BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH
GIAO LƢU VĂN HĨA QUỐC TẾ
C H U
Chủ biên : TS. Nguyễn Thị Thu Mai
HÀ NỘI 12/2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG
ĐẠINÓI
HỌC ĐẦU
MỞ HÀ NỘI
LỜI
Trong bối cảnh tồn cầu hố, trong một thế giới phẳng – khi mà sự tƣơng
tác giữa các cá nhân trở nên dễ dàng và chặt chẽ hơn bao giờ hết thì yêu cầu về
khả năng giao tiếp giữa các nền văn hoá trở thành một yêu cầu bắt buộc đối với
tất cả chúng ta. Đặc biệt, với những ngƣời có dự định làm trong các ngành nghề
đòi hỏi phải tiếp xúc với ngƣời khác bằng ngơn ngữ và văn hóa khác với chính họ
thì điều này lại càng trở nên quan trọng. Sinh viên du lịch, ngoại giao, kinh tế
quốc tế…, là những đối tƣợng nhƣ vậy.
Với mục tiêu chuẩn bị hành trang cho ngƣời học tham gia vào các cuộc giao
tiếp trực diện giữa các nền vănGIÁO
hố, giáoTRÌNH
trình Giao lƣu văn hoá quốc tế giới thiệu
những khác biệt cơ bản trong giao tiếp giữa các nền văn hóa trên thế giới, sự ảnh
GIAO LƢU VĂN HÓA QUỐC TẾ
hƣởng của văn hóa đến giao tiếp, đồng thời giới thiệu những nguyên tắc giao tiếp
C H U
cơ bản bằng ngôn từChủ
và phi
ngôn
từ cũng
nhƣ Thị
một Thu
số đặc
điểm cơ bản trong giao
biên
: TS.
Nguyễn
Mai
tiếp của một số nền văn
phạm Thị
vi tồn
trong đó chú trọng một số
Táchóa
giả:lớn
TS.trên
Nguyễn
Thucầu,
Trang
thị trƣờng gửi khách sử dụng tiếng Anh. Việc nghiên cứu và thực hành các hƣớng
dẫn trong giáo trình sẽ giúp ngƣời học có kiến thức giao tiếp và hình thành đƣợc
kỹ năng, thái độ giao tiếp phù hợp trong bối cảnh khác biệt về văn hoá để giao
tiếp thành cơng với khách du lịch quốc tế.
Giáo trình đƣợc cấu trúc làm 5 chƣơng với sự tham gia của các tác giả: TS.
Nguyễn Thị Thu Mai biên soạn từ chƣơng 1 đến chƣơng 4, TS. Nguyễn Thị Thu
Trang biên soạn chƣơng 5 và biên tập giáo trình với các chủ đề chính bao gồm:
Chƣơng 1. Giới thiệu giao tiếp giữa các nền văn hoá
Chƣơng 2. Kỹ năng giao tiếp bằng ngôn từ
Chƣơng 3: Kỹ năng giao tiếp phi ngôn từ
Chƣơng 4. Tiếng Anh và các phƣơng ngữ
Chƣơng 5. Giao tiếp với các nền văn hố sử dụng tiếng Anh
Để hồn thành giáo trình này, các
tác giả xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới bà
HÀ NỘI 12/2021
Judi -Varga Toth, Tổ chức Hỗ trợ Đại học Thế giới (WUSC) - một giảng viên
đầy hiểu biết và tâm huyết, một bậc thầy về giao tiếp quốc tế - ngƣời đã đặt
nền LỜI NÓI ĐẦU
LỜI GIỚI THIỆU
Trong bối cảnh tồn cầu hố, trong một thế giới phẳng – khi mà sự tƣơng
tác giữa các cá nhân trở nên dễ dàng và chặt chẽ hơn bao giờ hết thì yêu cầu về
khả năng giao tiếp giữa các nền văn hoá trở thành một yêu cầu bắt buộc đối với
tất cả chúng ta. Đặc biệt, với những ngƣời có dự định làm trong các ngành nghề
địi hỏi phải tiếp xúc với ngƣời khác bằng ngôn ngữ và văn hóa khác với chính họ
thì điều này lại càng trở nên quan trọng. Sinh viên du lịch, ngoại giao, kinh tế
quốc tế…, là những đối tƣợng nhƣ vậy.
Với mục tiêu chuẩn bị hành trang cho ngƣời học tham gia vào các cuộc giao
tiếp trực diện giữa các nền văn hố, giáo trình Giao lƣu văn hố quốc tế giới thiệu
những khác biệt cơ bản trong giao tiếp giữa các nền văn hóa trên thế giới, sự ảnh
hƣởng của văn hóa đến giao tiếp, đồng thời giới thiệu những nguyên tắc giao tiếp
cơ bản bằng ngôn từ và phi ngôn từ cũng nhƣ một số đặc điểm cơ bản trong giao
tiếp của một số nền văn hóa lớn trên phạm vi tồn cầu, trong đó chú trọng một số
thị trƣờng gửi khách sử dụng tiếng Anh. Việc nghiên cứu và thực hành các hƣớng
dẫn trong giáo trình sẽ giúp ngƣời học có kiến thức giao tiếp và hình thành đƣợc
kỹ năng, thái độ giao tiếp phù hợp trong bối cảnh khác biệt về văn hố để giao
tiếp thành cơng với khách du lịch quốc tế.
Giáo trình đƣợc cấu trúc làm 5 chƣơng với sự tham gia của các tác giả: TS.
Nguyễn Thị Thu Mai biên soạn từ chƣơng 1 đến chƣơng 4, TS. Nguyễn Thị Thu
Trang biên soạn chƣơng 5 và biên tập giáo trình với các chủ đề chính bao gồm:
Chƣơng 1. Giới thiệu giao tiếp giữa các nền văn hố
Chƣơng 2. Kỹ năng giao tiếp bằng ngơn từ
Chƣơng 3: Kỹ năng giao tiếp phi ngôn từ
Chƣơng 4. Tiếng Anh và các phƣơng ngữ
Chƣơng 5. Giao tiếp với các nền văn hố sử dụng tiếng Anh
Để hồn thành giáo trình này, các tác giả xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới
bà Judi -Varga Toth, Tổ chức Hỗ trợ Đại học Thế giới (WUSC) - một giảng viên
đầy hiểu biết và tâm huyết, một bậc thầy về giao tiếp quốc tế - ngƣời đã đặt nền
móng cho giáo trình và mơn học Giao lƣu văn hố quốc tế tại Khoa Du lịch,
Trƣờng Đại học Mở Hà Nội. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn ông Ted Wykes,
Trƣờng đại học Thompson River - chuyên gia giảng dạy về giao tiếp giữa các nền
văn hố đã góp ý cho nội dung của giáo trình. Chúng tơi cũng chân thành cảm ơn
sinh viên trẻ Trƣơng Thụy Vi, ngƣời đã giúp chúng tôi thực hiện các hình ảnh
minh họa sinh động trong giáo trình. Cuối cùng, xin đƣợc cảm ơn gia đình và
đồng nghiệp đã khích lệ chúng tơi hồn thành giáo trình này. Hy vọng rằng, những
kiến thức về giao tiếp giữa các nền văn hóa đƣợc giới thiệu trong giáo trình và
khả năng ứng dụng vào thực tiễn có thể giúp ngƣời học thu hẹp sự khác biệt về
văn hóa, giảm thiểu các vấn đề nảy sinh để hoạt động giao tiếp giữa những ngƣời
đến từ các nền văn hoá khác nhau trở nên hiệu quả và thành cơng.
