Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

vai trò của việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá nhằm bảo vệ thị trường nội địa của một số nước và những vấn đề đặt ra cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (17.16 MB, 135 trang )

TRƯỜNG
ĐẠI
HỌC NGOẠI
THƯƠNG
KHOA
KINH TÊ VÀ KINH
DOANH
QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH
KINH TẾ
Đối
NGOẠI
***
KHÓA
LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
VAI TRÒ CỦA VIỆC ÁP
DỤNG
CÁC
BIỆN
PHÁP CHÔNG BÁN PHÁ GIÁ
NHẰM
BẢO
VỆ THỊ
TRƯỜNG
NỘI ĐỊA
CỦA MỘT sô
Nước

NHỮNG


VÂN ĐÊ DẶT
RA CHO
VIỆT
NAM
lA)05
l
|%


Sinh
viên
thủc hiện
:
Trần
Thanh
Thủy
Lớp
:
Anh 9
Khóa
: 45D
Giáo viên hướng dẫn
:
PGS.TS
Bùi Thị


Nội,
tháng
5 năm 2010

MỤC
LỤC
MỤC
LỤC
1
CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT 3
LỜI NÓI ĐẦU 4
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẨN ĐỀ cơ BẢN VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
TRONG
THƯƠNG MẠI
QUỐC
TẾ
6
1.1.
Khái
niệm,
bản
chất
và mục
tiêu
của chộng
bán phá giá
6
Ì .2.
Các
biện
pháp cơ
bản
được
áp

dụng
trong
chộng
bán phá giá
10
Ì .3.
Thủ
tục
áp dụng
biện
pháp
chộng bán phá giá
trong
thương
mại quộc
tế
18
Ì .4.
Tác
động
của chộng bán phá giá đến
nước
nhập khẩu

nước
xuất
khẩu

23
1.5.

Sự
cần
thiết
áp
dụng
các
biện
pháp
chộng
bán phá giá
trong
thương mại
quộc
tế
29
CHƯƠNG
2: VAI TRÒ CỦA
VIỆC
ÁP DỤNG CÁC
BIỆN
PHÁP
CHỐNG
BÁN
PHÁ
GIÁ
NHẰM BẢO VỆ
THỊ
TRƯỜNG
NỘI
ĐỊA CỦA MỘT SỐ

NƯỚC
TRÊN THẾ
GIỚI
35
2.1.
Lịch
sử
việc
sử
dụng
biện
pháp
chộng bán giá
tong
thương
mại quộc
tế
35
2.2. Thực
tiễn
sử
dụng
các
biện
pháp
chộng
bán phá giá nhằm bảo
hộ
thị
trường

nội
địa của
Mỹ 42
2.3. Thực
tiễn
sử
dụng
các
biện
pháp
chộng
bán phá giá nhằm bảo
hộ
thị
trường
nội
địa của
EU 57
Ì
Chương 3:
MỘT SỐ
GIẢI
PHÁP ĐỐI VỚI
VIỆT
NAM VÊ VÁN ĐỀ
CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
HÀNG
HÓA
KHI
THAM

GIA
VÀO
THƯƠNG
MẠI
QUỐC
TẾ
71
3.1.
Các
biện
pháp
đối
với
Việt
Nam
trong
vai
trò là
nước
nhập
khẩu
hàng
hóa
.
71
3.2.
Các
biện
pháp
đối

với
Việt
Nam
ừong
vai
trò là
nước
xuất
khẩu
hàng
hóa

91
KẾT LUẬN 124
TÀI
LIỆU
THAM KHẢO 125
PHỤ LỤC 1: THỐNG KÊ CÁC vụ KIỆN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ MÀ
VIỆT
NAM
CÓ LIÊN
QUAN
TỪ NĂM
1994
ĐẾN
31/10/2009
127
2
CÁC
THUẬT NGỮ

VIẾT
TẮT
Chữ
viêt
tắt
Giải
nghĩa
GAU
Hiệp
định
chung về
thuế
quan
và thương mại
WTO
Tổ
chức
thương
mại
thế
giới
ADA
Hiệp
định
về chống
bán phá
giá của
WTO
DÓC
Bộ

Thương
mại
Hoa Kỳ
ITC
Uy
ban
Thương
mại quốc

Hoa Kỳ
EU
Liên
minh
châu
Au
ASEAN
Hiệp
hội
các
quốc
gia
Đông
Nam A
AFTA
Khu vực
Mậu
dịch
Tự
do
ASEAN

ASEM
Diên đàn
Hợp
tác
A
-
AU
APEC
Diên đàn
Họp
tác
Kinh tê
châu
A
-
Thái Bình Dương
DSB

quan
giải
quyêt
tranh
châp
của
WTO
DSU
Bản ghi
nhớ về
các
qui tắc


thủ tc
điều
chỉnh
việc
giải
quyết
tranh
chấp của
WTO
VCCI
Phòng Thương
mại
và Công
nghiệp
Việt
Nam
CEPT
Hiệp
định
về
chương
trình
ưu
đãi
thuế
quan

hiệu lực
chung

AFTA
Khu vực
Thương
mại
tự
do
ASEAN
3
LỜI
NÓI ĐẦU
Hội
nhập
kinh tế
quốc
tế

một xu hướng đã và đang
diễn ra
ngày một
mạnh
mẽ trên phạm
vi
toàn
cầu.
Dưới
tác động của
hội
nhập,
các hàng rào
thuế

quan

phi
thuế
quan
đang dần được dỡ bỏ nhằm
tạo lập
một môi
trường
cạnh
tranh
bình đẳng
giữa
các nước trên
thế
giới.
Việc
dỡ bỏ các rào
cắn
này đã
tạo
điều
kiện
thông thoáng
cho cạnh
tranh
thương
mại
hơn bao
giờ

hết,
nhưng
thực
tế
đã cho
thấy
bên
cạnh
sự
cạnh
tranh
bình đắng
vẫn
còn tôn
tại
không
ít
các
biện
pháp
cạnh
tranh
không công
bằng.
Do
đó,
pháp
luật
quốc
tế

đã cho phép các nước sử
dụng những
biện
pháp cần
thiết
để
đối
phó
với
những
hành
vi
cạnh
tranh
không công
bằng đó,
trong
đó có
biện
pháp
chống
bán phá
giá
nhằm
đối
phó
lại
hành
vi
bán phá

giá.
Trong
tiến
trình mở
cửa

hội
nhập quốc
tế
ngày càng sâu
rộng,
Việt
Nam không tránh
khỏi phắi đối
mặt
với
những
thách
thức
của
quá trình
tự
do
hóa thương
mại, trong
đó có
vấn
đề bán phá
giá. Việt
Nam vừa có

nguy
cơ là
đối
tượng của hành
vi
bán phá giá của các nước
xuất
khấu
khác,
đồng
thời
cũng

nguy

bị
áp
đặt
các
biện
pháp
chống
bán phá giá
đối với
hàng
xuất
khẩu
ra
nước
ngoài.

Thực
tế,
hàng hóa
của
Việt
Nam đã

đối
tượng
điều
tra
trong
không
ít
vụ
kiện
chống
bán phá
giá của
các nước trên
thế
giới
cũng
như
đã và đang có không ít hàng hóa từ nước ngoài được bán phá giá
tại
thị
trường
Việt
Nam. Đặc

biệt
từ
sau
khi Việt
Nam chính
thức
trở
thành thành
viên
của
ASEAN
và WTO
với
các cam
kết cắt
giắm
tiến tới
xóa bỏ hàng rào
thuế
quan

phi thuế
quan, nguy
cơ các
doanh
nghiệp
trong
nước
phắi
đối

mặt
với
những
hành
vi
cạnh
tranh
không lành
mạnh
của các
đối thủ
nước
ngoài ngày càng
lớn
hơn. Tuy
nhiên,
đứng trước
thực
trạng
đó,
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam hầu như chưa có
biện
pháp nào nhằm bắo vệ
quyền
lợi
chính đáng

của
mình.
Bởi
vậy, việc
nâng
cao nhận
thức
cho các
doanh
nghiệp
Việt
Nam về
vai
trò
bắo vệ các nhà
sắn
xuất
nội
địa của
biện
pháp
chống
bán
4
phá giá là vô cùng cấp
thiết.
Một mặt nó thúc đẩy các
doanh
nghiệp
nhanh

