Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

WTO và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam khi trở thành thành viên của WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.3 KB, 87 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế như hiện nay, hội nhập
và tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế đã trở thành một xu thế tất yếu
khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều các nước tham gia, buộc các nước
phải thực hiện chiến lược mở cửa kinh tế nhằm tranh thủ thời cơ, phát
huy lợi thế và vượt qua thách thức thì mới có thể phát triển nhanh nền
kinh tế của quốc gia mình, đóng góp chung vào tăng trưởng kinh tế khu
vực và toàn cầu. Không một quốc gia nào có thể phát triển được nếu
không tham gia vào quá trình này và Việt Nam cũng không nằm ngoài
xu thế chung này. Hiện nay mỗi quốc gia muốn phát triển thì không
còn cách nào khác là tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) - Tổ chức thương mại toàn cầu lớn nhất, quan trọng nhất thu
hút tới 149 quốc gia thành viên và chi phối đến 95% tổng kim ngạch
thương mại thế giới. Đây cũng chính là nguyên nhân chi phối trong
việc định hướng cho kế hoạch phát triển kinh tế của Việt Nam trong
những năm gần đây. Các chính sách mà Nhà nước Việt Nam đưa ra đều
phục vụ cho mục tiêu được là thành viên chính thức của WTO xem đó
như là một con đường tốt nhất để rút ngắn tụt hậu so với các nước khác
và có điều kiện phát huy tối ưu hơn những lợi thế so sánh của mình
trong phân công lao động và hợp tác quốc tế.
Mặc dù vị thế của Việt Nam khi gia nhập WTO không giống như
các nước thành viên khác (ví dụ như nước láng giềng Trung Quốc)
nhưng chúng ta có thể rút kinh nghiệm từ những thành công và hạn chế
của các nước đó để có thể tiến hành tốt nhất tự do hoá thương mại theo
như cam kết từ đó đưa nền kinh tế phát triển một cách hiệu quả và hạn
1
chế những thua thiệt mà quá trình cạnh tranh không cân sức này mang
lại.
Chính vì lý do này, mà em chọn đề tài “WTO và những vấn đề
đặt ra cho Việt Nam khi trở thành thành viên của WTO ” làm đề tài
nghiên cứu cho khoá luận tốt nghiệp Đại học Ngoại thương của mình.


1. Bố cục của đề tài
NgoàI phần lời nói đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Khái quát chung về WTO
1.Lịch sử hình thành và phát triển của WTO
2.Điều kiện cần thiết để tham gia WTO
3.Những lợi thế mà WTO mang lại cho các nước thành viên
Chương II. Khái quát chung về kinh tế Việt Nam
I.Đặc điểm cơ bản của các ngành kinh tế chủ chốt của Việt nam
trước khi gia nhập WTO
II. Những tác động từ việc gia nhập WTO
Chương III. Những lợi thế của Việt Nam khi gia nhập WTO
I.Lợi thế về thương mại
II. Lợi thế về xuất khẩu
III. Lợi thế về môi trường đầu tư
VI.Lợi thế về tài chính, ngân hàng
V.Lợi thế về các ngành dịch vụ
2
MỤC LỤC
Lời nói mở đầu
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ WTO
I.Lịch sử hình thành và phát triển của WTO
1.Lịch sử hình thành và phát triển của WTO
2. Chức năng của WTO
3. Mục tiêu của WTO
4. Các nguyên tắc hoạt động của WTO
5. Cơ cấu tổ chức của WTO
II. Điều kiện cần thiết để tham gia WTO
III.Những lợi ích mà WTO mang lại cho các nước thành viên
CHƯƠNG II

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KINH TẾ VIỆT NAM
I.Đặc điểm cơ bản của các ngành kinh tế chủ chốt của Việt Nam
trước khi gia nhập WTO
1. Công nghiệp
1.1Ngành dệt may
1.2. Các ngành công nghiệp lắp ráp (điện tử, ô tô, xe máy)
1.3. Công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu
2. Nông nghiệp
3
II. Những tác động từ việc gia nhập WTO
1. Tác động đến kinh tế
2.Tác động đến xã hội
CHƯƠNG III
NHỮNG LỢI THẾ CỦA VIỆT NAM KHI GIA NHẬP WTO
I. Lợi thế về thương mại
1. Khái quát thương mại Việt nam trước khi gia nhập WTO
2. Phân tích những điều kiện mà WTO đem lại cho thương mại Việt
Nam
2.1 Thương mại tự do giúp giảm chi phí cuộc sống và tăng thu nhập
2.2 Kích thích tăng trưởng kinh tế
3.Thực trạng thương mại Việt nam khi tham gia WTO
II/ Lợi thế về xuất khẩu
1.Khái quát xuất khẩu Việt nam trước khi gia nhập WTO
2.Những lợi thế mà WTO mang lại cho xuất khẩu Việt nam.
2.1 Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam
2.2 Các định hướng chiến lược trong kỳ hội nhập
III/Lợi thế về môi trường đầu tư
1.Vài nét cơ bản về môi trường kinh doanh của Việt Nam
2.Các yếu tố tạo nên lợi thế của môi trường kinh doanh
2.1 Các định hướng chiến lược trong giai đoạn hội nhập

