Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC nhận thức của mình về các quan niệm triết học trong lịch sử triết học phương đông và phương tây liên hệ với bản thân anh chị để thấy được vai trò của triết học với cuộc sống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.34 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I.
KHÁI NIỆM CHUNG VỀ TRIẾT HỌC
II. CÁC QUAN NIỆM TRIẾT HỌC TRONG LỊCH
II.

2.1.
2.2.

1
2
2

SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG VÀ PHƯƠNG
TÂY
Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của phương Đông và

4

phương Tây
Các quan niệm triết học trong lịch sử triết học phương

4

Đơng và phương Tây
VAI TRỊ CỦA TRIẾT HỌC VỚI CUỘC SỐNG

9


16

III.
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

22
23


MỞ ĐẦU
Trong quá trình vận động và phát triển của lịch sử văn hố nhân loại nói
chung và tư tưởng triết học nói riêng, triết học Phương Đơng và triết học
Phương Tây có nhiều nội dung phong phú, đa dạng. Những giá trị của nó đó để
lại dấu ấn đậm nét và có ảnh hưởng lớn đối với lịch sử lồi người. Triết học
Phương Đơng và triết học Phương Tây khơng thể thốt ly những vấn đề chung
của lịch sử triết học. Mặc dù vậy, giữa triết học Phương Đông và triết học
Phương Tây vẫn có những đặc điểm đặc thù của nó. Nghiên cứu về triết học
Phương Đơng và triết học Phương Tây, đặc biệt là nghiên cứu các quan niệm
triết học là một vấn đề phức tạp, nhưng cũng rất lý thú, vì qua đó ta có thể
hiểu biết sâu sắc thêm những giá trị về tư tưởng văn hoá của nhân loại. Mặt
khác, bản sắc văn hoá Việt Nam ảnh hưởng khá sâu sắc bởi nền triết học
Phương Đơng, do đó nghiên cứu những đặc điểm của triết học Phương Đông
trong mối quan hệ với đặc điểm của triết học Phương Tây, đặc biệt là những tư
tưởng nhân văn trong thời khai sáng sẽ giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn bản
sắc văn hoá Việt Nam.
Bên cạnh đó, trong lịch sử tư tưởng nhân loại nói chung và lịch sử triết
học nói riêng, triết học phương Đơng và triết học phương Tây giữ một vị trí hết
sức quan trọng. Việc nhận thức một cách đầy đủ các quan niệm triết học trong
lịch sử triết học phương Đơng và phương Tây là một vấn đề có ý nghĩa lý luận

và thực tiễn sâu sắc, vừa cấp bách, vừa lâu dài. Đó là lý do mà em chọn đề tài
“Các quan niệm triết học trong lịch sử triết học phương Đơng và phương
Tây. Vai trị của triết học với cuộc sống” làm đề tài tiểu luận.

2


NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ TRIẾT HỌC
Từ khi ra đời, triết học đóng vai trị quan trọng trong nhận thức cũng như
hoạt động của con người, Ph. Ăngghen viết: “Một dân tộc muốn đứng vững trên
đỉnh cao của khoa học thì khơng thể khơng có tư duy lý luận” [1, tr.156]. Nhưng
tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người ta mà
thơi. Năng lực ấy cần phải được phát triển hồn thiện mà muốn hồn thiện thì
cần nghiên cứu tồn bộ triết học từ thời đại trước.
Trong quá trình khám phá thế giới, giải đáp những câu hỏi về nguồn gốc
của con người, nguồn gốc của thế giới và vị trí của con người trong thế giới làm
hình thành ở con người những quan niệm nhất định, trong đó có những yếu tố
cảm xúc và trí tuệ, tri thức và niềm tin… Cùng với sự phát triển ngày càng đa
dạng và phức tạp của hoạt động thực tiễn, tư duy của con người không ngừng
được “mài sắc”. Sự ra đời của triết học cho thấy tính tích cực của tư duy con
người đã đạt được bước chuyển biến về chất nhờ sự xuất hiện của tầng lớp lao
động trí óc trong xã hội cổ đại.
Trong lịch sử nhân loại ở phương Đông cũng như phương Tây, triết học
ra đời từ rất sớm. Tuy nhiên, trong thời kỳ nguyên thủy con người chỉ mới có
mầm mống của tư duy triết học ở trình độ thấp, mang tính chất huyền thoại.
Triết học chỉ thực sự tồn tại với tư cách là một môn khoa học khi nhân loại bước
sang xã hội chiếm hữu nô lệ (ở phương Tây, tại Hy Lạp khoảng thế kỷ thứ VII
trc CN, ở phương Đông như Trung Quốc, Ấn Độ… chế độ chiếm hữu nơ lệ cịn
xuất hiện sớm hơn). Lúc đầu, triết học bao gồm tri thức của hầu hết các mơn

khoa học, triết học thậm chí còn coi là “khoa học của các khoa học” []. Qua thời
gian và lịch sử do nhu cầu ngày càng đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu thế giới nên
các khoa học cụ thể dần dần tách ra khỏi triết học để trở thành một môn nghiên
cứu độc lập. Đổi tượng nghiên cứu của triết học cũng từng bước được xác lập.
Bản thân quan niệm về triết học cũng có sự thay đổi trong lịch sử.
3


Triết học ra đời do kết quả của sự tách biệt giữa lao động chí óc và lao
động chân tay. Bên cạnh đó, triết học ra đời cịn do tư duy nhân loại đã phát
triển ở trình độ cao - trình độ hệ thống hóa, khái qt hóa và trừu tượng hóa.
Triết học ra đời vào khoảng thế kỷ VIII-VI TCN gắn liền với sự ra đời của các
nền văn minh cổ đại như Trung Quốc, Ấn Độ, Hy lạp… “Triết” theo nghĩa chữ
Hán là trí - Sự hiểu biết của con người, là sự truy tìm bản chất của đối tượng
trong quá trình nhận thức thế giới. “Triết” theo nghĩa Án Độ là Darshna,là sự
chiêm ngưỡng, suy ngẫm con người đến chân lý, là sự hiểu biết nói chung.
“Triết học” theo tiếng Hy lạp là Philosophya ( sự ham mê hiểu biết cộng với sự
thông thái). Như vậy dù là ở phương Đông hay phương tây, Triết học thời cổ đại
đều có nghĩa là sự hiểu biết, sự nhận thức chung của con người về thế giới.
Theo quan điểm của triết học Mác-Lênin: “Triết học là hệ thống các quan
điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí của con người trong thế giới”.
Ăngghen khẳng định “vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học đặc biệt là của triết
học hiện đại, là quan hệ giữa tư duy với tồn tại” [2, tr.98]. Vấn đề cơ bản của
triết học gồm hai mặt:
Mặt thứ nhất, tư duy và tồn tại (ý thức và vật chất) cái nào có trước cái
nào có sau? Cái nào quyết định cái nào?
Mặt thứ hai, con người có khả năng nhận thức thế giới hay không?
Tùy theo cách giải quyết vấn đề cơ bản của triết học mà người ta phân
chia thành hai trường phái: duy vật và duy tâm.
Triết học duy vật cho rằng vật chất có trước, vật chất quyết định ý thức.