chóng tìm
ra
phương
thức
áp
dụng
biện
pháp này một cách
hiệu
quả để
đối
phó
với
hàng hóa
nhập khẩu
đang được bán phá giá
trong
nước,
mặt khác nó
giúp các
doanh
nghiệp
hiểu
rõ động cơ
của
các nước
khi khởi
xướng
vụ
điều

tra
chống
bán phá
giá, từ
đó nâng
cao
ý
thức
chủ
động
đối
phó
với
các vụ
điều
tra
này.
Từ
nhựng
lý do
đó,
em
xin
mạnh
dạn
chọn
đề
tài "Vai
trò
của

việc
áp
dụng
các
biện
pháp chong
bán
phá
giá
nhằm bảo
vệ
thị
trường
nội
địa
của
một
số
nước và những vẩn đề
đặt
ra
cho
Việt
Nam" cho bài khóa
luận tốt
nghiệp
của
mình.
Đe
tài

này được
viết
dựa trên phương pháp
thu thập, tổng
hợp
và phân tích tư
liệu.
Ngoài
lời
mở
đầu,
kết luận

tài
liệu
tham khảo,
khóa
luận
tốt
nghiệp
gồm 3 chương chính như
sau:
Chương
Ì:
Một số vấn đề cơ bản về
chống
bán phá giá
trong
thương
mại

quốc
tế
Chương
2: Vai
trò
của
việc
áp
dụng
các
biện
pháp
chống
bán phá giá
nhằm
bảo vệ
thị
trường
nội
địa của
một
số
nước
trên
thế
giới
Chương
3:
Một
số

giải
pháp
đối với
Việt
Nam
về vấn
đề
chống
bán phá
giá
hàng hóa
khi
tham
gia
vào thương
mại quốc
tế
Em
xin gửi
lời
cảm ơn chân thành
tới
Cô giáo
PGS.TS.
Bùi Thị Lý -
Chủ
nhiệm
Khoa
Kinh
tế


Kinh
doanh quốc
tế
-
đã
tận
tình giúp đỡ và chỉ
bảo
để em có
thể
hoàn thành
tốt
bài
khóa
luận
tốt
nghiệp
này.
5
Chương
Ì
MỘT

VẤN
ĐÈ
Cơ BẢN

CHỐNG
BÁN PHÁ GIÁ

TRONG
THƯƠNG MẠI
QUỐC TÉ
1.1. Khái niệm, bản chất và mục tiêu của chống bán phá giá
Cùng
với
quá trình
hội
nhập
kinh
tế
đã và
đang
diễn
ra
mạnh
mẽ
trên
toàn
cầu,
số
lượng
các
quốc
gia
trên
thế
giới
tham
gia

vào
những
cam
két cát
giảm
tiến tới
xóa bỏ các hàng rào
mậu
dịch
thuế
quan

phi thuế
quan cũng
ngày càng
tăng.
Tuy
nhiên,
song song
với
quá trình
cờt
giảm
các hàng rào bảo
hộ truyền
thống
đó,
nhiều biện
pháp bảo hộ mới
tinh

vi
hơn
lại
được
thiết
lập
và dần được sử
dụng
phổ
biến trong
thương mại
quốc
tế.
Chống bán phá giá
là một
trong
những
biện
pháp như
thế.
Biện
pháp này
ra đời
với
mục
đích ban
đầu
là nhằm ngăn cản hành
vi
bán

phá
giá
-
một hành
vi
cạnh
tranh
không
lành
mạnh
-
nhằm duy trì
môi
trường
cạnh
tranh
công
bằng
giữa
các
nước,
nhưng càng về
sau,
khi
nhu cầu về các
biện
pháp mới
thay thế
cho hàng rào
quan

thuế

phi
quan
thuế
tăng
lên,
nhiều
quốc gia
đã
lạm
dụng
biện
pháp
chống
bán phá giá như một hàng rào bảo hộ
mậu
dịch mới.
Do
đó, chống
bán
phá giá là một hình
thức
bảo vệ chính đáng hay một
biện
pháp bảo
hộ
thiếu
công
bằng

cho các nhà sản
xuất nội
địa của
một nước
hiện
vẫn còn là một vấn
đề gây
nhiều tranh
cãi.
Hiện
nay chưa

định
nghĩa thế
nào

biện
pháp
chống
bán phá giá
trong
các
văn
bản pháp

quốc
gia
cũng
như
quốc

tế.
Thay
vào
đó
người
ta
định
nghĩa
thế
nào là hành
vi
bán phá giá và
hiểu biện
pháp
chống
bán phá giá
là một công
cụ
nhằm ngăn
chặn

chống
lại
hành
vi
này.
Điều
2
của
Hiệp

định
về
chống
bán phá giá của
GAU
quy định
rõ "Một
sản phẩm bị coi là
bán
phá
giá
(tức
là được
đưa
vào lưu thông thương
mại của một
nước khác
thấp
hơn
trị
giá thông thường của sản phẩm đó)
nếu như
giá xuất khẩu
của
6
sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một nước khác tháp hơn mức
giá có
thế
so sánh được của sản phàm tương tự được
tiêu

dùng
tại
nước xuất
khấu theo các điều
kiện
thương mại thông thường
".
Trong
trường hợp không
thế
xác định hành
vi
bán phá giá thông qua cách so sánh
này,
các cơ
quan
điêu
tra

thể
so sánh giá
xuất
khẩu
sản
phẩm
với
mức giá có
thể
so sánh được và
mang

tính
đại diện
của
sản
phẩm tương
tự
được
xuất
khẩu
sang
một nước
thứ
ba
thích
hợp,
hoặc
được xác định thông qua so sánh
với chi
phí sản
xuất
tại
nước
xuất
xứ hàng hóa
cộng
thêm một
khoản
hợp lý
chi
phí

quản
lý, chi
phí
bán
hàng,
các
chi
phí
chung

lợi
nhuận.
Bừng cách bán phá
giá,
nước bán phá
giá có
thể
tăng cường lượng hàng
xuất
khẩu
phá giá vào nước
nhập
khấu,
gây
áp
lực
cạnh
tranh
về giá dẫn
tới

khả năng đè bẹp nền sản
xuất
sản phẩm tương
tự
tại
nước
nhập
khẩu

chiếm
lĩnh thị
trường của nước này. về khía
cạnh
chính
trị,
hành
vi
bán phá giá còn có
thể xuất
phát
từ
động cơ
muốn
gây ảnh
hưởng
của nước
xuất
khẩu
tới
nước

nhập
khẩu.
Từ
những
nhận
định
trên,
bán
phá giá thường bị
coi
là hành
vi
thương mại
quốc
tế
không công
bừng,
và các
biện
pháp
chống
bán phá giá chính là
những
công cụ giúp chính phủ các nước
kiêm soát và
chống
lại
hành
vi
đó nhừm bảo vệ ngành công

nghiệp
trong
nước.
về bản
chất,
chống
bán phá giá bao gồm các
biện
pháp có tác
dụng
trong
ngắn
hạn làm
giảm
lượng
nhập
khẩu
đối với
hàng hóa được bán phá giá
tại
nước
nhập
khẩu.
Khi nước
nhập
khẩu
chứng
minh
được hành
vi

bán phá
giá có
tồn
tại
và hành
vi
đó đã gây
ra
hoặc
đe dọa gây
ra tổn hại
cho nền sản
xuất
nước mình thì nước
nhập
khẩu
được
quyền
sử
dụng
các
biện
pháp cần
thiết
để ngăn
chặn
hành
vi
đó.
Trong

