Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

luận văn báo cáo về nghiên cứu lịch sử báo chí thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.03 KB, 71 trang )


Luận Văn
ĐỀ TÀI: Báo cáo Lịch sử báo chí thế giới
1
MỤC LỤC
Phần mở đầu
I. Lý do chọn đề tài 4
II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5
III. Đối tượng nghiên cứu 5
IV. Phương pháp nghiên cứu 5
V. Cấu trúc đề tài 5
Nội dung nghiên cứu
Chương I: Vài nét về tập đoàn tư bản lũng đoạn
1. Khái niệm tập đoàn tư bản lũng đoạn 6
2. Tại sao tập đoàn tư bản can thiệp vào báo chí
2.1. Nhìn thấy báo chí như một loại hàng hoá, nghề kinh doanh có
Lãi 7
2.2. Quảng cáo để đưa sản phẩm đến với người dân 8
2.3. Quảng bá xây dựng hình ảnh 9
2.4. Thấy được tầm quan trọng của báo chí trong việc tạo dư luận,
chính trị, tác động nhận thức của người dân 10
3. Can thiệp như thế nào
3.1. Đầu tư vào nghề báo: Mua hoặc liên doanh 12
3.2. Tài trợ, bơm tiền vào quảng cáo 14
3.3. Thành lập một tờ báo riêng 18

4. Tiểu kết chương I 20
Chương II: Những câu chuyện điển hình về sự can thiệp của tập
đoàn tư bản lũng đoạn đối với báo chí
1. “Đám cưới” giữa AOL và Time Warner
2


1.1. Vài nét về Time Warner và AOL 21
1.2. Sự can thiệp của AOL với Time Warner 24
1.3. Những hoạt động của AOL Time Warner 28
2. “Google – Câu chuyện thần kỳ”
Sự ra đời và phát triển của Google 28
Sự can thiệp của Google vào báo chí 34
3. The Wall Street Journal – “Đứa con cưng” của Dow Jones
Những ngày đầu của Dow Jones và nhật báo WSJ 43
Sự phát triển của WSJ 44
4. Microsoft – “Một đế chế hùng mạnh”
Sự ra đời của Microsoft 50
Những sản phẩm của Microsoft 52
Sự can thiệp của Microsoft đối với báo chí 53
5. Tiểu kết chương II
Chương III: Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam
1. Vài nét về báo chí Việt Nam hiện nay 58
2. Giới thiệu một số tờ báo có sự can thiệp của các tập đoàn kinh tế
2.1 Về FPT và Vnexpress 60
2.2. Về VASC và Vietnamnet 62
3. Tiểu kết chương III 65
Kết luận
Tài liệu tham khảo
3
NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN
1. Hoàng Thị Hải Yến (Nhóm trưởng)
2. Phan Thị Hoài Thương
3. Vũ Mai Diệu Thuần
4. Hồ Hải Huyền
5. Lê Thị Hường
6. Ma Yến

7. Nguyễn Ngọc Tú
8. Nguyễn Thị Ngọc
9. Nguyễn Thị Hường
10.Lê Thị Huyền Mai
11. Nguyễn Thị Hà Linh
12. Nguyễn Thị Ánh
13. Nguyễn Thị Thanh Hoà
4
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Nền báo chí thế giới từ nửa sau thế kỷ XX cho đến nay phát triển rất
mạnh mẽ, phát huy tối đa “quyền lực thứ tư” theo xu hướng toàn cầu hoá
thông tin.
Quan sát và phân tích truyền thông Mỹ và thế giới từ nhiều năm và
nhất là những động tĩnh thời gian gần dây, nhà nghiên cứu Eduardo
Galeano đưa ra nhận định: “Chưa bao giờ lại có nhiều người bị khống
chế về mặt thông tin bởi một số ít người đến thế”. Quả đúng như vậy,
nhận thấy sức mạnh của báo chí, các ông trùm của các tập đoàn tư bản
lũng đoạn trực tiếp hoặc gián tiếp đều tìm mọi cách can thiệp vào báo chí
để phục vụ cho những mục đích lợi nhuận và nhiều quyền lợi khác cuả
mình. Sự can thiệp đó đã gây ảnh hưởng sâu rộng tới nền báo chí toàn
cầu.
Sau 20 năm đổi mới cùng với việc gia nhập WTO, báo chí Việt Nam
đã lớn mạnh về mọi mặt và đang có nhu cầu vươn cao, vươn xa hơn nữa
nhằm khẳng định vị thế của mình. Việt Nam lại là một thị trường giàu
tiềm năng và mới bước đầu được khai phá. Trong vòng quay đó, như một
tất yếu, nền báo chí Việt Nam cũng đã bắt đầu xuất hiện sự can thiệp của
các tập đoàn tư bản lũng đoạn hay các tập đoàn kinh tế.
Chính vì thế, đề tài nghiên cứu này muốn tìm hiểu về sự can thiệp
của các tập đoàn tư bản lũng đoạn đối với nền báo chí trên thế giới nói

chung và Việt Nam nói riêng.
5
II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục đích:
- Nhằm tìm hiểu nguyên nhân, hình thức can thiệp và những điển hình
về sự can thiệp của các tập đoàn tư bản lũng đoạn đối với báo chí.
- Đây cũng là cơ hội để những sinh viên báo chí có thể tiếp cận với
những vấn đề thực tế báo chí, nhằm bổ sung thêm kiến thức cần thiết
phục vụ cho công việc sau này.
b. Nhiệm vụ:
- Tìm hiểu nguyên nhân can thiệp và hình thức can thiệp của các tập đoàn
tư bản lũng đoạn đối với báo chí từ những dẫn chứng tiêu biểu.
- Tìm hiểu thực trạng ở Việt Nam, xu hướng can thiệp có gì khác so với
những nước phương tây.
- Kiến nghị những giải pháp cho nền báo chí Việt Nam khi đối mặt với sự
can thiệp đó.
III. Đối tượng nghiên cứu
- Trên thế giới: Tập đoàn AOL, Microsop, Google, Tập đoàn Dow
Jones, những tờ báo chịu sự can thiệp.
- Ở Việt Nam: chọn 2 tập đoàn FPT với tờ Vnxpress, VACS với
Vietnamnet.
IV. Phương pháp nghiên cứu
Chủ yếu bằng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mac –
LeNin kết hợp phương pháp mô tả.
Ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp như: Phương pháp thu thập,
phân tích tài liệu, so sánh, mô tả, tổng hợp vấn đề,…
V. Cấu trúc đề tài
6
Ngoài phần mở đầu, phần nội dung nghiên cứu, phần kết luận, tài
liệu tham khảo và phụ lục, báo cáo gồm 3 chương