2.2 Những kết quả đạt được
VI. Lợi thế về tài chính
V. Lợi thế về các ngành dịch vụ
VI. Lợi thế về Nông nghiệp
KẾT LUẬN
4
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ WTO
1. Lịch sử hình thành và phát triển của WTO
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của WTO
Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization – WTO)
ra đời trên cơ sở kế tục tổ chức tiền thân là Hiệp định chung về Thuế
quan và Thương mại (The General Agreement on Tariffs anh Trade –
GATT). Đây là tổ chức quốc tế duy nhất đề ra những nguyên tắc
thương mại giữa các quốc gia trên thế giới. Trọng tâm của WTO chính
là các hiệp định đã và đang được các nước đàm phán và ký kết.
Hội nghị Bretton Woods năm 1944 đã đề xuất thành lập Tổ chức
Thương mại Quốc tế (International Trade Organization – ITO) với mục
đích thiết lập các qui tắc và luật lệ cho thương mại giữa các nước. Hiến
chương ITO được nhất trí tại Hội nghị của Liên hợp quốc về Thương
mại và việc làm tại Havana tháng 3 năm 1948. Tuy nhiên, Thượng nghị
viện Hoa Kỳ đã không phê chuẩn hiến chương này. Một số nhà sử học
5
cho rằng sự thất bại đó bắt nguồn từ việc giới doanh nghiệp Hoa Kỳ lo
ngại rằng Tổ chức Thương mại quốc tế có thể được sử dụng để kiểm
soát chứ không phải đem lại tự do hoạt động cho các doanh nghiệp lớn
của Hoa Kỳ (Lisa Wilkins, 1997).
ITO chết yểu, nhưng hiệp định mà ITO định dựa vào để điều
chỉnh thương mại quốc tế vẫn tồn tại. Đó là Hiệp định chung về Thuế
quan và Thương mại (GATT).

GATT ra đời sau Đại chiến Thế giới lần thứ II trong trào lưu hình
thành hàng loạt cơ chế đa biên nhằm điều tiết các hoạt động hợp tác
kinh tế quốc tế. GATT đóng vai trò là khung pháp lý chủ yếu của hệ
thống thương mại đa phương trong suốt gần 50 năm mà điển hình là
Ngân hàng Quốc tế Tái thiết và Phát triển, thường được biết đến như là
Ngân hàng Thế giới (World Bank – WB) và Quỹ tiền tệ Quốc tế
(International Monetary Fund – IMF) ngày nay. Với ý tưởng hình thành
những nguyên tắc, thể lệ, luật chơi cho thương mại quốc tế điều tiết
các lĩnh vực về công ăn việc làm, về thương mại hàng hóa, khắc phục
tình trạng hạn chế, ràng buộc các hoạt động này phát triển,23 nước
sáng lập GATT đã cùng một số nước khác tham gia Hội nghị về thương
mại và việc làm, dự thảo Hiến chương La Havana để thành lập Tổ chức
thương mại Quốc tế (International Trade Oganization –ITO) với tư
cách là cơ quan chuyên môn của Liên Hiệp Quốc. Đồng thời, các nước
này cùng tiến hành các cuộc đàm phán về thuế quan và xử lý các biện
pháp bảo hộ mậu dịch đang áp dụng tràn lan trong thương mại quốc tế
từ đầu những năm 30, nhằm thực hiện mục tiêu tự do hoá mậu dịch, mở
đường cho kinh tế thương mại phát triển, tạo công ăn việc làm, nâng
cao thu nhập và đời sống của nhân dân của các nước thành viên.
6
Hiến chương thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO) nói
trên đã được thoả thuận tại Hội nghị Liên Hiệp Quốc về thương mại và
việc làm ở Havana từ tháng 11/1947 đến 24/3/1948, nhưng do một số
quốc gia gặp khó khăn trong phê chuẩn, nên việc thành lập Tổ chức
Thương mại Quốc tế (ITO) đã không thực hiện được.
Mặc dù vậy, kiên trì mục tiêu đã định, và với kết quả đáng khích
lệ đã đạt được ở vòng đàm phán thuế đầu tiên là 45.000 ưu đãi về thuế
áp dụng giữa các bên tham gia đàm phán, chiếm khoảng 1/5 tổng lượng
mậu dịch thế giới, 23 nước sáng lập đã cùng nhau ký kết Hiệp định
chung về Thuế quan và Thương mại (GATT), chính thức có hiệu lực

vào tháng 1/1948.
Từ đó tới nay, GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán chủ yếu về
thuế quan. Tuy nhiên, từ thập kỷ 70 do thương mại quốc tế không
ngừng phát triển, nên GATT đã mở rộng diện hoạt động, đàm phán
không chỉ về thuế quan mà còn tập trung xây dựng các Hiệp định, hình
thành các chuẩn mực, luật chơi điều tiết các vấn đề về hàng rào phi
thuế quan, về thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, các biện pháp
đầu tư có liên quan đến thương mại, về thương mại hàng nông sản,
hàng dệt may, về cơ chế giải quyết tranh chấp. Với diện điều tiết của
hệ thống thương mại đa biên được mở rộng, nên Hiệp định chung về
Thuế quan và Thương mại (GATT) với tư cách là một sự thoả thuận có
nhiều nội dung ký kết mang tính chất tuỳ ý đã tỏ ra không thích hợp.
Do đó, ngày 15/4/1994, tại Marrakesh (Marốc), kết thúc Hiệp Uruguay,
các thành viên của GATT đã cùng nhau ký Hiệp định thành lập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) nhằm kế tục và phát triển sự nghiệp của
GATT. Theo đó, WTO chính thức được thành lập độc lập với hệ thống
7
Liên hợp quốc và đi vào hoạt động từ 1/1/1995.
Vậy WTO là gì? Có thể hình dung đơn giản về WTO như sau:
WTO là nơi đề ra những qui định: Để điều tiết hoạt động thương
mại giữa các quốc gia trên qui mô toàn thế giới hoặc gần như toàn thế
giới. Tính đến thời điểm 31 tháng 12 năm 2005, WTO có 149 thành
viên.
WTO là một diễn đàn để các nước, các thành viên đàm phán:
Người ta thường nói, bản thân sự ra đời của WTO là kết quả của các
cuộc đàm phán. Sau khi ra đời, WTO đang tiếp tục tổ chức các cuộc
đàm phán mới. “Tất cả những gì tổ chức này làm được là đều thông qua
con đường đàm phán”. Có thể nói, WTO chính là diễn đàn để các quốc
gia, các thành viên tiến hành thoả thuận, thương lượng, nhân nhượng
nhau về các vấn đề thương mại, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ…, để