đa số các trường
họp, biện
pháp
chống
bán phá giá là áp
đặt thuế
chống
bán phá giá lên sản phẩm được bán phá giá
đó.
Mức
thuế
chống
bán phá giá thường tương đương
với
phần
chênh
lệch
giữa
giá
trị
thông thường và giá
xuất
khẩu.
Như
vậy,
bản
chất
của
thuế
chống

bán phá giá chính là
phần
bù cho mức giá đã
bị
đánh
thấp
xuống
nhừm đưa về
đúng mức giá thông thường của sản phẩm. Do đó,
khi
hàng
nhập
khẩu
bị áp
7
thuế
chống
bán phá
giá,
giá bán của
sản
phẩm
nhập khẩu
sẽ tăng lên
khiến
lượng
tiêu
thụ
sản
phẩm

nhập khẩu
này ở nước
nhập khẩu giảm xuống,
áp
lực
cạnh
tranh đối với
các nhà
sản
xuất
cùng
loại
sản
phẩm ở
nước
nhập khẩu giảm
đi.
Điêu này giúp
cho
các nhà
sản
xuất
tại
nước
nhập khẩu
không
những duy trì
được
hoạt
động sản

xuất
mà còn có
thời
gian
củng
cố thêm năng
lực cạnh
tranh,
tăng
khả
năng
chống
đỡ
với
các
nhà
sản
xuất tẳ
các quốc
gia
bên
ngoài.
Tuy
nhiên,
các
biện
pháp
chống
bán phá giá đều
chỉ

mang
tính
chất
bảo
hộ
trong
ngấn
hạn.
Chẳng
hạn, đối với biện
pháp áp
thuế
chống
bán phá giá,
theo
quy định của WTO,
loại
thuế
này
chi
được áp
dụng
trong
khoảng
thời
gian
và mức độ
cần
thiết
để

chống
lại
các
trường
họp bán phá
giá
gây
thiệt
hại
trong
nước nhưng
thời
hạn áp
thuế
không được kéo dài quá 5 năm kê
tẳ
ngày

quyết
định áp
thuế
hoặc
kể
tẳ
ngày
tiến
hành rà soát
lại,
thậm
chí nếu

trong
thời
hạn áp
thuế
nếu các cơ
quan chức
năng
của
nước
nhập khẩu
quyết
định
rằng
việc
áp
dụng
thuế
chống
phá giá

không còn
cần
thiết
thì
thuế
này

thể
được
ngẳng

áp
dụng ngay.
Do
vậy,
các
doanh
nghiệp
sản
xuất trong
nước
cần
tận
dụng
triệt
để
khoảng
thời
gian hiệu lực
của
các
biện
pháp
chống
bán phá giá để tăng cường năng
lực
sản
xuất
cũng
năng
lực cạnh

tranh
của
mình.
Có như
vậy,
các
biện
pháp
chống
bán phá giá mới phát huy được khả
năng
bảo vệ
thị
trường
nội
địa
thực
sự của
nó.
Như phân tích ở trên
thì
mục tiêu chính của các
biện
pháp
chống
bán
phá giá được cho là để đảm bảo sự công
bằng
trong
thương mại

quốc
tế
nhưng
trên
thực
tế
không đơn
giản
như
vậy.
Mặc dù
ra đời
với
mục tiêu
chống
lại
hành
vi
bán phá giá nhằm
tạo
điều
kiện
cạnh
tranh
bình đẳng
giữa
các nước nhưng đến
nay,
các
biện

pháp
chống
bán phá giá đã được
nhiều
nhà
sản
xuất
áp
dụng
như một phương
thức
sử
dụng quyền
lực
của
nhà nước để giành
lợi
thế
cạnh
tranh
trước
các
đối thủ
nước
ngoài.
Chúng
ta

thể
nhận

thấy
rõ hơn mục đích này thông qua một
1
Điều
11
Hiệp định
thực
thi
điều VI cùa Hiệp định chung về
thuế
quan và thương mại
-
GATT
(1994)
8
bản
báo cáo
của
Uy ban Thương
mại quốc
tế
Hoa Kỳ
(ITC)
" mục đích
của
pháp
luật
chống
bán
phả

giá
và chong
trợ
cấp
không phải

bảo vệ người
tiêu
dùng mà

bảo
vệ các
nhà
sản
xuất Thật
sự,
chức năng
của
pháp
luật
chông
bán
phá
giá là
đế bảo vệ cho các công
ty
và những
người
lao
động

tham
gia
vào các
hoạt
động
sản
xuất
ở Hoa
Kỳ. Vĩ
vậy,
chng có

đáng
ngạc nhiên
khi
người
hưởng
lợi
từ các
lợi
ích
kinh
tế
này

các
nhà
sản
xuât,


ngược
lại
các
chi
phí
kinh
tế
sẽ
do
người tiêu
dùng gánh
chịu.
"
2
Trên
thực
tế,
chống
bán phá giá đang được
nhiều
nước sử
dụng
như một vũ khí bảo hộ
cho
các ngành công
nghiệp
truyền
thống
như thép, hóa
chất,

dệt
may và
những
ngành có
sức cạnh
tranh
yếu
do
nền
tảng
công
nghệ của
chính
họ.
Chống bán phá giá còn được
nhiều
quốc
gia
sử
dụng
như một van an
toàn cho nền
kinh
tế
trong
nước.
Trong
thồp
niên
qua,

nhiều
quốc
gia
đang
phát
triển
đã tích cực
tham
gia hội
nhồp
thương mại toàn
cầu,
trong
số đó
nhiều
quốc
gia
đã
gia
nhồp
WTO.
Hội
nhồp
đồng
nghĩa
với
việc
phải thực
thi
các cam

kết
mở cửa nền
kinh
tế,
tạo
môi trường
cạnh
tranh
tự do,

trong
nhiều
trường
họp,
điều
này
cũng
đồng
nghĩa
với nhiều thay đổi
quan
trọng
trong
cấu
trúc nền
kinh
tế
của
các nước
này.

Do
đó,
nhằm hạn
chế
những

sốc
kinh
tế

những
bất
ổn xã
hội
do mở cửa
mang
lại,
nhiều
quốc
gia
đã
chọn
chống
bán phá giá như một
chiếc
van an toàn
-
một công cụ bảo đảm
khả
năng

bảo
hộ
khi
cần
thiết
-
cho nền
kinh tế
nước mình.
Bên
cạnh
những
mục tiêu
mang
tính
kinh
tế
như
trên,
chống
bán phá
giá
cũng
được các nước sử
dụng
nhằm
thực
hiện
các mục đích chính
trị.

Nhiều
quốc
gia
trên
thế
giới
đã và đang sử
dụng
chống
bán phá giá như một
đòn thương mại để
trả
đũa
lại
các hành
vi
bảo hộ mà nước khác đã áp
dụng
đối
với
nước mình
trước
đó.
Nhiều
quốc
gia
trong
các
thồp
niên 1980 và 1990

là bị đơn
trong
các vụ
kiện
chống
bán phá giá của Mỹ và EU như
Braxin,
2
José Tavares de Araiýo Jr. (2001), "Legal and economic interíaces betxveen antidumping and competition
policy",
United Nations
Publications,
Santiago,
Chile
9
Trung
Quốc,
Ấn
Độ,
Mexico,
đến nay đã sử
dụng
chống
bán phá giá như
một
đòn
trả
đũa
lại
chính Mỹ và EU. Ngay cả

khi
không nhằm để
trả
đũa bát
cứ
hành
vi
bảo hộ nào
trước
đó,
chống
bán phá giá
cũng

thế
được sử
dụng
như một
biện
pháp
trừng
phạt
nhằm giành các
quyền
lợi
chính
trị.
Chăng
hạn,
ngày

16/03/2010,
Thượng
viện
Mỹ đã đề
xuầt
một dự
luật
yêu cầu Bộ Tài
chính Mỹ xác định các nước không
định
giá
gốc
tiền
tệ của
mình và lên
danh
sách
những
nước
thực hiện
chính sách mầt cân
bằng
trong
tiền tệ,
trong
đó có
Trang
Quốc.
Những nước này
sẽ phải

chịu
những
biện
pháp đáp
trả của
Mỹ,
và một
trong
những
biện
pháp được
cho là
mạnh
tay
nhầt
chính

Bộ Thương
mại
Mỹ sẽ áp
thuế
chống
bán phá giá lên các hàng hóa của nước đó được
nhập
khẩu
vào Mỹ.
Như
vậy,
chống
bán phá giá được các nước trên

thế
giới
sử
dụng
nhằm
thực hiện cả
những
mục
tiêu
kinh
tế
và mục
tiêu
chính
trị.
Tuy
nhiên,


mục
tiêu
gì thì tác
động
cuối
cùng
của
chống
bán phá giá
cũng
là thị

trường
nội
địa
của
nước
nhập
khẩu
được bảo
vệ,
áp
lực
cạnh
tranh từ
hàng hóa
nhập
khẩu
lên
các nhà
sản xuầt
tại
nước
nhập
khẩu
giảm
đi.
Song,
bảo hộ
cũng
có mặt
trái

của
nó và
tầt
nhiên
những
biện
pháp
bảo
hộ
sẽ
không
chỉ

tác
động một
chiều
đến
nền kinh
tế
của
nước
nhập
khẩu
hay
nước
xuầt
khẩu.
Điều
này
sẽ

