Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Quan điểm của Samuel P. Huntington về văn minh, sự va chạm của các nền văn minh và một trật tự thế giới dựa trên các nền văn minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (596.22 KB, 76 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





NGUYỄN VĂN QUYẾT



QUAN ĐIỂM CỦA Samuel P. Huntington VỀ VĂ N MINH,
SỰ VA CHẠM CỦA CÁC NỀN VẰN MINH VÀ MỘT TRẬT
TỰ THẾ GIỚI DỰA TRÊN CÁC NỀN VĂN MINH


Chuyên ngành: TRIẾT HỌC

Mã số : 60.22.80



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN
PGS.TS. Phạm Văn Đức







HÀ NỘI - 2008



1

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1.Tính cấp thiết của đề tài 3
2.Tình hình nghiên cứu 4
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 5
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5
5.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 6
6.Đóng góp của luận văn 6
7.Ý nghĩa của luận văn 7
8.Kết cấu của luận văn 7
Chương 1 8
QUAN ĐIỂM CỦA SAMUEL P. HUNTINGTON 8
VỀ VĂN MINH, SỰ VA CHẠM CỦA CÁC NỀN VĂN MINH 8
1.1. Một số nét khái quát về tác giả, tác phẩm và hoàn cảnh ra đời 8
1.1.1. Tác giả 8
1.1.2. Tác phẩm 9
1.2. Quan điểm của Huntington về văn minh, các nền văn minh trong lịch sử và đương đại, mối
quan hệ giữa các nền văn minh 13
1.2.1. Quan điểm về văn minh 13
1.2.2.Các nền văn minh trong lịch sử và đương đại 20
1.2.3Mối quan hệ giữa các nền văn minh 22

1.3.Quan điểm của Huntington về sự va chạm của các nền văn minh 28
1.3.1 Sự va chạm của các nền văn minh 28
1.3.2 Nguyên nhân sự xung đột của các nền văn minh 31
1.3.2.1 Nguyên nhân từ bản thân nền văn minh 31
1.3.2.2.Các nguyên nhân lịch sử, dân số, chính trị 34
1.4. Về những cuộc xung đột gần đây trên thế giới thực chất có phải là bằng chứng của “Sự
va chạm giữa các nền văn minh” như Huntington dự đoán. 37
Chương 2 41
MỘT TRẬT TỰ THẾ GIỚI MỚI DỰA TRÊN CÁC NỀN VĂN MINH 41
2.1. Trật tự hai cực Ianta và sự sụp đổ của nó 41
2.1.1. Trật tự hai cực Ianta 41
2.1.2.Sự sụp đổ của trật tự hai cực Ianta 44
2.2. Dự báo xu thế trật tự quốc tế trong những năm tới 44


2

2.2.1. Xu hướng thiết lập thế giới đơn cực 44
2.2.2. Quan điểm về sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước 47
2.3. Một trật tự thế giới mới dựa trên các nền văn minh 50
2.3.1. Nhà nước chủ chốt và tập hợp các nhóm quốc gia theo nền văn minh 50
2.3.2.Các liên kết chính trị dựa trên bản sắc văn hóa 55
2.3.3Văn hoá và hợp tác kinh tế 58
2.3.4.Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc dựa trên sự phân chia quyền lực của văn minh 60
2.4. Các liên kết chính trị quốc tế hiện nay có phải hoàn toàn dựa trên cơ sở các nền văn minh ? 61
KẾT LUẬN 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 71
































3


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Thế giới những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI chứng kiến rất nhiều
cuộc xung đột mang tính chất dân tộc, sắc tộc, tôn giáo và những vụ khủng bố
đẫm máu. Đi tìm nguyên nhân cho những hiện tượng này có rất nhiều cách lý
giải khác nhau. Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước
Đông Âu là cơ hội thuận lợi cho một số quan điểm của các học giả tư sản nổi
lên nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác bằng cách đưa ra những những cách lý giải
khác nhau về sự phát triển của lịch sử loài người. Trong các quan điểm đó,
phải kể đến quan điểm của các học giả như Alvin Topffler về Đợt sóng thứ
ba, Fukuyama về Sự kết thúc của lịch sử và đặc biệt gần đây là quan điểm của
S.P Huntington về Sự va chạm của các nền văn minh Đặc điểm chung của
các quan điểm trên đều phủ nhận một trong các nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác về động lực phát triển của lịch sử loài người trong xã hội có đối
kháng giai cấp là đấu tranh giai cấp; phủ nhận cách tiếp cận sự phát triển lịch
sử loài người từ học thuyết hình thái kinh tế - xã hội.
Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu, đi kèm với nó là sự sụp đổ
của cả một hệ thống trật tự quốc tế, trật tự hai cực Ianta. Thế giới sẽ đi về đâu,
trật tự nào sẽ thay thế trật tự Ianta? Mỹ và các nước phương Tây đang tạm
thời nắm những ưu thế nhất định về kinh tế, khoa học kỹ thuật, an ninh quốc
phòng… nhưng có phải họ có toàn quyền tự tung tự tác chủ động sắp đặt lại
trật tự thế giới theo mưu đồ chủ quan của họ?
Sự nổi lên của một số quốc gia châu Á và một số quốc gia ngoài văn minh
phương Tây đang thách thức các sức mạnh siêu cường của phương Tây. Sự
xuất hiện các mối quan hệ căng thẳng giữa phương Tây và các nước ngoài
phương Tây nhất là các nước Hồi giáo đòi hỏi cũng phải được giải thích và
tìm các biện pháp để giảm bớt căng thẳng đó.


4


S.P Huntington, trong tác phẩm “Sự va chạm của các nền văn minh”, là
người đưa ra câu trả lời khá mạch lạc về những vấn đề trên. Tuy nhiên, câu trả
lời của Huntington có nhiều điểm cần xem xét, bàn luận; nó có những điểm
hợp lý, những điểm chưa hợp lý, thậm chí có những điểm còn mang tính chủ
quan, gò ép. Phân tích làm rõ để tiếp thu những điểm hợp lý, phê phán các
điểm chưa hợp lý nhằm góp phần nhận thức những vấn đề quốc tế hiện nay là
lý do tôi chọn đề tài “Quan điểm của S.P Huntington về văn minh, sự va
chạm của các nền văn minh và một trật tự thế giới dựa trên nền văn minh”
làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2.Tình hình nghiên cứu
“Sự va chạm của các nền văn minh” là một tác phẩm lớn, gây được
nhiều sự tranh luận trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Ở Việt
Nam cũng đã có một số công trình nghiên cứu về tác phẩm này ở nhiều góc
độ khác nhau. Ví dụ như tác giả Dương Văn Lượng phê phán về nguồn gốc
chiến tranh của S.P Huntington [38]; tác giả Hồ Sĩ Quí phê phán thế giới quan
về văn minh qua đó cũng thể hiện mưu đồ chính trị của Huntington khi ông
“quá chú ý tới những khác biệt và mâu thuẫn, thổi phồng ý nghĩa và vai trò
tiêu cực của chúng, lãng quên hay cố tình lãng quên những giá trị khác của
văn hoá và văn minh” [50-23]. Đặc biệt, gần đây nhất, tác giả Nguyễn Chí
Tình xuất bản tác phẩm “Số phận các nền văn minh và thế giới ngày nay”,
một tác phẩm lớn nhất ở Việt Nam đưa ra các quan điểm tranh luận mang tính
toàn diện những vấn đề mà Huntington đặt ra từ khái niệm văn hoá, văn minh;
diện mạo các nền văn minh; mối quan hệ giữa các nền văn minh; số phận các
nền văn minh Trong đó, quan điểm cốt lõi mà tác giả Nguyễn Chí Tình
nhấn mạnh là thế giới hiện nay không phải xung đột văn minh đã thay thế các
hình thái xung đột khác, mà trái lại các xung đột giai cấp và hệ tư tưởng vẫn
đóng vai trò chủ đạo và nó biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Điểm



