn viết sẵn, bà không biết nội dung và
bà ký trong lúc bị ốm, tinh thần không minh mẫn. Bà đề nghị tòa hủy bản Bản “di chúc thư
của bà” ngày 05/05/2001 và tuyên giấy giao quyền sử dụng, sở hữu đất cho Vc anh Đoàn
ngày 05/05/2001 vô hiệu.
Có ý kiến cho rằng tòa sẽ tuyên bố đình chỉ vụ án này vì cho rằng “yêu cầu tòa án tuyên giấy
giao quyền sử dụng, sở hữu đất ở” đã hết thời hiệu yêu cầu tòa tuyên bố giao dịch dân sự vô
hiệu căn cứ theo đ143, k1đ145 BLDS 1995.

Câu 6: Ý kiến của anh chị như thế nào về vấn đề này?
Ý kiến này là không đúng, vì đây không phải là một trong những trường hợp phải đình chỉ
giải quyết vụ án theo quy định tại điều 192 của BLTTDS.
Câu 7: Xác định trọng tâm vấn đề cần chứng minh trong vụ án?
Những vấn đề cần chứng minh trong vụ án này là:
- Giấy giao quyền sử dụng nhà đất mà bà Xuân viết cho Vc anh Đoàn trước khi đi nuôi
con gái là giấy giao sử dụng hay giấy tặng cho ?
- Việc Vc anh Đoàn cải tạo, sửa chữa nhà cửa bà Xuân có biết hay không, có phản đối
không ?
- Ý chí của bà Xuân khi ký vào các văn bản như “bản chúc thư”, giấy giao quyền sư
dụng đất, nhà…?
10
Tình tiết bổ sung:
Qua xác minh ở chính quyền xã thì các giấy tờ về nhà đất tranh chấp vẫn đứng tên bà Xuân,
tại phiên tòa anh Đoàn khẳng định bà Xuân không xuất trình được chứng cứ nào chứng minh
khi ký các giấy tờ trên bà đã bị lừa dối, không nhận thức được hành vi của mình. Bà Xuân vẫn
khẳngđịnh năm 2001 bà chỉ giao cho Vc anh đoàn quản lý nhà đất giúp khi đi vắng chứ không
phải cho QSD nhà đất.
Câu 8: Trên cơ sở tất cả các tình tiết của vụ án, hãy trình bày bản luận cứ bảo vệ
Nguyên đơn tại phiên tòa sơ thẩm.
Bản luận cứ có cấu trúc tương tự như câu 7 của đề 12, bám vào các vấn đề cần chứng minh để
lập luận và đưa ra các cơ sở pháp lý liên quan (vì không có nhiều thời gian nên mình không
thể làm chi tiết câu này – mong các bạn thông cảm)
Đề 14: Mã số: LS.DS/TN-14/240
*
Năm 1989 chị Nga và anh Hạnh kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết
hôn. Quá trình chung sống anh, chị có tạo lập được một số tài sản và có với nhau 2 con chung
là cháu Quý (sinh năm 1990) và cháu Hằng (sinh năm 1997). Do mâu thuẫn vợ chồng và bất
đồng quan điểm sống ngày càng gay gắt, vì vậy tháng 4/2005 chị Nga đã làm đơn khởi kiện ra
Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh V (nơi gia đình anh chị cư trú) yêu cầu xin ly hôn.