được phân
tích

hơn
trong
mục
Ì
.3
về tác
động
của các biện
pháp
chống
bán phá
giá.
1.2. Các
biện
pháp cơ bản được áp
dụng
trong
chống
bán phá giá
về

bản,
các
biện
pháp được áp
dụng
nhằm

chống
lại
hành
vi
bán
phá giá có
thể chia
làm ba
chặng:
Các
biện
pháp
tạm
thời
được áp
dụng
trong
quá trình điều
tra,
sau
khi

quan
điều
tra
đã đưa
ra
được
kết luận
sơ bộ-

Cam
kết
về giá có
thể
được nước
xuầt
khẩu
và nước
nhập
khẩu
thỏa
thuận
áp
dụng
sau khi
biên độ phá giá đã được xác định cụ
thể
nhưng
kết
quả
điều
tra
chính
thức
chưa được công
bố;
Mọi
biện
pháp họp pháp cần
thiết,

phổ
biến
nhầt
là thuế
chống
bán phá
giá sẽ
được nước
nhập
khẩu
áp
dụng
sau khi
đã có
10
kết
quả
điều
tra
chính
thức
cho
thấy thực tế
đã
tồn
tại
hành
vi
bán phá giá và
nền

sản
xuất
của
nước
nhập khẩu
đã
bị
thiệt
hại bởi
hành
vi
đó.
1.2.1. Các biện pháp tạm thời
Trong
quá
trình
điều
tra,
trước
khi

kết luận cuối
cùng về hành
vi
bán
phá giá và
biện
pháp
chống
bán phá

giá,

quan

thẩm quyền
của nước
nhập khẩu

thể
áp
dụng
các
biện
pháp tạm
thợi
với
mục đích
chủ yếu là
để
ngăn
chặn
thiệt
hại
tiếp
tục
xảy
ra trong
quá trình
điều
tra.

Tuy
nhiên,
điều
7
Hiệp
định về
chống
bán phá giá của WTO (ADA) có quy định
rõ,
các
biện
pháp
tạm
thợi
chỉ

thể
được áp
dụng
khi
các
điều
kiện
sau
đây được đáp
ứng:
-
Việc
điều
tra

đã được
bắt
đầu
theo
đúng quy định và được thông báo
công
khai;
- Các bên liên
quan
đã được
tạo
đầy đủ cơ
hội
để đệ trình thông
tin

đưa
ra
bình
luận;
-
Đã có
kết luận
sơ bộ
của

quan

thẩm quyền
xác

nhận

việc
bán
phá
giá

việc
này có
dẫn đến
thiệt
hại
cho
ngành
sản
xuất nội
địa;
- Có
kết luận
của cơ
quan

thẩm quyển
rằng
cần áp
dụng
các
biện
pháp này để ngăn
chặn

thiệt
hại
đang
xảy
ra trong
quá
trình
điều
tra.
Các
biện
pháp tạm
thợi
không được phép áp
dụng
sớm hơn 60 ngày kể
từ
ngày
bắt
đầu điều
tra.
Việc
áp
dụng
các
biện
pháp tạm
thợi
sẽ
được

hạn
chế
ở một
khoảng
thợi
gian
càng
ngắn
càng
tốt
và không quá 4
tháng.
Khi
có yêu
cầu
của
các nhà
xuất
khẩu
đại diện
cho một
tỉ
lệ
đáng kể
khối
lượng thương
mại
liên
quan,


quan

thẩm quyền

thể
quyết
định kéo dài
thợi
gian
áp
dụng
không quá 6 tháng.
Các
biện
pháp
tạm
thợi
bao gồm:
-
Áp
đặt thuế
chống
phá
giá tạm
thợi;
- Áp
dụng
biện
pháp bảo đảm, thượng


tiền
bảo đảm
(bond)
hoặc đặt
cọc (cash deposit) với
khoản
tiền
tương đương
với
mức
thuế
chống
bán phá
li
giá được dự tính tạm
thời.
Trên
thực tế
đây là
biện
pháp được
nhiều
nước áp
dụng
nhất;
- Tạm
đình
chỉ
định giá tính
thuế

(vvithholding
of appraisement), tức

nước
nhập
khẩu
vẫn cho thông
quan
hàng hóa
nhập
khẩu
bị
nghi
ngờ bán phá
giá vào nước mình nhưng bảo lưu
quyền
đánh
thuế

phải
nêu rõ mức thuê
nhập
khẩu
thông thường và mức
thuế
chống
bán phá giá dự
kiến
sẽ áp
dụng.

Các
biện
pháp tạm
thời
nói trên
phải
tuân
thặ
yêu cầu
chung
là không
được
vượt
quá biên độ phá giá được xác định
trong kết luận
sơ bộ.
Kết
thúc quá trình điều
tra,
nếu cơ
quan
điều
tra
kết luận
không có dâu
hiệu
phá giá
hoặc
quyết
định áp

thuế
chống
bán phá giá chính
thức
không có
hiệu
lực hồi tố
thì mọi
khoản
tiền
ký quỹ đã
thu trong
quá trình
thực hiện
các
biện
pháp tạm
thời
sê được hoàn
lại

tất
cả các
tài
sản bảo đảm sẽ được
giải
phóng
ngay.
Nêu
quyết

định áp
thuế
chống
bán phá giá chính
thức

hiệu lực
hồi
tố
nhưng mức
thuế
ấn định
thấp
hơn mức tạm
thu theo biện
pháp tạm
thời
thì
phần
chênh
lệch
sẽ được hoàn
lại,
nhưng nếu mức
thuế
chính
thức
cao hơn
mức tạm
thu thì

nhà
xuất
khẩu
cũng
không
phải
nộp bổ
sung.
1.2.2. Cam kết về giá (price undertaking)
Theo
quy định cặa ADA,
trong
quá trình xử
lý,
xem xét và điều
tra
vụ
việc
chống
bán phá
giá,

quan

thẩm
quyền
và các nhà sản
xuất, xuất
khẩu
nước ngoài cặa sản phẩm đang bị điều

tra

thể thoa thuận với
nhau
thực hiện
một cam
kết
về
giá.
Cam
kết
giá chỉ có
thể
đưa
ra khi

quan

thẩm
quyền
đã có
kết luận
sơ bộ
khẳng
định có
việc
bán phá
giá,
biên độ phá
giá được xác định cụ

thể

việc
bán phá giá này là nguyên nhân gây
thiệt
hại
cho
ngành công
nghiệp
cặa
nước
nhập
khẩu.
Cam
kết
về giá là
việc
nhà sản
xuất, xuất
khẩu
nước ngoài cam
kết
sẽ
điều
chỉnh
giá cặa mình
hoặc
đình
chỉ hành động bán phá giá vào khu vực
đang điều

tra
để các cơ
quan

thẩm
quyền
thấy
được
rằng
tổn hại
do
việc
12
bán phá
giá
gây
ra
đã được
loại
bỏ.
Khoản
giá
tăng thêm
khi
cam
kết về giá
như
vậy
không được
cao

hơn mức
cần
thiết
để có
thể loại
bỏ biên độ bán phá
giá.
Cam
kết
giá là một
thoa thuận tự
nguyện
giữa
các nhà sản
xuất,
xuât
khấu
nước ngoài và ngành công
nghiệp
nước nhập
khẩu.
Cơ quan có
thấm
quyền
của
nước nhập
khẩu

thể gợi
ý cho nhà

xuất
khẩu
đưa
ra
cam
kết
về
giá, tuy
nhiên nhà
xuất
khẩu
sẽ
không
bừ
buộc
phải
đưa
ra
cam
kết này.
Ngược
lại,
cam
kết
giá được đưa
ra

thể
không được
chấp

nhận và
trong
trường hợp
đó,
các cơ quan có
thấm
quyền
phải
cho nhà
xuất
khẩu
biết
lý do họ không
chấp
nhận
cam
kết
về giá đó và
trong
chừng
mực
nhất
đừnh
tạo