5

quan trọng nữa là, trái với Huntington dự đoán xu hướng xung đột giữa các
nền văn minh, Nguyễn Chí Tình cho rằng xu thế chung là đối thoại văn hoá,
văn minh; các nền văn minh phải cùng học hỏi để tồn tại trong hoà bình [59].
Tuy nhiên, trong đề tài luận văn của tôi “Quan điểm của S.P Huntington về
văn minh, sự va chạm của các nền văn minh và một trật tự thế giới dựa
trên các nền văn minh” dưới cái nhìn triết học, chính trị học thì chưa ai
nghiên cứu một cách có hệ thống.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là làm rõ quan điểm của Huntington về văn minh,
sự va chạm của các nền văn minh và việc thiết lập một trật tự thế giới mới
dựa trên các nền văn minh, chỉ ra những điểm hợp lý để kế thừa, những điểm
bất hợp lý để phê phán; qua đó bảo vệ những quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam về những vấn đề trên.
Để đạt được mục đích trên, luận văn phải thực hiện những nhiệm vụ cụ thể
như sau:
Thứ nhất, làm rõ quan điểm của Huntington về văn minh (khái niệm,
các yếu tố để xác định, mối quan hệ giữa các nền văn minh), sự va chạm của
các nền văn minh (nguyên nhân, biểu hiện sự va chạm), một trật tự thế giới
mới dựa trên các nền văn minh (văn minh với hợp tác kinh tế, văn minh với
chính trị, Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc dựa trên nền văn minh)
Thứ hai, từ những quan điểm đó, so sánh, đối chiếu với những sự kiện
thực tế xảy ra trong những năm gần đây để chỉ ra những điểm hợp lý, những
điểm chưa hợp lý của Huntington.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Các phạm trù văn hoá, văn minh, sự va chạm của các nền văn minh trong
luận văn được nghiên cứu không phải dưới góc độ văn hoá học mà được



6

nghiên cứu chủ yếu trong mối quan hệ với chính trị học, nhất là chính trị học
hiện đại giai đoạn cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn chủ yếu tập trung vào hai nội dung mà
Huntington đã đề cập đến trong tác phẩm “Sự va chạm của các nền văn minh”
đó là: thứ nhất, quan điểm của Huntington về văn minh và sự va chạm của các
nền văn minh; thứ hai, những dự đoán của Huntington về một trật tự thế giới
mới trong đó các liên kết chính trị chủ yếu dựa trên cơ sở văn minh.
Tác phẩm mà chúng tôi sử dụng trong luận văn này là bản dịch “Sự va
chạm của các nền văn minh” Nxb Lao động, Hà Nội 2003 do nhóm tác giả
Nguyễn Phương Sửu, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Phương Nam, Lưu Ánh
Tuyết dịch.
5.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật
lịch sử; quan điểm, nhận định của Đảng cộng sản Việt Nam về những mâu
thuẫn và xu thế chủ yếu của thời đại trong những năm đầu thế kỷ XXI là cơ
sở lý luận trực tiếp của luận văn này.
Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu chính như: lôgíc và lịch
sử, trừu tượng và cụ thể, phân tích và tổng hợp, so sánh đối chiếu, gắn lý luận
với thực tiễn…
6.Đóng góp của luận văn
Luận văn cố gắng làm rõ quan điểm của Huntington về văn minh, sự va
chạm của các nền văn minh và một trật tự thế giới dựa trên các nền văn minh;
nhằm chỉ ra những điểm hợp lý để kế thừa, những điểm không hợp lý để đấu
tranh, phê phán; qua đó, bảo vệ các quan điểm, đường lối của Đảng ta về
những vấn đề này.




7


7.Ý nghĩa của luận văn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các công trình nghiên cứu về
văn hoá, văn minh, về các vấn đề quốc tế hiện nay; đặc biệt vấn đề quan hệ
giữa các trung tâm quyền lực lớn trên thế giới trong những năm đầu thế kỷ
XXI nói chung; nghiên cứu về tác giả - Huntington, tác phẩm – “Sự va chạm
của các nền văn minh” nói riêng.
8.Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
hai chương, tám tiết.




















8


Chương 1
QUAN ĐIỂM CỦA SAMUEL P. HUNTINGTON
VỀ VĂN MINH, SỰ VA CHẠM CỦA CÁC NỀN VĂN MINH

1.1. Một số nét khái quát về tác giả, tác phẩm và hoàn cảnh ra đời
1.1.1. Tác giả
Samuel P. Huntington sinh ngày 18 tháng Tư năm 1927 tại New York,
đã từng học đại học tại Đại học Yale, lấy bằng thạc sĩ khoa học chính trị tại
đại học Chicago năm 1948, lấy bằng tiến sĩ tại Đại học Harvard năm 1951, là
giáo sư của trường Đại học Weatherhead III (USA), Chủ tịch Viện Hàn lâm
Harvard nghiên cứu về quốc tế, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Quan hệ
quốc tế và là Chủ tịch khoa nghiên cứu về chính phủ. Những năm 1977, 1978
Huntington làm việc tại Nhà Trắng với tư cách là điều phối viên của dự án an
ninh cho Hội đồng an ninh quốc gia. Trong hai năm 1986, 1987 ông là Chủ
tịch Hội Khoa học Chính trị Hoa Kỳ. Ông còn là người sáng lập và là Tổng
biên tập trong nhiều năm liền của tờ Tạp chí Foreign Policy. Là nhà nghiên
cứu chính trị và chiến lược, Huntington quan tâm nhiều đến các lĩnh vực an
ninh quốc gia; dân chủ và sự phát triển ở những nước kém phát triển; văn hoá
trong chính trị và bản sắc dân tộc của nước Mỹ. Huntington có nhiều công
trình nghiên cứu về các lĩnh vực trên được đăng trên các tạp chí của Mỹ như:
Quân nhân và nhà nước (The Soldier and The State), Lý thuyết và quan điểm
chính trị của quan hệ dân sự - quân đội (The Theory and Politics of Civil –
Military) 1957; Trật tự chính trị trong xã hội thay đổi (Political Order in
Changing Societies) 1968; Làn sóng thứ ba: Dân chủ hoá cuối thế kỷ XX
(The third wave: Democratization in the late Twentieth Century) 1991; Sự va