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương I: Vài nét về tập đoàn tư bản lũng đoạn
1. Khái niệm tập đoàn tư bản lũng đoạn
Dựa theo cuốn “Lê Nin toàn tập” nói về chủ nghĩa đế quốc:
Tập đoàn tư bản: Là một tổ chức bao gồm nhiều nhà tư bản có số vốn
khổng lồ có thể chi phối sự sản xuất hay tiêu thụ một số loại hàng hoá nào
đó
Tập đoàn tư bản lũng đoạn: Là tập đoàn tư bản trên thực tế đã thao túng,
chi phối việc sản xuất, tiêu thụ của một hàng hoá hay nhiều hàng hoá để thu
lợi nhuận độc quyền cao và từ đó khống chế về xã hội, chính trị.
2. Tại sao tập đoàn tư bản lũng đoạn can thiệp vào báo chí
2.1. Nhìn thấy báo chí như một loại hàng hoá, nghề kinh doanh có lãi
Trong nửa đầu thế kỷ XX, phát thanh và truyền hình chỉ mới ở trình độ
sơ khai, báo in là loại hình truyền thông đại chúng quan trọng nhất, giữ vai
trò chi phối dư luận xã hội cũng như thị trường báo chí phương Tây. Cho tới
nửa sau thế kỷ XX, khi phát thanh và truyền hình phát triển mạnh mẽ đồng
thời với sự tăng trưởng kinh tế nhảy vọt ở các nước công nghiệp phát triển,
các phương tiện truyền thông đại chúng dần dần được coi là những doanh
nghiệp có khả năng sinh lợi lớn từ việc bán sản phẩm, dịch vụ và hoạt động
quảng cáo. Mặt khác, các phương tiện truyền thông đại chúng ngày càng mở
rộng phạm vi ảnh hưởng, tăng cường sức mạnh tác động vào xã hội, có khả
năng to lớn trong việc tạo ra những ưu thế về chính trị, kinh tế.
7
Các tập đoàn tư bản lũng đoạn với bản chất tham lam, luôn có tham vọng
thâu tóm thị trường, chi phối thị trường nhằm nâng cao vị thế, qua đó thu lợi
nhuận cao nhất có thể. Hơn ai hết, họ hiểu rõ rằng, tận dụng được sức mạnh
của truyền thông là một ưu thế lớn, qua đó có thể kích thích mạnh mẽ sự
phát triển các ngành kinh tế thị trường khác. Thống kê cho thấy, ở Mỹ ngành
báo chí chiếm 2% GDP về công nghiệp, chiếm 20% GDP công nghiệp thế
giới. Chính vì thế báo chí trở thành một loại hàng hóa kinh doanh có lãi giúp

nhà tư bản thu được cả về tiền và danh tiếng.
Các ông chủ tư bản thu tiền bằng cách bán các sản phẩm hàng hoá, dịch
vụ báo chí truyền thông và hoạt động quảng cáo. Ở các nước công nghiệp
phát triển, nguồn thu từ quảng cáo ngày càng lớn, chiếm phần chủ yếu trong
doanh thu trực tiếp của các tờ báo, các đài phát thanh, truyền hình. Còn có
những tờ báo phát không, có nghĩa là các hợp đồng quảng cáo trở thành
nguồn thu duy nhất.
Không chỉ thu được một nguồn lợi nhuận lớn, đầu tư vào báo chí còn
giúp cho các tập đòan tư bản lũng đoạn củng cố danh tiếng và địa vị của
mình. Bởi vậy, đưa cái tên của mình đến gần gũi công chúng là mục tiêu của
bất kì tập đòan nào. Can thiệp vào báo chí là cánh cổng lớn nhất, rộng nhất
để thực hiện tốt vấn đề đó.
2.2. Quảng cáo để đưa sản phẩm đến với người dân
Báo chí gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh, mệnh đề này đã
đựơc chứng minh trong quá trình phát triển của truyền thông đại chúng. Thứ
nhất, bản thân báo chí là một loại hàng hoá. Thứ hai, báo chí sản xuất các
chương trình quảng cáo sản phẩm hàng hoá dịch vụ của các nhà sản xuát
kinh doanh. Thực tế, nếu không có quảng cáo báo chí khó mà tồn tại được.
Tại Pháp, tháng 11 năm 1981, tổng thống pháp Mitterrand ban hành luật tự
do báo chí trên sóng truyền thanh và cho phép thành lập các đài phát thanh
8
tự do thuộc các tổ chức xã hội và các tổ chức phi chính phủ với một điều
kiện duy nhất: không có quảng cáo. (Chúng ta đều biết phát thanh là phưong
tiện truyên thông miễn phí theo đứng nghĩa đen của từ, nghĩa là không có sự
thuê bao sóng, không có việc bán các bản in… Nguồn thu duy nhất của phát
thanh là từ quảng cáo). Sau khi luật được ban hành, hàng trăm đài phát thanh
tự do lên sóng và… thầm lặng cắt sóng chỉ trong vòng hai tháng. Lý do duy
nhất của hiện tượng “sao băng” này là: Không có quảng cáo, không có kinh
doanh, dẫn đến không có thu nhập và cuối cùng là không thể sống sót. Như
vậy, chỉ với điều kiện duy nhất, chính phủ của tổng thống đương nhiệm lúc