hội
cho các
nhà
xuất
khẩu

được
phản
biện.
Các
thủ tục
điều
tra

thể
được
đình
chỉ
hoặc chấm
dứt
mà không áp
dụng
bất
cứ
biện
pháp tạm
thời
hay
thuế
chống
phá giá nào nếu như cam
kết
về
giá được thông qua
giữa
nước nhập

khẩu
và nước
xuất
khẩu.
Tuy nhiên
quá trình
điều
tra
sẽ
vẫn được hoàn thành nếu như nhà
xuất
khẩu
muốn
và cơ
quan

thẩm
quyền
quyết
đừnh như
vậy.
Trong
trường hợp
đó,
nếu như
kết
luận
cuối
cùng


không có
việc
bán phá
giá
hoặc
không có
tổn hại thì
cam
kết
về
giá
tự
động chấm
dứt hiệu
lực,
nhưng cơ quan có
thẩm
quyền

thể
yêu
cầu
duy
trì
cam
kết trong
một
khoảng
thời
gian

hợp lý phù họp
với
các
qui
đừnh của ADA. Trường họp ngược
lại,
cam
kết
giá được
thực hiện
bình
thường.
Nếu nhà
xuất
khẩu
không
thực hiện
đúng cam
kết thì
nước nhập
khẩu

quyền
áp dụng các hành động
cần
thiết.
Phần
lớn
pháp
luật

chống
bán phá giá
của nhiều
nước trên
thể
giới
như
EU,
Canada,
Hàn Quốc, New
Zealand,
Australia,
và cả
Việt
Nam đều đưa
ra
các quy đừnh về cam
kết
về giá phù họp
với
các quy đừnh về
chống
bán phá
giá của
WTO.
Cam
kết
giá được
coi là biện
pháp nhân nhượng - hoa

giải
theo
nghĩa
rộng
trong
việc
giải
quyết tranh
chấp
thương mại
trong
vụ điều
tra
chống
bán
phá
giá, với
những ưu
điểm

nhanh
chóng hơn và
ít tốn
kém hơn so
với
việc
13
phải
hoàn
tất

cuộc
điều
tra.
Đối với
bên bị
kiện,
một ưu
điểm
rõ ràng là nhà
sản xuất, xuất
khẩu
nước này sẽ được hưởng phần
lớn
chênh
lệch giữa
giá
xuất
khẩu
trước và sau
khi
cam
kết
tăng
giá, thay

khoản
tiền
đó
lại
dành

cho việc
nộp
thuế
chống
bán phá giá
tại
nước nhập
khẩu.
Do
đó,
cam két vê
giá thường được đề
xuất trong
trường hựp bên bị
kiện
nhận
thấy
ít có khả
năng
thắng
kiện
hoặc
đạt
được một
kết
quả tích cực
trong
vụ
kiện
đó. Tuy

nhiên,
thực hiện
cam
kết
về giá đồng
nghĩa
với việc
giá bán hàng nhập
khẩu
sẽ
được nâng lên cao gần hoặc ngang bằng
với
giá bán
sản
phẩm sản
xuất
tại
nước nhập
khẩu,
tức là
nhà
xuất
khẩu
phải
chấp
nhận
lợi
thế
cạnh
tranh

về giá
của sản
phẩm
của
hự trên
thị
trường nước nhập
khẩu
gần như mất
đi.
Do đó,
bên
xuất
khẩu
phải
cân nhắc
rất
nhiều
mặt trước
khi
đi đến
quyết
định
thực
hiện
cam
kết
về
giá
với

bên
nhập
khẩu.
Theo
một nghiên
cứu của
Bộ Thương
mại (nay là
Bộ Công
thương),
trong
giai
đoạn 1995
- 2001
đã có 34 nước
tự
nguyện
đưa
ra
cam
kết
giá và được các
nước
tiến
hành điều
tra
chấp
nhận như EU
(14
lần),

Ba Lan
(9
lần),
Hoa Kỳ (8
lần),
Ucraina (7
lần),
Braxin,
Nam
phi,
Nga mỗi nước đều 6
lần,
Cũng
trong
giai
đoạn
điều
tra
này có
11
nước thành
viên
WTO đã
chấp
nhận
đề
xuất
cam
kết
giá,

bao gồm EU
(46
lần),
Hàn Quốc
(14
lần),
Australia
(13
lần),
Hoa Kỳ
(lo
lần),
Argentina (lo lần),
Canada (4
lần),
Mexico
(4
lần), Braxin
(3
lần),
Colombia
(2
lần),
Nicaragua

lần),
và Ba Lan

lần)
3

.
Riêng
đối với
Việt
Nam,
trong
tất
cả các vụ nhà sản
xuất, xuất
khẩu
Việt
Nam
bị kiện
chống
bán phá giá đã có
kết luận cuối
cùng, chúng
ta
chưa
lần
nào sử dụng
biện
pháp cam
kết
giá do
nhiều
lý do khác
nhau,
đặc
biệt

sau
khi
các chuyên
gia
của Bộ Công thương và các
bộ,
ngành,
hiệp hội
có liên
quan
đã cân
nhắc
rất
kỹ lưỡng các
yếu tố
về
kinh
tế,

hội, lợi
thế
cạnh
tranh,
luật
pháp
cũng
như tính khả
thi
trong việc
áp

dụng
Tuy nhiên, về lâu dài
3
Nguyễn Thanh Hưng (2003) "Chống bán phá giá - Mặt trái cùa tư do hóa thương mai" Bô Thương mai

Nội
(2003)
14
biện
pháp cam
kết
giá
vẫn là vấn
đề
cần
được
tiếp
tục
nghiên
cứu,
tham
khảo
đế áp
dụng
khi
cần
thiết.
1.2.3. Thuế chống bán phá giá
Sau khi
đã có

kết luận cuối
cùng
khẳng
định có
việc
bán phá giá và
hành
vi
này đã gây
thiệt
hại
đáng kể
cho
nước
nhập
khẩu,
nước
nhập
khấu

quyền
áp
dụng
mặi biện
pháp
cần
thiết
để
kiểm
soát hành

vi
bán phá giá đó.
Hiệp
định của WTO và
luật
chống
bán phá giá của
nhiều
nước trên
thế
giới
đêu có quy định về các
biện
pháp
chống
bán phá
giá.
Khái quát
lại

những
biện
pháp cơ
bản
như
sau:
• Áp
đặt thuế
chống
bán phá giá chính

thức
lên
sản
phẩm
nhập
khẩu
được
bán phá
giá
với
mức
thuế
không
vượt
quá biên độ phá
giá;
• Quy
định
giá
bán
tối
thiểu;
• Quy
định
hạn
ngạch
nhập
khẩu;
• Xử


vi
phạm hành chính;
• Buộc
tổ
chức,
cá nhân sản
xuất kinh
doanh
bán phá giá
phải bồi
thường
thiệt
hại
cho các
tổ
chức,
cá nhân
sản xuất, kinh
doanh
bị tổn
thất
do
hành
vi
bán phá
giá
gây
ra.
Thực
tế

các vụ
điều
tra
chống
bán phá giá
cho
thấy,
sau khi

kết luận
cuối
cùng,
biện
pháp được
hầu hết
các nước áp
dụng

áp
thuế
chống
bán phá
giá lên
hàng hóa
nhập
khẩu
được bán phá
giá.
Thuế
chống

bán phá giá

khoản
thuế
bổ
sung
(ngoài
thuế
nhập
khẩu
thông
thường),
do cơ
quan

thẩm
quyền
của nước
nhập
khẩu
ban hành,
đánh vào
sản
phẩm nước ngoài bị bán phá giá vào nước
nhập
khẩu
với
mục
đích ngăn
cản sự

tiếp
diễn của việc
bán phá giá đó để tránh gây
thiệt
hại
cho
ngành
sản xuất sản
phẩm tương
tự

trong
nước.
Việc
xác định mức
thuế
chống
bán phá giá
phải
dựa
trên
cơ sở biên độ
phá giá của
sản
phẩm. Biên độ phá giá chính là sự chênh
lệch giữa
giá
xuất
15
khẩu