9

chạm của các nền văn minh và trật tự thế giới, (The Clash of Cilivizations and
the Remaking of World Order) 1996…[Tham khảo các tài liệu số 32, 52]
1.1.2. Tác phẩm
“Sự va chạm của các nền văn minh” có nguồn gốc từ một bài báo có
tên “Sự va chạm của các nền văn minh” đăng trên Tạp chí Foreign Affairs, số
3, năm 1993. Sau khi bài báo được đăng, có nhiều ý kiến tranh luận khác
nhau. Tổng hợp chi tiết các cuộc tranh luận, Huntington đã đào sâu thêm từng
chi tiết và viết lại thành một quyển sách dày 367 trang với tựa đề “The Clash
of Civilizations and the Remaking of World Order” (Sự va chạm của các nền
văn minh và việc tái thiết lập trật tự thế giới) xuất bản năm 1996. Ở Việt
Nam, tác phẩm này được nhóm dịch giả Nguyễn Phương Sửu, Nguyễn Văn
Hạnh, Nguyễn Phương Nam, Lưu Ánh Tuyết nhà xuất bản Lao động ấn hành
năm 2003 với tiêu đề “Sự va chạm của các nền văn minh”
1.1.3. Một số đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội cơ bản giai đoạn cuối thế
kỷ XX, đầu thế kỷ XXI.
Cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, thế giới chứng kiến nhiều sự biến to lớn
về mọi mặt cả kinh tế, chính trị, xã hội. Sự biến đổi này đã được nhiều học
giả, nhà nghiên cứu và cả các chính trị gia phân tích tỉ mỉ, chi tiết trên nhiều
góc cạnh khác nhau. Khái quát lại, có thể thấy các đặc điểm chính như sau:
Thứ nhất, sự khủng hoảng toàn diện của chủ nghĩa xã hội nói chung và sự
sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô nói riêng
đã và đang tác động nghiêm trọng đến cục diện chính trị thế giới. Sự kiện này
dẫn đến ba hệ quả trực tiếp đó là: sự sụp đổ của trật tự thế giới cũ - trật tự
Ianta và sự hình thành những quan điểm về trật tự thế giới mới; nhiều liên kết
chính trị trước đây dựa trên nền tảng hệ tư tưởng mất đi và các liên kết chính
trị quốc tế mới đang hình thành; sự khủng hoảng về bản sắc, xác định các giá
trị cá nhân và vấn đề quay trở lại chủ nghĩa dân tộc. Ví dụ, trước đây để ngăn



10

chặn chủ nghĩa cộng sản, nhiều quốc gia thuộc thế giới Hồi giáo tham gia liên
minh quân sự với các nước phương Tây. Hiện nay, chủ nghĩa cộng sản không
còn là nguồn đe dọa nữa thì các liên kết này cũng tan rã theo, thế vào đó là
các mối quan hệ dựa trên các nền tảng khác nhất là văn hóa. Cũng tương tự
như vậy, trước đây một người là “cộng sản” (có tính chất hệ tư tưởng) bây giờ
chủ nghĩa cộng sản không còn nữa, họ lấy bản sắc dân tộc làm điểm xác định
“người Nga”, “người Serbia”, “người Ucraina”…(có tính chất văn hóa, văn
minh) là những khái niệm thay thế. Đây chính là cơ sở khách quan để hình
thành các quan điểm về “văn minh – xung đột văn minh”, “sự hình thành trật
tự thế giới mới.”
Thứ hai, cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại diễn ra như vũ bão
nhất là cuộc cách mạng trong lĩnh vực công nghệ thông tin đã làm cho thế
giới trở nên nhỏ bé hơn, thế giới được coi như một “ngôi làng toàn cầu” (chữ
của T.L Friedman). Theo chúng tôi, đây cũng là một lý do dẫn tới sự xuất
hiện những tư tưởng “xung đột văn minh”, tại sao trước đó không ai nhắc tới,
không ai chú ý hay không diễn ra các hành động mà chúng ta gọi là xung đột
văn minh? Phải chăng cuộc cách mạng thông tin, quá trình toàn cầu hoá về
kinh tế làm cho con người có nhu cầu khẳng định và bảo vệ bản sắc riêng của
mình. Cách mạng thông tin làm cho mỗi hành vi đơn lẻ có giá trị toàn cầu,
điều mà T. L. Friedman gọi là “toàn cầu hoá cá nhân”.
Thứ ba, quá trình khu vực hoá và quốc tế hoá, trước hết trên lĩnh vực kinh
tế đang diễn ra mạnh mẽ tác động sâu sắc tới mọi mặt của thế giới, quá trình
này đang bị chi phối bởi các nước phát triển và các tập đoàn xuyên quốc gia.
Quá trình quốc tế hoá kinh tế đã đưa đến hệ quả chính trị - xã hội và quan hệ
quốc tế là: chủ nghĩa tư bản đã trở thành một hệ thống toàn thế giới của một
nhóm nhỏ các nước phát triển áp bức các nước kém phát triển và dùng sức