Mặc dù nhóm tác giả đã rất cố gắng, song giáo trình khó có thể tránh đƣợc
những hạn chế do đƣợc biên soạn lần đầu. Chúng tơi rất mong nhận đƣợc sự góp
ý q báu, chân thành của các nhà chuyên môn, của các đồng nghiệp, các bạn sinh
viên và độc giả gần xa để có thể tiếp tục hồn thiện giáo trình Giao lƣu văn hố
quốc tế trong tƣơng lai.
Xin chân thành cảm ơn.
Nhóm tác giả.
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................................1
MỤC LỤC .......................................................................................................................3
CHƢƠNG 1. GIỚI THIỆU VỀ GIAO TIẾP GIỮA CÁC NỀN VĂN HOÁ ..................5
1.1. Một số khái niệm ..................................................................................................5
1.1.1. Giao tiếp .................................................................................................................................... 5
1.1.2. Giao tiếp giữa các nền văn hoá ...................................................................................... 7
1.1.3. Văn hoá và sốc văn hoá.........................................................................................................10
1.1.4. Một số cấm kỵ trong giao tiếp..............................................................................................14
1.2. Văn hóa và giao tiếp ...........................................................................................16
1.2.1. Mối quan hệ giữa văn hố và giao tiếp ...............................................................................16
1.2.2. Các hình thức giao tiếp ..........................................................................................................20
CÂU HỎI ÔN TẬP ....................................................................................................24
BÀI TẬP ....................................................................................................................24
CHƢƠNG 2. KỸ NĂNG GIAO TIẾP BẰNG NGÔN TỪ ...........................................26
2.1. Nhu cầu và cách tiếp nhận thông tin của du khách .............................................26
2.1.1. Nhu cầu của du khách trong mối quan hệ với giao tiếp....................................................26
2.1.2. Cách tiếp nhận thông tin của du khách ...............................................................................31
2.2. Giao tiếp bằng ngôn từ ........................................................................................37
2.2.1. Khái niệm giao tiếp bằng ngôn từ ................................................................................ 37
2.2.2. Quy tắc giao tiếp bằng ngôn từ .................................................................................... 38
2.2.3. Kỹ thuật giao tiếp bằng ngôn từ ................................................................................... 42
CÂU HỎI ÔN TẬP ....................................................................................................47
BÀI TẬP ....................................................................................................................47
CHƢƠNG 3. KỸ NĂNG GIAO TIẾP PHI NGÔN TỪ................................................49
3.1. Giao tiếp phi ngôn từ ..........................................................................................49
3.1.1. Khái niệm giao tiếp phi ngôn từ................................................................................... 49
3.1.2. Tầm quan trọng của giao tiếp phi ngôn từ ................................................................... 50
3.1.3. Các phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn từ ......................................................................... 53
3.2. Không gian giao tiếp trong các nền văn hố .......................................................63
3.2.1. Khơng gian giao tiếp..............................................................................................................63
3.2.2. Sự đụng chạm/tiếp xúc trong giao tiếp............................................................................ 65
3.2.3. Các phạm vi giao tiếp chuẩn mực........................................................................................67
CÂU HỎI ÔN TẬP ....................................................................................................71
BÀI TẬP ................................................................................................................... 71
CHƢƠNG 4. TIẾNG ANH VÀ CÁC PHƢƠNG NGỮ ...............................................73
4.1 Tiếng Anh và các phƣơng ngữ .............................................................................73
4.1.1. Sự phổ biến của tiếng Anh....................................................................................................73
4.1.1. Các phƣơng ngữ tiếng Anh ..................................................................................................75
4.2. Cách phát âm và đánh vần ..................................................................................76
4.2.1. Quy tắc chung trong phát âm tiếng Anh ............................................................................76
4.2.2. Phát âm tiếng Anh trong một số nền văn hoá ...................................................................79
4.3. Từ vựng và các biến thể ......................................................................................83
4.3.1. Từ vựng ...................................................................................................................................83
4.3.2. Uyển ngữ .................................................................................................................................86
4.3.3. Thành ngữ ...............................................................................................................................89
CÂU HỎI ÔN TẬP ....................................................................................................93
BÀI TẬP ................................................................................................................... 93
CHƢƠNG 5. GIAO TIẾP VỚI CÁC NỀN VĂN HOÁ SỬ DỤNG TIẾNG ANH ......95
5.1. Các nền văn hóa sử dụng tiếng Anh ...................................................................95
5.1.1. Các nền văn hoá sử dụng tiếng Anh bản xứ.......................................................................95
5.1.2. Các nền văn hố sử dụng tiếng Anh nhƣ ngơn ngữ phổ thơng .......................................96
5.1.3. Các nền văn hố sử dụng tiếng Anh nhƣ ngơn ngữ nƣớc ngồi .....................................96
5.2. Đặc điểm trong giao tiếp của các nền văn hoá sử dụng tiếng Anh .....................97
5.2.1. Đặc điểm giao tiếp của các nền văn hoá sử dụng tiếng Anh bản xứ ..............................97
5.2.2. Đặc điểm giao tiếp của các nền văn hoá sử dụng tiếng Anh nhƣ tiếng phổ thông . 103
5.2.3. Đặc điểm giao tiếp của các nền văn hoá sử dụng tiếng Anh nhƣ tiếng nƣớc ngồi .. 111
CÂU HỎI ƠN TẬP ..................................................................................................123
BÀI TẬP ................................................................................................................. 123
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................................................126
CHƢƠNG 1. GIỚI THIỆU VỀ GIAO TIẾP GIỮA CÁC NỀN VĂN HOÁ
Mục tiêu: Sau khi học xong chương 1, người học có khả năng:
- Hiểu và giải thích đƣợc các khái niệm gắn với chủ đề giao tiếp giữa các nền văn
hố: văn hóa, giao tiếp giữa các nền văn hố, sốc văn hố…;
- Phân tích và minh hoạ đƣợc mối quan hệ giữa văn hóa và giao tiếp;
- Mơ tả đƣợc sự khác biệt trong giao tiếp giữa các nền văn hoá;
- Liệt kê đƣợc một số điều cấm kỵ trong giao tiếp giữa các nền văn hoá;
- Phân biệt đƣợc hai hình thức giao tiếp trực diện, giao tiếp bằng ngôn từ và giao
tiếp phi ngôn từ.
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Giao tiếp
Từ ngày chúng ta vừa đƣợc sinh ra, thậm chí từ ngày chúng ta cịn nằm trong
bụng mẹ, chúng ta liên tục đã giao tiếp với nhau, ngoại trừ trong khi ngủ. Chúng
ta tham gia vào hoạt động giao tiếp hàng ngày nhƣ một điều hiển nhiên – nhƣ nói
chuyện với ngƣời thân, trao đổi cơng việc với đồng nghiệp, tán gẫu với bạn bè.
Chúng ta có thể giao tiếp trực diện khi chúng ta gặp gỡ họ hoặc giao tiếp thông
qua các phƣơng tiện hỗ trợ nhƣ điện thoại, E-mail, Facebook, Zalo… Một cách
đơn giản nhất, có thể thấy, giao tiếp là q trình chia sẻ hoặc trao đổi thông tin
giữa hai bên liên quan. Giao tiếp là một hoạt động mà chúng ta phải làm và chúng
ta thích làm bởi hoạt động này cần thiết cho sự sống của chúng ta và giúp chúng
ta tận hƣởng cuộc sống.