đang xem xét
với
giá thông thường
của sản
phẩm
tại
thị
trường
nội địa,
hoặc
giá
xuất
khẩu
sang
nước
thứ ba,
hoặc
giá cấu thành của sản phàm. Vê
nguyên
tắc,
mức
thuế
chống
bán phá giá được tính riêng cho
từng
nhà sản
xuất,
xuất
khẩu
và không được

vượt
quá biên độ phá
giá.
Trường họp các nhà
sản
xuất,
xuất
khẩu
nước ngoài không được
lệa
chọn
để
tham
gia
cuộc
điều
tra
thì
mức
thuế
áp
dụng
cho
họ không
cao
hơn biên độ phá
giá
trung
bình
của

tất
cả
các nhà
sản
xuất,
xuất
khấu
nước ngoài được
lệa
chọn
điều
tra.
về
thời
điểm
tính
mức
thuế
chính
thức,

hai
cách xác
định
như
sau:
- Cách tính
thuế
cho
khoảng

thời
gian sắp
tới
(EU áp
dụng
cách
này):
Mức
thuế
chính
thức
sẽ được xác định
ngay
trong
quyết
định áp
thuế
ban
hành
khi kết
thúc điều
tra
và có
hiệu lệc
cho hàng hoa liên
quan
nhập
khẩu
trong
khoảng

thời
gian sau
đó;
- Cách tính
thuế
cho
khoảng
thời
gian
đã qua (Mỹ áp
dụng
cách
này):
Mức
thuế
nêu
tại
quyết
định
áp
thuế ban
hành
sau khi
điều
tra chi
là tạm
thời;
hết
mỗi
năm kể

từ
ngày có
quyết
định
này,

quan
điều
tra
sẽ
xác định biên
phá giá
thệc tế của
các nhà
xuất
khẩu
trong
năm đó và
quyết
định mức
thuế
chính
thức
cho họ
(nếu
mức này
cao
hơn mức
thuế
tạm tính

thì
doanh
nghiệp
phải
nộp bổ
sung;
nếu thấp
hơn
sẽ
được hoàn
trả).
Theo
quy định
của
WTO, dù
theo
cách tính nào thì cứ tròn Ì năm kể
từ
ngày có
quyết
định áp
thuế,
các bên liên
quan
trong
vụ
kiện
đều có
quyền
yêu cầu cơ

quan

thẩm
quyền
rà soát
lại
để điều
chỉnh
mức
thuế.
Trường
hợp
các cơ
quan
chức
năng
quyết
định
việc
áp
dụng
thuế
chống
phá giá là
không còn
cần
thiết
thì
việc
áp

thuế
cũng
được chấm
dứt
ngay.
Khi thuế
chống
phá giá được áp
dụng
đối với
một sản phẩm nào đó,
thuế
đó sẽ được
thu theo
mức họp lý
đối với
mỗi trường
họp,
trên cơ sở
không phân
biệt
đối
xử
đối với
hàng
nhập
khấu
từ
tất
cả các

nguồn
bị coi

bán phá giá và gây
tổn
hại, trừ
những
nguồn
đã có cam
kết
về giá được
chấp
nhận.
Các cơ
quan

thẩm
quyền
sẽ nêu rõ tên các nhà
cung
cấp
sản
phẩm
16
liên
quan
hoặc,
nếu như không
thể
làm như

vậy,
thì nêu tên các nước liên
quan.
Quyết
định áp
thuế
chỉ có
hiệu lực
sau
thời
điểm
ban hành
quyết
định
và có
hiệu lực với
cả các nhà
xuất
khẩu
mới,
người
chưa hề
xuất
khấu
hàng
hoa
đó
sang
nước áp
thuế

trong
thời
gian
trước
đó.
Nhà
xuất
khẩu
mới có
thế
yêu cầu cơ
quan
điều
tra
tính mức
thuế
riêng cho mình, nhưng
trong
thời
gian
chưa có
quyết
định về mức
thuế
riêng thì hàng hoa
nhập
khẩu
của nhà
xuất
khẩu

mới vẫn
thực hiện quyết
định áp
thuế
ban đầu.
về
thời
hừn áp
thuế, theo
quy định của WTO,
việc
áp
thuế
chống
bán
phá giá không được kéo dài quá 5 năm kể
từ
ngày có
quyết
định áp
thuế
hoặc
kể từ
ngày
tiến
hành rà soát
lừi,
trừ
trường họp các cơ
quan

hữu
quan
ra quyết
định
rằng
việc
hết
hừn
hiệu lực
của
thuế
chống
phá giá có
thế
dẫn
tới
sự tiêp
tục
cũng
như
tái
phát
sinh
hiện
tượng phá giá và các
thiệt
hừi
cho nước
nhập
khẩu

thì thuế
chống
bán phá giá có
thể
được
tiếp
tục
áp
dụng.
Việc
áp
dụng
hồi tố
(áp
dụng
cho
những
lô hàng
nhập
khẩu
trước
thời
điểm
ban hành
quyết
định áp
thuế) chỉ
được
thực hiện
trong

trường họp đã có
xác định
thiệt
hừi
chính
thức
(không
phải
ở mức độ đe doa gây
thiệt
hừi
hoặc
gây
ra
các chậm
trễ
trong
sự hình thành của một ngành sản
xuất
trong
nước)
hoặc
trong
trường hợp đã có
thể
xác định chính
thức
nguy
cơ gây
thiệt

hừi,
theo
đó tác động của các hàng hóa
nhập
khẩu
được bán phá
giá,
trong
trường
họp
không có các
biện
pháp từm
thời,
đã dẫn
tới
việc
xác định
thiệt
hừi
cho
nước
nhập
khẩu.
11
V
051
%
Hồi tố


thể
được
thực hiện
dưới
hai
hình
thức
như
sau:
ị 20
Á

-
Hồi tố đối với
thời
gian
áp
dụng
biện
pháp từm
thời:

quan

thẩm
quyền
của
nước
nhập
khấu

truy
thu thuế đối với
hàng hóa liên
quan
nhập
khẩu
vào nước này kế
từ
thời
điếm

quyết
định áp
dụng
biện
pháp từm
thời.

các nhà sản
xuất, xuất
khẩu
đã
phải
nộp
khoản
đảm bảo cho hàng hóa
nhập
khẩu
theo quyết
định về áp

dụng
biện
pháp từm
thời
nên
thực chất
việc
truy
thu
này là chính
thức thu
các
khoản
tiền
đảm bảo trước đây nhà sản
xuất, xuất
17
khẩu
đã
nộp.
Theo
đó,
nếu
mức
thuế
chính
thức
cao
hơn mức
thu theo biện

pháp tạm
thời
thì
nhà
xuất
khẩu
không
phải
nộp bổ
sung,
nếu
mức
thuế
chính
thức thấp
hơn
mức
thu theo biện
pháp tạm
thời
thì
nhà
xuất
khẩu
được hoàn
lại
khoản
chênh
lệch
hoặc

số
thuế phải
nộp sẽ được tính
lại
tuy từng
trường
họp cụ
thể.
- Hỉi tố đối với
khoảng
thời
gian
tính
từ
90 ngày
trước
khi
áp
dụng
biện
pháp tạm
thời
cho đến
khi

quyết
định chính
thức
về
thuế

chống
bán
phá
giá: Hỉi tố
loại
này
chỉ
được áp
dụng
trong
những
trường hợp
rất
hãn hữu
khi
đã có
tiền
sử về
việc
bán phá
giá,
hàng
nhập
khẩu
được bán phá giá
với
số
lượng
lớn
và có

thể
gây
ra
các
thiệt
hại
nghiêm
trọng
đến
tác
dụng
điều
chỉnh
của thuế
chống
phá
giá cuối
cùng.
1.3. Thủ tục áp
dụng
biện
pháp
chống
bán phá giá
trong
thương
mại
quốc
tế
Hiện

tượng bán phá giá
xuất hiện
khá
sớm
trong thực
tiễn
thương mại
quốc
tế.
Mặc dù
đến nay vẫn còn
nhiều
ý
kiến
khác
nhau
song
hầu
hết
pháp
luật
các nước
trên
thế
giới
đều
coi
đây

một

trong
những
hành
vi
thương mại
không lành
mạnh.
Xuất
phát
từ
quan
điểm
đó,
luật
lệ của
Hiệp
định
chung
về
thuế
quan
và thương mại (GATT) trước đây và
Tổ
chức
thương mại
thế
giới
(WTO)
hiện
nay đều cho phép các

quốc
gia
áp
dụng
các
biện
pháp có tính
tự
vệ
nhằm
chống
lại
hành
vi
bán phá
giá.
Trong
WTO,
các nguyên
tắc
về
chống
bán
phá
giá được quy định
tại
Điều VI
Hiệp
định
chung