mạnh tài chính để thống trị đại đa số nhân dân thế giới. Quá trình quốc tế hoá


11

kinh tế cũng kéo theo các mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản, giữa các dân tộc
phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc, giữa các nước giàu và nước nghèo, giữa các
nước đế quốc với nhau tăng cao. Hệ quả chính trị rõ rang nhất của quá trình
toàn cầu hóa này là: các nước tư bản phát triển đang ra sức bành trướng các quan
hệ tư bản chủ nghĩa ra toàn thế giới và thiết lập hệ thống phân công lao động thế
giới theo mô hình “trung tâm - ngoại vi” do họ là trung tâm phần còn lại của thế
giới là ngoại vi; ngược lại, các nước đang phát triển và chậm phát triển đang nỗ
lực tranh thủ quá trình toàn cầu hoá kinh tế để thực hiện kiểu phát triển rút ngắn và
phấn đấu cho một hệ thống phân công lao động thế giới và hệ thống quan hệ
quốc tế dân chủ và bình đẳng; các nước lớn vừa hợp tác vừa kiềm chế lẫn nhau,
cạnh tranh quyết liệt với nhau trong việc đấu tranh để hình thành “trật tự thế
giới mới” thay thế cho “trật tự hai cực” đã tan vỡ cùng với sự sụp đổ của Liên
Xô. Mỹ muốn “trật tự đơn cực” do Mỹ làm bá chủ. Các nước khác, nhất là
Nga, Trung Quốc, EU, Ấn Độ…muốn “trật tự đa cực” mà bản thân họ cũng là
các cực đối trọng với Mỹ.
Thứ tư, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo,
chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố xảy ra nhiều nơi với
tính chất phức tạp ngày càng tăng. Quá trình toàn cầu hoá, bên cạnh tăng thêm
quan hệ hợp tác, hiểu biết giữa các quốc gia dân tộc cũng làm nảy sinh sự
thức tỉnh về lợi ích của các quốc gia dân tộc. Cộng với sự phát triển của chủ
nghĩa bá quyền, mưu toan làm bá chủ thế giới của chủ nghĩa đế quốc, đứng
đầu là Mỹ đã đẩy xung đột trong xã hội loài người hiện nay diễn ra dưới
những màu sắc dân tộc, tôn giáo, sắc tộc với những quy mô, phạm vi, mức độ
căng thẳng, quyết liệt khác nhau. Xu hướng của các xung đột này khi âm ỉ,
khi bùng phát; phạm vi của nó có thể trong một quốc gia, dân tộc thậm chí

khu vực hay toàn cầu. Từ những cuộc xung đột đó làm nảy sinh nhiều tình
huống phức tạp như chạy đua sản xuất, buôn bán vũ khí, chiến tranh, khủng


12

bố, can thiệp, lật đổ…Những đặc điểm chính của các cuộc xung đột liên quan
đến vấn đề dân tộc, tôn giáo giai đoạn hiện nay là: xu hướng chính trị hóa các
vấn đề tôn giáo; xu hướng quốc tế hóa các vấn đề tôn giáo và các cuộc xung
đột tôn giáo ngày càng mang yếu tố bạo lực gắn với các hoạt động khủng bố.
Việc giải quyết vấn đề này liên quan đến nhiều quốc gia, nhiều dân tộc, nhiều
lĩnh vực. Vấn đề đặt ra là, các quốc gia, các dân tộc, các tôn giáo phải biết tôn
trọng những quy luật chung để cùng tồn tại, tôn trọng quyền và lợi ích chính
đáng của mọi người, mọi quốc gia, dân tộc khác.
Có thể thấy rằng, ở giai đoạn hiện nay của quá trình toàn cầu hoá, sự hợp
tác và đấu tranh cũng như các liên kết, liên minh, tập hợp lực lượng trên
trường quốc tế đang xoay quanh mấy chủ đề lớn là: chiến tranh và hoà bình;
độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia; sự phát triển bền vững; sự hình thành
trật tự thế giới mới.
Văn minh không phải là cái mới xuất hiện, cũng không phải là khái niệm
mới mà trái lại, “lịch sử nhân loại là lịch sử của các nền văn minh” [52-32].
Trong các nền văn minh đương đại, có những cái đã tồn tại rất lâu như văn
minh Trung Hoa (Khổng giáo), văn minh Ấn Độ (Hinđu), có những cái mới
hơn như văn minh phương Tây hay văn minh Mỹ Latinh nhưng tại sao trước
đó các nền văn minh này lại không va chạm với nhau (trước đó đã có nhưng
không thành một xu thế chủ đạo) mà chỉ sau chiến tranh Lạnh các nền văn
minh này mới va chạm với nhau tạo thành một xu thế chủ yếu trong chính
trường quốc tế? Chắc hẳn các điều kiện kinh tế xã hội là nguyên nhân không
nhỏ chi phối xu thế này.



13

1.2. Quan điểm của Huntington về văn minh, các nền văn minh trong lịch sử
và đương đại, mối quan hệ giữa các nền văn minh
1.2.1. Quan điểm về văn minh
Có thể thấy, trong tác phẩm “Sự va chạm của các nền văn minh”
Huntington không đưa ra một khái niệm đầy đủ về văn minh (một định
nghĩa), cũng không bàn sâu khái niệm văn minh theo nghĩa hàn lâm, truyền
thống mà ông chỉ đề cập và phân tích khái niệm này trong mối tương quan với
chính trị học, nhất là chính trị học gắn với thực tiễn giai đoạn cuối thế kỷ XX.
Bản chất, diện mạo, những yếu tố của nền văn minh được Huntington phân
tích qua các điểm chính như sau:
Thứ nhất, ông trích dẫn các nhà nghiên cứu và cho rằng văn minh được
các nhà tư tưởng Pháp đưa ra từ thế kỷ XVIII để đối lập với “man rợ”, xã hội
văn minh khác xã hội nguyên thủy vì nó được ổn định, đô thị hoá và có học
vấn. Khái niệm văn minh được hiểu theo nghĩa số nhiều – các nền văn minh.
Thứ hai, cơ sở để xác định và phân chia các nền văn minh khác nhau
Huntington căn cứ vào rất nhiều đặc điểm như chủng tộc, ngôn ngữ, lịch sử,
lối sống, huyết thống, tín ngưỡng, văn hóa “Văn minh có thể là một sự hoà
trộn phức tạp các mức cao của đạo đức, tôn giáo, học vấn, nghệ thuật, triết
học, công nghệ, phồn thịnh và có thể còn nhiều tố chất khác”[52-447]. Nhưng
theo ông yếu tố quan trọng nhất để phân chia và xác định các nền văn minh
đó là tôn giáo (TG nhấn mạnh). Ông cho rằng, những nền văn minh lớn trong
lịch sử nhân loại thường hiện diện trong mối quan hệ chặt chẽ với các tôn
giáo lớn của thế giới ví dụ như Thiên chúa giáo gắn với văn minh phương
Tây, Khổng giáo gắn với văn minh Trung Hoa, đạo Hồi gắn với văn minh Hồi
giáo Những người khác nhau về chủng tộc, ngôn ngữ và lịch sử nhưng có
thể rất đoàn kết với nhau do cùng chung tôn giáo. Ngược lại, những người
khác nhau về tôn giáo rất có thể xung đột dữ dội với nhau mặc dù họ cùng