Tòa án nhân dân huyện M đã xét xử sơ thẩm vụ án xin ly hôn giữa chị Nga với anh
Hạnh. Các đương sự không đồng ý với kết quả của bản án sơ thẩm và kháng cáo lên cấp phúc
thẩm. Tại bản án số 115/HNGĐ- PT ngày 27 tháng 10 năm 2005 của Toà án nhân dân tỉnh V
đã quyết định :
1/ Xử cho chị Nguyễn Thu Nga được ly hôn anh Chu Văn Hạnh.
2/ Về con: Giao chị Nga trực tiếp nuôi dưỡng con là Chu Xuân Quý. Anh Hạnh trực
tiếp nuôi dưỡng con là Chu Thuý Hằng. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con cho bên
nào.
3/ Về phần tài sản chung: Các bên đương sự không có yêu cầu giải quyết nên không
xem xét.
Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, chị Nga và anh Hạnh thỏa thuận phân chia tài
sản chung nhưng không thành. Vì vậy, ngày 8/5/X chị Nga muốn làm đơn khởi kiện ra Tòa đề
nghị xác định toàn bộ nhà đất hiện anh Hạnh đang quản lý gồm 01 nhà cấp 4 trên diện tích đất
201m
2
tọa lạc tại thị trấn T, huyện M, tỉnh V là tài sản chung của vợ chồng anh chị và chia
theo quy định của pháp luật.
Có ý kiến cho rằng chị Nga không được quyền khởi kiện nữa vì quan hệ hôn nhân của
chị và anh Hạnh đã chấm dứt. Yêu cầu của chị Nga đã được giải quyết bằng một bản án có
hiệu lực pháp luật.
Câu hỏi 1: (1 điểm)
Anh (chị) có đồng ý với ý kiến này không?
Tình tiết bổ sung
Theo lời trình bày của chị Nga: Năm 1988 khi anh chị chuẩn bị kết hôn, anh chị đã xin
nhà máy X (nơi anh chị cùng công tác) cấp đất. Sau đó nhà máy X đã cấp cho anh chị diện
tích đất 201m
2
tại số 2, Tổ 10, thị trấn T, huyện M, tỉnh V. Sau khi kết hôn anh chị đã xây
dựng nhà cấp 4 và ở trên đất này. Năm 2001 anh Hạnh đã bán cho anh Cương diện tích 71m
2

.
Việc mua bán này chị không biết và không tham gia. Sau khi ly hôn, chị và cháu Quý về
chung sống với ông bà ngoại tại phố Liễu Giai, quận Ba Đình, Hà nội. Mảnh đất thuộc tài sản
chung của vợ chồng, anh Hạnh vẫn đang ở. Nay, chị muốn khởi kiện với 2 yêu cầu:
1. Yêu cầu huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh Hạnh với anh
Cương;
2. Đề nghị Tòa xác định toàn bộ nhà đất 201m
2
hiện anh Cương và anh Hạnh đang
quản lý là tài sản chung vợ chồng và đề nghị Tòa chia theo quy định của pháp luật.
Câu hỏi 2: (1,5 điểm)
11
Anh (chị) cần trao đổi gì với chị Nga những vấn đề gì trước khi khởi kiện?
Câu hỏi 3: (1 điểm)
Xác định Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp này?
Tình tiết bổ sung
Qua trao đổi, chị Nga cho biết ngày 18/12/1989 nhà máy X thuộc Cục hậu cần Phòng
không - không quân có quyết định số 17/QĐ cấp đất cho vợ chồng anh chị diện tích 201m
2
.
Sau khi kết hôn, chị và anh Hạnh đã về đất này để làm nhà ở ổn định, năm 1991 vợ chồng chị
đã làm thủ tục kê khai và có tên trong sổ địa chính huyện M. Đến ngày 31/1/2002 UBND
huyện M, Tỉnh V đã cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, sử dụng đất cho anh Hạnh và chị
Nga với diện tích 201m
2
.
Quá trình sử dụng anh chị đã xây dựng được 1 ngôi nhà cấp IV, 3 gian trên diện tích
đất 201m
2
.