về
thuế
quan

Thương mại (GATT) 1994

Hiệp
định
thực
thi
điều VI của
GATT 1994
(The
Agreement
ôn
Implementation of
Article
VI
of
GATT
1994),
thường
được
biết
đến
với
tên
gọi là
"Hiệp
định

về
chống
bán phá
giá"
(Agreement
ôn
Antidumping
Practices
-
ADA).
Mỗi
nước
lại

thế

những
quy định riêng về vấn đề
chống
bán
phá
giá. Đối với
các nước

thành viên
WTO,
quy định về
chống
bán phá giá của
18

nước
đó
phải
tuân
thủ
đầy đủ các quy
định
mang
tính
bắt
buộc
và không được
trái
với
các quy
định
liên
quan
trong
ADA. Ngoài
ra,
WTO còn xây
dựng
Luật
mẫu
về
chống
bán phá
giá
nhưng đây

chỉ là
một văn
bản
mang
tính
chất gợi
ý,
khuyên
nghị
đế các
quốc
gia
tham
khảo
chứ không có giá
trị
bắt
buộc
áp
dụng.
Các vụ
kiển
chống
bán phá giá và
viểc
áp
thuế
chống
bán phá giá
thực

tế
ở các nước
tuân
thủ
các
quy
định
của
quốc
gia
đó.
Một
vụ
kiển
chống
bán phá
giá thực chất là tổng
hợp các bước
điều
tra
xác
minh
các yêu
cầu
trong
đơn
kiển
để
kết luận
có đủ

điều
kiển
áp
dụng
các
biển
pháp
chống
bán phá giá
đối với
hàng hoa
bị
kiển
hay
không.

thế
tóm
tắt
các bước cơ
bản của
vụ
kiển
chống
bán phá
giá
như
sau:
Bước
1:

Ngành sản
xuất nội
địa nước
nhập
khẩu
nộp đơn
kiển
kèm
theo
chứng
cứ
ban đầu.
WTO quy định các
chủ thể

quyền
khởi kiển

ngành
hoặc
đại
diển
ngành
sản xuất sản
phẩm tương
tự của
nước
nhập
khẩu
hoặc


quan

thấm
quyền
của
nước
nhập
khẩu.
Đe các
chủ thể khiếu
kiển
mang
tính
đại
diển
cho
ngành
sản xuất nội địa,
WTO quy định yêu
cầu
tiến
hành điều
tra
phải
được
sự
ủng hộ của các nhà
sản xuất
trong

nước
chiếm
tối
thiểu
50%
tổng
lượng
sản
phẩm tương
tự
được
sản xuất ra bởi tổng
số các nhà
sản xuất
đã bày
tỏ
ý
kiến
(tán thành
hoặc
phản
đối)
về
viểc
điều
tra;
và các nhà
sản xuất
tán thành
cuộc

điều
tra
chiếm
tối
thiểu
25%
tổng
sản lượng sản phẩm tương tự được
ngành
sản xuất
trong
nước làm
ra.
Đơn yêu
cầu
ngoài
những
thông
tin
cơ bản về
chủ thể
nộp
đơn,
về sản
phẩm
bị nghi
ngờ bán phá
giá (giá
thông
thường,

giá
xuất
khẩu,
diễn
tiến
khối
lượng
nhập
khẩu, )
còn
phải
cung
cấp các
bằng
chứng
về
viểc
bán phá giá,
thiểt
hại đối với
ngành sản
xuất
trong
nước và mối
quan
hể nhân quả
giữa
viểc
bán phá
giá

với
thiểt
hại
đó.
Bước 2: Cơ
quan

thẩm
quyền
ra quyết
định
khởi
xướng điều
tra
hoặc
từ
chối
đơn
kiển,
không
điều
tra.
19
Trước
khi ra quyết
định
bắt
đầu điều
tra,


quan

thấm
quyên
phải
kiểm
tra
các
điều
kiện
về tính
đại diện của chủ thể
nộp đơn
cũng
như
kiếm
tra
tính
hợp lý và chính xác
của
các
bằng
chứng
trong đơn.
Ngoài trường họp
hai
điều
kiện
trên
không được đảm

bảo,
đơn yêu
cầu
cũng
bị tặ chối
nêu biên độ
bán phá giá không quá mức
tối
thiểu
(thấp
hơn 2% của giá
xuất
khẩu)
hoặc
khối
lượng hàng
nhập
khẩu
được bán phá giá không đáng kể
(ít
hon 3%
tổng
nhập
khấu
các sản phẩm tương
tự
vào nước
nhập
khẩu,
trặ

trường họp
tống
lượng
sản
phẩm tương
tự
nhập
khẩu
tặ
những
nước có lượng
nhập
khẩu
dưới
3%
chiếm
trên
7%
nhập
khẩu
sản
phẩm tương
tự
vào nước
nhập
khẩu).
Các cơ
quan
chức
năng của nước

nhập
khẩu

thể tự quyết
định
bắt
đầu
một
cuộc
điều
tra
mặc dù không có đơn yêu
cầu
nhưng
chỉ trong
trường
hợp
các cơ
quan
này có đầy đủ các
bằng
chứng
về việc
phá
giá, về
thiệt
hại

mối
quan

hệ
nhân
quả giữa
hành
vi
bán phá
giá

thiệt
hại
đó.
Trước
khi
tiến
hành
bắt
đầu quá trình điều
tra,
các cơ
quan

thấm
quyền
phải
thông báo
cho
chính
phủ của
nước
xuất

khấu
hàng hóa có
liên
quan.
Bước
3:
Các cơ
quan
chức
năng
tiến
hành điều
tra
sơ bộ về
việc
bán
phá
giá
và về
thiệt
hại (qua
bảng
câu
hỏi gửi
cho các bên liên
quan,
thu thập,
xác
minh
thông

tin,
thông
tin
do các bên
tự
cung
cấp).
Ngay
sau
khi bắt
đầu
tiến
hành điều
tra,
các cơ
quan

thấm
quyền
phải
cung
cấp toàn bộ văn bản của đơn yêu cầu điều
tra
cho các nhà
xuất
khẩu,
cho cơ
quan

thẩm

quyền
của
nước
xuất
khẩu
cũng
như
sẵn
sàng
cung
cấp cho
các bên
liên
quan
khác
khi
được yêu
cầu.
Tất
cả các bên liên
quan,
bao gồm nhà sản
xuất, xuất
khẩu
hoặc
hiệp
hội
đại diện
cho
họ,

chính phủ nước
xuất
khẩu,
nhà
sản xuất sản
phẩm tương
tự tại
nước
nhập
khẩu
hoặc
hiệp hội đại diện
cho họ và các
chủ thể
khác
theo
quy
định của mỗi
quốc
gia,
phải
được thông báo về
những
thông
tin
mà cơ
quan

thẩm
quyền

yêu
cầu

phải
có đầy đủ cơ
hội
để có
thể
cung
cấp
bằng
văn
bản
các các
bằng
chứng
mà họ
cho
rằng

liên
quan
đến
cuộc
điều
tra
đó.
20
Các nhà
sản

xuất,
xuất
khẩu
bên
bị
kiện
phải
có được
ít
nhất
30 ngày đê
trả
lời
bảng
câu
hỏi
được sử
dụng
trong
điều
tra
chống
bán phá
giá.
Họ
cũng

thể
yêu
cầu

kéo dài
thời
hạn trên nhưng
phải
có lý do hợp lý và được các

quan

thẩm quyền chấp
thuận.
Trong
quá
trình
điều
tra
chống
bán phá
giá,
các cơ
quan

thấm quyền,
khi
được yêu
cầu, phải tạo
điều
kiện
cho
tất
cả

các bên
quan
tâm được gộp gỡ
đê
trình
bày
quan
điếm
cũng
như
lập luận
phản
bác
quan
điểm
của nhau.
Bước
4:
Các cơ
quan

thẩm quyền
đưa
ra kết luận
sơ bộ (có thê kèm
theo quyết
định
áp
dụng
biện

pháp
tạm
thời
như
buộc
đột cọc,

quỹ ).
Hành
vi
bán phá giá được xác định

tồn
tại
nếu giá thông thường
lớn
hơn giá
xuất
khẩu
của
sản
phẩm. Giá
trị
thông thường là mức giá có
thế
so
sánh được của sản phẩm tương tự
tại
nước
xuất

khẩu
theo
các
điều
kiện
thương mại thông
thường,
hoộc
giá
xuất
khẩu
của
sản
phẩm
từ
nước bị
kiện
sang
một nước
thứ ba,
hoộc
giá
trị
tính toán
của sản
phẩm. Giá
xuất
khẩu

giá

trong
giao
dịch
mua bán
giữa
nhà
sản
xuất,
xuất
khẩu của
nước
xuất
khẩu
với
nhà
nhập khấu của
nước
nhập
khẩu,
hoộc là giá
trị
tính
toán trên cơ
sở
giá
bán
sản
phẩm
nhập khẩu
lần