Con người hồn tồn có thể nhận thức được thế giới, chỉ có những gì con người
chưa biết chứ khơng có cái gì con người khơng biết. Có những sự vật và hiện
tượng mà các thế hệ hôm nay chưa biết nhưng cùng với sự phát triển của thực
tiễn, của khoa học thì các thế hệ mai sau hồn tồn có thể sẽ nhận thức được.
Triết học duy tâm (dù là duy tâm chủ quan hay duy tâm khách quan) đều
cho rằng ý thức có trước, ý thức quyết định vật chất. Nhìn chung thì triết học
duy tâm phủ nhận khả năng nhận thức của con người nếu có nhận thức được thì
4


con người chỉ có thể nhận thức được cái bề ngồi chứ khơng thể nhận thức được
bản chất bên trong của các sự vật hiện tượng.
Bên cạnh cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm,
lịch sử triết học còn diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai phương pháp: biện chứng
và siêu hình.
Phương pháp biện chứng khẳng định các sự vật hiện tượng trong thế giới
tồn tại trong mối liên hệ phổ biến và vận động, phát triển khơng ngừng.
Phương pháp siêu hình nhìn nhận thế giới trong sự cô lập, tách rời nhau,
tĩnh tại bất biến, nếu có vận động thì chỉ là sự tăng giảm về số lượng mà khơng
có sự biến đổi về chất.
Trên cơ sở nhận thức những vấn đề chung nêu trên, chúng ta có thể đưa ra
các quan niệm triết học trong lịch sử triết học phương Đông và phương Tây
thông qua quan niệm của các nhà triết học tiêu biểu.
II. CÁC QUAN NIỆM TRIẾT HỌC TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
PHƯƠNG ĐÔNG VÀ PHƯƠNG TÂY
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của phương Đông và phương Tây
Về khái niệm phương Đông, phương Tây cũng chỉ mới xuất hiện khoảng
vài thế kỷ gần đây. Phương đông dùng để chỉ các nước nằm ở phía đơng, chỉ các
nước Châu Á và chỉ các nền văn minh sông Nin, sông Hằng và sơng Hồng
Hà…Nói đến triết học phương Đơng, chủ yếu chúng ta nói tới Ai Cập (hiện nay

chủ yếu là chỉ các nước Ả Rập), Trung Quốc và Ấn Độ. Cịn phương Tây khơng
là chỉ các nước cịn lại. Nói đến phương Tây và triết học phương Tây chủ yếu là
chúng ta nói đến triết học của các nước Tây Âu, mà tiêu biểu như: Anh, Pháp,
Đức, ý, áo, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha… thậm chí hiện nay, người ta cịn gộp cả
Mỹ vào phương Tây.
* Phương Đơng
Về mặt địa lý, phương Đông cổ đại trải dài từ Ai Cập, Babilon tới Ấn Độ,
Trung Quốc… Phương Đông cổ đại là một trong những cái nôi của văn minh
5


nhân loại . Trung Quốc và Ấn Độ là những trung tâm phát triển rực rỡ nhất của
nền văn minh ấy.
Nói đến cơ sở xã hội của phương Đơng, ở đây chúng ta cơ bản, chủ yếu
chỉ nói tới hai trung tâm tư tưởng và văn hoá lớn của thế giới thời cổ đại - đó là
Ấn Độ và Trung Quốc. Về điều kiện kinh xã hội ở phương Đông nói chung và ở
Ấn Độ nói riêng, chúng ta khơng thể không nhắc tới sự tồn tại rất sớm và lâu dài
của kết cấu kinh tế - xã hội theo kiểu mơ hình “cơng xã nơng thơn” và phương
thức sản xuất Châu Á. Ở mơ hình này, quan hệ làng xã là phổ biến, hình thức
cơng đồng người lúc này vẫn là thị tộc, đứng đầu có xã trưởng và các bộ phận
giúp việc cho xã trưởng. Nền kinh tế ở Ấn Độ nói riêng cũng như ở Châu Á thời
kỳ này là nền kinh tế tiểu nông kết hợp kinh tế giai đình, nó mang tính tự cung,
tự túc, khơng có sự trao đổi giữa các làng xã. Chính nét đặc thù này đã làm
chậm, kìm hãm sự phát triển của xã hội Ấn Độ nói riêng cũng như ở phương
Đơng nói chung. Các làng xã đó lại chịu sự thống trị của một nhà nước quân
chủ chuyên chế, đất đai, của cải của xã hội do nhà nước trung ương tập quyền
quản lý. Đó cũng là những đặc điểm làm cho tư tưởng triết học của phương
Đông khác với phương Tây. Khi nghiên cứu sự thống trị của Anh và Ấn Độ
C.Mác đã chỉ ra những điểm đặc trưng đó và cho rằng chính cái xã hội truyền
thống đó đã quy định tính thụ động, qn bình, ít thay đổi kéo dài suốt đến thập

niên đầu của thế kỷ 19 ở Ấn Độ nói riêng và ơ phương Đơng nói chung. C.Mác
đã dùng những khái niệm “bất động”, “tĩnh” để chỉ xã hội phương Đông [3,
tr.278].
Trung Quốc cổ đại: Trung Quốc cổ đại bao gồm nhiều quốc gia nhỏ, chủ
yếu nằm rải rác ở lưu vực sơng Hồng Hà, Dương Tử… chế độ nơ lệ ở Trung
Quốc hình thành sớm với những đặc trưng của chế độ chiếm hữu nơ lệ khơng
điển hình. Sự phân hóa giai cấp không rõ rệt và nô lệ không phải lực lượng sản
xuất chủ yếu… Ngay từ thời ký nhà Hạ nền văn minh Trung Quốc cổ đại đã đạt
được những thành tựu rực rỡ trên hầu hết các lĩnh vực kinh tế xã hội.
6