Giao tiếp là hoạt động không thể thiếu trong cuộc sống. Giao tiếp là điều kiện
đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân và của tồn xã hội. Thơng
qua giao tiếp, các chuẩn mực đạo đức, pháp luật gắn với cá nhân, gia đình và xã
hội đƣợc hình thành, giúp chúng ta hiểu biết và phân biệt đƣợc thiện - ác, phải -
trái, tốt - xấu… để có cách hành xử phù hợp, đồng thời hình thành và phát triển
nhân cách của mình. Bên cạnh đó, nhờ giao tiếp, các nhu cầu đƣợc chia sẻ, đƣợc
quan tâm, đƣợc yêu thƣơng, đƣợc thừa nhận… của con ngƣời đƣợc thoả mãn.
Giao tiếp không chỉ giúp chúng ta hiểu nhau, tạo lập các mối quan hệ xã hội mà
còn giúp chúng ta học hỏi kinh nghiệm, chia sẻ cảm xúc với nhau. Nếu mỗi ngƣời
tồn tại độc lập, khơng có mối quan hệ với nhau thì đó khơng phải là một xã hội
mà chỉ là một tập hợp rời rạc của những cá nhân đơn lẻ. Một xã hội muốn phát
triển phải có sự gắn kết chặt chẽ giữa các thành viên trong đó. Mọi vấn đề của cá
nhân, của xã hội cũng không thể giải quyết nếu khơng thơng qua giao tiếp. Tóm
lại, hoạt động giao tiếp là hoạt động không thể thiếu trong đời sống của mỗi cá
nhân và của tồn xã hội.
Hình 1.1. Mơ hình q trình giao tiếp
Giao tiếp là một hoạt động phức tạp. Theo mơ hình Osgood – Schramm
19541, quá trình giao tiếp diễn ra theo một trật tự, trong đó, trật tự này đƣợc bắt
đầu khi ngƣời gửi hình thành một thơng điệp, mã hố thơng điệp và gửi thơng
điệp đó đến ngƣời nhận. Ngƣời nhận tiếp nhận thông điệp, giải mã thông điệp và
Charles E. Osgood là học giả đầu tiên giới thiệu lý thuyết về quá trình giao tiếp vào năm 1954. Sau đó
lý thuyết này đƣợc Wilbur Schramm thừa kế và phát triển thành Mô hình q trình giao tiếp, cịn đƣợc
biết đến với cái tên thơng dụng là mơ hình Osgood – Schramm 1954.
1
hiểu thông điệp. Sau khi hiểu thông điệp nhận đƣợc, ngƣời nhận sẽ hồi đáp lại
ngƣời gửi. Lúc này ngƣời nhận sẽ ở vị trí của ngƣời gửi thơng điệp và ngƣợc lại
(minh họa: Hình 1.1).
Hoạt động giao tiếp ln đƣợc diễn ra trong một bối cảnh cụ thể và có thể bị
ảnh hƣởng bởi các yếu tố gây nhiễu nhất định. Các yếu tố này có thể thuộc về
chính đối tƣợng giao tiếp nhƣ trình độ văn hố, khả năng giao tiếp, trạng thái tâm
lý của các bên tham gia hoặc nằm ngoài đối tƣợng giao tiếp nhƣ địa điểm giao
tiếp, phƣơng tiện hỗ trợ…
1.1.2. Giao tiếp giữa các nền văn hoá
Hoạt động giao tiếp diễn ra giữa các thành viên trong cùng một nền văn hoá
đƣợc gọi là giao tiếp nội văn hoá (intracultural communication), hoạt động giao
tiếp diễn ra giữa các thành viên đến từ các nền văn hoá khác nhau đƣợc gọi là giao
tiếp liên văn hoá hay giao tiếp giữa các nền văn hoá (intercultural communication).
Một cách cụ thể hơn, giao tiếp giữa các nền văn hóa là q trình chia sẻ hoặc
trao đổi thơng tin giữa hai bên/ người, mỗi bên/ người thuộc về một nền văn
hóa khác nhau. Vì vậy, bất kỳ sự tƣơng tác nào giữa một ngƣời Việt Nam và một
du khách nƣớc ngồi đều là một ví dụ về giao tiếp giữa các nền văn hóa (minh
họa: Hình 1.2) và có thể đƣợc xem là hoạt động giao lƣu văn hố quốc tế.
Hình 1.2. Giao tiếp giữa các nền văn hoá
Loài ngƣời đã phát triển rất nhiều cách thức để giao tiếp với nhau, trong
đó, hàng trăm ngơn ngữ khác nhau đã hình thành, phát triển trên tồn cầu và đƣợc
sử dụng ở những nền văn hoá khác nhau. Cách thức và chuẩn mực giao tiếp cũng
rất khác nhau trong mỗi nền văn hố. Vì vậy, để hoạt động giao tiếp giữa các nền
văn hố diễn ra thành cơng, chúng ta khơng có cách nào khác ngồi việc tìm hiểu
về giao tiếp giữa các nền văn hoá, cụ thể hơn là giao tiếp trong mối quan hệ với
văn hoá. Trong bối cảnh tồn cầu hố, trong một thế giới phẳng – khi mà sự tƣơng
tác giữa các cá nhân trở nên dễ dàng và chặt chẽ hơn bao giờ hết thì yêu cầu về
khả năng giao tiếp giữa các nền văn hoá trở lại càng trở nên quan trọng.
Giao tiếp với một ngƣời đến từ một nền văn hóa khác là một trải nghiệm
bổ ích nhƣng cũng đầy thử thách. Nếu cả hai bên có một ngơn ngữ chung để giao
tiếp thì đó là một cơ hội tuyệt vời để tìm hiểu, trao đổi về văn hóa, truyền thống
cũng nhƣ quan điểm của mỗi bên về nhiều chủ đề khác nhau. Trải nghiệm này mở
ra một cửa sổ về một thế giới mới, nhƣng ngay cả với một ngôn ngữ chung, chƣa
chắc việc giao tiếp đã có thể thành cơng bởi vì mỗi ngƣời sẽ có một cách nói khác
nhau, cách hiểu khác nhau, thậm chí hồn tồn khác nhau. Giao tiếp thành công
không chỉ là gửi thông tin cho ngƣời khác mà cịn đảm bảo rằng thơng tin này
đƣợc ngƣời nhận hiểu đúng theo cách mà ngƣời gửi dự định. Thoạt nghe, đây có
vẻ là một nhiệm vụ đơn giản và dễ dàng, nhƣng trên thực tế, có rất nhiều yếu tố
gây nhiễu có thể là trở ngại cho sự thành công của giao tiếp và sự hiểu nhầm có
thể diễn ra trong bất cứ cuộc giao tiếp nào ngay cả khi hai đối tƣợng tham gia giao
tiếp sử dụng chung một ngơn ngữ.