bấy giờ đã kiểm soát được hoàn toàn cái gọi là tự do báo chí, tự do ngôn
luận trên sóng phát thanh. Đó là ví dụ đầy thuyết phục để chứng minh cho
mệnh đề “kinh doanh để tồn tại” của báo chí hiện đại.
Báo chí sống lệ thuộc vào quảng cáo và các tập đoàn tư bản cũng không
thể bỏ qua con mồi béo bở này để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình. Các nhà sản xuất phải dựa vào báo chí để quảng bá hàng
hoá và dịch vụ của họ tới người tiêu dùng và tạo lập vị thế trên thương
trường. Thông qua quảng cáo, quá trình lưu thông hàng hoá được thuận lợi
và rộng rãi hơn, nhờ đó vị thế của doanh nghiệp nhà sản xuất đựơc nâng cao,
xác lập những mối liên hệ mới, mở rộng sự liên kết liên doanh với các doanh
nghiệp và tổ chức khác.
Đầu thế kỷ XX, quảng cáo đã thực sự trở thành một ngành công nghiệp
hùng mạnh trên thế giới, ở các cường quốc quảng cáo như Mỹ, Anh, Pháp…
Hiện nay, ở phương tây, doanh thu quảng cáo trung bình từ 70%- 90%, thậm
chí có một số tờ báo doanh thu từ quảng cáo là 100% như các tờ Metro tại
Pháp, Bỉ, Hà Lan, Thuỵ Điển, hay tờ 20 Minute tại Pháp.
Hiện tượng này cũng không phải là lạ ở Việt Nam, tỉ lệ số trang quảng
cáo trên số trang nội dung của những tờ báo được coi là “con cá mập” trên
9
thị trường báo chí luôn ở mức rất cao, từ 3/5 thậm chí 5/5 và 7/5(trường hợp
của Tuổi Trẻ và Sài Gòn tiếp thị). Chúng ta cũng có những tờ báo hầu như
không có thông tin, chỉ có những mẩu tin quảng cáo như Mua và bán, Cẩm
nang mua sắm… Những tờ báo này cùng với những tờ báo mạng sống hoàn
toàn nhờ doanh thu quảng cáo.
Hiện nay có rất nhiều hình thức, dịch cụ quảng cáo cho sản xuất kinh
doanh. Chúng ta thường gặp một số hình thức quảng cáo như: quảng cáo sản
phẩm hàng hóa, các dịch vụ của nhà sản xuấy kinh doanh, quảng cáo năng
lực chức năng nhiệm vụ của các tổ chức doanh nghịêp, quảng cáo hàng có
bán hàng cần mua. Đặc biệt hiện nay đang phát triển hình thức quảng cáo có
biên tập một kiểu dịch vụ quảng cáo dưới dạng tác phẩm báo chí(tin phóng

sự, ghi nhanh…)đựơc viết theo lối tán dương khéo léo, tuy không khẳng
định hoàn toàn nhưng hiệu quả lại rất to lớn. Đây là kiểu quảng cáo rất được
các doanh nghiệp hiện nay sử dụng để quảng bá cho doanh nghiệp của mình
và giới thiệu sản phẩm của mình tới ngưòi tiêu dùng.
2.3. Quảng bá, xây dựng hình ảnh
Ngoài việc đổ tiền vào quảng cáo để mang sản phẩm đến với người dân
đồng thời xây dựng, quảng bá hình ảnh của mình thì các tập đoàn tư bản
lũng đoạn còn có những chiêu bài khác để tạo dựng hình ảnh của mình trong
lòng công chúng. Chẳng hạn như tài trợ cho các chương trình, qua báo chí
đăng phát những tin tức, hình ảnh có lợi cho mình, mua chuộc báo chí không
đăng phát những tiêu cực không có lợi, hay lợi dụng báo chí để xử lý những
khủng hoảng do mình gây ra, hay tạo cho mình một ấn tượng, một phong
cách riêng… Để từ đó gây ảnh hưởng đến công chúng, tạo dựng niềm tin và
uy tín với họ.
Hàng chục năm nay, tạp chí Time đã bắt tay với Công ty thuốc lá Mirôbô
nhằm tạo nên biểu tượng sự sang trọng của đàn ông Mỹ khi hút thuốc lá của
10
hãng Mirôbô. Những bài tiêu cực về thuốc lá, nhất là với Mirôbô không bao
giờ xuất hiện trên tạp chí Time. Với Time, Mirôbô đã thành công trong việc
tạo dựng hình ảnh và quảng bá mình đến với công chúng.
Ở Việt Nam, chương trình “Tôi yêu Việt Nam” do tập đoàn Honda tài
trợ nhằm vào vấn đề xã hội đang rất nổi cộm ở Việt Nam hiện nay: an toàn
giao thông nên thu hút được đông đảo công chúng, trong đó có cả các chính
khách. Khi đã biết nhiều về thương hiệu công ty lại gắn với hoạt động xã hội
mang tính tích cực như thế nhất định sẽ ảnh hưởng đến cách nhìn của công
chúng về công ty và có sự suy tính nhất định khi mua loại sản phẩm mà công
ty có thể sản xuất.
Chương trình được phát sóng vào giờ vàng. Những đoạn phim tình
huống trong tôi yêu Việt Nam sử dụng hoàn toàn sản phẩm của Honda, cuối
chương trình có thêm chuyên gia tư vấn của Honda hướng dẫn cách lái xe an

toàn- đây là lãnh địa quảng cáo độc quyền của Honda, là phương cách quảng
bá thương hiệu tốt nhất mà chỉ có doanh nghiệp nào có tiềm lực và “chịu
chơi” mới dám đầu tư vào.
Không những phát sóng trên truyền hình, chương trình tôi yêu Việt
Nam còn tổ chức các trò chơi có thưởng trên sóng phát thanh và internet và
tất nhiên phần thưởng của những trò chơi này sẽ là những sản phẩm của
Honda. Ngoài ra, Honda liên tục thay đổi các hình thức của chương trình,
luôn tạo ra sự đổi mới để gây sự chú ý và là nguồn thông tin cho bao chí để
báo chí quảng cáo không công. Đây thực sự là một chương trình mang tính
xã hội, mang tầm cỡ quốc gia, sau hơn một năm phát sóng, ''Tôi yêu Việt
Nam'' đã thu hút trên 4 triệu người tham gia.
2.4. Thấy được tầm quan trọng của báo chí trong việc tạo dư luận,
chính trị, tác động nhận thức của người dân
11
Trong đời sống chính trị - xã hội, báo chí giữ một vai trò hết sức quan
trọng. Bất kỳ một lực lượng cầm quyền nào trong các quốc gia trên thế giới
đều sử dụng báo chí như một công cụ để tác động vào tư tưởng, tình cảm
của công chúng, nhằm tạo ra ở họ những nhận thức mới, những định hướng
có giá trị cho cuộc sống. Thông tin trong báo chí vừa có tính xã hội, vừa có
tính tư tưởng khuynh hướng rõ rệt. Song, cũng như các hình thái xã hội
khác, báo chí có những nét riêng biệt. Đứng trước một thế giới hiện thực
chứa đựng đầy thông tin, báo chí có những cách thức riêng của mình để
phản ánh hiện thực với mục đích tác động tới nhiều tầng lớp xã hội. Chính
điều đó đã khiến cho báo chí trở thành một hoạt động thông tin đại chúng
rộng rãi và năng động nhất mà không một hình thái ý thức xã hội nào có
được.
Việc các tờ báo, đài phát thanh truyền hình phương Tây ủng hộ hay phản
đối một đảng chính trị, một ứng cử viên trong bầu cử hoặc một chính sách
kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng nào đó, bao giờ cũng có nguồn gốc xuất
phát từ quyền lợi của các nhà tư bản, của các ông chủ. Về sâu xa thì đây mới