14

chủng tộc với nhau. Các ví dụ cụ thể như Thiên chúa giáo và Hồi giáo là
những tôn giáo bao trùm nhiều xã hội có nhiều chủng tộc, huyết thống, ngôn
ngữ khác nhau nhưng các tín đồ vẫn đoàn kết với nhau. Ông đi đến kết luận
rằng khác biệt cốt lõi giữa các nhóm người liên quan đến các giá trị, tín
ngưỡng, thể chế và cấu trúc xã hội của họ - tức văn minh, chứ không phải về
thể chất, hình thù hay mầu da – chủng tộc. Như vậy, có thể thấy, theo
Huntington có nhiều điểm khác nhau để xác định, phân chia các nền văn minh
nhưng tiêu chí quan trọng nhất là tôn giáo.
Thứ ba, văn minh theo quan điểm của Huntington mang tính toàn diện, có
nghĩa là người ta không thể hiểu đầy đủ một thành tố của văn minh mà không
xem xét quan hệ của nó trong tổng thể của nền văn minh bao trùm. Ví dụ
được ông đưa ra và phân tích rất sinh động là: một ngôi làng miền nam nước
Ý khác văn hóa ngôi làng miền bắc nước Ý những cả hai thuộc văn hóa Ý và
rõ ràng là nó khác một ngôi làng của nước Đức. Nhưng cả Ý và Đức đều
thuộc văn minh phương Tây và chắc chắn cả hai ngôi làng của văn minh
phương Tây này khác hẳn tính chất của một ngôi làng của Trung Quốc hay Ấn
Độ (thuộc các nền văn minh khác). Như vậy, ta không thể xác định nền văn
minh cho các ngôi làng này một cách độc lập mà phải xem xét nó trong tính
toàn diện của nền văn minh bao trùm. Điều đó cho thấy trong quan niệm của
Huntington, khái niệm văn minh rộng hơn khái niệm văn hoá, do đó, khi xem
xét một nền văn minh chúng ta phải xem xét trong phạm vi phổ quát của nó.
Theo Huntington, các nền văn minh không có ranh giới hữu hình, không
có điểm xuất phát và điểm kết thúc một cách rành mạch như ranh giới địa lý,
lãnh thổ hay lịch sử. Mỗi quốc gia, dân tộc hay cá nhân có thể xác định lại
bản sắc văn hóa của mình. Và do vậy, thành phần, đặc điểm của các nền văn
minh có thể được thay đổi theo thời gian. Đường ranh giới giữa các nền văn

minh không thực sự rành mạch nhưng có thực.


15

Thứ tư, nền văn minh không phải là cái cố định, bất biến, nó có thể chết
nhưng cũng có thể sống rất lâu; chúng tiến hoá, điều chỉnh, biến đổi tùy theo
các điều kiện xã hội cụ thể. Lịch sử đã chứng minh rằng, có nhiều nền văn
minh đã chết đi và nhiều nền văn minh mới xuất hiện (xem them trang 17,18
của luận văn). So với các thể chế chính trị hay các nhà nước thì nền văn minh
thường tồn tại dài hơn. Văn minh phương Tây, văn minh Hồi giáo, Trung
Hoa… là những nền văn minh như vậy, có nhiều thể chế chính trị đã ra đời,
lụi tàn và thể chế khác hình thành trên nền văn minh đó. Văn minh Khổng
giáo kéo dài hơn hai nghìn năm và nó chứng kiến rất nhiều những thể chế
chính trị của Trung Quốc trên đó.
Thứ năm, nền văn minh khác nhà nước, chúng không mang các bản chất,
chức năng như nhà nước. Nhà nước là các thực thể chính trị cấu thành của các
nền văn minh. Một nền văn minh có thể chứa đựng một hoặc nhiều đơn vị
chính trị. Các đơn vị này có thể là các bang, tiểu bang, các bộ tộc, dân tộc hay
các nhà nước. Nhật Bản, Ấn Độ là một nền văn minh và đồng thời là một nhà
nước. Các nền văn minh còn lại như phương Tây, Chính thống, Hồi giáo,
Khổng giáo, Mỹ Latinh có nhiều hơn một nhà nước.
Diện mạo của các nền văn minh được Hutington xác định ở năm đặc điểm
trên nhưng xuyên suốt tác phẩm ta thấy ông chỉ nhấn mạnh đặc điểm thứ hai
đó là tôn giáo. Các nền văn minh khác nhau là do theo các tôn giáo khác
nhau, xung đột giữa các nền văn minh cũng là xung đột tôn giáo, liên kết quốc
tế cũng được hình thành chủ yếu dựa trên sự tương đồng về tôn giáo.
Nếu so với các quan niệm truyền thống về văn minh thì ta thấy có những
sự khác biệt nhất định trong quan niệm của Huntington với các quan niệm
trước đó. Ví như, A.Toybee cho văn minh “là một kiểu xã hội mang tính lịch

sử nhất định, được đặc trưng bởi sự thống nhất văn hoá, tôn giáo mang tính
lãnh thổ và bởi những khuân khổ thời gian nhất định”. Quan điểm của Z.


16

Osadikaja: “Văn minh là một giai đoạn nhất định trong sự phát triển của loài
người, kế tiếp sau các kỷ nguyên man rợ và dã man. Nói cách khác, văn minh
chỉ có nghĩa là một kỷ nguyên nhất định trong sự phát triển lịch sử xã hội”.
V. S. Stepin và V.Z. Tolotykh thì cho rằng: “Văn minh – đó là những
thành tựu của loài người, bảo đảm cho sự tiến bộ của nó, đi từ trạng thái động
vật và sau đó là từ giai đoạn man rợ và dã man tiến đến các hình thức sống
đặc biệt mang tính con người. Các thành tựu văn minh liên quan đến cả chiếm
lĩnh giới tự nhiên bằng công nghệ lẫn sự hoàn thiện công việc điều tiết các
mối quan hệ xã hội”.
A. A. Zinoviev lại hiểu: “Nền văn minh là một hiện tượng mang tính lịch
sử, ra đời, sống, được hoàn thiện, thay đổi và chết đi. Nó ra đời và sống trong
những điều kiện xác định; trong số những điều kiện ấy có quy mô của các tập
đoàn người, mức độ tính phức tạp của chúng, tình trạng văn hoá vật chất, đặc
tính của chất liệu người, những khả năng tồn tại tự lập của các khu vực tương
đối lớn trong một thời gian dài và nhiều yếu tố khác nữa.” (phần này có tham
khảo và trích dẫn từ nguồn tài liệu số 59)
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu cũng đưa ra các quan niệm về văn minh
khác nhau như: Phan Ngọc khi phân biệt giữa văn hoá và văn minh ông cho
rằng: “văn minh liên quan trước hết đến kỹ thuật, tức là biện pháp riêng của
con người để tác động tới tự nhiên và làm chủ nó” và “sự tiến bộ của văn
minh bao gồm hai mặt: trước hết là một sự tiến bộ trong kỹ thuật để làm chủ
tự nhiên và sau đó là một sự tiến bộ về tổ chức xã hội theo cái nghĩa các thành
tựu về kỹ thuật giải phóng được một số lượng người ngày càng đông đảo khỏi
sự sản xuất trực tiếp để quan tâm đến các mặt khác như chính trị, nghệ thuật,