Câu hỏi 4: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy giúp chị Nga soạn thảo đơn khởi kiện và chuẩn bị hồ sơ khởi kiện cho
nguyên đơn.
Câu hỏi 5 (1 điểm)
Anh (chị) hãy xác định tư cách đương sự trong vụ án?
Tình tiết bổ sung
Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, theo lời trình bày của anh Hạnh, anh không đồng ý chia
nhà, đất theo yêu cầu của chị Nga vì anh cho rằng đây là khối tài sản riêng của anh. Diện tích
đất 201m
2
này Nhà nước cấp cho riêng anh, anh không đồng ý chia. Anh Hạnh khẳng định
đây là tài sản riêng của anh nên anh có quyền bán cho anh Cương mà không cần sự tham gia
của chị Nga. Vì vậy anh đề nghị vẫn giữ nguyên giao dịch với anh Cương.
Theo lời trình bày của anh Cương, tháng 5/2001 anh có mua của anh Hạnh diện tích
đất 71m
2
tại tổ 10, thị trấn T, huyện M, tỉnh V. Việc mua bán không qua cơ quan có thẩm
quyền công chứng, chứng thực. Khi lập giao dịch chuyển nhượng với anh Hạnh, chị Nga có
biết nhưng vì mâu thuẫn vợ chồng nên chị Nga đã không ký vào giấy tờ mua bán, mặc dù khi
trả tiền có cả chị Nga nhận cùng anh Hạnh. Tổng số tiền theo thỏa thuận anh đã trả đầy đủ cho
anh Hạnh là: 238.057.000 đồng. Nay, anh Cương đề nghị Tòa giữ nguyên hợp đồng chuyển
nhượng giữa anh với anh Hạnh vì theo anh, tài sản anh Hạnh chuyển nhượng cho anh là tài
sản riêng của anh Hạnh chứ không phải là tài sản chung của anh Hạnh, chị Nga. Sau khi mua
nhà đất của anh Hạnh, anh đã cải tạo sửa chữa thêm cụ thể: Lát nền, làm trần, sân nhưng anh
không yêu cầu xem xét phần sửa chữa cải tạo thêm này.
Có ý kiến cho rằng Tòa án cần tách yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa anh Hạnh và anh Cương giải quyết trong một vụ án khác.
Câu hỏi 6: (1 điểm)
Anh (chị) có đồng ý với ý kiến này không?
Câu hỏi 7: (1,5 điểm)

Xác định vấn đề trọng tâm cần chứng minh trong vụ án này.
Tình tiết bổ sung
Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử, tại phiên tòa các bên vẫn giữ nguyên yêu cầu
và quan điểm của mình. Anh Hạnh không xuất trình được chứng cứ để chứng minh đất cấp
cho cá nhân anh. Tuy nhiên, anh Hạnh cho rằng nhà máy X không phải là cơ quan có thẩm
quyền giao đất cho cá nhân, tổ chức sử dụng vì vậy đất này không thuộc tài sản chung vợ
chồng.
Chị Nga xuất trình chứng cứ là biên bản xác nhận của địa chính thị trấn T, xác nhận
nguồn gốc đất là của nhà máy X phân cho các cán bộ nhân viên nhà máy. Mặc dù việc nhà
máy X cấp đất là không đúng thẩm quyền nhưng vợ chồng anh Hạnh, chị Nga đã ở ổn định
trên đất từ năm 1989, đất không có tranh chấp, đất sử dụng đúng mục đích. Địa chính huyện
M cũng xác nhận thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chính xác.
Kết quả định giá tài sản theo yêu cầu của nguyên đơn xác định giá trị nhà đất:
12
+ Nhà và các công trình khác anh Hạnh đang quản lý: Giá trị nhà, các công trình là
19.399.000đ và giá trị sử dụng đất (130 m2 đất là: 8 triệuđ/1m
2
= 1.040.000.000đ). Tổng giá
trị là 1.059.399.000 đồng.
+ Nhà, các công trình khác trên 71m
2
đất có giá trị sử dụng là: Nhà, các công trình
khác 15.608.900đ + giá trị sử dụng đất 568.000.000đ = 583.608.900đồng.
Chị Nga yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng đất giữa anh Hạnh và anh Cương. Đề
nghị Tòa án chia tài sản chung của chị và anh Hạnh bằng tiền mặt.
Câu hỏi 8: (1,5 điểm)
Trên cơ sở tất cả các tình tiết của vụ án, anh (chị) hãy viết bản Luận cứ để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn tại phiên tòa sơ thẩm.