Đến thời ký Xuân Thu - Chiến Quốc (là thời kỳ chuyển biến từ xã hội nô
lệ sang xã hội phong kiến), xã hội ở vào tình trạng hết sức đảo lộn. Sự tranh
giành địa vị của các thế lực cát cứ đã đẩy Trung Quốc vào những cuộc chiến
tranh “huynh đệ tương tàn”. Đây cũng chính là giai đoạn lịch sự đặt ra rất nhiều
vấn đề cần phải giải quyết.
Sự chuyển biên sôi động của thời đại cũng làm xuất hiện nhiều nhà tư
tưởng lớn. Có thể nói đây cũng chính là thời kỳ triết học phát triển rực rỡ nhất.
Lịch sử gọi đây là thời kỳ: “Bách gia chư tử”. Với những tên tuổi lớn như:
Khổng tử, Lão Tử, Mạc Tử… và những học thuyết có ảnh hưởng sâu rộng như
nho giáo, lão giáo…
Ấn Độ cổ đại. Ấn Độ cổ đại là một vùng đất nằm ở phía nam Châu Á
được bao bọc bởi Ấn Độ Dương và dãy Hymalaya hùng vĩ. Đây là vùng đất có
những yếu tố địa lý trái ngược nhau vừa có núi cao, vừa có biển sâu, vừa có
sơng Ấn chảy về phía Tây lại vừa có sơng Hằng chảy về phía Đơng, vừa có
đồng bằng phì nhiêu, lại vừa có sa mạc khô cằn… Khoảng 2500 năm trước CN,
ở Ấn Độ đã có một nền văn minh tương đối phát triển gọi là nền văn minh sông
Ấn của người Dravida bản địa. Từ thế ký thứ XV xã hội Ấn Độ đã diễn ra một
biến động lớn, những người Arya từ Trung Á xâm nhập vào Ấn Độ, họ định cư

và từng bước đồng hóa người bản địa. Người Arya bắt đầu xác lập nền văn minh
thứ hai trên đất Ấn Độ gọi là nền văn minh Veda.
Đặc điểm kinh tế - xã hội nổi bật của Ấn Độ cổ đại là chế độ quốc hữu
hóa ruộng đất và sự tồn tại dai dẳng của công xã nông thôn. Trên cơ sở đó sự
phân hóa giai cấp khơng rõ rệt. Trong xã hội tồn tại chế độ đẳng cấp hết sức
nghiệt ngã với 4 đẳng cấp cơ bản: Tăng lữ (Brahman), Quý tộc (Ksytriya), bình
dân (Vaisya) và tơi tớ, nơ lệ (Ksudra).
Người Ấn Độ cổ đại đã đạt được những thành tựu rất quan trọng về thiên
văn học, toán học, y học và kiến trúc. Tiêu biểu như việc phát minh ra lịch 365
ngày, giải thích được các hiện tượng nhật thực, nguyệt thực, trong toán học đã
7


phát hiện ra số thập phân, quan hệ giữa cạnh huyền và cạnh góc vng… Văn
hóa Ấn Độ mang dấu ấn sâu đậm về tín ngưỡng, tơn giáo và văn hóa tâm linh…
Tất cả những đặc điểm trên là những tiền đề làm nảy sinh và phát triển
phong phú của những tư tưởng triết học.
* Phương Tây
Đại biểu cho triết học phương Tây cổ đại và triết học Hy Lạp cổ đại. Hy
lạp cổ đại là một vùng đất đai rộng lớn bao gồm miền Nam bán đảo Ban căng
thuộc châu Âu, nhiều hòn đảo ở biển Êgie và cả miền ven biển của bán đảo Tiếu
Á. Đây là vùng đất có điều kiện địa lý thuận lợi, là cửa ngõ nối liền phương Tây
với phương Đông, tài nguyên thiên nhiên phong phú, mưa thuận gió hịa, giúp
cho ngành nơng nghiệp, thủ công nghiệp, và thương nghiệp phát triển mãnh mẽ.
Vào thời kỳ cổ đại ở Hy Lạp đã có nền kinh tế xã hội và văn hóa tương
đối phát triển. Một số ngành khoa học như toán học, vật lý, thiên văn học đã đạt
được những thành tựu rất quan trọng.
Cơ cấu xã hội - giai cấp cũng có những biến đổi nhanh chóng và sâu sắc.
Những mâu thuẫn và xung đột xã hội ngày càng trở lên quyết liệt. Tiêu biểu là
cuộc đấu tranh giữa hai tập đoàn chủ nô: chủ nô dân chủ và chủ nô quý tộc.

Chủ nô dân chủ là bộ phận tiến bộ của giai cấp chủ nô. Họ đại diện cho
lực lượng xã hội đang lên. Chủ nô dân chủ thường đề xuất những chủ trương
dân chủ, cải cách và hạn chế quyền lực của chủ nô quý tộc.
Chủ nô quý tộc là bộ phận bảo thủ, thậm chí là phản động của giai cấp
chủ nô. Chủ nô quý tộc đại diện cho quan hệ sản xuất thống trị, họ có quyền lực
rất lớn trong xã hội; do vậy, chủ nô quý tộc thường tìm mọi biện pháp, bao gồm
cả thủ đoạn để duy trì sản xuất và trật tự xã hội cũ.
Những đặc điểm kinh tế xã hội và văn hóa đã tạo điều kiện cho triết học
ra đời và phát triển rực rỡ, từ triết học Hy Lạp thời kỳ cổ đại đã xuất hiện mầm
mống cho hầu hết các loại thế giới quan triết học sau này. Khi đánh giá về
những thành tựu của triết học Hy Lạp, trong tác phẩm “Biện chứng của tự
nhiên” Ăngghen có viết “Đó là một trong những lý do làm cho trong triết học
8


cũng như trong nhiều lĩnh vực khác, chúng ta phải luôn trở lại với thành tựu của
các dân tộc nhỏ bé đó, cái dân tộc mà năng lực hoạt động tồn diện của nó đã
tạo ra cho nó một địa vị mà khơng một dân tộc nào khác có thể mong ước được
trong lịch sử của nhân loại” [4, tr.167].
2.2. Các quan niệm triết học trong lịch sử triết học phương Đơng và
phương Tây
Có thể nói các trào lưu triết học phương Đông cũng như phương Tây đều
tập trung xoay quanh trả lời câu hỏi: Thế giới bắt đầu từ đâu, thế giới sẽ đi đến
đâu? Bản chất của thế giới là gì? Điều này cho thấy, các nhà triết học đều mong
muốn vượt qua ảnh hưởng của thế giới quan thần thoại để giải đáp những gì
diễn ra xung quanh và tác động lên đời sống con người. Việc các nhà triết học
quan tâm đến tự nhiên theo Aristote khơng phải vì bản thân tự nhiên mà vì chính
con người, vì sự khẳng định vị trí con người trong thế giới.
Khi lý giải về khả năng nhận thức của con người, các nhà triết học không
chỉ xem con người như là một bộ phận của vũ trụ mà con người cịn ln chứng