đạo đức, văn học…” [42-96].
Tác giả Phạm Thái Việt và Đào Thế Tuấn lại cho rằng: “Văn minh dùng
để chỉ trình độ phát triển cao của một nền văn hoá”, “Ở cấp độ chung nhất,


17

văn minh được hiểu là sự tổng hoà những thành quả vật chất và tinh thần của
loài người trong quá trình cải tạo thế giới; là thước đo của tiến bộ xã hội và
mức độ khai hoá của con người. Khi loài người tách mình khỏi giới động vật
thì cũng là bước khởi đầu của văn minh” [61-15].
Xét về mặt nguồn gốc, khái niệm “văn minh” có nguồn gốc từ phương Tây
bắt nguồn từ chữ civitas (tiếng Latinh có nghĩa là “thành phố”). Từ nghĩa gốc
này kéo theo hàng loạt từ và nghĩa phái sinh trong các ngôn ngữ châu Âu như
“thị dân”, “công dân” (civilis), civilization là “làm cho trở thành đô thị, đầy đủ
tiện nghi như đô thị”. Như vậy, văn minh là khái niệm có nguồn gốc từ
phương Tây dùng để chỉ trình độ phát triển của con người về phương diện vật
chất kỹ thuật [57-31]. Trong cách hiểu và trình bày của mình, dường như
Huntington đã đồng nhất văn minh với văn hóa “văn minh và văn hoá, cả hai
đều hướng đến lối sống tổng thể của một dân tộc và nền văn minh là một nền
văn hoá mở rộng” [52-34]. Chúng ta có thể tham khảo hai định nghĩa về văn
hóa sau đây: văn hóa theo quan niệm của E.B. Taylor (1871-1925) “Văn hóa
là một phức thể bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp,
tập quán cùng mọi khả năng và thói quen khác mà con người như một thành
viên của xã hội đã đạt được”; còn Federico Mayo, Tổng giám đốc UNESCO
cho rằng “Đối với một số người, văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời
trong các lĩnh vực tư duy và sáng tạo; đối với những người khác, văn hóa bao
gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản
phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lối sống,
lao động. Cách hiểu này đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận tại Hội nghị

liên chính phủ về các chính sách văn hóa họp năm 1970 tại Venise” [57-17].
Theo tác giả Hồ Sĩ Quý, thì cách hiểu văn minh của Huntington là hoàn toàn
khác biệt so với các nhà văn hóa học khác, đây là “khái niệm mới về văn
minh, chưa ai hiểu văn minh theo kiểu này”[50-18]. Cơ sở để phân chia các


18

nền văn minh khác nhau được ông căn cứ vào các yếu tố chính như: ngôn
ngữ, chủng tộc, lịch sử, phong tục, tôn giáo, huyết thống, thể chế…nhưng
quan trọng nhất là tôn giáo, “trong tất cả các yếu tố khách quan xác định các
nền văn minh thì tôn giáo thường là yếu tố quan trọng nhất…những nền văn
minh lớn trong lịch sử nhân loại thường hiện diện trong mối quan hệ chặt chẽ
với các tôn giáo lớn của thế giới”[52-35]. Trong số năm tôn giáo thế giới, thì
bốn gồm: Cơ đốc giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Khổng giáo, liên hệ chặt chẽ
với các nền văn minh lớn là phương Tây, Hồi giáo, Ấn Độ, Trung Hoa và
Chính thống (Phật giáo, Huntington không coi là một tôn giáo). Và căn cứ
vào đó, Huntington chia thế giới hiện nay thành bảy hay tám nền văn minh
chủ yếu. Ở đây, chúng ta thấy, văn minh phương Tây hay Hồi giáo khá thống
nhất ở điểm này, tuy nhiên các nền văn minh khác thì không hoàn toàn. Ví
như Nhật Bản, Nhật bản có thể có nền văn hoá riêng nhưng không có tôn giáo
riêng (hầu hết người Nhật theo đạo Shinto - đạo thần Nhật Bản, tựa như tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam. Ở Nhật Bản, có khoảng 95% người Nhật
theo đạo Shinto, 75% theo đạo Phật) [55-11]; văn minh Trung Hoa
Huntington cho Khổng giáo là tôn giáo (tín ngưỡng trung tâm) nhưng Khổng
giáo cũng chưa hẳn là một tôn giáo. Việt Nam được xếp trong nền văn minh
Khổng giáo nhưng Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo mà đạo Phật chiếm
đa số (trong những trường hợp này phải xác định là văn hóa mới chính xác).
Trường hợp văn minh châu Phi hay Mỹ Latinh cũng vậy, cả hai nền văn minh
này không có tôn giáo riêng mà chủ yếu họ cũng theo Thiên chúa, Tin Lành

hay Hồi giáo. Trường hợp Phật giáo, Phật giáo là một trong năm tôn giáo thế
giới nhưng Phật giáo lại không gắn một nền văn minh nào, mà nguyên nhân
Huntington cho là do Phật giáo chia làm hai nhánh Tiểu thừa và Đại thừa,
điều này cũng sẽ dẫn đến những sự mâu thuẫn (Cơ đốc cũng chia làm Thiên
chúa, Tin lành và Chính thống) nhưng tôn giáo này lại được gắn với văn minh


19

phương Tây. Không phải ngẫu nhiên mỗi nền văn minh thường gắn với một
hoặc một vài quốc gia có tiềm lực mạnh về kinh tế, chính trị, an ninh quốc
phòng. Từ đó ta thấy, cách phân loại của ông hình như có vẻ dựa vào việc
nhìn xem quốc gia hoặc nhóm hoặc quốc gia nào có thể tạo nên thế lực thách
thức được sức mạnh kinh tế và quân sự của Mỹ và phương Tây, rồi gán ghép
một thứ văn minh cho mỗi một nhóm hay quốc gia đó (việc xác định các nền
văn minh lớn, các nhà nước chủ chốt hay có thể trở thành nhà nước chủ chốt
của các nền văn minh).
Trong thực tế, có nhiều cách khác nhau để xác định các nền văn minh ví
như: nếu căn cứ vào địa lý ta có văn minh phương Đông, văn minh phương
Tây, văn minh Tây Á, văn minh sông Hồng…Người ta cũng có thể căn cứ
vào tôn giáo để xác định các nền văn minh như: văn minh Cơ đốc giáo, văn
minh Chính thống giáo, văn minh Hồi giáo…, hoặc căn cứ vào quan hệ sản
xuất, hay thể chế chính trị có: văn minh xã hội chủ nghĩa, văn minh tư bản
chủ nghĩa. Gần đây, có quan điểm gắn văn minh với trình độ phát triển của
sản xuất nên có văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh hậu
công nghiệp…[2] Cách phân loại của Huntington chỉ là một cách, nó phục vụ
cho mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của ông.
Như vậy, có thể thấy, các quan niệm truyền thống thường quan niệm văn
minh là một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử và thường nó hay gắn
với trình độ phát triển nhất định của khoa học kỹ thuật (lực lượng sản xuất)

còn Huntington thì hiểu văn minh ở những đặc điểm dùng để phân biệt sự
khác nhau giữa các nền văn minh (huyết thống, tôn giáo, lối sống…) điều này
dẫn đến cách nhìn mang tính chất chính trị chiến lược của ông trong việc xác
định các nền văn minh và mối quan hệ của chúng hiện nay.