Năm 1089 C.Nga và A.Hạnh kết hôn với nhau và có đăng ký kết hôn,trong quá trình chung

sống hai người có 02 con là cháu Quý (1990) và cháu Hằng (sinh năm 1997). Do có mâu
thuẫn nên bất đồng quan điểm, đời sống ngày càng gay gắt. Tháng 04/2005 C.Nga làm dơn
khởi kiện ra tòa án nhân dân Huyện M, tỉnh V (nơi gia đình anh chị cư trú) yêu cầu xin ly
hôn.
Tòa án M xét xử vụ án ly hôn giữa C.Nga và A.Hạnh. Các đương sự không đồng ý với bản án
sơ thẩm nên kháng cáo lên phúc thẩm. Tại bản án 115/HNGĐ-PT ngày 27/10/2005 của tòa án
tỉnh V quyết định:
1/ Xử cho C.Nga được ly hôn với A.Hạnh
2/ Giao C.Nga trực tiếp nuôi dưỡng cháu Quý và anh Hạnh trực tiếp nôi dưỡng cháu Hằng.
Không bên nào phải cấp dưỡng cho bên nào.
3/ Tài sản chung: các đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, C.Nga & A.Hạnh thỏa thuận phân chia tài sản chung
nhưng không thành, vì vậy ngày 08/5/2007 C.Nga muốn làm đơn khởi kiện ra tòa án đề nghị
xác định toàn bộ nhà đất hiện A.Hạnh đang quản lý gồm: một nhà cấp 4 trên diện tích 201 m2
tọa lạc tại Thị trấn T Huyện M, tỉnh V là tài sản chung của Vc anh chị và chia theo pháp luật.
Có ý kiến cho rằng C.Nga không được khởi kiện nữa vì quan hệ hôn nhân đã chấm dứt. Yêu
cầu của C.Nga đã được giải quyết bằng một bản án có hiệu lực pháp luật.
Câu 1: Các bạn có đồng ý với ý kiến này hay không?
Tôi không đồng ý với ý kiến này, bởi vì mặc dù quan hệ hôn nhân của C.Nga và anh Hạnh đã
chấm dứt nhưng quan hệ sở hữu tài sản chung vẫn còn. Hơn nữa trong vụ án ly hôn thì C.Nga
và anh Hạnh không yêu cầu xem xét về phân chia tài sản nên tòa án không xem xét vì vậy
không thể nói yêu cầu của này đã được giải quyết bằng một bản án có hiệu lực pháp luật vì
vậy C.Nga hoàn toàn có thể khởi kiện yêu cầu tòa án xem xét giải quyết (đây là một vụ án
khác).
Tình tiết bổ sung:
C.Nga trình bày, năm 1988 khi anh chị kết hôn, anh chị đã xin nhà máy X (nơi anh chị cùng
công tác) cấp đất. Sau đó nhà máy X đã cấp 201 m2 đất tại số 2, tổ 10, thị trấn T Huyện M,
tỉnh V. Sau khi kết hôn anh chị đã xây căn nhà cấp 4 và ở trên mảnh đất này. Năm 2001 anh
Hạnh tự ý bán cho anh Cương mảnh 71 m2 (C.Nga không biết và không tham gia).
Sau khi ly hôn chị và cháu quý về sống với ông bà ngoại ở Phố Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội.