Có rất nhiều ngun nhân gây ra sự hiểu nhầm trong giao tiếp. Các đối tƣợng
tham gia giao tiếp hiểu nhầm nhau có thể bởi giọng nói khó hiểu, bởi từ ngữ đƣợc
sử dụng thiếu chính xác, bởi cách diễn đạt không mạch lạc, bởi ngôn ngữ cơ thể
và các tín hiệu phi ngơn ngữ khơng rõ ràng và bởi nhiều yếu tố ngoại cảnh nhƣ
tiếng ồn, khói bụi… Bên cạnh đó, cịn có những yếu tố vơ hình cản trở sự thành
cơng trong giao tiếp, đặc biệt là trong giao tiếp giữa các nền văn hoá nhƣ các giá
trị, chuẩn mực và sự kỳ vọng khác nhau của cả ngƣời gửi và ngƣời nhận thông
tin. Mỗi dân tộc đều có những thói quen và hành vi ứng xử riêng trong giao tiếp
đƣợc truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và trở thành chuẩn mực, trở thành
“luật” bất thành văn mà nếu vi phạm sẽ gây ra những hiểu nhầm đáng tiếc. Nhƣ
tất cả mọi ngƣời, mỗi cá nhân chúng ta đều sinh ra và lớn lên trong một cộng đồng
ngƣời, trong những cái nơi văn hố với các giá trị văn hố nhất định. Chúng ta
chịu ảnh hƣởng, đồng thời thụ hƣởng các giá trị văn hố đó trong suốt cuộc đời
mình, gắn bó với các giá trị này đến mức chúng trở thành máu thịt, thành một
phần không thể thiếu trong mỗi chúng ta. Sự thật hiển nhiên có thể thấy đƣợc dễ
dàng là khi giao tiếp với các thành viên đến từ những nền văn hóa khác, chúng ta
thƣờng có xu hƣớng đƣa những “chuẩn mực của mình” vào trong giao tiếp. Cả
cách thức lẫn nội dung giao tiếp cũng nhƣ kỳ vọng trong giao tiếp của mỗi cá nhân
chúng ta đều gắn với các giá trị văn hoá nhất định, nhƣng vì những giá trị đó có
thể rất khác nhau, thậm chí trái ngƣợc nhau hồn tồn trong các nền văn hố, trong
chính chúng ta – trong các đối tƣợng tham gia giao tiếp nên rất khó tránh đƣợc
những hiểu nhầm đáng tiếc (minh họa: Hình 1.3).
Hình 1.3. Hiểu nhầm trong giao tiếp
Vì những lý do trên, muốn giao tiếp thành cơng với các nền văn hố khác
hay cụ thể hơn là với khách du lịch quốc tế, chúng ta phải đảm bảo đƣợc 04 điều
kiện: thành thạo ngôn ngữ giao tiếp; hiểu các giá trị văn hoá song hành của đối
tƣợng giao tiếp; hiểu nhu cầu của đối tƣợng giao tiếp và biết cách tránh hoặc hạn
chế những tác động ngoại cảnh.
1.1.3. Văn hoá và sốc văn hố
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn hố, nhƣng nhìn chung hầu hết
các định nghĩa về văn hóa đều có một điểm chung cơ bản là đều xem văn hóa nhƣ
là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con ngƣời sáng tạo ra trong suốt
q trình lịch sử. Văn hóa là một trong những đặc trƣng của dân tộc, có bao nhiêu
dân tộc sẽ có bấy nhiêu nền văn hố tƣơng ứng và vì vậy có thể phân biệt đƣợc
dân tộc này với dân tộc kia thơng qua văn hố. Trong phạm vi chủ đề giao tiếp
giữa các nền văn hoá, theo nghĩa khái quát, có thể hiểu văn hóa bao gồm tất cả
những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc kia. Một cách cụ thể hơn, văn
hóa là những quy tắc để sống và để hoạt động trong một xã hội. Theo Gudy- kunst
(2004) và Yamada (1997), văn hóa đƣa ra các quy tắc để con ngƣời chơi trò chơi
của cuộc sống (Samovar và cộng sự, 2010). Bởi vì các quy tắc của các nền văn
hóa khơng giống nhau nên để hoạt động một cách hiệu quả trong một nền văn hóa
nào đó, chúng ta cần biết cách “chơi trò chơi của cuộc sống” theo các quy tắc
đƣợc đặt ra trong nền văn hố đó và điều này không hề dễ dàng bởi mỗi ngƣời là
một sản phẩm của chính nền văn hóa của họ.
Chúng ta là sản phẩm của nền văn hoá nơi chúng ta đƣợc sinh ra và lớn lên
(trong phạm vi giáo trình này, thuật ngữ “nền văn hố” có thể hiểu theo nghĩa là
văn hố của các nhóm, các vùng, miền, quốc gia khác nhau). Chúng ta đã liên tục
học các quy tắc trong nền văn hóa của mình kể từ khi chập chững những bƣớc đi
đầu tiên cho đến khi về với cát bụi. Mỗi chúng ta đều đƣợc lớn lên trong một môi
trƣờng - nơi những phong tục, niềm tin, thái độ, khát vọng và hành vi nhất định
đƣợc cộng đồng chấp nhận và cho là bình thƣờng hoặc đƣợc xem là chuẩn mực.
Từ khi còn nhỏ, chúng ta đã biết rằng có một số điều đƣợc cho là bình thƣờng
trong khi một số điều khác lại không đƣợc chấp nhận đối với cha mẹ, gia đình
hoặc xã hội vì chúng lệch “chuẩn” và chúng ta học theo rồi hấp thụ những điều
này, những giá trị văn hóa này giống nhƣ cách chúng ta học tiếng mẹ đẻ. Ví dụ,
khi giao tiếp, trong văn hố Việt Nam, chúng ta thƣờng xƣng hơ với những ngƣời
xung quanh theo thứ bậc thể hiện mối quan hệ giữa hai ngƣời, đặc biệt với những
ngƣời lớn tuổi chứ khơng gọi tên riêng của ngƣời đó. Đối với chúng ta, việc “nói
theo cách chúng ta nói” và “cƣ xử theo cách chúng ta cƣ xử” là điều tự nhiên và
bình thƣờng bởi nó đƣợc chấp nhận trong nền văn hoá của chúng ta. Kết quả là,
tất cả những điều này đã ăn sâu vào tiềm thức, trở thành một phần trong mỗi chúng
ta, khiến chúng ta phản ứng với những tình huống quen thuộc một cách hết sức tự
nhiên mà không cần suy nghĩ giống nhƣ khi đề cập đến “ăn”, ngƣời Việt sẽ nghĩ
ngay đến cơm trong khi ngƣời Pháp sẽ nghĩ đến bánh mỳ.
Từ những phân tích trên, văn hóa có thể được hiểu là phong tục, tín
ngưỡng, thái độ, khát vọng được cơng khai hay ẩn giấu, hành động và phản
ứng của một cộng đồng người sống trong cùng một khu vực địa lý và chia sẻ
chung một nền tảng ngôn ngữ. Đôi khi, văn hóa bị giới hạn bởi biên giới, trong
đó một cộng đồng ngƣời chia sẻ chung một nền văn hoá trong phạm vi một quốc
gia hay một vùng miền. Văn hóa cũng có thể tồn tại xuyên biên giới, nơi những
ngƣời có chung ngơn ngữ, lịch sử và tín ngƣỡng… sống ở một số quốc gia khác
nhau. Văn hóa cịn có thể tồn tại trong các nhóm nhỏ hơn, đƣợc gọi là nhánh văn
hóa, khơng liên quan đến các khu vực địa lý. Ví dụ, văn hóa doanh nghiệp - đề
cập đến quan điểm, thái độ… của những ngƣời làm việc trong lĩnh vực kinh
doanh; văn hố cơng sở - đề cập đến thái độ, cách ứng xử… của những ngƣời làm
cơng việc văn phịng.
Trong các tình huống giao tiếp, giao tiếp nội văn hoá thƣờng dễ dàng bởi các
đối tƣợng tham gia giao tiếp chia sẻ chung một nền tảng văn hố và ngơn ngữ.