tỏ sự hiện hữu vượt trội của mình nhờ có năng lực nhận thức, dù rằng nhận thức
ấy chỉ mang tính chất thần linh thượng đế mà thơi.
Nhìn chung do những điều kiện hạn chế của lịch sử, trước những biến đổi
nhanh chóng trong đời sống xã hội cũng những bế tắc trong nhận thức đã đẩy
các nhà triết học phương Đơng và phương Tây ít nhiều lại gần hơn với những
quan niệm duy tâm thần bí coi thế giới thần linh như một điểm tựa cuối cùng…
Đó là những nét giống nhau cơ bản của triết học phương Đông và triết học
phương Tây. Tuy vây, sự khác biệt giữa triết học phương Đông và triết học
phương Tây là hết sức sâu sắc. Tựu chung lại, các quan niệm triết học trong lịch
sử triết học phương Đông và phương Tây tập trung ở một só nội dung sau:
* Quan niệm về mục đích của triết học
Sự ra đời của triết học trước hết xuất phát từ những đòi hỏi của cuộc
sống; điều này làm cho triết học có vị trí đặc biệt quan trọng; sự tồn tại của triết
học khơng phải vì bản thân của triết học mà bởi vì nó cần cho cuộc sống. Tuy
9


vậy, mục đích của hai nền triết học cũng có sự khác nhau. Mục đích của triết
học Phương Tây là nhận thức để cải tạo thế giới; triết học trở thành công cụ
giúp cho con người chinh phục tự nhiên. Trong khi đó mục đích của triết học
phương Đơng lại chủ yếu nhằm xây dựng những con người lý tưởng, khôi phục
lại “trật tự xã hội đã mất” (Nho giáo) hay “ giải thoát” con người (Phật giáo),
làm cho con người “hòa đồng” với thiên nhiên (Đạo giáo)…
* Quan niệm về phương pháp tiếp cận của triết học
Triết học phương Tây thường đi từ thế giới quan, bản thể luận đến nhân
sinh quan, nhận thức luận, lô gic học, từ đó tạo nên một hệ thống tương đối
hồn chỉnh, chặt chẽ. Triết học phương Tây nhìn chung có xu hướng đi từ thực
thể ban đầu tạo nên thế giới như nước, lửa, khơng khí, ngun tử… Trong khi
đó triết học phương Đông, các nhà tư tưởng lớn lại đi từ nhân sinh quan đến thế
giới quan. Việc đề cập tới giới tự nhiên xét đến cùng cũng là nhằm để lý giải về

con người và xã hội loài người.
Sự khác nhau về phương pháp tiếp cận của triết học phương Đơng và triết
học phương Tây cịn có những cách lý giả khác nhau. Tuy nhiên, theo tôi điều
này chủ yếu xuất phát từ nguyên nhân sau đây:
Như chúng ta đã phân tích, ở phương Đơng khơng tồng tại chế độ nơ lệ
quy mơ điển hình như ổ phương Tây. Ở Trung quốc chế độ nơ lệ có manh nha từ
thời nhà Ân (thế kỷ XIV trước CN). Đến thời Tây Chu (1027-770 Trước CN)
nhà nước mang tính chất nơ lệ ra đời, đay là giai đoạn phương thức sản xuất cịn
hết sức lạc hậu, chưa có đồ sắt. Trong khi đó, Hy Lạp sự xuất hiện của nhà nước
lại hồn toàn ngược lại.
Sự xuất hiện của đồ sắt đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh
chóng. Chế độ ngun thủy được “thanh tốn” một cách nhanh chóng và triệt
để. Quan hệ sản xuất mới ra đời và trên cơ sở đó hình thành nhà nước. Như vậy,
theo quy luật ở phương Tây cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Cịn
ở phương Đơng, kiến trúc thượng tầng lại hình thành trước và thúc đẩy sự phát
triển của cơ sở hạ tầng.
10


* Quan niệm về đối tượng nghiên cứu của triết học
Từ phương pháp tiếp cận, mục đích của hai nền triết học có sự khác nhau
mà đối tượng nghiên cứu của triết học Phương Đơng và Phương Tây cũng có sự
khác nhau.
Đối với triết học Phương Tây, đối tượng của triết học rất rộng, bao gồm
toàn bộ giới tự nhiên, xã hội và tư duy con người, trong đó tự nhiên là cơ sở.
Chính vì đối tượng rất rộng cho nên phạm vi tri thức triết học cũng rất rộng và
vô cùng phong phú, bao quát trên nhiều lĩnh vực. Ví lấy tự nhiên làm cơ sở nên
triết học có xu hướng ngả sang “hướng ngoại” tức là lấy cái bên ngồi giải thích
cho cái bên trong, hướng hoạt động của con người ra thế giới tự nhiên. Muốn
tồn tại con người phải chinh phục tự nhiên. Triết học Phương Tây ln tìm cách

trả lời cho câu hỏi: ta là ai? Ta có cái gì? Ta sẽ được những gì?... Đề cao “văn
minh vật chất” do vậy triết học Phương Tây hơi ngả về duy vật. Hướng ngoại và
ngả về duy vật khơng có nghĩa là triết học Phương Tây khơng có hướng nội và
duy tâm, song hướng ngoại và duy vật vẫn là cơ bản. Điều này được luận giải
bởi nó đi từ thế giới quan đến nhân sinh quan từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc
thượng tầng.
Đối với Phương Đông, đối tượng của triết học là xã hội, là con người cá
nhân, là cái “Tâm” và nhìn chung nó lấy con người làm gốc. Triết học Phương
Đơng xem cái tinh thần là cái cao cả, giá trị của con người tìm ở tinh thần và
chính nó làm cho những con người ngày càng mang tính người hơn. Phương
Đơng quan niệm: “Thiên thời, địa lợi, nhân hịa”, có thiên thời, có địa lợi nhưng
khơng thể thiếu nhân hịa. Điều này cho thấy con người tình cảm, đạo đức,
lương tâm là cao quý. Tri thức triết học Phương Đông bị giới hạn bởi những vấn
đề xã hội, chính trị, đạo đức, tâm linh. Nếu triết học Phương Tây nghiêng về
“hướng ngoại” thì triết học Phương Đơng lại thịnh về “hướng nội”, lại lấy cái
bên trong giải thích cho cái bên ngồi. Ví dụ như “Người buồn cảnh có vui đâu
bao giờ” (Nguyễn Du). Đồng thời triết học Phương Đông cũng ngả về duy tâm.
Ở Ấn Độ trường phái duy vật (Lokayata) còn được gọi là những kẻ “tham ăn tục
11


uống”… Có lẽ những điều này một lần nữa được lý giải bởi triết học Phương
Đông đi từ nhân sinh quan đến thế giới quan, từ kiến trúc thượng tầng đến cơ sở
hạ tầng.
Một vấn đề cũng cần lưu ý là triết học Phương Tây đề cao tri thức khoa
học (duy khoa học) mà rất ít bàn đế những vấn đề đao đức, lương tâm hay trách
nhiêm… thì triết học Phương Đơng lại đề cao tình cảm, chỉ cần sống tố…(duy ý
chí). Điều này dẫn đến xã hội Phương Tây ln phát triển năng động cịn các xã
hội Phương Đơng thường có xu hướng bình lặng, đi vào ổn định.
Nếu triết học Phương Tây ngả về tư duy duy ý, phân tích, sự vật hiện