Mảnh đất thuộc tài sản chung của vợ chồng, anh Hạnh vẫn đang ở. Nay chị muốn khởi kiện
với 2 yêu cầu:
1. Yều cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh Hạnh với anh
Cường
2. Đề nghị: Tòa xác định toàn bộ nhà đất 201 m2 hiện anh Cương và anh Hạnh đang
quản lý tài sản chung vợ chồng và đề nghị Tòa chia theo quy định của pháp luật.
Câu hỏi 2: Anh (chị) cần trao đổi gì với chị Nga những vấn đề gì trước khi khởi kiện?
- Yêu cầu C.Nga trình bày rõ hơn những điểm mà chúng ta chưa nắm chi tiết, chưa rõ.
13
- Đặt câu hỏi đối với C.Nga để xác định lại một số điểm quan trọng và hệ thống hóa lại
nội dung vụ việc gắn liền với các yêu cầu của C.Nga
- Hỏi C.Nga về những tài liệu, giấy tờ chứng minh làm cơ sở cho những lời trình bày
của chị.
- Xác định lại một lần nữa các yêu cầu cụ thể của C.Nga khi khởi kiện (có thể kết hợp
với tư vấn nếu cần thiết).
- Tìm hiểu mong đợi, yêu cầu của C.Nga đối với chúng ta, đồng thời xác nhận phạm vi
dịch vụ mà chúng ta cung cấp, cũng như thỏa thuận với C.Nga về cách làm việc sắp
tới cũng như dự đoán các khả năng có thể xảy ra.
Câu hỏi 3: Xác định Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp này ?
Căn cứ điều 25; điểm a, khoản 1 điều 33; điểm c, khoản 1 điều 35 BLTTDS thì tòa án có thẩm
quyền thụ lý và giải quyết vụ án này là Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh V.
Tình tiết bổ sung
Qua trao đổi, chị Nga cho biết ngày 18/12/1989 Nhà máy X thuộc cục hậu cần Phòng không –
không quân có quyết định số 17/QĐ cấp đất cho vợ chồng anh chị diện tích 201 m2. Sau k hi
kết hôn, chị và anh Hạnh đã về đất này làm nhà ở ổn định, năm 1991 vợ chồng anh chị làm
thủ tục kê khai và có tên trong sổ địa chính huyện M. Đến ngày 31/1/2002 UBND huyện M,
tỉnh V đã cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, sử dụng đất cho anh Hạnh và chị Nga với
diện tích 201 m2.
Quá trình sử dụng anh chị đã xây được 1 ngôi nhà cấp IV, 3 gian trên diện tích 201 m2.
Câu hỏi 4: Anh (chị) hãy giúp chị Nga soạn thảo đơn khởi kiện và chuẩn bị hồ sơ khởi

kiện cho nguyên đơn.
Đơn khởi kiện:
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ViỆT NAM
__Độc lập – Tự do – Hạnh phúc__
Tp.Hà Nội, ngày tháng năm …
ĐƠN KHỞI KIỆN
(V/v tranh chấp quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà)
Kính gửi: Toà án nhân dân Đ, Tp.Hà Nội
Nguyên đơn:
- Họ và tên: Nguyễn Thu Nga, Ngày sinh…, CMND…;
Địa chỉ….
Bị đơn:
- Họ và tên: Chu Văn Hạnh
- Địa chỉ……… ;
Nội dung vụ việc như sau:
Tôi và A.Hạnh kết hôn kết hôn với nhau và có đăng ký kết hôn, trong thời gian sống chung
chúng tôi có nhiều mâu thuẫn vì vậy chúng tôi đã xin ly hôn và được tòa án giải quyết cho ly
hôn bằng bản án 115/HNGĐ-PT ngày 27/10/2005 của tòa án tỉnh V (trong quá trìn giải quyết
việc ly hôn chúng tôi không yêu cầu tòa án xem xét việc phân chia tài sản). Năm 1988 khi
chúng tôi kết hôn, chúng tôi đã xin nhà máy X (nơi chúng tôi cùng công tác) cấp đất. Sau đó
nhà máy X đã cấp 201 m2 đất tại số 2, tổ 10, thị trấn T Huyện M, tỉnh V. Sau khi kết hôn
chúng tôi đã xây căn nhà cấp 4 và ở trên mảnh đất này. Năm 2001 anh Hạnh tự ý bán cho anh
Cương mảnh 71 m2 (C.Ntoi hoàn toàn không biết và không tham gia).
Sau khi ly hôn tôi và cháu quý về sống với ông bà ngoại ở Phố Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội.
Mảnh đất thuộc tài sản chung của vợ chồng tôi, anh Hạnh vẫn đang ở.
14
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tôi kính đề nghị Toà án nhân dân
Xem xét giải quyết tranh chấp trên theo những yêu cầu cụ thể sau:
1) Yều cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh Hạnh với anh
Cường