Tuy nhiên, khi bƣớc vào một nền văn hóa khác thì ngay cả khi các đối tƣợng giao
tiếp có thể sử dụng cùng một ngơn ngữ thì hoạt động giao tiếp vẫn trở nên khó
khăn hơn rất nhiều. Rõ ràng, khi chúng ta giao tiếp với những ngƣời đến từ một
nền văn hóa khác, chúng ta khó hiểu họ hơn nhiều so với khi chúng ta có một cuộc
giao tiếp với những thành viên thuộc nền văn hố của chúng ta. Đơn giản là vì họ
khơng có phong tục, niềm tin, thái độ, khát vọng hay hành vi “bình thƣờng” giống
nhƣ chúng ta. Ví dụ, khi giao tiếp, một ngƣời Mỹ có thể gọi ngƣời lớn tuổi hơn
bằng tên của ngƣời đó mà khơng nhất thiết phải gọi theo thứ bậc thể hiện mối
quan hệ giữa hai ngƣời (trong nhiều trƣờng hợp, một đứa trẻ có thể gọi bố mình
bằng tên gọi là “David” mà không phải gọi là “bố David” hay “bố”). Điều này là
khác thƣờng trong văn hố Việt Nam vì nhƣ đã đề cập, ở Việt Nam, chúng ta xƣng
hô với những ngƣời xung quanh theo thứ bậc thể hiện mối quan hệ giữa hai ngƣời
chứ không gọi tên riêng của ngƣời đó, đặc biệt với những ngƣời lớn tuổi hơn. Nói
cách khác, các giá trị và chuẩn mực văn hoá của ngƣời Mỹ và của chúng ta không
giống nhau.
Nếu chúng ta hiểu văn hóa của những đối tƣợng giao tiếp – những ngƣời sử
dụng ngơn ngữ của chính nền văn hố đó (ngơn ngữ đích) thì chúng ta có thể hiểu
và giải mã đƣợc hành vi của họ. Điều này cũng giúp cho việc hiểu ngơn ngữ của
nền văn hố đó trở nên dễ dàng hơn và việc giao tiếp với các thành viên của nền
văn hóa đó trở nên hiệu quả hơn. Trong trƣờng hợp ngƣợc lại, nếu chúng ta giao
tiếp với một nền văn hố khác mà vẫn “nói theo cách chúng ta nói” và “cƣ xử theo
cách chúng ta cƣ xử” thì việc đối mặt với các xung đột, các cú sốc văn hố sẽ rất
khó tránh khỏi trong q trình giao tiếp.
Sốc văn hóa xảy ra khi một ngƣời từ một nền văn hóa tiếp xúc với một nền
văn hóa quá khác biệt, đến nỗi họ cảm thấy ngạc nhiên, bối rối, mất phƣơng
hƣớng, lo lắng, thậm chí thấy bất an nghiêm trọng và khơng biết phải hành xử thế
nào. Một ngƣời bị sốc văn hoá thƣờng đƣợc ví với tình thế của một con cá khi bị
đƣa ra khỏi nƣớc bởi giống nhƣ hình ảnh này, họ phải sinh hoạt trong một nền
văn hoá khác hay một mơi trƣờng văn hố-xã hội khác. Sốc văn hóa có thể khiến
một ngƣời khó hành xử một cách bình thƣờng vì họ sợ rằng họ khơng biết các quy
tắc ứng xử chính xác và cảm thấy cách hành xử của mình hồn tồn khơng phù
hợp (minh họa: Hình 1.4).
Có rất nhiều ví dụ về các cú sốc văn hố. Một khách du lịch ngƣời Anh có
thể cảm thấy rất kinh sợ khi đƣợc mời ăn thịt chó hay ăn trứng vịt lộn – những
món ăn khá phổ biến ở Việt Nam; một ngƣời đàn ơng theo đạo Hồi có thể rất khó
chịu nếu đối tác là một ngƣời đàn ông Việt Nam hỏi thăm về vợ của mình; một
sinh viên Việt Nam có thể sửng sốt và không thoải mái khi thấy thầy giáo ngƣời
Mỹ của mình ngồi lên bàn để giảng bài thay vì ngồi lên ghế… Tất cả những trạng
thái nêu trên đều là hệ quả của những khác biệt về mặt văn hố. Nhƣ vậy, có thể
kết luận rằng, sốc văn hoá là những trạng thái cảm xúc mà một người phải chịu
đựng, nảy sinh do tác động của việc di chuyển từ một nền văn hoá quen thuộc
sang một nền văn hố xa lạ.
Hình 1.4. Sốc văn hố
Khi một ngƣời nƣớc ngồi đến Việt Nam, họ có khả năng cảm nhận sự khác
biệt về văn hoá và bị sốc ở một mức độ nhất định, cũng giống nhƣ cảm nhận của
một ngƣời Việt Nam khi đến thăm một quốc gia ở phƣơng Tây. Những ngƣời làm
trong lĩnh vực du lịch cần phải có hiểu biết về sốc văn hóa để phục vụ khách một
cách hoàn hảo, tránh các cú sốc văn hoá cho họ, đặc biệt là đối với khách du lịch
ngắn hạn, những ngƣời sẽ khơng có đủ thời gian để làm quen với cách làm việc,
hành xử, giao tiếp… của ngƣời Việt, và có thể trở nên khó khó chịu, cáu kỉnh
thậm chí tức giận khi trải nghiệm những khác biệt quá lớn về mặt văn hoá. Những
ngƣời làm trong lĩnh vực du lịch cần phải cố gắng để tìm hiểu những khác biệt
trong văn hố của khách du lịch đến từ các nền văn hố đích, các chuẩn mực, nghi
thức giao tiếp, cách sử dụng ngôn từ, các biểu hiện của ngôn ngữ cơ thể… để giúp
khách cảm thấy thoải mái hơn. Họ cũng nên nhận thức sâu sắc sự khác biệt về các
chuẩn mực trong văn hoá Việt Nam so với chuẩn mực trong văn hoá của khách
và giải thích cho du khách, tránh để du khách rơi vào trạng thái hụt hẫng, thất
vọng, bối rối hay tức giận.
1.1.4. Một số cấm kỵ trong giao tiếp
Để tránh đƣợc các cú sốc văn hoá cho bản thân và cho du khách, những ngƣời
làm trong lĩnh vực du lịch cần có hiểu biết về những cấm kỵ trong giao tiếp ở các
nền văn hoá. Một điều cấm kỵ là một chủ đề của cuộc trò chuyện hoặc một hành
vi cần tránh tuyệt đối vì chúng hồn tồn khơng được chấp nhận và bị cấm
theo phong tục của các thành viên trong một nền văn hố. Một điều cấm kỵ
khơng phải là một quy định thuộc luật pháp nên không đƣợc thi hành bởi chính
phủ hoặc cơ quan hành pháp. Những điều cấm kỵ là những điều tuyệt đối không
nên làm vì chúng thƣờng khơng đƣợc tất cả các thành viên của một nền văn hóa
chấp nhận và nếu điều cấm kỵ đó bị vi phạm thì ngƣời vi phạm sẽ phải gánh chịu
hậu quả. Những điều cấm kỵ có thể rất khác nhau trong các nền văn hoá, mức độ
nghiêm trọng của chúng cũng rất khác nhau. Bên cạnh đó, ngay cả trong một nền
văn hoá, những điều cấm kị cũng có thể thay đổi theo thời gian và thay đổi từ thế
hệ này sang thế hệ khác. Ngoài ra, thực tế cho thấy là có một số nền văn hóa có
nhiều điều cấm kỵ hơn những nền văn hóa khác. Vì tất cả những lý do trên, việc
nắm bắt đƣợc những điều cấm kỵ trong giao tiếp ở một nền văn hoá khác là hết
sức cần thiết đối với ngƣời tham gia giao tiếp giữa các nền văn hoá, trong đó có
những ngƣời làm cơng tác trong lĩnh vực du lịch.