tượng thì triết học Phương Đơng lại nghiêng về trực giác. Mối phương pháp có
những ưu điểm và hạn chế nhất định nhưng rõ ràng tư duy duy lý làm cho khoa
học kỹ thuật phát triển kéo theo sự phát triển của công nghiệp. Khôn phải ngẫu
nhiên mà các nước Phương Tây hoặc Phương Tây hóa lại có nền khoa học kỹ
thuật phát triển cao. Phương pháp trực giác (hiểu thẳng vào bản chất “sâu thẳm”
của sự vật hiện tượng). Đây là phương pháp phù hợp với nhận thức sự vật đang
sống, đang vận động biến đổi khơng ngừng nhưng cũng chính nó khơng tạo ra
được bước phát triển trong khoa học kỹ thuật. Mặt khác, không khi nào “trực
giác” của chúng ta cũng nắm bắt được bản chất của đối tượng.
Thực ra, hai phương pháp này có mối quan hệ mật thiết với nhau, có thể
bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Nếu khơng phân tích, mổ xẻ đối tượng thì khơng thể
hiểu một cách đầy đủ về đối tượng. Tuy nhiên tuyệt đối hóa nó thì lại rơi vào sai
lầm. Bởi lẽ, con người khơng thể nắm bắt được giới tự nhiên một cách đầy đủ
như một chỉnh thế. Nhận thức của con người là một q trình, đó là một q
trình vơ hạn. trong khi đó cuộc đời con người là có hạn. Cái có hạn vươn tới cái
vơ hạn, cái tuyệt đích cuối cùng cũng sẽ là một mâu thuẫn, một bi kịch. Để nhận
thức bản chất của sự vật (nói đúng hơn chỉ là cái gần nhất bản chất) chúng ta
không khỏi phải tạo ra những trừu tượng, những khái niêm…và phương pháp
trực giác lúc này lại tỏ ra phù hợp.
* Quan niệm về phương pháp luận
12


Một sự khác biệt là có tính phương pháp luận giữa hai nền triết học là ở
chỗ, triết học Phương Tây phân biệt rõ chủ thể và khách thể, chủ quan và khách
quan, người nhận thức và đối tượng nhận thức thì ở Phương Đơng chủ trương
để nhận thức sự vật con người cần phải hịa mình vào đối tượng. Minh triết
Phương Đông cho rằng hiểu cái hiểu của người khác là không thực hiểu.
Nếu như công cụ, phương tiện nhận thức của triết học Phương Tây là
khái niệm thì công cụ, phương tiện nhận thức của triết học Phương Đông lại là

những ẩn dụ, liên tưởng, ngụ ngôn. Với những cơng cụ khái niệm việc phân
tích, mơ tả đối tượng trở nên rõ ràng hơn. Tất nhiên nếu chỉ trên cơ sở khái niệm
dễ dẫn chúng ta đến chỗ khơng phân tích trực tiếp đối tượng mà chỉ là cái bóng
của khia niệm chùm lên đối tượng.
Trong q trình phát triển, triết học Phương Tây thường có những sự biến
đổi nhảy vọt mang tính cách mạng, vạch thời đại. Có thể nói, triết học Phương
Tây ngày càng đi xa gốc, ngày càng phong phú. Trong khi đó triết học Phương
Đông lại nghiêng về sự phát triển tuần tự. Triết học Phương Đơng có sự phát
triển nhưng chỉ là sự phát triển cục bộ, đi sâu vào từng chi tiết. Những nhà triết
học đi sau thường bổ sung và hoàn thiện những quan niệm của người đi trước,
tự nhận là “học trò” của người đi trước. Với phương châm giữ lấy gốc mà phát
triển triết học Phương Đông như một dịng sơng cứ trơi đi, chảy mãi, ln đổi
hướng mà khơng bao giờ tách khỏi nguồn cội. Chính vì thế, Huxley gọi triết học
Phương Đông là “triết lý vĩnh cửu”
Về phép biện chứng cả triết học Phương Đông và Phương Tây đều thừa
nhận rằng chân lý thì chỉ có một cịn sai lầm thì phong phú vơ cùng. Tuy nhiên
phép biện chứng trong triết học Phương Tây nghiêng về đấu tranh, nghiêng về
vận động và phát triển theo chiều hướng đi lên…Thì triết học Phương Đơng lại
đề cao sự thống nhất, coi vận động và phát triển là những vòng tuần hồn, thậm
chí là những vịng trịn khép kín.
* Triết học phương Tây gắn với khoa học tự nhiên còn triết học
phương Đơng gắn với chính trị xã hội
13


Những sự khác biệt về cơ sở kinh tế xã hội lẽ dĩ nhiên dẫn đến những
khác biệt trong tư tưởng triết học. Bên cạnh đó chúng ta cũng thấy rằng, ở
Phương Tây các nhà triết học hầu hết đồng thời là những nhà khoa học tự nhiên.
Chính vì vậy, những tư tưởng triết học thường gắn với những tựu của khoa học
tự nhiên. Thời cổ đại Hy Lạp người ta quan niệm triết học - nghĩa là yêu mến sự

thông thái nhà triết học là nhà thông thái. Hêraclit coi phương châm nghiên cứu
của mình khơng dừng lại ở sự thông thái, hiểu biết nhiều mà quan trọng nhất là
nhà triết học phải nắm được cái “Logos”, tức là cái bản chất, quy luật của sự
vật…Trong quá trình nhận thức các sự vật hiện tượng tự nhiên, xã hội và con
người, các nhà triết học Phương Tây đã dựa vào các thành tựu của khoa học tự
nhiên nên xu hướng chủ đạo của triết học là duy vật.
Trái lại, Triết học phương đơng ít khi tồn tại dưới dạng triết học thuần
túy. Tư tưởng triết học thường “lẩn khuất” đằng sau những học thuyết chính trị
xã hội và tơn giáo. Nhà triết học ở Phương Đông chủ yếu là những người hoạt
động xã hội. Họ được coi là “người hiền” hay “hiền triết”, “minh triết”… Triết
học Phương Đơng nhìn chung xuất pháp từ việc luận giải những vấn đề xã hội
đang đặt ra. Việc đề cao luân lý đạo đức coi trọng tình cảm con người, mong
muốn xây dựng một “xã hội lý tưởng” bằng những con người lý tưởng… Đã
đưa những nhà triết học ít nhiều đến gần hơn với lập trường duy tâm, duy ý trí.
Bị chi phối bởi lập trường duy tâm, cho dù những nhà triết học Phương Đơng đã
cố gắng giải thích những vấn đề tự nhiên nhưng cuối cùng thì họ cũng khơng
khỏi quay về với thần linh, thượng đế, để tìm một chỗ dựa một lối thoát cho sự
bế tắc trong tư duy của họ.
* Triết học Phương Tây mang tính giai cấp trực diện cịn triết học
Phương Đơng thì tính giai cấp mờ nhạt
Lịch sự lồi người là một q trình lịch sử, tự nhiên, là sự thay thế của
các hình thái kinh tế, xã hội khác nhua. Tuy nhiên, không giống như ở Phương
Tây sự phân chia các hình thái kinh tế xã hội ở Phương Đông không rõ nét. Cịn
có nhiều quan điểm khác nhau về sự tồn tại của cái gọi là phương thức sản xuất
14