20

1.2.2.Các nền văn minh trong lịch sử và đương đại
Về các nền văn minh đã có trong lịch sử, về vấn đề này, ông trích dẫn các
nhà nghiên cứu khác khi cho rằng cho đến nay các nhà nghiên cứu chưa thống
nhất trong việc xác định có bao nhiêu nền văn minh lớn đã có trong lịch sử:
“Quigley cho là có mười sáu rõ rệt và tám bổ sung, Toynbee cho là hai mươi
mốt hoặc hai mươi ba, Spengler cho là tám nền văn minh lớn, McNeill cho là
chín; Bagby cho là chín hoặc mười một, tuỳ thuộc vào việc xác định Nhật
Bản, Chính thống giáo có là một nền văn minh độc lập hay không. Melko sau
khi phục hồi các thư tịch cổ đã xác định có khoảng mười hai nền văn minh
lớn, bảy trong số đó hiện không tồn tại (Lưỡng Hà, Ai Cập, Cổ Đại, Trung
Mỹ, Cretan, Byzantin, Andes), năm nền văn minh đang còn tồn tại là: Trung
Hoa, Nhật Bản, Ấn Độ, Hồi giáo, phương Tây. Cùng với năm nền văn minh
này, cần bổ sung các nền văn minh đương đại là Chính thống giáo, Mỹ Latinh
và có thể là châu Phi” [52-39]
Các nền văn minh đương đại, theo Huntington, thế giới hiện nay đang tồn
tại bảy hoặc tám nền văn minh chủ yếu đó là:
Văn minh Trung Hoa, xuất hiện khoảng 1500 trước công nguyên, Khổng
giáo là một thành phần to lớn trong nền văn minh Trung Hoa. Nền văn minh
Trung Hoa bao gồm toàn bộ vùng người Hoa ở Đông Nam Á và cả các quốc
gia ảnh hưởng của đạo Khổng như Việt Nam, Triều Tiên.
Văn minh Nhật Bản, nền văn minh này có cội nguồn từ văn minh Trung
Hoa, xuất hiện từ khoảng 100 đến 400 năm sau công nguyên (Huntington

không xác định tôn giáo nào là trung tâm của văn minh Nhật Bản).
Văn minh Ấn Độ (Hinđu), theo ông nền văn minh này có thể gồm nhiều
nền văn minh kế tiếp nhau tồn tại trên tiểu lục địa Ấn Độ khoảng từ 1500 năm
trước công nguyên, Ấn Độ giáo là tôn giáo trung tâm của nền văn minh này.


21

Văn minh Hồi giáo, xuất xứ từ bán đảo Ả rập vào khoảng thế kỷ VII sau
công nguyên. Hồi giáo gồm các nước khối Ả rập, Thổ, Pecxic và Malay. Đạo
Hồi là tôn giáo trung tâm của nền văn minh này. Ở đây, tên gọi văn minh Hồi
giáo được Huntington đồng nhất với tôn giáo - đạo Hồi.
Văn minh Chính thống giáo, nền văn minh này có trung tâm ở Nga, tôn
giáo chính là Chính thống giáo (một nhánh của đạo Cơ đốc) mặc dù có nguồn
gốc từ Cơ đốc giáo nhưng văn minh Chính thống khác phương Tây do nó ít
tiếp xúc với các sự kiện của phong trào Phục hưng, Cải cách, Khai sáng và
các sự kiện khác của Trung và Tây Âu nên Chính thống giáo mang một bản
sắc riêng biệt. Ngoài nước Nga còn có các quốc gia thuộc Liên Xô cũ và một
số nước thuộc Đông Âu như Bulgary, Hungary, Serbia…
Văn minh phương Tây, có xuất xứ khoảng thế kỷ VIII đến thế kỷ IX. Nền
văn minh này bao gồm có ba thành phần chính: ở châu Âu, Bắc Mỹ và Mỹ
Latinh. Tôn giáo trung tâm là Cơ đốc giáo (Thiên chúa và Tin lành).
Văn minh Mỹ Latinh, có cội nguồn từ văn minh phương Tây nhưng do sự
kết hợp với các yếu tố bản địa nên văn minh Mỹ Latinh có những điểm khác
biệt so với phương Tây. Huntington không xác định cụ thể tôn giáo nào là
trung tâm của văn minh này. Thực ra, việc xác định có nền văn minh Mỹ
Latinh hay không theo ông đây vẫn là điều còn gây tranh luận.
Văn minh châu Phi, Huntington cũng không khẳng định châu Phi có là
một nền văn minh độc lập hay không, ông đưa ra dẫn chứng nhiều nhà nghiên
cứu cũng không thừa nhận có nền văn minh châu Phi độc lập. Xét về nguồn

gốc, văn minh châu Phi có nguồn gốc và bị ảnh hưởng của người châu Âu
mang đến. Ở miền nam châu Phi, người di cư từ Hà Lan, Pháp, Anh đã tạo ra
nền văn hoá châu Âu đa dạng. Nhưng nền văn hóa châu Âu di cư này đã được
bản địa hóa, các đặc điểm về phong tục, tập quán, lối sống, chủng tộc… đã


22

quy định bản sắc của người châu Phi. Huntington cũng không xác định tôn
giáo nào là trung tâm của văn minh châu Phi.
1.2.3Mối quan hệ giữa các nền văn minh
Mối quan hệ giữa các nền văn minh trong lịch sử là khác nhau, Huntington
đã xác định các mối liên hệ ấy theo thời gian và tính chất như sau:
Giai đoạn thứ nhất, các nền văn minh “đụng đầu” nhau, giai đoạn này bắt
đầu từ khoảng 1500 năm TCN đến khoảng thế kỷ XIII, những đặc điểm chính
về mối quan hệ giữa các nền văn minh trong giai đoạn này được ông khái quát
như sau: thứ nhất, sự giao lưu, trao đổi giữa các nền văn minh rất hạn chế; thứ
hai, hình thức của sự trao đổi giữa các nền văn minh chủ yếu thông qua buôn
bán hoặc chiến tranh; thứ ba, các nền văn minh khá bình đẳng với nhau
(không có nền văn minh nào có tác động ảnh hưởng sâu sắc, quyết định đến
các nền văn minh khác).
Giai đoạn thứ hai, các nền văn minh “tác động” nhau, giai đoạn này được
Huntington chia làm nhiều thời kỳ nhỏ như thời kỳ hình thành văn minh
phương Tây, thời kỳ châu Âu của văn minh phương Tây, thời kỳ thống trị của
phương Tây, thời kỳ xung đột của hệ tư tưởng. Thời kỳ hình thành, văn minh
phương Tây với đặc tính Cơ đốc giáo châu Âu bắt đầu xuất hiện như một nền
văn minh rõ nét vào khoảng thế kỷ VIII hoặc IX. Trong khoảng vài trăm năm
đầu, nền văn minh phương Tây còn rất kém các nền văn minh khác về trình
độ văn minh. Nếu so với văn minh Trung Hoa thời Đường, văn minh Hồi giáo
thế kỷ XI, XII thì văn minh phương Tây thua xa về mọi mặt cả về của cải,