là nguồn lợi to lớn nhất mà các nhà tư bản muốn hướng tới, là lý do quan
trọng nhất để dẫn tới sự liên kết giữa báo chí truyền thông với công nghiệp,
tài chính, dịch vụ để hình thành những tập đoàn độc quyền khổng lồ. Điều
ấy cũng giải thích tại sao các tập đoàn công nghiệp, tài chính khổng lồ ở Mỹ
và các nước phương Tây luôn đóng vai trò to lớn và tích cực trong các cuộc
bầu cử. Một số tập đoàn tư bản nhờ truyền thông mà nắm giữ quyền lực to
lớn thông qua khả năng tác động vào các tiến trình vận động của thế giới.
Chẳng hạn như vai trò của hệ thống tin truyền hình cáp CNN của tập
đoàn TBS (Hãng Turner Broadcasting System do Robert Edward sáng lập
năm 1963) trong đời sống quốc tế. CNN phát những thông tin được thu thập
và xử lý từ khắp nơi trên thế giới 24/24 giờ đến mọi địa chỉ nhận tin trên
12
toàn cầu. Hoạt động của hệ thống này đang làm đảo lộn những quan niệm
bình thường của xã hội về không gian, thời gian và phương pháp thu lượm,
khai thác, truyền phát thông tin. Với phạm vi ảnh hưởng vô cùng lớn, CNN
có khả năng làm cho bất cứ sự kiện, vấn đề gì ở bất cứ nơi nào trở thành có
tiếng vang toàn cầu ngay từ khi nó đang diễn ra. Do vậy, nó đã áp đặt trước
một ấn tượng, một quan niệm hay một cách đánh giá nào đó về sự kiện trong
suy nghĩ của công chúng. Những nhà nghiên cứu phương Tây gọi đây là
“nhân tố CNN” mà các nhà chính trị không thể không tính đến khi trù liệu
cách hành xử của mình. Joseph Fitchett giải thích về nhân tố CNN như sau:
“Khi CNN phát đi hình ảnh của một cuộc họp báo hay một thiên tai xảy ra
tại một nơi nào đó trên thế giới thì ngay lập tức sự kiện ấy được biết đến tại
tất cả các thủ đô trên thế giới…”. Quyền lực chi phối của tập đoàn này gần
như về mọi mặt của đời sống văn hóa. Nó tác động vào dư luận xã hội một
cách tự nhiên và vạch ra hướng đi cho nhận thức, thúc đẩy việc hình thành
thái độ, quan điểm chính trị - xã hội trong công chúng.
Ngoài ra, còn có một mục đích nữa là truyền bá các giá trị văn hoá, lối
sống phương Tây, sự dàn dựng dư luận cho những hoạt động vụ lợi, những
màn kịch lừa gạt công luận nhằm chuẩn bị cho những cuộc phiêu lưu quân

sự và những can thiệp vào nội tình chính trị của các nước không cùng hội,
cùng thuyền.
3. Can thiệp như thế nào
Đầu tư vào nghề báo: mua hoặc liên doanh
Thế giới đang chứng kiến sự tập trung cuồng nhiệt các phương tiện
truyền thông. Từ nhiều năm nay, trong thế giới phương Tây, những ông trùm
tư bản ngự trị trong ngành truyền hình, báo chí và điện ảnh như Ruppert
Murdoch, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc News Corp; Gerald Levin, Chủ tịch
13
Hãng American Online (AOL) Time Warner; Thomas Middelhoff, đứng đầu
Tập đoàn Bertelsmann; hay Jean-Marie Messier, Chủ tịch Vivendi
Universal, đã và đang tiến hành cái gọi là “cuộc chạy đua bành trướng
khổng lồ” bằng cách mua lại, sáp nhập, thôn tính các công ty nhỏ hơn không
đủ sức cạnh tranh. Trong xu hướng tích tụ và tập trung tư bản ngày nay, các
ông chủ này, phần lớn là người Mỹ bỏ ra hàng tỷ đô la Mỹ, đã đẩy nhanh
những sự tập hợp mới trong những ngành chiến lược và do vậy, đã tương
đồng hoá trên toàn hành tinh việc xuất bản âm nhạc, các chương trình truyền
hình và cả những bộ phim truyện dài trực tiếp xuất xưởng từ Hollywood.
Đầu tư vào những ngành khác nhau, tạo sự liên kết những ngành báo chí
truyền thông, công nghiệp, tài chính, dịch vụ rất xa nhau để hỗ trợ lẫn nhau,
hạn chế rủi ro, tăng cường sức mạnh… Theo xu hướng đó, năm 1986, Công
ty General Electric đã mua mạng truyền hình Mỹ NBC; Công ty Viễn thông
khổng lồ Mỹ AT&T năm 1999 đã nắm quyền kiểm soát hệ thống truyền
hình “cáp” TCI, rồi đến năm 2004 thôn tính tiếp mạng MediaOne. Từ năm
1995, Tập đoàn Viacom đã thôn tính Công ty Điện ảnh Paramount và Hãng
Truyền hình CBS. Năm 2001, Tập đoàn AOL tuyên bố hợp nhất với Time
Warner. Còn Vivendi và Canal Plus, một tập đoàn tư bản Pháp đã hợp nhất
với Seagram, hay việc Rupert Murdoch đã len chân vào ngành truyền hình
phải trả tiền theo yêu cầu tại Italia, Đức và đang chuẩn bị thực hiện hợp
đồng sáp nhập với tập đoàn NewsCorp có trị giá vài tỷ USD.