Châu Á. Nhưng có thể nhận thấy rằng có nhiều nguyên nhân, đặc biệt là chế độ
quốc hữu hóa về ruộng đất và sự tồn tại dai dẳng của công xã nông thôn đã làm
cho sự phát nhiển của các xã hội Phương Đơng có tính chất “tiệm tiến” mà ít có

những biến đổi nhảy vọt. Trong điều kiện như vây, mọi cá nhân bị hòa tan trong
cộng đồng, bị trói buộc trong những mối quan hệ cổ truyền. Việc đề cao đời
sống, tình cảm, tâm lý, luân lý, đạo đức đã khơng chỉ hạn chế lý trí của con
người mà còn làm cho con người giảm thiểu những nhu cầu, mất hết tính chủ
động sáng tạo.
Khổng Tử cho rằng mỗi con người đều có số mệnh định sẵn. Theo Khổng
Tử: Sinh hữu mệnh, phú quý tại nhiên” (nghĩa là sống chết có số phận, giàu
nghèo là tại trời). Ở đây đã thể hiện rõ triết lý định mệnh phục vụ cho giai cấp
thống trị, chế độ đẳng cấp, khuyên con người chấp nhận số phận, từ bỏ đấu
tranh…
Trái lại ở Phương Tây, ngay từ khi mới ra đời, triết học đã là thế giới
quan của các tập đoàn chủ nơ, thống trị xã hội. Chính vì vậy, nó mang tính giai
cấp, điều này thể hiện trong cuộc đấu tranh quyết liệt giữa chủ nghĩa duy vật và
duy tâm, giữa hai phương pháp biện chứng và siêu hình. Triết học thời ký phản
ánh cuộc đấu tranh giữa tầng lớp chủ nô dân chủ tiến bộ và tầng lớp chủ nô quý
tộc bảo thủ. Chủ nghĩa duy vật là thế giới quan của tâng lớp chủ nô dân chủ tiến
bộ, trong đó tiêu biểu phải kể đến là Anaxago, Ampedocolo, Democrit…Những
quan điểm triết học tiến bộ gắn liền với tư tưởng chính trị của họ là co sở lý
luận cho cuộc đấu tranh của tầng lớp chủ nô dân chủ. Ngược lại, chủ nghĩa duy
atam là thế giới quan của tầng lớp chủ nô quý tộc. Những đại biểu của chủ
nghĩa duy tâm tiêu biểu như Xocrat, Platon…Quan điểm triết học của họ thậm
chí khơng những phản khoa học mà cịn phản động về xã hội.
* Tính đấu tranh, phê phán trong sự phát triển của triết học
Triết học phương Đông trong suốt quá trình ra đời, hình thành, phát triển
của mình hầu như khơng diễn ra một cuộc cách mạng tư tưởng nào. các học
thuyết ra đời sau đều lấy học thuyết của thầy làm cơ sở xuất phát, nhằm luận
15


giải cho các vấn đề thực tiễn nảy sinh. Nó hầu như chỉ là sự mở rộng, làm giầu

có, phong phú và phát triển thêm các tư tưởng trước đó, ít có sự đấu tranh, phê
phán, bút chiến.
Như ở trung Quốc, với tư tưởng chủ đạo: “tôn sự trọng đạo”, “nhất tự vi
sư, bán tự vi sư” (một chữ là thầy, nữa chữ cũng là thầy), cho nên việc phê phán
thầy, việc phản thầy được xem như là một tội trọng, khơng phải là đức của
người qn tử. Chính vì vậy mà ở xã hội Trung Quốc, cách mạng xã hội có nổ
ra thì hệ tư tưởng cơ bản của xã hội vẫn khơng có gì thay đổi. Ví như đạo Nho
của Khổng Tử (được coi là Nho nguyên thuỷ, Nho tiền tần), rồi đến Hán Nho,
Tuỳ Nho, Tống Nho, Minh Nho…
Cịn ở Ấn Độ, người ta cũng khơng thể tách triết học Ấn Độ cổ đại thành
triết học thời kỳ chiếm hữu nô lệ và triết học thời kỳ phong kiến được. Nền triết
học Ấn Độ cổ đại là một nền triết học phát triển liên tục nhưng từ từ, chậm chạp
trong một bối cảnh xã hội như C. Mác nhận xét là tính chất “phương thức sản
xuất Châu Á” điểm hình.
Trong khi đó ở phương tây, tình hình này lại hồn tồn khác hẳn. Nếu ở
phương Đơng, tư tưởng truyền thống là “tơn sư trọng đạo”, thì ở phương Tây họ
lại quan niệm “thầy là đáng kính trọng, nhưng tri thức chân lý cịn quan trọng
hơn”. Chính tư tưởng này đã làm cho tính đấu tranh, phê phán, bút chiến ở
phương Tây diễn ra hết sức gay gắt và quyết liệt. Và chính nhờ sự đấu tranh
khơng khoan nhượng này mà triết học phương Tây đã gặt hái được rất nhiều
thành tựu rực rỡ. Ở phương Tây, cứ sau mỗi cuộc cách mạng xa hội, một hình
thái kinh tế - xã hội mới ra đời và tương ứng với nó là một loại hình triết học.
Khác với phương Đơng, ở phương Tây người ta có thể dễ ràng phân chia niên
đại, thời kỳ của triết học. Ở phương Tây có triết học chiếm hữu nơ lệ, triết học
phong kiến, triết học tiền tư bản…
Ngoài những đặc điểm khác biệt đã trình bày ở trên, đương nhiên sẽ cịn
nhiều điểm khác biệt nữa giữa hai nền triết học Đông - Tây mà do nhận thức của
tác giả còn hạn chế, cũng như trong khuôn khổ bài viết này chưa thể nêu hết ra
16