lãnh thổ, các thành tựu về văn học, nghệ thuật cũng như khoa học. Từ thế kỷ
XI đến thế kỷ XIII, văn minh phương Tây bắt đầu phát triển và mở rộng địa
bàn của mình. Trong giai đoạn này, toàn bộ phần Đông Âu, bán đảo
Scandinavi và dọc bờ biển Baltic đã bị Cơ đốc hóa. Cùng với tôn giáo các yếu
tố khác của văn minh phương Tây như ngôn ngữ, luật lệ cũng ảnh hưởng chi


23

phối đến các vùng này. Từ khoảng thế kỷ XIII cho đến thế kỷ XVIII là thời
kỳ châu Âu của văn minh phương Tây. Trong giai đoạn này các nước châu
Âu do sự phát triển của khoa học kỹ thuật bắt đầu xâm chiếm các thị trường
thuộc địa. Châu Âu mở rộng địa bàn của mình sang châu Á, Phi, Mỹ Latinh.
Sự bình đẳng của các nền văn minh trong giai đoạn đầu đã nhường chỗ cho sự
ảnh hưởng áp đảo của văn minh phương Tây lên các nền văn minh khác. Cuối
thế kỷ XV chứng kiến cuộc chinh phạt cuối cùng của văn minh phương Tây
với bán đảo Iberia. Trong suốt hai trăm năm sau đó, toàn bộ tây bán cầu và
một phần đáng kể của châu Á bị đặt dưới sự cai trị của châu Âu. Cuối thế kỷ
XVIII, văn minh phương Tây chứng kiến sự thu bớt quyền kiểm soát của châu
Âu khi Hoa Kỳ, rồi đến Haiti và hầu hết Mỹ Latinh nổi dậy chống lại ách
thống trị của châu Âu và dành độc lập. Từ nửa cuối thế kỷ XIX cho đến đầu
thế kỷ XX là thời kỳ thống trị của phương Tây với toàn bộ thế giới, chủ nghĩa
đế quốc phương Tây đô hộ hầu hết châu Phi, một phần châu Á, Mỹ Latinh.
Đầu thế kỷ XX đặt toàn bộ Trung Đông (trừ Thổ Nhĩ Kỳ) dưới sự kiểm soát
trực tiếp hoặc gián tiếp của phương Tây. Trong suốt thời gian tiếp đó đến nửa
đầu thế kỷ XX, văn minh phương Tây hầu như thống trị toàn địa cầu (năm
1914 các nước thuộc văn minh phương Tây kiểm soát khoảng 84% diện tích
trái đất). Sự bành trướng của văn minh phương Tây do nhiều nguyên nhân
nhưng quan trọng nhất là sự phát triển của khoa học kỹ thuật như phương tiện
giao thông vận tải, vũ khí đã làm cho phương Tây nhanh chóng chinh phạt

được toàn bộ địa cầu. Như vậy, đầu thế kỷ XX, trên toàn thế giới, nền văn
minh là văn minh phương Tây, luật pháp là luật pháp kiểu phương Tây, ngôn
ngữ quốc tế là ngôn ngữ phương Tây, hệ thống quốc tế là hệ thống chủ quyền
thân phương Tây. Các yếu tố của văn minh phương Tây thống lĩnh toàn thế
giới. Tuy nhiên, theo Huntington “Phương Tây chinh phục được địa cầu
không phải vì tính siêu việt của ý tưởng hay giá trị hoặc tôn giáo mà nhờ vũ


24

lực được tổ chức tốt. Người phương Tây thường quên điều này; người ngoài
phương Tây thì không” [52-49]
Giai đoạn thứ ba, sự “tương tác” giữa các nền văn minh, cuối thế kỷ XX,
quan hệ giữa các nền văn minh đã chuyển từ giai đoạn chủ yếu dưới ảnh
hưởng một chiều của nền văn minh phương Tây bao trùm lên tất cả các nền
văn minh khác sang giai đoạn có nhiều tương tác đa diện giữa các nền văn
minh. Nhiều quốc gia phi phương Tây có sự phát triển nhảy vọt về kinh tế,
chính trị, an ninh quốc phòng đang dần dần lấy lại sức mạnh cân bằng với
phương Tây. Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ là những ví dụ như vậy. Sự sụp
đổ của chủ nghĩa cộng sản cũng khiến phương Tây bị chia rẽ, việc hình thành
liên minh Pháp – Đức, Anh – Mỹ trong nội bộ văn minh phương Tây, một số
quốc gia từ bỏ văn minh phương Tây quay về với bản sắc văn hóa của mình
như quá trình “Á hóa” của Australia, Hàn Quốc, “La tinh hóa” của Mêxicô…
làm thế giới chuyển từ thế ảnh hưởng một chiều của phương Tây sang thế đa
cực, đa văn minh với các biểu hiện:
Thứ nhất, sự bành trướng của phương Tây đã chấm dứt và cuộc nổi dậy
chống lại phương Tây đã bắt đầu. Sức mạnh phương Tây suy giảm trong
tương quan với sức mạnh của các nền văn minh khác. Cán cân thăng bằng về
quân sự, kinh tế và ảnh hưởng chính trị đã thay đổi. Các nền văn minh ngoài
phương Tây đang vươn lên ngang hàng với phương Tây.

Thứ hai, hệ thống quốc tế mở rộng ra ngoài phương Tây và trở nên đa văn
minh. Đồng thời, xung đột giữa các quốc gia phương Tây đã bị thay thế bởi
xung đột giữa các nền văn minh khác nhau.
Theo Huntington, các hệ tư tưởng lớn của thế kỷ XX như: chủ nghĩa
tự do, chủ nghĩa dân chủ, chủ nghĩa cộng sản…đều là sản phẩm của văn
minh phương Tây. Tuy vậy, phương Tây chưa bao giờ sinh ra một tôn
giáo lớn. Những tôn giáo lớn của thế giới đều sinh ra ở các nền văn minh

×