Theo số liệu của Công ty nghiên cứu thị trường Dialogic, trong 5 tháng
đầu năm 2007, trên toàn thế giới đã ghi nhận 372 bản hợp đồng sáp nhập,
mua lại giữa các công ty, tập đoàn báo chí truyền thông với tổng giá trị lên
đến 93,8 tỷ USD. Đáng chú ý nhất là hợp đồng sáp nhập giữa Google và
14
Double Click, trị giá 3,1 tỷ USD hồi tháng 4-2007, hợp đồng sáp nhập giữa
Yahoo với Right Media trị giá 680 triệu USD.
Một nghiên cưú của giáo sư Piter Phillips, trường Đại học Sonoma cho
thấy 118 người là thành viên hội đồng quản trị của 10 tập đoàn báo chí lớn
nhất nước Mỹ cũng đồng thời có mặt ở hội đồng quản trị của 288 tập đoàn
kinh tế khác. Trong khi các tập đoàn The tribune, New York Times và
Gannett đều có thành viên ở hội đồng quản trị của tập đoàn Pepsi, thì Coca
Cola và J.P. Morgan lại có đại diện chia sẻ ghế hội đồng quản trị của cả
NBC và Washington Post. Thực tế này cho thấy sự liên kết rất chặt chẽ giữa
các tập đoàn báo chí với các tập đoàn kinh tế.
Những điều trên dẫn tới một kết cục chung là tình trạng tập trung, độc
quyền báo chí vào tay các ông trùm tư bản ngày càng tăng.
Tài trợ, bơm tiền vào quảng cáo
Quảng cáo là hoạt động cơ bản và đơn giản để tập đoàn tư bản can thiệp
và thu lời từ báo chí. Bằng quảng cáo, tập đoàn tư bản lũng đoạn đưa sản
phẩm tới khách hàng nhanh chóng hiệu quả và cạnh tranh với sản phẩm của
doanh nghiệp khác nhưng không dừng ở đó, cao hơn nữa từ quảng cáo tư
bản lũng tạo tầm ảnh hưởng của mình cả trong hoạt động thông tin báo chí.
Đó chính là mục đích hướng đến của tư bản lũng đoạn với báo chí thông qua
hoạt động quảng cáo.
Theo số liệu của công ty khảo sát Emarketer, chi cho quảng cáo tại Mỹ
năm 2006 là 285 tỉ USD, trong đó quảng cáo trực tuyến đang chiếm 5,8%.
Theo nguồn từ thanhnienonline ngày 26/04/2008 thì chỉ riêng quảng cáo
trên internet, Mỹ đã chi tới 25,5 tỉ USN năm 2007. Xu hướng chung của đầu
tư vào quảng cáo là tăng trưởng trên internet, theo đà ấy làm phép tính nhỏ

(giả sử năm 2007 quảng cáo trên internet là 5.8%, ngang năm 2006) thì tổng
15
mức chi vào quảng cáo của Mỹ năm 2007 là khoảng 440 tỉ USD; con số này
càng ấn tượng hơn nữa nếu chúng ta biết rằng ở Mỹ chỉ có mười tập đoàn
thâu tóm thông tin (chiếm thị phần lớn gần như hầu hết về đầu tư vào thông
tin, trong đó có một phần hoạt động quảng cáo) _ nguồn thống kê của
Bagdikian, năm 1997.
Chưa phải tập đoàn đi tiên phong trong đầu tư quảng cáo nhưng ngay
từ năm 1997 tập đoàn coca cola đã chi cho quảng cáo tới 1,5 tỉ phrăng (theo
www.bwportal.com.vn/baiviet/105/-50k). Chịu lép vế sau coca, nhưng số
tiền quảng cáo mà người chịu trách nhiệm quản lí điều hành của pepsi là
Steven Reinemund quyết định chi ra cũng lên tới vài triệu đô la, đổi lại cho
lượng tiền quảng cáo bỏ ra ấy là doanh thu từ bán hàng khoảng 30 tỉ USD /
năm hiện nay (nguồn vietnamnet_ bài “ thuyền trưởng” tài ba của tập đoàn
pepsi)
Những con số trên gây ấn tượng nhưng chưa nói lên nhiều sự can
thiệp của tập đoàn tư bản tới báo chí. Một số đặc điểm của hoạt động quảng
cáo dưới đây sẽ cho thấy rõ hơn điều này.
Báo giá rẻ và báo miễn phí : lối rộng cho quảng cáo tung hoành
Tại Tây và Bắc Âu, điển hình là Pháp và Thuỵ Điển, những tờ báo giá
rẻ hoặc miễn phí rất quen thuộc và được đón đọc với số lượng tờ top dẫn
đầu. Những tờ báo này là nhật báo, đa phần được phát không tại những tụ
điểm đông người qua lại như nhà ga tàu điện ngầm, bến xe, cảng Điểm đặc
biệt ở loại hình báo chí này là có hẳn một “công nghệ” quảng cáo gắn liền
với báo in. Đa phần các tờ báo có dung lượng được cân bằng giữa nội dung
các bài viết và phần quảng cáo. Cả phần bài báo và quảng cáo đều được đầu
tư chu đáo. ở đây có sự xếp sắp rất sáng tạo, tinh ý có thể thấy sau mỗi bài
hay mục lại có quảng cáo, và phần quảng cáo phù hợp với chính nội dung
16
bài báo ở trên, bài báo ở trên nói về vấn đề nào thì quảng cáo tiếp đó với sản