được. Như phần đầu bài viết đã trình bày, ở đây, tác giả bước đầu mới chỉ ra một
số điểm khác biệt giữa hai nền triết học ấy, góp phần rất nhỏ để làm rõ tính đặc
thù cũng như những đóng góp, hạn chế của hai nền triết học phương Đông và
phương Tây (chủ yếu là cổ - trung đại) trong lịch sử.
Tóm lại, sự phát triển của lịch sử tư tưởng triết học nhân loại là một dòng
chảy liên tục, không ngừng. Mỗi tư tưởng, trường phái, học thuyết ra đời đều ít
nhiều có những đóng góp vào sự phát triển của dòng suối chung trong lịch sử
tư tưởng nhân loại. Nghiên cứu các quan niệm triết học trong lịch sử triết học
phương Đông và phương Tây, chúng ta càng thấy sự cần thiết của việc quán
triệt và thực hiện đúng các yêu cầu phương pháp luận của việc nghiên cứu
triết học như: tính khách quan, tính Đảng, tính lịch sử, tính kế thừa… Mặt
khác, phải kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm phiến diện một chiều
tuyết đối hố triết học phương Đơng, xem nhẹ triết học phương Tây hoặc
ngược lại. Và điều quan trọng hơn là phải học hỏi những điểm phù hợp, khắc
phục những mặt hạn chế, sai lầm, thiếu sót của hai nền triết học triết học ấy trên
cơ sở đó xây dựng phương pháp nhận thức khoa học, phương pháp tư duy đúng
đắn, rèn luyện năng lực tư duy độc lập, phê phán, biết tranh luận, tự tranh luận,
kế thừa, lọc bỏ, phát triển nhận thức khoa học, kiên định với lập trường duy vật
biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
III. LIÊN HỆ VỚI BẢN THÂN ANH CHỊ ĐỂ THẤY ĐƯỢC VAI
TRÒ CỦA TRIẾT HỌC VỚI CUỘC SỐNG
Thế giới ngày nay đang diễn ra những biến đổi hết sức sâu sắc, đã và
đang bị chi phối bởi xu thế tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế và phát triển nền kinh
tế tri thức đang diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế đến
chính trị, giáo dục và đào tạo, khoa học và cơng nghệ, ngoại giao, quốc phịng,
an ninh, v.v.. Trong bối cảnh biến động khôn lường, đặc biệt phức tạp ấy, vai trị
của triết học nói chung và các quan niệm triết học trong lịch sử triết học phương
Đông và phương Tây nói riêng khơng hề bị suy giảm, mà trái lại, ngày càng thể
hiện rõ hơn vai trò nhận thức và cải tạo thế giới to lớn của mình. Vì vậy, tất cả

17


các quốc gia, dân tộc muốn tồn tại và phát triển khơng thể khơng tính đến những
thời cơ, vận hội và những thách thức to lớn do tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế,
phát triển kinh tế tri thức đem lại. Hơn thế nữa, để tồn tại, phát triển và phát
triển ổn định, bền vững, khơng bị hịa tan, chệch hướng trước xu thế tồn cầu
hóa, tất cả các quốc gia, dân tộc, trong đó có Việt Nam, cần phải phát triển khoa
học và công nghệ hiện đại, giáo dục và đào tạo tiên tiến để đẩy nhanh q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Muốn vậy, triết học phải góp phần phát
huy nhân tố con người, khơi dậy tiềm năng vô tận của họ là một trong những
nhân tố đặc biệt quan trọng, mang ý nghĩa quyết định thành công trên con
đường xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Các quan niệm triết học trong lịch sử triết học phương Đông và phương
Tây là khoa học về thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận khoa
học, cách mạng, không thể đứng ngồi cuộc mà phải góp phần tích cực vào việc
hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển
nguồn nhân lực và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực hiện có. Trên cơ sở đó, triết
học nước ta trong kỷ ngun tồn cầu hóa cần có những nghiên cứu hết sức cơ
bản để vạch ra những định hướng lớn mang tầm chiến lược nhằm phát triển đất
nước đúng định hướng xã hội chủ nghĩa với những bước đi thích hợp cho mỗi
giai đoạn, thời kỳ; đảm bảo cho đất nước phát triển bền vững chứ không phải
phát triển bằng mọi giá.
Các quan niệm triết học trong lịch sử triết học phương Đông và phương
Tây có chức năng như: Chức năng nhận thức, chức năng đánh giá, chức năng
giáo dục… Nhưng quan trọng nhất là chức năng thế giới quan và chức năng
phương pháp luận.
Chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận của các quan
niệm triết học trong lịch sử triết học phương Đông và phương Tây là những vấn
đề được triết học đặt ra và tìm lời giải đáp trước hết là những vấn đền thuộc về

thế giới quan. Thế giới quan đóng vai trị đặc biệt quan trọng trong cuộc sống
của con người và xã hội loài người. Tồn tại trong thế giới dù muốn hay không
18


con người cũng phải nhận thức thế giới và nhận thức bản thân mình. Những tri
thức này dần dần hình thành nên thế giới quan lại trở thành nhân tố định hướng,
thế giới quan nên thế giới quan. Khi đã hình thành, thế giới quan trở thành nhân
tố định hướng cho quá trình con người tiếp tục nhận thức thế giới.
Như vậy, thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích
cực và trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự trưởng
thành của mỗi cá nhân cũng như của mỗi cộng đồng xã hội nhất định. Triết học
ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan
phát triển như một quán trình tự giác dựa trên sự tổng kế kinh nghiệm thực tiễn
và tri thức do các khoa học đưa lại.
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là hệ thống các quan điểm
chỉ đạo việc tìm tịi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp. Tuy
không phải là một ngành khoa học độc lập nhưng phương pháp luận là một bộ
phận không thể thiếu được trong bất kỳ một ngành khoa học nào. Xét phạm vi
tác dụng của nó, phương pháp luân ngành; phương pháp luận chứng và phương
pháp luận chung nhất.
Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và
vai trò của con người trong thế giới đó; với việc nghiên cứu những quy luật
chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy triết học thực hiện chức năng phương
pháp luận chung nhất khẳng định điều này, Ph.Ăngghen viết - khi phê phán
những nhà khoa học tự nhiên siêu hình khơng thấy được mối quan hệ biện
chứng các ngành khoa học, không thấy được sự khác nhau giữa tư duy lý luận
với tư duy thực nghiệm.
Những nhà khoa học tự nhiên tưởng rằng họ thoát khỏi triết học bằng
cách khơng để ý đến nó hoặc phỉ báng nó. Nhưng vì khơng có tư duy thì họ

khơng thể tiến lên được một bước nào và muốn tư duy thì họ cần có những
phạm trù lơgíc, mà những phạm trù ấy thì họ lấy một cách khơng phê phán,
hoặc lấy trong cái ý thức chung, thông thường của những người gọi là có học
thức, cái ý thức bị thống trị bởi những tàn tích của những hệ thống triết học lỗi
19