Những điều cấm kỵ hoặc các chủ đề bị cấm trong một cuộc trò chuyện là khá
phổ biến tất trong các nền văn hóa Anglo-Saxon (các nền văn hóa chịu ảnh hƣởng
hoặc hình thành dựa trên nền tảng văn hoá Anh). Những điều cấm kỵ này rất khác
với những điều cấm kỵ đƣợc tìm thấy trong văn hóa Việt Nam. Ví dụ, trong khi
việc đề cập đến thu nhập cá nhân trong giao tiếp ở Việt Nam là một điều khá bình
thƣờng thì chủ đề này lại đƣợc xem là cấm kỵ trong giao tiếp ở Mỹ. Do đó, những
ngƣời đang có kế hoạch làm việc cùng với ngƣời nƣớc ngồi đến từ các nền văn
hóa Anglo-Saxon nên làm quen với các chủ đề cấm kỵ phổ biến và cẩn thận để
tránh đề cập đến chúng trong cuộc trò chuyện thông thƣờng. Những chủ đề này
bao gồm tuổi tác, diện mạo, tình trạng hơn nhân, tình trạng kinh tế, thu nhập của
cá nhân, giá mua các mặt hàng… nhìn chung là những thơng tin mang tính cá
nhân của một ngƣời.
Ở Việt Nam, việc hỏi một ngƣời mới gặp lần đầu tiên mơt số câu hỏi về tuổi
tác, tình trạng hôn nhân, nơi làm việc hay thu nhập là một điều rất bình thƣờng
bởi trong văn hố Việt Nam, những câu hỏi này vừa thể hiện sự quan tâm, vừa
cho cho phép xác định vị trí xã hội để những ngƣời tham gia giao tiếp xác lập cách
thức giao tiếp phù hợp. Do ảnh hƣởng của văn hố, sự hịa hợp xã hội ở Việt Nam
là mục tiêu quan trọng nhất, nhƣng đối với một ngƣời Anglo-Saxon thì quyền
riêng tƣ cịn quan trọng hơn nhiều. Do đó, một ngƣời Anglo-Saxon khi phải đối
mặt với các câu hỏi về tuổi tác, tình trạng hơn nhân hoặc thu nhập sẽ khơng thấy
thoải mái mà sẽ thấy khó chịu, thậm chí tức giận. Ngƣời Anglo-Saxon rất coi
trọng quyền riêng tƣ cá nhân của họ và cho rằng những câu hỏi cá nhân nhƣ vậy
là một kiểu xâm phạm riêng tƣ cá nhân mà họ không mong muốn. Trên thực tế,
trong các nền văn hóa Anglo-Saxon, việc ngƣời quen và đồng nghiệp khơng biết
tuổi tác, tình trạng hơn nhân hay thu nhập của nhau là điều hết sức bình thƣờng.
Vì vậy, khi tiếp xúc với khách đến từ các nền văn hoá Anglo-Saxon, chúng ta nên
tuyệt đối tránh câu hỏi mang tính riêng tƣ này và chỉ đơn giản là đối xử với tất cả
những ngƣời khách du lịch bằng sự tôn trọng và lịch sự nhƣ nhau.
Tƣơng tự, trong văn hóa Anglo-Saxon việc bình luận về ngoại hình cá nhân,
đặc biệt là những bình luận tiêu cực đƣợc xem là bất lịch sự. Đối với một ngƣời
Việt Nam, điều này có thể đơn giản là một tuyên bố về một sự thật hiển nhiên đối
với mọi ngƣời, thậm chí hành động này là một thói quen “bình thƣờng” đối với
khá nhiều ngƣời. Tuy nhiên, với một ngƣời Anglo-Saxon thì việc bình luận về
ngoại hình cá nhân là một sự xúc phạm đáng kể cần phải tránh vì việc này sẽ gây
ra sự bối rối và tổn thƣơng sâu sắc cho họ. Thậm chí, ngay cả việc khen ngợi hình
thức hay dáng vẻ bề ngoài của một ngƣời nào đó cũng có thể bị hiểu lầm và khơng
cần thiết trong giao tiếp (minh họa: Hình 1.5).
Hình 1.5. Tránh bình luận về ngoại hình ngƣời khác
Ngồi một số chủ đề cấm kỵ trong giao tiếp, cần lƣu ý tránh một số hành vi
đƣợc xem là không phù hợp trong giao tiếp trong văn hoá Anglo-Saxon nhƣ sự
tiếp xúc cơ thể trong khi giao tiếp (trừ cái bắt tay), việc không giao tiếp bằng ánh
mắt, việc làm ồn và chen lấn ở nơi công cộng… Những cấm kỵ trong giao tiếp
của một số quốc gia gửi khách du lịch đến Việt Nam, đặc biệt là các thị trƣờng
trọng điểm sẽ đƣợc đề cập cụ thể trong một số nội dung thuộc chƣơng 2, chƣơng
4 và chƣơng 5 của giáo trình này.
1.2. Văn hóa và giao tiếp
1.2.1. Mối quan hệ giữa văn hố và giao tiếp
Văn hóa và giao tiếp có mối quan hệ rất chặt chẽ và không tách rời. Ngôn
ngữ giao tiếp và hành vi giao tiếp mang đậm dấu ấn của thói quen, tâm lý, cách
tƣ duy… của một cộng đồng nên giao tiếp chính là sản phẩm của văn hoá. Giao
tiếp cũng là phƣơng tiện để thể hiện, phổ biến, trao truyền, lƣu giữ văn hoá. Nhƣ
đã đề cập, nếu chúng ta có đủ sự hiểu biết về một nền văn hóa thì chúng ta có thể
giải mã đƣợc hành vi và lời nói của những ngƣời sống trong nền văn hố đó. Vì
các giá trị của một nền văn hóa đƣợc phản ánh rõ nét trong ngơn ngữ, hành vi giao
tiếp của nền văn hố đó nên cả hai khía cạnh này cần đƣợc tìm hiểu, học tập cùng
một lúc để đảm bảo sự thành công trong giao tiếp. Hiển nhiên là nếu chúng ta biết
rõ lý do tại sao một ngƣời lại cƣ xử theo cách này hay tại sao ngôn ngữ đƣợc thể
hiện theo cách kia thì chúng ta sẽ trở nên thoải mái với cách cƣ xử và với ngơn
ngữ đó. Chỉ khi chúng ta cảm thấy thoải mái với một nền văn hóa và ngơn ngữ sử
dụng trong đó, chúng ta mới có thể giao tiếp một cách dễ dàng và chính xác với
những ngƣời đến từ nền văn hóa đó.