phẩm nghiêng vê mặt hàng liên quan vấn đề đó.
Điểm đáng chú ý ở loại hình báo này là sống hoàn toàn bằng tiền
quảng cáo, tài trợ của các tập đoàn tư bản. Ngược lại các trùm tư bản lũng
đoạn cũng hưởng lợi lớn từ những tờ báo này theo quan hệ cộng sinh cả hai
cùng có lợi. Các báo giá rẻ hoặc miễn phí này có đội ngũ nhà báo nghiệp vụ
rất cao. Vấn đề của họ là làm ra những bài báo hấp dẫn thu hút người đọc.
Và đương nhiên số lượng công chúng đọc báo càng lớn thì cơ hội của nhà tài
trợ càng lớn, theo đó thu nhập của người làm báo cũng nâng cao vì số lượng
nhà tài trợ và số tài trợ tăng theo chất lượng, uy tín tờ báo
Do sự thích ứng và phát triển hợp thời của nó, hiện nay loại báo này
vẫn khá thịnh hành ở phương tây, đặc biệt là Bắc và Tây Âu.
Quảng cáo trên internet lên ngôi
Quảng cáo truyền thống bằng truyền hình, phát thanh hay ấn phẩm in
đang trở nên lỗi thời. Và quảng cáo trên internet với những ưu điểm vượt
trội đang ngày càng khẳng định vị thế của nó. So với các loại hình báo chí
truyền thống, báo chí trực tuyến tích hợp được nhiều tính năng tổng hợp,
phương tiện hàng đầu cho chọn lựa quảng cáo giờ đây. Chủ tịch bộ phận
dịch vụ và nền tảng của Microsoft, ông Kevin Johnson đã gọi quảng cáo trực
tuyến là “ lĩnh vực màu mỡ”, là “một cơ hội” ( theo Vietimes- bài Các “đại
gia internet chạy đua quảng cáo trực tuyến). Nếu nhìn nhận sự phát triển của
quảng cáo trực tuyến những năm gần đây thì có thề thấy “ cơ hội” ấy đã
được nhiều đại gia tư bản biến thành hiện thực
Tốc độ phát triển của quảng cáo trực tuyến đựơc đánh giá là khá nhanh
trong thời điểm gần đây. Năm 2006, quảng cáo trực tuyến ở Mỹ chiếm 5,8%
trong tổng 285 tỉ USD. Con số tăng trưởng tiếp theo các chuyên gia dự đoán
là 10,2% năm 2010 (theo số liệu của công ty khảo sát EMarketer). Riêng
17
quý I năm 2007, công ty AT&T chi ra 79 triệu USD cho quảng cáo mạng so
với con số 56 triệu USD cùng kì năm trước đó 1 năm công ty này bỏ ra.
Hãng Ford cũng chi 29 triệu USD cho quảng cáo trên internet gần đây trong

khi vài cộng cả vài năm trước đó mức đầu tư này chỉ vỏn vẹn 7 triệu USD.
Hiện nay, đứng đầu trong các trang web quảng cáo là các công ty
google, yahoo, Microsoft, AOL. Google có 500.000 khách hàng, yahoo có
300.000 khách hàng quảng cáo ( theo Vietimes _ bài Các “đại gia internet
chạy đua quảng cáo trực tuyến ).
Mua các công ty quảng cáo
Hoạt động quảng cáo đang thu hút ngày càng nhiều hơn sự quan tâm
của các ông trùm tư bản lũng đoạn, và mảnh đất quảng cáo hấp dẫn sự quan
tâm của họ không gì khác ngoài quảng cáo trực tuyến. Không chỉ ở vai trò
người đi thuê quảng cáo mà tập đoàn tư bản lũng đoạn còn đang dần biến
mình thành các ông chủ cho thuê quảng cáo của các trang web “hút người”.
Các chiến dịch “cá lớn nuốt cá bé” đang khẩn trương được thực hiện. Mở
đầu cho những nỗ lực đầy tham vọng này là Google. Họ qua mặt Microsoft,
thôn tính DoubleClick với giá 3,1 tỉ USD.
Sự kiện lớn nhất của quá trình thâu tóm này là việc Microsoft mua công
ty quảng cáo trực tuyến aQuantive với giá 6 tỉ USD hôm 18 tháng 5 vừa qua.
Đây là thương vụ lớn nhất trong lịch sử Microsoft và cũng là dấu hiệu cho
thấy Microsoft đang trên đường xây dựng ngành kinh doanh quảng cáo
internet cho riêng mình.
Trung tuần tháng 3 năm 2008, AOL hòan tất vụ mua bán Third Screen
Media – công ty vận hành hệ thống quảng cáo cho máy điện thoại di động và
Adtech, một công ty quảng cáo trực tuyến của Đức. AOL là cổng internet
đầu tiên bỏ tiền ra mua một hệ thống quảng cáo khổng lồ Advertising.com
vào năm 2004
18
Cùng theo những hoạt động rầm rộ kể trên, các tập đoàn trên cũng đưa
ra nhiều chiêu câu khách để thu hút người sử dụng dịch vụ của mình và ghé
trang web đó xem thông tin của họ.
Cùng với nhiều hoạt động đồng thời khác để can thiệp và tác động vào
báo chí và truyền thông, các tập đoàn tư bản lũng đoạn đang ngày càng tạo

thêm vị thế cho mình. Ngay cả trong lĩnh vực quảng cáo, họ cũng tận dụng
hết những mặt có thể tham gia và kiếm lời và chi phối thông tin. Rõ ràng
bằng nhiều cách, họ đang chủ động chiếm lĩnh quyền hưởng thụ và chi phối
thông tin, một cách khôn ngoan họ thực hiện đồng thời và liên tiếp các hoạt
động thu thập thông tin chuyên nghiệp và quảng cáo.
3.3. Thành lập một tờ báo riêng
Không chỉ mua hoặc liên doanh với báo chí, các tập đoàn tư bản còn
đứng ra thành lập tờ báo riêng cho mình. Những tờ báo này chịu hoàn toàn
sự độc quyền và phục vụ lợi ích cho các tập đoàn tư bản lũng đoạn.
Thời gian trước, Sinclair Broadcast Group- một trong những chủ tư
nhân lớn nhất sở hữu các đài truyền hình ở Mỹ, một đế chế của 60 kênh
truyền hình trải rộng khắp 37 thành phố và chiếm gần một phần tư số khán
giả truyền hình ở quốc gia này. Tập đoàn Sinclair là chủ tư nhân đã trực tiếp
điều hành sự hoạt động của các đài truyền hình Mỹ trong một thời gian dài.
Thế nhưng, ngay cả khi bạn tình cờ bắt được sóng và tiếp cận nó mỗi
đêm - xem tin tức của Sinclair, dự báo thời tiết của Sinclair và bình luận của
Sinclair, rất có thể bạn vẫn không hề biết rằng mình đang xem chương trình
của đế chế truyền hình này. Bạn không hề thấy chữ “Sinclair” trên màn hình
và có lẽ bạn nghĩ đang xem kênh ABC hoặc CBS hoặc NBC. Trên màn hình,
bạn vẫn thấy những logo cũ và quen thuộc - một con công, một con mắt và
chiếc bong bóng ABC - còn những người dẫn chương trình trông vẫn thế.
Bạn không hề biết đài truyền hình đang cung cấp tin tức cho bạn đã bị
19
Sinclair mua đứt và cũng không nhận thấy việc tin tức chính thống đột nhiên
biến mất để được thay thế bằng "tin tức" của Sinclair trong vòng hai, ba
chục phút. Có thể đó là một cuộc phỏng vấn sinh động với một nhà thầu
quốc phòng hoặc một bài bình luận nảy lửa về những thói xấu xa người
Pháp: tất cả đều ngắn gọn, khá giật gân và chỉ kéo dài 2 phút, 10 phút hoặc
15 phút.
Sau đó, đài truyền hình này trở lại với chương trình thường lệ và "tin