thời hoặc lấy trong những mảnh vụ của các giáo trình triết học bắt buộc trong
các trường đại học (đó khơng chỉ là những quan điểm rời rạc mà cịn là một mớ
hổ lớn những ý kiến của những người thuộc các trường phái hết sức khác nhau
và thường là những trường phái tồi tệ nhất) hoặc lấy trong những tác phẩm triết
học đủ loại mà họ đọc một cách khơng có hệ thống và khơng có phê phán. Cho
nên, dù sao, rút cục lại, họ vẫn bị lệ thuộc vào triết học và đáng tiếc thường là
thứ triết học tồi tệ nhất. Những kẻ nô lệ của những tàn tích thơng tục hố, tồi tệ
nhất của những học thuyết triết học tồi tệ nhất.
Dù những nhà khoa học tự nhiên có làm gì đi nữa thì họ cũng vẫn bị triết
học chi phối, vấn đề chỉ ở chỗ họ muốn bị chi phối bởi một thức triết học tồi tệ
hợp mốt, hay họ muốn được hướng dẫn bởi một hình thức tư duy lý luận dựa
trên sự hiểu biết về lịch sử tư tưởng và những thành tự của nó.
Vì vậy, các quan niệm triết học trong lịch sử triết học phương Đông và
phương Tây đồng thời là một nguyên tắc trong việc xác định phương pháp, là lý
luận về phương pháp. Những chức năng nói trên được thực hiện ở các học
thuyết triết học khoa học tạo nên khả năng cải tạo thế giới của học thuyết triết
học đó, trở thành một cơng cụ hữu hiệu trong hoạt động chế ngự giới tự nhiên
và sự nghiệp giải phóng con người của những lực lượng sản xuất.
Như vậy, nghiên cứu các quan niệm triết học trong lịch sử triết học phương
Đơng và phương Tây giúp chúng ta có phương pháp luận khoa học, đúng đắn
trong quá trình lao động sản xuất, trong việc chấp hành mọi chủ trương, đường
lối của Đảng; chính sách và luật pháp của Nhà nước; tin tưởng tuyệt đối vào sự
lãnh đạ của Đảng, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và đặc biệt tin tưởng

vào chính sách dân tộc, tơn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Hiện nay, do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế do
sự bùng phát của lối sống thực dụng chạy theo danh lợi bất chấp đạo lý đã dẫn
đến những tiêu cực trong xã hội ngày càng phổ biến. Những biểu hiện xa rời
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục, sự chống phá của các thế
lực phản động quốc tế nhằm thực hiện âm mưu “diễn biến hịa bình” đã tác
20


động không nhỏ đến đời sống đạo đức công dân, ảnh hưởng lớn đến tâm tư, tình
cảm, ý chí phấn đấu của sinh viên, thanh niên tri thức. Hậu quả là đã có một bộ
phận sinh viên phai nhạt niềm tin, lý tưởng, mất phương hướng phấn đấu, khơng
có trí lập thân, lập nghiệp, chạy theo lối sống thực dụng, sống thử, sống dựa
dẫm, thiếu trách nhiệm, thờ ơ với gia đình và xã hội, sa vào nghiện ngập, hút
xách: thiếu trung thực, gian lận trong thi cử, chạy điểm, chạy thầy, chạy trường,
mua bằng cấp... Đâv là những biểu hiện khơng thể coi thường.
Để khắc phục tình trạng trên, sinh viên hiện nay phải tích cực học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà
đạo đức học lỗi lạc mà cịn là một tấm gương đạo đức vơ song. Chính điều này
đã đem lại cho tư tưởng và tấm gương đạo đức của người có một sức sống mãnh
liệt và sự cổ vũ lớn lao không chỉ với nhân dân Việt Nam mà còn cả với nhân
dân thế giới trong cuộc đấu tranh vì dân chủ và tiến bộ xã hội. Để trở thành
người có ích cho xã hội, người chủ tương lai của nước nhà thế hệ trẻ Việt Nam
nói chung và sinh viên, thanh niên trí thức nói riêng cần phải học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Phải tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường đi lên
CNXH mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
Tích cực học tập, nghiên cứu khoa học, làm chủ kiến thức, năng lwucj
chuyên môn để làm hành trang sau này ra trường làm việc…
Tích cực tham gia các phong trào thanh niên do nhà trường phát động,

sống có trách nhiệm với xã hội…
Tích cực đấu trang chống mọi âm mưu diễn biến hịa bình, bạo loạn lật đổ
của các thế lực thù địch chống phá đảng và nhà nước ta, nhất là những tư tưởng
phản động deo rắc vào thế hệ trẻ.
Đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực trong quá trình học tập và mọi
biểu hiện sai trái ngồi xã hội.
Để thực hiện tốt những điều trên địi hỏi mỗi chúng ta phải nghiên cứu các
quan niệm triết học trong lịch sử phương Đông và phương Tây, từ đó hình thành
21


nên thế giới quan, phương pháp luận khoa học. Mỗi sinh viên phải việc tự tu
dưỡng, rèn luyện nâng cao trình độ mọi mặt và kỹ năng sống phù hợp để trở
thành người có ích cho xã hội.

22


KẾT LUẬN
Như vậy, nhìn chung triết học Phương Tây và Phương Đông cổ đại đều
xoay quanh giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Tuy nhiên, do những đặc
điểm kinh tế xã hội và lịch sử triết học Phương Đơng và triết học Phương Tây
cũng có sự khác biệt về nội dung, phương pháp tiếp cận, mục đích nghiên cứu,
đối tượng của triết học… Mặc dù có sự khác nhau nhất định, xong triết học
Phương Tây cũng như triết học Phương Đông đã cơ bản đáp ứng được những
vấn đề cấp bách mà thời đại lúc bấy giờ đã đặt ra. Theo như C.Mác: “mọi triết
học chân chính đều là tinh hoa về mặt tinh thần của thời đại mình”.
Các quan niệm triết học trong lịch sử triết học phương Đông và phương
Tây đã đặt những nền tảng hết sức có giá trị cho sự phát triển của triết học, là
kết tinh những giá trị văn hóa của thời đại. Những giá trị của hai nền triết học

phương Đông và phương Tây đã đạt được là những viên ngọc q mà hào
quang của nó cịn mãi tỏa sáng khơng chỉ hơm nay mà cịn tới mãi tận mai sau.

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C. Mác và Ph Ăngghen, Toàn tập (1995), Tập 21, Nxb Sự Thật , Hà Nội.
2. Dỗn Chính (Chủ biên), Đại Cương Triết Học Phương Đơng Cổ Đại,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
3. Giáo Trình Triết Học Mác - LêNin (dùng cho các trường ĐH&CĐ), Bộ
giáo dục và đào tạo (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Trần Đăng Sinh (chủ biên), Lịch sử Triết học, Nxb Đại học sư phạm,
Hà Nội, 2009.

24



×