giải quyết tranh chấp phát sinh trong quan hệ thương mại giữa các bên.
WTO gồm các qui định pháp lý nền tảng của thương mại quốc tế:
Ra đời với kết quả ghi nhận trong hơn 26.000 trang văn bản pháp lý,
WTO tạo ra một hệ thống pháp lý chung làm căn cứ để mỗi thành viên
hoạch định và thực thi chính sách nhằm mở rộng thương mại, tạo thêm
việc làm, tăng thêm thu nhập và nâng cao đời sống nhân dân các nước
thành viên. Các văn bản pháp lý này bản chất là các “hợp đồng”, theo
đó chính phủ các nước tham gia ký kết công nhận (thông qua việc gia
nhập và trở thành thành viên của WTO) cam kết duy trì chính sách
thương mại trong khuôn khổ những vấn đề đã thoả thuận. Tuy là do các
chính phủ ký kết nhưng thực chất mục tiêu của các thoả thuận này là
để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các nhà sản xuất hàng hoá,
cung cấp dịch vụ, các nhà nhập khẩu thực hiện hoạt động kinh doanh,
8
buôn bán của mình.
WTO giúp các nước giải quyết tranh chấp: Nếu mục tiêu kinh tế
của WTO là nhằm thúc đẩy tiến trình tự do hoá thương mại hàng hoá,
dịch vụ, trao đổi, trao đổi các sáng chế, kiểu dáng, phát minh…(gọi
chung là quyền tài sản sở hữu trí tuệ) thì các hoạt động của WTO nhằm
giải quyết các bất đồng và tranh chấp thương mại phát sinh giữa các
thành viên theo các qui định đã thoả thuận, trên cơ sở các nguyên tắc
cơ bản của công pháp quốc tế và luật lệ của WTO chính là “mục tiêu
chính trị” của WTO. Mục tiêu cuối cùng của các mục tiêu kinh tế và
mục tiêu chính trị nói trên là nhằm tới “mục tiêu xã hội” của WTO là
nhằm nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho
người dân, phát triển bền vững, bảo vệ môi trường.
1.2. Chức năng của WTO
WTO có 6 chức năng chính:
- WTO tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi, quản lý và điều
hành và những mục tiêu khác của Hiệp định thành lập WTO, các hiệp

định đa biên của WTO, cũng như cung cấp một khuôn khổ để thực thi,
quản lý và điều hành việc thực hiện các hiệp định nhiều bên.
- WTO là một diễn đàn cho các cuộc đàm phán giữa các nước
thành viên về những quan hệ thương mại đa biên trong khuôn khổ
những qui định của WTO. WTO cũng là diễn đàn cho các cuộc đàm
phán tiếp theo giữa các thành viên về những quan hệ thương mại đa
biên; đồng thời WTO là một thiết chế để thực thi các kết quả từ việc
đàm phán đó hoặc thực thi các quyết định do Hội nghị Bộ trưởng đưa
ra.
- WTO sẽ thoả thuận về những qui tắc và thủ tục điều chỉnh việc
9
giải quyết tranh chấp giữa các thành viên.
- WTO sẽ thi hành Cơ chế rà soát chính sách thương mại (của các
nước thành viên).
- Trợ giúp kỹ thuật và huấn luyện cho các nước đang phát triển.
- Để đạt tới sự thống nhất cao hơn về quan điểm trong việc tạo
lập các chính sách kinh tế toàn cầu, khi cần thiết, WTO sẽ hợp tác với
Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới và các cơ quan trực
thuộc của nó.
1.3. Mục tiêu của WTO
- Mục tiêu kinh tế: Thúc đẩy tiến trình tự do hoá thương mại
hàng hóa và dịch vụ; phát triển bền vững và bảo vệ môi trường; thúc
đẩy phát triển thể chế thị trường. Những hoạt động này được thực hiện
thông qua việc loại bỏ hàng rào thương mại, nâng cao nhận thức và
hiểu biết của chính phủ, tổ chức và cá nhân về các qui định điều chỉnh
quan hệ thương mại quốc tế, xây dựng môi trường pháp lý, thương mại
rõ ràng.
- Mục tiêu chính trị: Giải quyết các bất đồng và tranh chấp
thương mại giữa các thành viên trong khuôn khổ hệ thống thương mại
đa phương phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế

và luật lệ của tổ chức này; bảo đảm cho các nước đang phát triển, đặc
biệt là các nước kém phát triển nhất được thụ hưởng lợi ích đích thực
từ sự tăng trưởng của thương mại thế giới, phù hợp với nhu cầu phát
triển kinh tế của các nước và khuyến khích hội nhập ngày càng sâu hơn
vào đời sống kinh tế thế giới.
- Mục tiêu xã hội: Nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm cho
người dân của các nước thành viên, đảm bảo các quyền và tiêu chuẩn
10
lao động tối thiểu được tôn trọng.
1.4. Các nguyên tắc hoạt động của WTO
- Nguyên tắc không phân biệt đối xử: bao gồm 2 nguyên tắc nhỏ
là dành cho quy chế đối xử quốc gia. Quy chế tối huệ quốc có nghĩa là
tất cả hàng hoá, dịch vụ và công ty của các thành viên WTO đều được
hưởng một chính sách chung bình đẳng. Quy chế đối xử quốc gia là
không có sự phân biệt đối xử giữa hàng hóa, dịch vụ và các công ty của
nước ngoài trên thị trường trên thị trường nội địa. Nguyên tắc không
phân biệt đối xử cho phép đảm bảo đối xử bình đẳng giữa các thành
viên với nhau trên thị trường cả trong nước và trên thế giới.
- Nguyên tắc tiếp cận thị trường: Nguyên tắc này được hiểu trên
hai khía cạnh. Thứ nhất, các nước thành viên mở cửa thị trường cho
nhau thông qua việc cắt giảm từng bước, đi tới xoá bỏ hàng rào thuế
quan và phi thuế quan. Thứ hai, các chính sách và luật lệ thương mại
phải được công bố công khai, kịp thời, minh bạch. Cả hai khía cạnh
này đều nhằm tạo ra một môi trường thương mại bình đẳng cho tất cả
các nước thành viên tiếp cận.
- Nguyên tắc cạnh tranh công bằng: Nguyên tắc này yêu cầu các
nước chỉ được sử dụng thuế là công cụ duy nhất để bảo hộ. Các biện
pháp phi thuế quan (giấy phép, hạn ngạch, hạn chế nhập khẩu,...) đều
không được sử dụng. Các biểu thuế phải được giảm dần trong quá trình
hội nhập theo thời gian thoả thuận.

- Nguyên tắc áp dụng các hành động khẩn cấp trong trường hợp
cần thiết: Khi thị trường và nền kinh tế của một nước thành viên bị
hàng nhập khẩu đe doạ, thì nước đó có quyền khước từ một nghĩa vụ
nào đó hoặc có hành động khẩn cấp, cần thiết để bảo vệ sản xuất và thị
11
trường trong nước.
- Nguyên tắc ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và chậm
phát triển: Các nước đang phát triển được kéo dài thời gian thực hiện
cam kết và mức độ cam kết thấp hơn, phạm vi nhỏ hơn so với các nước
phát triển.
Hoạt động của WTO dựa vào 16 hiệp định: Hiệp định về thuế
quan và thương mại; Hiệp định về nông nghiệp; Hiệp định về các biện
pháp tự vệ dịch tễ (kiểm dịch động thực vật); Hiệp định về hàng may
mặc, hàng dệt; Hiệp định về rào cản kỹ thuật đối với thương mại; Hiệp
định về đầu tư liên quan đến thương mại; Hiệp định về chống bán phá
giá; Hiệp định về định giá hải quan; Hiệp định về kiểm định hàng hoá
khi xuất khẩu hàng hóa; Hiệp định về chứng nhận xuất xứ hàng hoá;
Hiệp định về thủ tục cấp phép xuất nhập khẩu; Hiệp định về biện pháp
bảo hộ, trợ giá; Hiệp định về thương mại dịch vụ (GATS); Hiệp định
về sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPS); Hiệp định về các
biện pháp tự vệ; Hiệp định liên quan đến vấn đề giải quyết tranh chấp.
12
1.5. Cơ cấu tổ chức của WTO
Tất cả các thành viên WTO đều có thể tham gia vào các hội đồng,
uỷ ban của WTO, ngoại trừ Cơ quan Phúc thẩm, các Ban Hội thẩm giải
quyết tranh chấp và các uỷ ban đặc thù.
- Cấp cao nhất: Hội nghị Bộ trưởng – Cơ quan quyền lực cao nhất
của WTO là Hội nghị Bộ trưởng diễn ra ít nhất hai năm một lần. Hội
nghị có sự tham gia của tất cả các thành viên WTO. Các thành viên này
có thể là một nước hoặc một liên minh thuế quan (chẳng hạn như Cộng

đồng châu Âu). Hội nghị Bộ trưởng có thể ra quyết định đối với bất kỳ
vấn đề trong các thỏa ước thương mại đa phương của WTO.
- Cấp thứ hai: Đại hội đồng – Công việc hàng ngày của WTO
được đảm nhiêm bởi 3 cơ quan: Đại hội đồng, Hội đồng giải quyết
tranh chấp và Hội đồng rà soát các chính sách Thương mại. Tuy tên gọi
khác nhau, nhưng thực tế thành phần của 3 cơ quan đều giống nhau,
đều bao gồm đại diện (thường là cấp đại sứ hoặc tương đương) của tất
cả các nước thành viên. Điểm khác nhau giữa chúng là chúng được
nhóm họp để thực hiện các chức năng khác nhau của WTO.
Đại hội đồng là cơ quan ra quyết định cao nhất của WTO tại
Geneva, được nhóm họp thường xuyên. Đại Hội đồng bao gồm đại
diện (thường là cấp đại sứ hoặc tương đương) của tất cả các nước thành
viên và có thẩm quyền quyết định nhân danh Hội nghị bộ trưởng (vốn
chỉ nhóm họp hai năm một lần) đối với tất cả các công việc của WTO.
Hội đồng giải quyết tranh chấp được nhóm họp để xem xét và phê
chuẩn các phán quyết về giải quyết tranh chấp do Ban hội thẩm hoặc
Cơ quan phúc thẩm đệ trình. Hội đồng bao gồm đại diện của tất cả các
nước thành viên (cấp đại sứ hoặc tương đương).
13
Hội đồng rà soát chính sách thương mại được nhóm họp để thực
hiện việc rà soát chính sách thương mại của các thành viên theo cơ chế
rà soát chính sách thương mại. Đối với những thành viên có tiềm lực
kinh tế lớn, việc rà soát diễn ra khoảng hai đến ba năm một lần. Đối
với những thành viên khác, việc rà soát có thể tiến hành cách quãng
hơn.
- Cấp thứ ba: Các Hội đồng thương mại
Các Hội đồng thương mại hoạt động dưới quyền của Đại Hội
đồng. Có ba Hội đồng Thương mại là: Hội đồng Thương mại Hàng hóa,
Hội đồng thương mại dịch vụ và Hội đồng các khía cạnh của quyền sở
hữu trí tuệ liên quan đến Thương mại. Mỗi hội đồng đảm trách một