tức" được chèn vào của Sinclair cũng lặng lẽ ra đi như khi nó xuất hiện trên
màn hình. Không một tín hiệu nào, kể cả một tiếng “bíp”, để bạn biết rằng
những gì mình vừa thấy trên màn hình không phải do NBC hoặc CBS phát
đi mà là chương trình của những người sở hữu đài truyền hình này. Đó chính
là mục tiêu của Sinclair: thấy mà như không thấy.
Ngòai ra, một số tập đòan tư bản sở hữu cho mình những tờ báo có
lượng độc giả lớn tại Mỹ như: công ty Tribune với tờ Chicago Tribune, Los
Angeles Times, công ty Gannett với tờ The Cincinati Enquirer, USA Today.
Dưới đây là một số thông tin về một vài tờ báo trên:
The Cincinnati Enquirer hay Vấn báo Cincinnati là nhật báo buổi
sáng được xuất bản tại Cincinnati, Ohio, là tờ lớn hơn trong số hai nhật báo
của thành phố này. Chủ sở hữu của tờ báo này là Công ty Gannett, và tờ báo
có thỏa thuận vận hành chung (joint operating agreement, JOA) với nhật báo
buổi chiều, The Cincinnati Post, theo đó tờ Enquirer chịu trách nhiệm về các
chức năng thương mại của cả hai tờ báo. Công ty cha của Enquirer là
Gannett Co. Inc. đã thông báo cho E.W. Scripps Co., nhà xuất bản của The
Post là mình không có ý định ký lại JOA này vào năm 2008, điều đó có
nghĩa là The Enquirer sẽ trở thành nhật báo duy nhất của thành phố. The
Enquirer có tổng số phát hành khoảng 190.000–211.000 bản từ thứ hai tới
thứ bảy và khoảng 293.000 bản vào ngày chủ nhật.
20
Los Angeles Times (tiếng Anh của Thời báo Los Angeles, viết tắt LA
Times) là một nhật báo được xuất bản tại Los Angeles, California và được
phân phối ở khắp miền Tây Hoa Kỳ. Có tổng số phát hành là 843.432 độc
giả mỗi ngày vào tháng 9 năm 2005, nó là tờ báo thành phố phổ biến thứ hai
ở nước Mỹ (sau The New York Times). Theo lần in World Almanac năm
2005, Los Angeles Times là tờ báo phổ biến thứ tư ở nước Mỹ. Trước đây
nó cũng làm chủ của đài truyền hình KTTV.
Tờ Times đã đoạt giải Pulitzer 37 lần vào năm 2004, tính bốn lần về
biếm họa, một lần về phóng sự trong cuộc Náo loạn Watts năm 1965 và một

lần về phóng sự trong cuộc Náo loạn Los Angeles năm 1992. Vào năm
2004, nhật báo này đoạt giải về năm thể loại, nó đứng thứ hai về số thể loại
được thắng trong một năm (thứ nhất về thể loại là The New York Times vào
năm 2002).Chủ của nhật báo này là Công ty Tribune, hãng xuất bản nhật báo
Chicago Tribune của Chicago, Illinois.
Chicago Tribune (Báo Luận đàn Chicago) là một nhật báo lớn ở
Chicago, Illinois (Hoa Kỳ) do Công ty Tribune làm chủ. Ngày xưa tự xưng
là "Tờ báo vĩ đại nhất thế giới" (tiếng Anh: World's Greatest Newspaper), nó
vẫn là nhật báo chính của miền Trung Tây Hoa Kỳ và là một trong 10 nhật
báo lớn nhất trong nước, có tổng số phát hành 957.212 bản vào chủ nhật.
Tóm lại, bằng việc thành lập những phương tiện truyền thông riêng
cho mình, các tập đòan tư bản lũng đoạn đã khẳng định tiếng nói và chỗ
đứng của mình trong nền báo chí. Dẫu rằng sự can thiệp ấy là có mục đích
và để phục vụ cho những toan tính có lợi cho bản thân.
2.4. Tiểu kết chương I
21
Trên đây là cái nhìn tổng quát về những nguyên nhân chính và hình thức
can thiệp của tập đoàn tư bản lũng đoạn đối với báo chí. Chúng tôi cũng nêu
lên một số dẫn chứng tiêu biểu cho thấy sự can thiệp đó. Sự can thiệp đó
không những mang lại cho các tập đoàn tư bản lũng đoạn những nguồn lợi
nhuận kếch xù mà còn chứng tỏ vai trò, sức mạnh to lớn của báo chí. Điều
đó cho thấy bất cứ một tập đoàn nào muốn chứng tỏ địa vị, đẳng cấp của
mình đều phải sử dụng báo chí như một công cụ. Tuỳ theo từng mục đích
mà các tập đoàn tư bản có sự can thiệp vào báo chí khác nhau.
Chương II: Những câu chuyện điển hình về sự can thiệp
của tập đoàn tư bản lũng đoạn đối với báo chí
1. “Đám cưới” giữa AOL và Time Warner
1.1. Vài nét về Time Warner và AOL
1.1.1. Time Warner
Nền tảng: là sự sát nhập của Warner Communication và Time Inc, năm