Văn hóa đã ảnh hƣởng đến giao tiếp nhƣ thế nào? Có thể lấy những ví dụ
cụ thể để xem xét mối quan hệ này. Văn hoá Việt Nam chú trọng vai trị của tập
thể, của cộng đồng. Trong văn hố Việt Nam, gia đình đƣợc xem là đơn vị quan
trọng nhất. Theo truyền thuyết, ngƣời Việt có chung tổ tiên là cha Lạc Long Quân
và mẹ Âu Cơ. Trong xã hội, gia đình đƣợc nhìn nhận là càng đơng, càng lớn càng
tốt. Một đại gia đình gồm nhiều thế hệ, đông đúc cũng thƣờng đƣợc ngƣời Việt
Nam gọi là gia đình. Trách nhiệm đối với một gia đình lớn đã ăn sâu vào mỗi cá
nhân và trẻ em đƣợc nuôi dạy với chữ hiếu đặt lên hàng đầu – đó là biết vâng lời,
chăm sóc và phụng dƣỡng cha mẹ. Trách nhiệm này đối với gia đình khơng chỉ
dừng lại với các thành viên khi họ còn sống mà còn tiếp tục ngay cả sau khi họ đã
sang thế giới bên kia. Điều này thể hiện trong việc thực hành thờ cúng tổ tiên, khi
vào những dịp đặc biệt nhƣ ngày Tết, ngày giỗ, con cháu sẽ tham dự đông đủ để
bày tỏ lịng thành kính với các thành viên đã khuất từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Tầm quan trọng của gia đình đƣợc thể hiện rất rõ trong tiếng Việt. Ví dụ, trong
cách xƣng hơ thơng thƣờng, ngƣời Việt xƣng hô với nhau không bằng tên riêng
mà bằng một hình thức thể hiện mối quan hệ gia đình, có thứ tự trên dƣới, thƣờng
đƣợc xác định theo độ tuổi nhƣ ngƣời đáng tuổi ơng thì gọi là ông, ngƣời đáng
tuổi chú thì gọi là chú, ngƣời đáng tuổi anh thì gọi là anh... Vì vậy, những từ “ông
– bà, cô – chú, anh – chị, em, con, cháu…” là những đại từ nhân xƣng đƣợc sử
dụng phổ biến trong giao tiếp hàng ngày ở bất cứ đâu chứ khơng phải chỉ trong
gia đình. Điều này khẳng định rằng mối quan hệ gia đình là vơ cùng quan trọng
trong văn hóa Việt Nam và đã ảnh hƣởng sâu sắc đến ngôn ngữ đƣợc sử dụng
trong giao tiếp.
Khác với Việt Nam, trong các nền văn hóa nói tiếng Anh nhƣ Anh, Canada,
Mỹ, Úc, New Zealand…, gia đình khơng phải là đơn vị chính mà cá nhân mới là
trung tâm của xã hội. Các nền văn hóa này đề cao tính cá thể, coi trọng sự độc lập,
riêng tƣ của cá nhân (minh hoạ: Hình 1.6). Do đó, trong tiếng Anh, đại từ nhân
xƣng ngôi thứ nhất và thứ hai số ít đơn giản hơn rất nhiều và mọi ngƣời đều có
thể sử dụng theo cùng một cách là tơi (I) và bạn (you) dù tuổi tác hay thứ bậc
trong gia đình hay ngồi xã hội của họ khơng tƣơng đƣơng. Cũng có thể thấy rằng,
trong ngơn ngữ viết, chữ tơi (I) dù viết ở vị trí nào trong câu cũng đƣợc viết hoa,
điều này một lần nữa khẳng định thêm về vai trị của cá nhân trong văn hố Anglo
Saxon. Việc coi trọng sự độc lập, riêng tƣ của cá nhân cũng đƣợc thể hiện trong
giao tiếp của những ngƣời nói Anh bản ngữ và họ sẽ khơng thoải mái với các câu
hỏi có tính chất cá nhân về gia đình, tuổi tác, thu nhập…
Hình 1.6. Văn hố đề cao cá nhân hay đề cao cộng đồng
Rõ ràng, văn hố và ngơn ngữ giao tiếp có mối quan hệ mật thiết, đan xen
với nhau. Theo Emmit & Pollock (1997), ngơn ngữ có nguồn gốc từ văn hóa, cịn
văn hóa đƣợc phản ánh và đƣợc chuyển tải bởi ngôn ngữ từ thế hệ này sang thế
hệ khác. Khi chúng ta giao tiếp với ngƣời sử dụng một ngơn ngữ khác cũng có
nghĩa là chúng ta cũng đang tƣơng tác với văn hóa nơi mà ngơn ngữ đó thuộc về.
Chúng ta khơng thể hiểu một nền văn hóa mà khơng tiếp cận trực tiếp với ngơn
ngữ của nó. Nhƣ vậy có thể khẳng định, việc học một ngoại ngữ là một cách tuyệt
vời để mỗi ngƣời tiếp cận một nền văn hóa khác và do đó cải thiện sự hiểu biết và
khả năng giao tiếp giữa các nền văn hóa của bản thân.
Phong tục và thói quen, lối ứng xử cũng có thể đƣợc giải thích bằng cách
tìm hiểu về văn hóa. Tiếp tục với ví dụ trong bối cảnh của các nền văn hoá đề cập
ở trên, trong xã hội Việt Nam, mối quan hệ gia đình có tầm quan trọng đặc biệt
trong khi ở Bắc Mỹ, cá nhân mới chiếm vị thế quan trọng (minh họa: Hình 1.6).
Hai sự ƣu tiên khác nhau này đƣợc thể hiện rất rõ nét trong cách ứng xử mang
tính xã hội ở trong hai nền văn hố. Có thể đƣa ra một so sánh thú vị trong trƣờng
hợp tìm kiếm việc làm ở hai nền văn hố. Ở Bắc Mỹ, do coi trọng sự độc lập của
con ngƣời và tầm quan trọng của thực lực của mỗi cá nhân, khi muốn tìm việc,
một ứng viên phải chuẩn bị một bản lý lịch nêu rõ tất cả những thành tích cá nhân,
trình độ học vấn, chun mơn, kinh nghiệm làm việc của mình mà khơng bao giờ
cần đề cập đến tình trạng gia đình hoặc bất kỳ chi tiết cá nhân nào khác. Nhà tuyển
dụng sẽ đánh giá ứng viên dựa trên thành tích cá nhân của chính họ và sẽ khơng
quan tâm đến nền tảng gia đình hoặc tình trạng hơn nhân của ứng viên đang tìm
việc. Điều này khẳng định giá trị văn hóa mà cá nhân mới là đối tƣợng quan trọng
nhất. Tuy nhiên, ở Việt Nam, tình trạng gia đình của ứng viên rất quan trọng, đôi
khi quan trọng hơn cả kinh nghiệm cá nhân hoặc năng lực của chính họ. Vì thế,
thơng tin về cha mẹ và anh chị em đƣợc ghi trong sơ yếu lý lịch của ứng viên là
điều hết sức bình thƣờng. Ngoài ra, nếu một thành viên của một gia đình ở vị trí
tuyển dụng thì họ có thể ƣu ái ngƣời nhà của mình khi tuyển dụng, thậm chí nhận
ngƣời nhà vào làm việc trong khi có các ứng viên khác đáp ứng yêu cầu công việc
tốt hơn. Nhƣ vậy, rõ ràng các giá trị trong một nền văn hóa có sức ảnh hƣởng
mạnh mẽ đến ngơn ngữ và hành vi của các thành viên trong nền văn hóa đó.
1.2.2. Các hình thức giao tiếp
Giao tiếp khơng thể diễn ra nếu khơng có ngơn ngữ. Trên thế giới, mỗi nền
văn hóa đã phát triển một cách thức giao tiếp đƣợc xem là tiêu chuẩn giữa các
thành viên khác nhau trong nền văn hóa riêng của mình. Ngơn ngữ đã phát triển
nhƣ một phƣơng tiện chính để chia sẻ thơng tin với ngƣời khác thơng qua lời nói
(giao tiếp bằng ngôn từ) và chữ viết (giao tiếp bằng văn bản). Các phong tục và
thói quen cũng đƣợc phát triển để cho phép giao tiếp diễn ra mà không cần đến
ngôn ngữ (giao tiếp phi ngơn từ). Giao tiếp có thể diễn ra theo nhiều cách khác
nhau và dƣới nhiều hình thức khác nhau, tuy nhiên, để phục vụ cho ngƣời học –
những ngƣời trong tƣơng lai sẽ làm việc ở các vị trí tiền tuyến và trực tiếp tƣơng
tác với du khách nhƣ các hƣớng dẫn viên du lịch, nhân viên lễ tân… hay với các
đối tác đến từ các nền văn hoá khác nhau, tài liệu này sẽ chủ yếu bàn luận về các
hình thức giao tiếp trực diện giữa các bên tham gia, đó là giao tiếp bằng lời nói
(bằng ngơn từ) và giao tiếp khơng bằng lời nói (phi ngơn từ).