lĩnh vực riêng. Cũng tương tự như Đại Hội đồng, các hội đồng bao gồm
đại diện của tất cả các nước thành viên WTO. Bên cạnh 3 Hội đồng này
còn có 6 uỷ ban và cơ quan độc lập khác chịu trách nhiệm báo cáo lên
Đại Hội đồng các vấn đề riêng rẽ như thương mại và phát triển, môi
trường, các thoả thuận thương mại khu vực, và các vấn đề quản lý
khác. Đáng chú ý là trong số này có Nhóm công tác về việc Gia nhập
chịu trách nhiệm làm việc với các nước xin gia nhập WTO.
Hội đồng Thương mại hàng hoá chịu trách nhiệm đối với các hoạt
động thuộc phạm vi của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại
(GATT), tức là các hoạt động liên quan đến thương mại quốc tế về
hàng hoá.
Hội đồng Thương mại dịch vụ chịu trách nhiệm đối với các hoạt
động thuộc phạm vi của Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ
(GATS), tức là các hoạt động liên quan đến thương mại quốc tế về dịch
vụ.
14
Hội đồng các khía cạnh của Quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến
thương mại chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc phạm vi của
Hiệp định về Các khía cạnh của Quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến
Thương mại (TRIPS), cũng như việc phối hợp với các tổ chức quốc tế
khác trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ.
- Cấp thứ tư: Các Uỷ ban và Cơ quan
Dưới các Hội đồng trên là các Uỷ ban và cơ quan phụ trách các
lĩnh vực chuyên môn riêng biệt.
Dưới Hội đồng thương mại hàng hóa là 11 Uỷ ban, 1 nhóm công
tác và 1 uỷ ban đặc thù.
Dưới Hội đồng thương mại dịch vụ là 2 Uỷ ban, 2 nhóm công tác
và 2 Uỷ ban đặc thù.
Dưới Hội đồng giải quyết tranh chấp (cấp thứ 2) là Ban Hội thẩm
và Cơ quan Phúc thẩm.

Ngoài ra, do yêu cầu của Vòng đám phán Doha, WTO đã thành
lập Uỷ ban đàm phán Thương mại trực thuộc Đại Hội đồng để thúc đẩy
và tạo điều kiện thuận lợi cho đàm phán. Uỷ ban này bao gồm nhiều
nhóm làm việc liên quan đến các lĩnh vực chuyên môn khác nhau.
2. Điều kiện cần thiết để tham gia WTO
Để có thể là thành viên gia của tổ chức thương mại thế giới WTO,
các quốc gia phải thực hiện theo các yêu cầu mà tổ chức đặt ra.
Trước tiên quốc gia muốn gia nhập phải nộp đơn xin gia nhập
WTO. Ban công tác về việc gia nhập của Việt Nam được thành lập.
Ban công tác có nhiều thành viên WTO quan tâm đến thị trường của
quốc gia đó.
Gửi “Bị Vong lục về chế độ ngoại thương của quốc gia gia nhập”
15
tới ban thư ký WTO để luân chuyển tới các thành viên của Ban công
tác. Bị Vong lục không chỉ giới thiệu tổng quan về nền kinh tế, các
chính sách kinh tế vĩ mô, cơ sở hoạch định và thực thi chính sách, mà
còn cung cấp các thông tin chi tiết về chính sách liên quan tới thương
mại hàng hoá, dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ.
Quốc gia muốn gia nhập phải làm rõ chính sách thương mại của
quốc gia mình. Cung cấp các thông tin khác theo biểu mẫu do WTO qui
định về hỗ trợ nông nghiệp, trợ cấp trong công nghiệp, các doanh
nghiệp có đặc quyền, các biện pháp đầu tư không phù hợp với qui định
của WTO, thủ tục hải quan, hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh dịch
tễ...
Tiếp theo quốc gia đó phải đưa ra các bản chào ban đầu về mở
cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ để thăm dò phản ứng của các thành
viên trong tổ chức và tiến hành Đàm phán song phương với tất cả các
thành viên quan tâm tới thị trường của các quốc gia đó.
Khi đã hoàn thành Nghị định thư gia nhập có nghĩa là quốc gia đó
có các nghĩa vụ khi trở thành thành viên WTO dựa trên các thoả thuận

đã đạt được sau các cuộc đàm phán song phương, đàm phán đa phương
và tổng hợp các cam kết song phương.
3. Những lợi ích mà WTO mang lại cho các nước thành viên
Khi gia nhập vào WTO, hệ thống này mang lại không ít lợi ích
cho các nước thành viên.
Tuy WTO không thể tuyên bố làm cho tất cả các nước đều bình
đẳng nhưng WTO thực sự làm giảm bớt một số bất bình đẳng, giúp các
nước nhỏ hơn có nhiều tiếng nói hơn. Đồng thời cũng giải thoát cho
các nước lớn khỏi sự phức tạp trong việc thoả thuận các hiệp định
16
thương mại với các đối tác của mình. Các quốc gia có được vị thế bình
đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương
mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế
mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất
nước, của doanh nghiệp. Các quyết định và hiệp định của WTO được
thực hiện bằng nhất trí ý kiến. Các hiệp định này áp dụng cho mọi
người. Các nước giàu cũng như các nước nghèo đều có thể bị chất vấn
nếu họ vi phạm một hiệp ước, và họ có quyền chất vấn các nước khác
trong qui trình giải quyết tranh chấp của WTO. Thiếu một cơ chế đa
phương kiểu hệ thống WTO, các nước mạnh hơn sẽ càng được tự do
đơn phương áp đặt ý muốn của mình cho các nước yếu hơn. Các nước
lớn hơn cũng được hưởng những lợi ích tương xứng. Các cường quốc
kinh tế có thể sử dụng diễn đàn duy nhất của WTO để thương lượng
với tất cả hay với hầu hết các đối tác thương mại của họ cùng một lúc.
Trên thực tế, có riêng một hệ thống nguyên tắc áp dụng với tất cả các
nước thành viên, điều đó đã đơn giản hoá rất nhiều toàn bộ cơ chế
thương mại.
Các nước thành viên được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ
của nhau với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch
vụ, không bị phân biệt đối xử. Hệ thống toàn cầu đã giảm bớt các hàng