đầu tiên cho một
người
mua độc
lập
tại
nước
nhập
khẩu,
hoộc cũng

thể

một
trị
giá tính toán trên cơ sở hợp lý do cơ
quan thẩm quyền
quyết
định.
Biên độ phá
giá
được tính
theo
công
thức:
Biên độ phá giá = (Giá thông
thường
- Giá
xuất
khấu)
/

Giá
xuất
khấu
Biên độ phá giá được tính cho
từng
nhà
sản
xuất, xuất
khấu
liên
quan
trong
vụ
điều
tra.
Nêu
số
lượng
các nhà
sản
xuất,
xuất
khẩu
này quá
lớn
thì

quan

thẩm quyền

nước
nhập khấu

thế lựa
chọn
một số lượng thích họp
các nhà
sản
xuất, xuất
khấu
đế
điều
tra
và sẽ có biên độ phá giá đơn
lẻ
cho
từng
chủ
thể
này,
còn
đối với
các nhà
sản
xuất,
xuất
khẩu
còn
lại,
biên độ phá

giá sê
được
tính

bình quân các biên độ đơn
lẻ.
Bước
5: Việc
điều
tra
về hành
vi
bán phá giá và
thiệt
hại
tiếp
tục
được
tiến
hành
(có
thể
bao gồm
điều
tra
thực
địa
tại
nước
xuất

khẩu).
21
Việc
xác định
thiệt
hại
được
tiến
hành trên
hai
khía
cạnh:
Thứ
nhất,

quan điều
tra
phải
xem
xét
xem
trên
thực tế

sự
tăng đáng kể
khối
lượng
hàng
nhập khẩu

bán phá
giá so
với
mức
sản
xuất
hoặc nhu cầu
tiêu
dùng
tại
nước
nhập
khẩu
hay
không,
và xem xem có
phải việc
bán phá giá đã làm
giảm
giá
hoặc
ghìm giá
hoặc
ngăn không cho tăng giá của
sản
phẩm tương
tự
tại
nước
nhập

khẩu
ụ mức đáng kể hay
không.
Thứ
hai,

quan điều
tra
phải
đánh giá ảnh
hưụng của
hàng
nhập khẩu
được bán phá giá
đối với
ngành
sản
xuất nội
địa
của
nước
nhập khẩu
thông
qua
tất
cả các nhân
tố

chỉ
số có ảnh

hưụng
đến
tình
trạng
của
ngành
sản
xuất
(mức
suy giảm
thực tế

tiềm
ẩn
của doanh số,
lợi
nhuận,
sản lượng,
thị
phần,
năng
suất,
công ăn
việc
làm, )
về hình
thức,
thiệt
hại đối với
ngành

sản
xuất nội
địa
nước
nhập khẩu

thể chia
làm ba
loại: thiệt
hại thực
tế,
nguy
cơ gây
ra
thiệt
hại
và sự ngăn
cản
hình thành một ngành
sản
xuất trong
nước.
về mức
độ,
các
thiệt
hại
này
phải
ụ mức đáng

kể.
Tuy
nhiên,
ADA không quy định rõ
thế
nào

"thiệt
hại
đáng
kể"
nên
vấn
đề này hoàn toàn
phụ
thuộc
vào quy định
của mỗi quốc
gia.
về
việc
chứng minh quan
hệ nhân quả
giữa
hành
vi
bán phá giá và
thiệt
hại
cho

ngành
sản
xuất
nội
địa của
nước
nhập
khẩu,
ADA không có quy
định
chi
tiết
nên các
quốc
gia

thể
sử
dụng những
phương pháp khác
nhau
để xác định
mối
quan
hệ này
(ví
dụ như sự trùng họp về
thời
gian giữa việc
bán phá giá và

thiệt hại
xảy
ra,
các
phân
tích
kinh
tế
để xác
định
mức tăng
trưụng
của
ngành
sản
xuất
nội
địa
nếu
như không

việc
bán phá
giá
của
hàng
nhập
khẩu, ).
Bước
6:


quan

thẩm quyền
đưa
ra kết luận cuối
cùng.
Bước
7:

quan

thẩm quyền
đưa
ra quyết
định áp
dụng
biện
pháp
chống
bán phá
giá.
Bước
8:

quan

thấm quyền
tiến
hành rà soát

lại
biện
pháp
chống
bán
phá
giá.
Việc
rà soát được
tiến
hành nếu cơ
quan

thẩm quyền của
nước
nhập
khẩu
thấy
cần
thiết
hoặc
khi
được các bên
liên
quan
yêu
cầu.
Nội dung rà
soát
22

bao
gồm
việc
tiếp
tục
áp
đặt thuế

cần
thiết
để bù đắp
những
thiệt
hại
do
bán phá giá gây
ra
hay không và
liệu thiệt
hại

tiếp
tục
xảy
ra
hay
tái
xuất
hiện nếu
ngừng

thu
hoặc
điều
chỉnh
mức
thuế
hay
không.
Nếu
kết quả
rà soát
cho thấy việc
áp
thuế
chống
bán phá giá không còn
cần
thiết
nữa
thì hiệu lực
cợa thuế sẽ
chấm
dứt
ngay
mà không
cần chờ đến hết
thời
hạn 5 năm.
Bước
9:


quan

thẩm
quyền
tiến
hành

soát
hoàng hôn.

soát
hoàng hôn được
thực
hiện
ngay
trước
khi hết
thời
hạn
5 năm
cợa
thuế
chống
bán phá
giá.
Nêu
kết quả rà
soát
hoàng hôn

cho thấy việc
chấm
dứt
áp
thuế
chống
bán phá giá có
thể dẫn
tới
việc
tiếp
tục
hoặc
tái
phát
sinh hiện
tượng
bán phá giá và các
thiệt
hại thì

quan

thẩm
quyền

thể ra
quyết
định
tiếp

tục
áp
dụng
thuế
chống
bán phá
giá. Khi
đó
thời
hạn 5 năm
hiệu lực
cợa thuế
chống
bán phá
giá
lại
được
tính
bắt đầu từ
ngày có
quyết
định
này.
Từ bước Ì đến bước 7
cợa
một vụ điều
tra
chống
bán phá giá thường
kéo

dài
khoảng
18 tháng
đến
2
năm.
Tuy
nhiên,
bước 8 và 9 có
thể
kéo
rất
dài
sau đó.

dụ, trong
vụ
kiện

tra,

basa
cợa
Việt
Nam ở Mỹ, đơn
kiện
được
nộp ngày
28/6/2002,
quyết

định áp
thuế
được ban hành ngày 7/8/2003.
Sau
đó mỗi năm 2005 và
2006
đều đã có rà soát
lần
1,2
đối với
một số công
ty
xuất
khẩu
cợa Việt
Nam.
1.4. Tác động cợa chống bán phá giá đến nước nhập khẩu và nước
xuất
khẩu
trong
vụ
kiện
chống
bán phá giá
1.4.1.
Tác động của chống bán phá
giả
đến nước nhập khẩu (nước
khởi kiện)
Như đã phân

tích
tại
các mục
trên,
một
khi
các
biện
pháp
chống
bán phá
giá
được đưa vào áp
dụng,
đối
tượng
hưởng
lợi
luôn

các nhà
sản
xuất
nội
địa
cợa
nước
nhập
khẩu.
Do

đó, việc
phân tích tác động cợa các
biện
pháp
chổng
bán phá giá
đối với
ngành
sản
xuất
tại
nước
nhập
khẩu
sẽ cho
thấy vai
trò cợa
các biện
pháp này
đối với việc bảo vệ thị
trường
nội địa cợa
nước
đó.
Tuy nhiên
23

×