2) Đề nghị: Tòa xác định toàn bộ nhà đất 201 m2 hiện anh Cương và anh Hạnh đang
quản lý tài sản chung vợ chồng tôi và đề nghị Tòa chia theo quy định của pháp luật.
Tôi xin nộp tạm ứng án phí đầy đủ và theo đúng thời gian qui định của pháp luật.
Tôi xin gửi kèm theo đơn này các tài liệu làm căn cứ cho yêu cầu khởi kiện.
Kính đơn.
Đính kèm:
-……………
-……………
Nguyễn Thu Nga
Hồ sơ khởi kiện bao gồm:
- Đơn khởi kiện;
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và các giấy tờ tương tự;
- Các giấy tờ chứng minh nguồn gốc nhà đất;
- Giấy xác nhận của những người lân cận và chính quyền địa phương (nếu có);
- Giấy mua bán đất giữa A.Hạnh và A.cường;
- Bản án 115/HNGĐ-PT ngày 27/10/2005 của tòa án tỉnh V.
Câu hỏi 5: Anh (chị) hãy xác định tư cách đương sự trong vụ án?
- Căn cứ khoản 2 điều 56 BLTTDS và tình tiết của vụ án thì Nguyên Đơn trong vụ án
này là C.Nga (vì C.Nga là người đã làm đơn yêu cầu tòa án giải quyết…)
- Căn cứ khoản 3 điều 56 BLTTDS và tình tiết của vụ án thì Bị đơn trong vụ án này là
A.Hạnh (vì anh Hạnh là người mà C.Nga yêu cầu tòa án xem xét giải quyết các vấn đề
xác định tài sản chung và phân chia tài sản)
- Căn cứ khoản 4 điều 56 BLTTDS và tình tiết của vụ án thì người có quyền và nghĩa
vụ liên quan đến vụ án này là A.Cương (vì việc giải quyết vụ án này liên quan đến
quyền và lợi ích của A.Cương).
Tình tiết bổ sung
Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, theo lời trình bày của anh Hạnh, anh không đồng ý chia nhà,
đất theo yêu cầu của chị Nga vì anh cho rằng đây là khối tài sản riêng của anh. Diện tích 201
m2 này do nhà nước cấp riêng cho anh, anh không đồng ý chia. Anh khẳng định đây là tài sản
riêng của anh nên anh có quyền bán cho anh Cương mà không cần sự tham gia của chị Nga.