rào mậu dịch thông qua thương lượng và áp dụng nguyên tắc không
phân biệt đối xử. Kết quả là chi phí sản xuất giảm, giá hàng hoá thành
phẩm và dịch vụ giảm và cuối cùng là chi phí cuộc sống thấp hơn. Cho
đến nay, các hàng rào mậu dịch đã giảm đi rất nhiều so với trước đây.
Các hàng rào này còn tiếp tục được giảm và tất cả các quốc gia đều có
lợi.
17
WTO cũng tạo cơ hội mở rộng thị trường hàng hoá và dịch vụ cho
các nước thành viên. Hiện nay các quốc gia có thể có được tất cả các
hàng hóa bởi các nước có thể nhập khẩu chúng. Nhập khẩu cho phép
người dân có nhiều lựa chọn hơn – cả hàng hoá và dịch vụ lẫn phạm vi
chất lượng. Thậm chí chất lượng của hàng sản xuất nội địa có thể nâng
lên do chính sự cạnh tranh từ hàng nhập khẩu. Nhiều lựa chọn hơn
không đơn giản là vấn đề người tiêu dùng mua hàng thành phẩm của
nước ngoài. Hàng nhập khẩu còn được sử dụng làm nguyên liệu, linh
kiện và thiết bị cho sản xuất trong nước. Điều này mở rộng phạm vi
của các thành phẩm và dịch vụ do các nhà sản xuất trong nước làm và
nó làm tăng phạm vị những công nghệ mà họ có thể sử dụng. Chẳng
hạn, khi thiết bị điện thoại di động trở nên phổ biến, các dịch vụ phát
triển mạnh, thậm chí ngay tại các nước không hề sản xuất thiết bị. Đôi
khi, sự thành công của một sản phẩm hay dịch vụ nhập khẩu tại thị
trường trong nước cũng có thể khuyến khích các nhà sản xuất trong
nước cạnh tranh, làm gia tăng lựa chọn nhãn hàng hoá sẵn có cho
người tiêu dùng cũng như tăng phạm vi hàng hoá và dịch vụ sản xuất
trong nước. Nếu thương mại cho phép chúng ta nhập khẩu nhiều hơn,
nó cũng cho phép người khác mua nhiều hàng sản xuất của chúng ta
hơn. Nó làm tăng thu nhập của chúng ta, cung cấp cho chúng ta những
phương tiện để hưởng sự lựa chọn gia tăng đó.
WTO làm tăng thu nhập cho các quốc gia. Việc giảm bớt hàng rào
thương mại cho phép thương mại tăng trưởng, điều này làm tăng thu

nhập - cả thu nhập quốc dân và thu nhập cá nhân. Dự tính của WTO về
tác động của các thoả thuận thương mại tại vòng đàm phán Uruguay
1994 là thu nhập thế giới có thêm từ 109 tỷ USD đến 510 tỷ USD.
18
Thương mại cũng làm nảy sinh những thách thức khi các nhà sản xuất
trong nước phải đối mặt với sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu. Nhưng
thực tế rằng có nguồn thu nhập bổ sung có nghĩa là sẵn có nhiều nguồn
lực để các chính phủ tái phân phối lợi nhuận từ những người được lợi
nhiều nhất, chẳng hạn để giúp các công ty và công nhân thích ứng bằng
cách trở nên năng suất và có khả năng cạnh tranh hơn trong lĩnh vực
mà họ đã và đang làm, hoặc bằng cách chuyển sang các hoạt động mới.
WTO giúp các quốc gia giải quyết các mâu thuẫn thương mại một
cách xây dựng. Do thương mại tăng lên về mặt khối lượng, số lượng
sản phẩm được trao đổi, số lượng các nước và công ty tham gia thương
mại nên có thêm nhiều cơ hội để những tranh chấp thương mại nảy
sinh. Hệ thống WTO giúp giải quyết các tranh chấp này một cách hoà
bình và mang tính xây dựng. Nếu để mặc chúng thì những tranh chấp
này có thể dẫn đến những xung đột nghiêm trọng. Một trong những
nguyên tắc của WTO là các thành viên có nghĩa vụ đưa những tranh
chấp của mình tới WTO và không được đơn phương giải quyết. Khi họ
đưa các tranh chấp ra giải quyết tại WTO, thủ tục giải quyết của WTO
là tập trung chú ý của họ vào các nguyên tắc, và có lẽ sau đó tái
thương lượng về các nguyên tắc – chứ không phải là tuyên chiến với
nhau. Gần 200 tranh chấp đã được đưa ra giải quyết ở WTO kể từ khi
tổ chức này được thành lập. Nếu thiếu một phương tiện giải quyết các
tranh chấp này một cách xây dựng và đồng bộ, một số tranh chấp đã có
dẫn đến những cuộc xung đột chính trị nghiêm trọng hơn.
Thương mại có thể là một động lực mạnh mẽ tạo ra việc làm và
giảm đói nghèo. Mối quan hệ giữa thương mại và sự phát triển là phức
tạp. Thương mại tự do và ổn định thúc đẩy phát triển kinh tế. Nó có