Hình 1.7. Giao tiếp bằng ngơn từ và phi ngơn từ
Giao tiếp bằng ngơn từ là hình thức giao tiếp trong đó thơng tin đƣợc trao
đổi thơng qua lời nói. Giao tiếp phi ngơn từ là hình thức giao tiếp trong đó thơng
tin đƣợc trao đổi khơng thơng qua lời nói mà thơng qua các phƣơng tiện khác nhƣ
ngôn ngữ cơ thể - cử chỉ, tƣ thế, ánh mắt, nét mặt; ngoại hình; thái độ; khoảng
cách giao tiếp và sự tiếp xúc của cơ thể khi giao tiếp (minh họa: Hình 1.7).
Cả hai yếu tố ngơn từ và phi ngơn từ của một nền văn hóa đƣợc hình thành
và phát triển khác nhau trong mỗi nền văn hóa. Con ngƣời học hỏi cả hai phƣơng
tiện giao tiếp này từ gia đình và xã hội – từ mơi trƣờng xung quanh, nơi họ sinh
ra và lớn lên, theo đó hình thành những thói quen giao tiếp nhất định bằng ngơn
từ và phi ngơn từ. Đây chính là lý do giải thích vì sao các yếu tố ngơn từ và phi
ngôn từ trở nên rất khác nhau giữa các nền văn hoá. Điều này sẽ dễ hiểu nếu chúng
ta quan sát hàng trăm ngôn ngữ khác nhau đƣợc phát triển khác nhau trong các
khu vực khác nhau, ở các lĩnh vực khác nhau để phục vụ tốt hơn nhu cầu giao tiếp
của các thành viên thuộc những nền văn hóa đó. Thậm chí, ngay cả một ngơn ngữ,
khi đƣợc sử dụng ở các khu vực khác nhau cũng có những biến thể của nó. Tiếng
Anh là một ví dụ tuyệt vời về ngôn ngữ đƣợc sử dụng trong giao tiếp ở các quốc
gia trên tồn thế giới và nó đã có sự phát triển khác nhau ở mỗi quốc gia nơi nó
đƣợc sử dụng. Có thể thấy, rất nhiều từ vựng và cách phát âm tiếng Anh ở 04 quốc
gia nói tiếng Anh bản xứ (Anh, Úc, Mỹ, Canada) khơng giống nhau. Có thể thấy,
trong q trình phát triển, các ngơn ngữ phát triển thành phƣơng ngữ và giọng nói
địa phƣơng, các phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ cũng có thể phát triển theo
những cách khác nhau và chúng trở nên khác nhau giữa các nền văn hoá. Một số
ví dụ cụ thể sẽ cho cho thấy điều này.
Đối với sự khác biệt trong ngôn từ, cùng sử dụng tiếng Anh nhƣ tiếng mẹ
đẻ, nhƣng khi muốn nói đến xe buýt, ngƣời Mỹ sẽ dùng từ “bus” trong khi ngƣời
Anh dùng từ “coach”; ngƣời Mỹ gọi sốt cà chua là “ketchup” trong khi ngƣời Anh
gọi là “tomato sauce”. Trong phát âm, giọng nói của ngƣời Mỹ và ngƣời Anh cũng
khác nhau, ví dụ với từ “cà chua” (tomato), ngƣời Mỹ phát âm là /təˈmeɪ: təʊ/
trong khi ngƣời Anh phát âm là /təˈmɑːtəʊ/; với từ “hoặc” (either) ngƣời Mỹ phát âm
là /ˈeðər/, trong khi ngƣời Anh phát âm là /ˈiðər/…
Tƣơng tự, đối với yếu tố phi ngôn từ, mỗi nền văn hóa có một tập hợp chung
các yếu tố phi ngôn từ đƣợc sử dụng trong giao tiếp để chuyển tải những ý nghĩa
nhất định. Tuy nhiên cách sử dụng, ý nghĩa của các yếu tố này rất đa dạng trong
các nền văn hố. Ví dụ, khi so sánh một cấu phần của ngôn ngữ cơ thể - cử chỉ,
điệu bộ của các nền văn hố, chúng ta có thể thấy các trƣờng hợp sau:
i) Các cử chỉ, điệu bộ có thể giống nhau cả về hình thức thể hiện và nội
dung ý nghĩa biểu đạt. Ví dụ, cả ngƣời Việt Nam và ngƣời Mỹ đều gật đầu để thể
hiện sự tán thành hay đồng ý, lắc đầu khi muốn thể hiện sự phản đối hay khơng
đồng ý với một điều gì đó;
ii) Các cử chỉ, điệu bộ có thể giống nhau về hình thức thể hiện, nhƣng khác
nhau về ý nghĩa biểu đạt. Ví dụ, cử chỉ “OK” với ngón trỏ và ngón cái vịng lại
nhƣ hình chữ O, ba ngón cịn lại duỗi thẳng nhƣ hình chữ K đƣợc ngƣời Mỹ dùng
để biểu đạt sự nhất trí, khen ngợi hoặc tán dƣơng, trong khi ngƣời Pháp dùng để
chỉ số khơng, cịn với ngƣời Nhật, cử chỉ này lại đƣợc dùng để ám chỉ tiền bạc;
iii) Các cử chỉ, điệu bộ có thể có ý nghĩa giống nhau, nhƣng hình thức thể
hiện khác nhau. Ví dụ, để chào hỏi và tạm biệt nhau, ngƣời Bắc Mỹ và ngƣời
Châu Âu sẽ bắt tay trong khi ngƣời Nhật, ngƣời Hàn sẽ khom ngƣời xuống và cúi
đầu, ngƣời Thái Lan và ngƣời Ấn Độ sẽ chắp tay trƣớc ngực và hơi cúi đầu (minh
họa: Hình 1.8);
Hình 1.8. Cách chào hỏi của ngƣời Bắc Mỹ và ngƣời Ấn Độ
iv) Các cử chỉ, điệu bộ chỉ có ở nền văn hố này, nhƣng khơng có ở nền
văn hố khác. Ví dụ, một vài bộ tộc ở Đơng Phi chào hỏi bằng cách khạc nhổ vào
chân nhau (Roger, 1997) hoặc ngƣời Maori ở New Zealand chào hỏi bằng cách
cọ mũi vào nhau.
Nhƣ vậy, có thể thấy, cả hai yếu tố ngơn từ và phi ngơn từ của một nền văn
hóa đƣợc hình thành và phát triển khác nhau trong mỗi nền văn hóa và kết quả là
chúng trở nên rất đa dạng và khác nhau về hình thức hoặc ý nghĩa hoặc cả hai.
Trách nhiệm của những ngƣời làm trong lĩnh vực du lịch, ngoại giao… là phải
tìm hiểu, nắm bắt và tôn trọng những khác biệt này để giao tiếp và phục vụ khách
du lịch nói riêng, đối tác quốc tế nói chung một cách chuyên nghiệp và hiệu quả.
Bên cạnh đó, ngồi việc sử dụng thành thạo ngơn ngữ đích, mỗi ngƣời cơng tác
trong các lĩnh vực kể trên cịn phải có kiến thức và vận dụng đƣợc các kỹ thuật
giao tiếp trực diện bằng ngôn từ và phi ngơn từ để thực sự có những cuộc giao
tiếp thành công trong công việc và cuộc sống.