Vì vậy anh vẫn đề nghị giữ nguyên giao dịch với anh Cương.
Theo lời trình bày của anh Cương, tháng 5/2001 anh có mua anh Hạnh diện tích đất 71 m2 tại
tổ 10, thị trấn T, huyện M, tỉnh V. Việc mua bán không qua cơ quan thẩm quyền công chứng,
chứng thực. Khi lập giao dịch chuyển nhượng với anh Hạnh, chị Nga có biết nhưng vì mâu
thuẫn vợ chồng nên chị Nga đã không ký vào tờ giấy mua bán, mặc dù khi trả tiền có chị Nga
nhận cùng anh Hạnh. Tổng số tiền trả đầy đủ cho anh Hạnh là: 238.057.000 đồng. Nay, anh
Cương đề nghị tòa giữ nguyên hợp đồng chuyển nhượng giữa anh và anh Hạnh vì theo anh,
tài sản anh Hạnh chuyển nhượng cho anh là tài sản riêng của anh Hạnh chứ không phải là tài
sản chung anh Hạnh, chị Nga. Sau khi mua nhà đất của anh Hạnh, anh đã cải tạo sữa chữa
thêm, cụ thể: lát nền, làm trần, sân nhưng anh không xem xét phần sửa chữa cải tạo thêm này.
Có ý kiến cho rằng Tòa án tách yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
anh Hạnh và anh Cương giải quyết trong một vụ án khác.
Câu hỏi 6: Anh (chị) có đồng ý với ý kiến này không?
Tôi không đồng ý với ý kiến này, bởi vì việc nhập hoặc tách vụ án nhằm mục đích để việc
giải quyết được nhanh chóng, chình xác, dễ dàng hơn.tuy nhiên trong trường hợp này nếu
15
không xác định được giao dịch giữa A. Hạnh và A.Cương có hiệu lực hay không thì không
thể không xác định được giá trị khối tài sản và cũng không thể chia tài sản chung cho Vc
C.Nga…vì vậy việc giải quyết 02 yêu cầu này trong cùng một vụ án là liên hệ mật thiết với
nhau và hỗ trợ cho nhau.
Câu hỏi 7: Xác định vấn đề trọng tâm cần chứng minh trong vụ án này ?
- Nguồn gốc nhà đất nói trên ?
- Nhà đất nói trên là tài sản chung hay tài sản riêng ?
- Việc mua bán giữa A.Hạnh và A.Cương C.Nga có biết và phản ứng thái độ ?
Tình tiết bổ sung
Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử, tại phiên tòa các bên vẫn giữ nguyên yêu cầu và quan
điểm của mình. Anh Hạnh không xác định được chứng cứ chứng minh đất cấp cho cá nhân
anh. Tuy nhiên, anh Hạnh vẫn cho rằng nhà máy X không phải là cơ quan có thẩm quyền giao
đất cho cá nhân, tổ chức sử dụng vì vậy đất này không phải là tài sản chung hai vợ chồng.
Chị Nga xuất trình chứng cứ là văn bản xác nhận địa chính tỉnh T, xác nhận nguồn gốc đất là

của nhà máy X phân cho các cán bộ công nhân viên nhà máy. Mặc dù việc nhà máy X cấp đất
là không đúng thẩm quyền nhưng vợ chồng anh Hạnh, chị Nga đã ổn định trên đất từ năm
1989, đất không có tranh chấp, đất sử dụng đúng mục đích. Địa chính M cũng xác nhận thủ
tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chính xác.
Kết quả định giá tài sản theo yêu cầu của nguyên đơn xác định giá trị nhà đất:
+ Nhà và các công trình khác anh Hạnh đang quản lý: Giá trị nhà , các công trình là
19.399.000 đ và giá trị sử dụng đất (130 m2 đất là 8 tr/1m2 = 1.040.000 đ). Tổng giá trị tài
sản là 1.059.000 đ.
+ Nhà và các công trình khác trên 71 m2 đất có giá trị sử dụng là: Nhà, các công trình khác:
16.608.000 + giá trị sử dụng đất 568.000.000 đ + 583.608.900 đ.
Chị Nga yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng đất giữa anh Hạnh và anh Cương. Đề nghị
Tòa án chia tài sản chung của chị và anh Hạnh là tiền mặt.
Câu hỏi 8: Trên cơ sở tất cả các tình tiết vụ án, anh (chị) hãy viết bản luận cứ để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn tại phiên tòa sơ thẩm.
Bản luận cứ có cấu trúc tương tự như câu 7 của đề 12, bám vào các vấn đề cần chứng minh để
lập luận và đưa ra các cơ sở pháp lý liên quan (vì không có nhiều thời gian nên mình không
thể làm chi tiết câu này – mong các bạn thông cảm)
16

×