19
tiềm năng tạo ra việc làm và cũng giúp cho việc xoá đói giảm nghèo và
thường là cả hai. Bên được lợi nhiều nhất là nước hạ thấp rào cản
thương mại. Nước xuất khẩu vào nước hạ thấp rào cản cũng có lợi,
nhưng ít hơn. Tuy nhiên, các nhà sản xuất nội địa và công nhân của các
nước hạ thấp rào cản (trước đây được bảo vệ) rõ ràng là phải đối mặt
với sự cạnh tranh mới khi hàng rào thương mại thấp hơn. Một số nhà
sản xuất nội địa tồn tại được là vì biết tạo ra cho mình khả năng cạnh
tranh tốt hơn. Một số hội nhập nhanh hơn bằng việc tìm nguồn nhân
lực mới. Cụ thể, một số nước hội nhập tốt hơn so với các nước khác.
Đó là do những nước này có chính sách hội nhập hiệu quả hơn. Những
nước không có chính sách hội nhập hiệu quả sẽ bỏ lỡ thời cơ là sự thúc
đẩy mà thương mại đem lại cho nền kinh tế. WTO giải quyết vấn đề
này bằng một số cách. Trong hệ thống thương mại WTO, sự tự do hoá
được thực hiện một cách từ từ tạo điều kiện về mặt thời gian cho các
nước thành viên thực hiện việc điều chỉnh cần thiết. Nhiều qui định
trong các hiệp định cho phép nước thành viên áp dụng một số biện
pháp tình thế nhằm giảm thiểu các thiệt hại do việc nhập khẩu có thể
gây nên. Các biện pháp này, tất nhiên, phải tuân theo những qui định
và trình tự hết sức chặt chẽ. Đồng thời, sự tự do hoá trong hệ thống
thương mại WTO là kết quả của đàm phán. Những nước cảm thấy chưa
kịp thích ứng với việc mở cửa, có thể phản đối yêu cầu mở cửa đối với
một số lĩnh vực cụ thể. Trong khi thế giới vẫn còn 1,5 tỷ người dân
sống trong tình trạng đói nghèo, chính sách tự do hoá thương mại đã
giúp ba tỷ người thoát khỏi cuộc sống đói nghèo kể từ sau chiến tranh
thế giới lần thứ 2.
Gia nhập vào WTO sẽ giúp các quốc gia tăng cường thu hút đầu
20
tư nước ngoài. Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt,
việc trở thành thành viên của WTO sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi

hơn trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Trở thành thành viên của
WTO sẽ thúc đẩy quá trình cải thiện môi trường đầu tư nhằm tăng
cường thu hút các nguồn đầu tư trong và ngoài nước vào phát triển
kinh tế - xã hội của quốc gia đó.
CHƯƠNG II
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KINH TẾ VIỆT NAM
I.Đặc điểm cơ bản của các ngành kinh tế chủ chốt của Việt
Nam trước khi gia nhập WTO
1. Công nghiệp
Trong những năm qua, công nghiệp luôn duy trì được tốc độ tăng
trưởng cao, chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong cơ cấu kinh tế quốc dân
và có những đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất
nước. Nếu năm 2000, công nghiệp chiếm 36,73% tổng GDP cả nước,
thì đến năm 2005 tỷ trọng này đã lên đến 40,8%. Đến nay, công nghiệp
21
Việt Nam đã có khả năng đáp ứng toàn bộ nhu cầu trong nước về các
hàng hoá tiêu dùng thông thường và nhiều loại như tư liệu sản xuất
quan trọng cho nông nghiệp, công nghiệp chế biến, xây dựng và giao
thông.
1.1 Ngành dệt may
Công nghiệp dệt may Việt Nam có những điểm mạnh cơ bản như
sau:
- Nhân lực dồi dào, giá lao động rẻ, lao động khéo léo và có khả
năng tiếp thu nhanh kỹ thuật mới.
- Có cơ sơ vật chất ban đầu tương đối khá và được chú trọng đầu
tư phát triển.
- Có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển tơ lụa tự nhiên.
- Có truyền thống sản xuất và đã bước đầu xác lập được vị thế
trên thị trường thế giới, kể cả thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật
Bản.

Bên cạnh đó, ngành dệt may Việt Nam cũng có những điểm yếu
khá cơ bản. Đó là:
- Năng lực thiết kế sản phẩm thấp kém, các doanh nghiệp Việt
Nam hiện nay chủ yếu thực hiện gia công cho các hãng nước ngoài
theo mẫu mốt do họ cung cấp.
- Chưa xây dựng được thương hiệu sản phẩm có uy tín trên thị
trường.
- Năng suất lao động thấp kém, giá thành đơn vị sản phẩm cao.
- Công nghiệp phụ trợ cho ngành dệt may hết sức yếu kém,
nguyên phụ liệu chủ yếu phải nhập khẩu từ nước ngoài (do phía nước
ngoài đặt gia công cung cấp); trang bị kỹ thuật của ngành dệt lạc hậu,
22
đổi mới công nghệ chậm, không có khả năng sản xuất những loại vải có
chất lượng cao, thay đổi mẫu mã đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách
hàng, nhất là những khách hàng cao cấp.
Việc đầu tư vào dệt may kém hiệu quả, gần 8400 tỷ đồng đầu tư
vào 220 dự án trong 5 năm qua, song hiệu quả đạt được rất thấp. Hầu
hết sản lượng các nguyên phụ liệu đầu vào cho ngành dệt may chưa đạt
kế hoạch đặt ra. Theo Tổng công ty Dệt may Việt Nam (VINATEX), từ
đầu năm đến nay đã có 11 dự án đầu tư mới được triển khai với kinh
phí 345 tỷ đồng, nâng tổng vốn đầu tư 5 năm qua (2001-2005) lên mức
8.373 tỷ đồng. Tuy vậy, hiệu quả đầu tư vẫn khá thấp so với yêu cầu.
Chẳng hạn, sản lượng bông mới đạt được 56%, vải dệt kim đạt 71,4%,
sản phẩm may dệt kim đạt 83% và may dệt thoi đạt 77% so với dự
kiến. Chỉ có sản lượng sợi toàn bộ là tăng 6% so với yêu cầu đặt ra.
Nguyên nhân khiến một số chỉ tiêu không đạt được yêu cầu là công tác
đầu tư còn khép kín với từng doanh nghiệp, chưa thể hiện mối liên kết
trong nội bộ và tính chuyên môn hoá theo ngành hàng và sản phẩm.
Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt khoảng 4,85 tỷ
USD, tuy thấp hơn kế hoạch (5,2 tỷ USD), nhưng vẫn tăng 10% so với