1987.
Trụ sở: New York, Mỹ.
Những nhà lãnh đạo chủ chốt: Richard D.Parsons, chủ tịch Jeffiey
L.Bewkes; và tổng giám đốc điều hành Wayre Pace cùng các CFO khác.
Lĩnh vực kinh doanh chủ yếu: phát thanh, xuất bản, in, viễn thông.
Thu nhập: 50.48 tỉ $ (2008)
Nhân viên: 86.000 (31/12/2007)
Đây là một tập đoàn truyền thông lớn với 2 tên tuổi nổi tiếng trong giới
truyền thông Mỹ là tạp chí Time và kênh truyền hình CNN.
Time (đặc điểm phân biệt được viết hoa là TIME) là một tạp chí tin tức
hàng tuần của Mỹ, tương tự như tờ Newsweek và U.S. News & World
22
Report. Ngày ra đời đầu tiên của nó là 3 tháng 3 năm 1923. Richard Stengel
là tổng biên tập hiện nay của tạp chí này, Priscilla Painton, Adi Ignatius và
Michael Elliott là các phó tổng biên tập. Trong một vài chiến dịch quảng
cáo, tạp chí đã gợi ý rằng, qua cách viết tắt, những chữ cái trong từ "TIME"
biểu tượng cho dòng chữ "The International Magazine of Events" (tạm dịch:
một tạp chí quốc tế cho những sự kiện).
Ấn bản tại châu Âu (Time Europe, thường được biết đến là Time
Atlantic) được xuất bản ở London. Time Europe phát hành tới cả Trung
Đông, châu Phi và từ 2003 thêm châu Mỹ Latinh. Một phiên bản ấn bản tại
Châu Á (Time Asia) được đặt ở Hồng Kông. Tạp chí Time xuất bản ở cùng
thời điểm tại Canada, với phương thức quảng cáo khác nhau. Phiên bản ấn
bản tại châu Đại Dương, phát hành tới các nước Úc, New Zealand và những
hòn đảo ở châu Đại Dương, được đặt ở Sydney. Hiện nay số lượng phát
hành của nó lên tới 4.038.058 mỗi tuần, tính riêng ở Mỹ.
Trong khi những tạp chí khác chủ yếu thường đi theo hai hướng: một là
văn hoá giải trí- xã hội, hai là nghiên cứu chiều sâu hẹp về lĩnh vực khoa học
thì tạp chí Time lại đi vào tin tức, đi theo hướng mới trở thành tạp chí tin
tức. Có thể nói, tạp chí Time sở hữu trong tay những thông tin đẳng cấp thế

giới, là tạp chí danh giá của thời đại, tiêu biểu, điển hình cho dòng tạp chí
New magazine.
Cable News Network (tiếng Anh, viết tắt CNN; dịch là "Mạng Tin tức
Truyền hình cáp") là một mạng truyền hình cáp được thành lập năm 1980
bởi Ted Turner và là một nhánh của Tunner Broadcasting System, sở hữu
bởi Time Warner. CNN giới thiệu tin tức 24 giờ một ngày và 7 ngày trong
tuần. Tin tức được cập nhật liên tục về các lĩnh vực nóng hổi trên toàn thế
23
giới vì CNN có rất nhiều đài truyền hình dịch vụ. Trụ sở chính của CNN đặt
tại thành phố Atlanta, bang Georgia, Time Warner Center ở New York và
studios ở Washington, DC. Tổng giám đốc đài CNN hiện nay là ông
Jonathan Klein mới được bổ nhiệm tháng 11/2004.
Từ khi CNN khai trương 1 tháng 6, 1980, hệ thống mạng lưới được mở
rộng và đạt được một số lượng truyền hình cáp và truyền hình vệ tinh (như
bản tin chính CNN), 12 trang web, 2 hệ thống mạng lưới riêng (hệ thống
mạng lưới sân bay CNN), 2 hệ thống mạng radio. Mạng lưới có 42 văn
phòng giao dịch khắp thế giới và hơn 900 chi nhánh hội viên toàn cầu. CNN
mở rộng ảnh hưởng tới nhiều vùng và nhiều ngôn ngữ khắp thế giới, trang
web tin tức là CNN.com, sau đó được quy tụ vào là CNN ngày 30 tháng 8,
1995.
CNN trở nên nổi tiếng và được cho là kênh tin tức hàng đầu thế giới khi
có Sự kiện 11 tháng 9 năm 2001 tại Mỹ, bởi CNN đã ghi được những hình
ảnh máy bay bị khủng bố lái đâm vào tòa tháp đôi (Trung tâm Thương mại
Thế giới) và hơn thế là trong chiến tranh Iraq bởi kênh tin tức, video được
truyền về liên tục và cung cấp cho cả thế giới, CNN nhiều lần truyền hình
trực tiếp trận đánh giữa quân đội Mỹ và quân đội Iraq.
Ngày 1 tháng 6 năm 2005 CNN kỷ niệm 25 năm ngày thành lập. Tháng
12 năm 2004 CNN đã có 88,2 triệu gia đình người Mỹ và 890 nghìn văn
phòng khách sạn thuê bao; CNN đã có mặt trên 212 nước và có 1,5 tỷ người.
Mạng lưới tin tức của CNN rộng khắp trên thế giới và hoạt động 24/7 với tất

cả thiết bị và kỹ thuật hiện đại nhất.
1.1.2. AOL
24
AOL l tờn vit tt ca American Online, l mt tp on chuyờn cung
cp dch v Internet trờn ton cu. Với các dịch vụ: cung cấp, kết nối
internet, dịch vụ giá trị gia tăng và ICP (Yahoo messenger) AOL đã thu hút
khối lợng khách thăm khổng lồ và thu đợc khoản lợi nhuận lớn.
Thnh lp nm 1985, cú tr s ti Duless, Virginia, M.
Nhng nh lónh o ch cht: Randy Falco, Ted Leoniss, Ronald Grant.
Nhõn viờn: 16000
Lnh vc kinh doanh chớnh: cung cp dch v Internet trờn tũan cu
Khu hiu: See whats here for you
1.2. S can thip ca AOL vi Time warner
Nhận thấy sự phát triển lớn mạnh của Time Warner, AOL quyết định
liên kết với tập đoàn truyền thông này vào 1/2001 vi mt bn hp ng 163
t ụ la, tr thnh doanh nghip truyn thụng ln nht th gii. Khi quyt
nh bm tin u t vo Time Warner, AOL ó tớnh trc c li nhun
khi s lng ngi truy cp vo s tng lờn gp nhiu ln v vic gi chõn
ngi truy cp internet vi thi gian lõu hn. AOL lm c bi 2 u s
ln ca truyn thụng l Time v CNN ú. Nh vy, giỏ tr gia tng ca
AOL nh th m tng lờn. V song song vi li nhun m AOL thu c,
Time Warner cng tip tc phát trin tên tuổi ca mình, tìm ra một phơng
thức làm báo mới hấp dẫn hơn thông qua dch v internet ca AOL. Cũn
Time mun tỡm n mt kờnh thụng tin khỏc nờn ó chn internet(AOL),
cụng chỳng cú th tỡm thụng tin t tp chớ trờn Internet. Hai cụng ty ny ó
tng hy vng s thu c li nhun ln bng cỏch phỏt hnh phim v nhc
ca hóng Time Warner thụng qua mng internet ca AOL.
25

×