năm 2004. Thị trường Mỹ vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất với 2,626 tỷ
USD, chiếm 54,1% tổng kim ngạch và tăng 6,1% so với năm 2004.
Tiếp đến là thị trường EU đạt khoảng 850 triệu USD, chiếm khoảng
17% và tăng 12%. Đứng thứ ba là thị trường Nhật Bản với kim ngạch
đạt 630 triệu USD, chiếm 13% và tăng 17%. Tuy chưa đạt kế hoạch,
nhưng kim ngạch xuất khẩu của ngành được coi là khá ấn tượng trong
bối cảnh cạnh tranh rất khốc liệt, đặc biệt khi Việt Nam vẫn còn bị áp
đặt hạn ngạch của thị trường Mỹ trong khi các nước thành viên WTO
23
đã được bãi bỏ hạn ngạch từ ngày 1/1/2005.
Hiện nay, ngành dệt may Việt Nam vẫn chủ yếu thực hiện phương
thức gia công cho các hãng nước ngoài. Theo phương thức này, các
hãng nước ngoài đặt gia công sẽ cung cấp mẫu mã sản phẩm và các
nguyên phụ liệu chủ yếu; các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng lao động
và cơ sơ vật chất của mình, tổ chức quá trình sản xuất theo yêu cầu của
bên đặt hàng và nhận tiền gia công theo đơn giá và sản lượng đã
nghiệm thu. Phương thức này thích hợp với điều kiện năng lực kỹ
thuật, vốn và tiếp cận thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp còn
nhiều hạn chế. Tuy độ rủi ro trong sản xuất kinh doanh thấp, nhưng
hiệu quả kinh tế mà các doanh nghiệp Việt Nam thu được cũng thấp
kém, vì các doanh nghiệp chủ yếu xuất khẩu “sức lao động”. Chênh
lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu của ngành dệt may rất nhỏ.
Biểu: Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng dệt may
Đơn vị tính: triệu USD
2000 2001 2002 2003 2004
Xuất khẩu 1891,9 1975,9 2732,0 3609,1 4385,6
Nhập khẩu
Thiết bị phụ
tùng
242,6 325,1 402,3

Bông 90,4 115,4 111,6 105,4 190,2
Xơ dệt 89,1 119,1 119,0 158,7
Sợi dệt 237,3 228,4 272,6 317,5 338,8
Vải các loại 761,3 880,2 1523,1 1805,4 1926,7
Phụ liệu may 971,4 1036,2 1069,2 1264,9 2252,7
(Nguồn: Niên giám thống kê 2004)
Trong định hướng chiến lược phát triển công nghiệp trong
quá trình công nghệ hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, nhằm phát huy lợi
thế về nhân lực, ngành công nghiệp dệt may được coi là một trong
24
những ngành được chú trọng đầu tư phát triển. Trong chiến lược tăng
tốc của ngành dệt may, Việt Nam đã hết sức chú trọng phát triển các
ngành công nghiệp phụ trợ cho dệt may. Tuy nhiên, hiệu quả đầu tư
chưa đạt được như mong muốn.
1.2 Ngành da giầy
Công nghiệp da giầy có những nét tương đồng với công nghiệp
dệt may cả về lợi thế, yếu thế và phương thức xuất khẩu. Trong những
năm qua, phát huy về nhân lực và cơ sơ vật chất kỹ thuật hiện có, da
giầy là một trong những ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao,
đóng góp lớn vào tổng kim ngạch xuất khẩu và tạo việc làm cho người
lao động. Hiện nay, chất lượng giày dép, đồ da của Việt Nam đã được
thị trường thế giới chấp nhận và xác lập được vị thế trên thị trường.
Sản xuất giày dép cũng là lĩnh vực thu hút được nhiều nhà đầu tư nước
ngoài, chủ yếu là các nhà đầu tư Hàn Quốc và Đài Loan.
Tuy được xếp vào nhóm ngành có kim ngạch xuất khẩu cao,
nhưng cũng giống như ngành dệt may, hiệu quả kinh tế trong xuất khẩu
ngành hàng da giầy không cao là do:
- Các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu nhận làm gia công cho
nước ngoài;
- Công nghiệp phụ trợ cho sản xuất da giầy Việt Nam quá yếu

kém, các nguyên phụ liệu chủ yếu phải nhập khẩu từ nước ngoài.
- Thiếu cán bộ kỹ thuật và khả năng thiết kế mẫu mốt còn rất yếu.
Việc xuất khẩu da giầy của Việt Nam thực chất là xuất khẩu lao
động sống.
Biểu: Kim ngạch xuất nhập khẩu của ngành hàng da giầy
Đơn vị: triệu USD
25

×