TRƯỜNG
ĐẠI
HỌC
NGOẠI
THƯƠNG
KHOA
KINH
TẾ
NGOẠI
THƯƠNG
KHOA
LUẬN
TỐT NGHIÊP
Đề tài:
VĂN
HOA
KINH
DOANH
MỸ
Sinh nên thục hiện ĩ
NGUYÊN
THỊ
HƯƠNG
Lớp :PHÁP1-K40E-KTNT
Giáo viền
hướng
dẫn :
THS.
TRẦN
VIỆT
HÙNG
Hà
Nội
năm
2005
m
j li
TRƯỜNG
ĐẠI
HỌC
NGOẠI
THƯƠNG
KHOA
KINH TẾ
NGOẠI
THƯƠNG
**********************
POREiGN
TOADE
UNIVERSIIY
KHOA
LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỂ TÀI: VĂN HOA KINH DOANH MỸ
Sinh viên thực hiện :
Nguyễn
Thị Hương
Lớp
:
Pháp
Ì
-
K40E
-
KTNT
Giáo
viên
hướng dẫn
:
ThS.
Trần
Việt
Hùng
V H
ư
V
i
E
H
Hà
Nội
năm 2005
MỤC LỰC
LỜI NÓI ĐẦU Ì
CHƯƠNG
ì:
TỔNG
QUAN VẾ
VÃN
HOA VÀ VHKD 5
ì.
KHÁI QUÁT
CHUNG VẾ
VĂN
HOA 5
1.
Khái
niệm
văn hoa
5
2.
Các yếu
tố
cấu
thành văn hoa
7
2.1.
Ngôn
ngữ.
8
2.2.
Tôn
giáo
9
2.3 . Giá trị và thái độ
9
2.4.
Phong
tục tập
quán
và chuẩn
mực
đạo đức
lo
2.5.
Đời
sống vật chất
ĩ ĩ
2.6.
Nghệ
thuật thẩm
mỹ //
2.7. Giáo dục
12
2.8.
Cấu
trúc
xã
hội
13
n. VĂN HÓA
VÀ
THƯƠNG
MẠI
QUỐC
TẾ
14
1.
Mối quan hệ
giữa
văn hoa và
kinh
doanh
14
1.1.
Kinh doanh
có văn
hoa
tạo cơ sở cho phát triển bền
vững
25
1.3.
Văn
hoa
và kinh doanh
đều
có
những ngành
chuyên
biệt phục vụ
mục
đích ca
nhau
16
1.4.
Văn
hoa ảnh hưởng mạnh mẽ
tới tư duy và
hành động ca
các
doanh
nhân
18
2.
Thương mại quốc
tế
dưới
góc độ văn hoa
19
in.
VÃN
HOA
KINH
DOANH
23
1.
Khái
niệm
văn hoa
kinh
doanh
23
2.
Các yếu
tố
cấu
thành văn hoa
kinh
doanh
25
3.
Đặc
điểm
cỚa
văn hoa
kinh
doanh
25
CHƯƠNG
li:VÃN
HOA
KINH
DOANH MỸ 28
ì.
TÌM
HIỂU
CHUNG VỀ
NƯỚC
MỸ 28
1.
Tổng quan về
nước
Mỹ 28
2.
Khái quát về nền
kinh
tế
Mỹ
và những đặc
điểm
cỚa nền
kinh
tê
Mỹ
31
2.1
Sơ
lược về nền kinh
tế Mỹ
3/
2.2.
Đặc
điểm nền
kinh
tế Mỹ
34
li.
VĂN
HOA
KINH
DOANH MỸ 40
1.
Vài nét
về
nền văn hoa
Mỹ
40
1.1.
Một
nền văn
hoa đa
dạng.
41
1.2.
Văn
hoa
Mỹ
đề cao cái tôi cá
nhân
42
1.3.
Một
nền văn
hoa năng
động, lạc
quan
và giàu sức sống
42
1.4.
Văn hoa
Mỹ
mang nặng
tính
thực
dụng
43
2.
Văn hoa
kinh
doanh
Mỹ 43
2.1.Văn
hoa
doanh nghiệp
43
2.1.1.
Sự phàn
cấp quyền lực
44
2.1.2. Tính cẩn trọng
47
2.1.3.
Quan
điểm về chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa lập thể.
51
2.1.4. Tính đối lập giữa
nam
tính và
nữ
tính
52
2.2.
Văn hoa
kinh doanh trong
Markeũng
53
2.2.1.
Lựa
chọn sản
phẩm
và xác định
mức
giá
53
2.2.2. Thiết lập
mạng
lưới phán phối
54
2.3.
VHKD
trong
đàm phán
55
2.3.1. Giao tiếp trước
đàm
phán
55
2.3.3.
Quá
trình hình thành hợp đồng
63
2.4.
Văn hoa
tiêu
dùng
65
CHƯƠNG IILBÀI
HỌC CHO
CÁC
DOANH
NGHIỆP
VIỆT
NAM
VÀ
NHỮNG
GIẢI PHÁP
NHẰM
PHÁT
HUY
VAI TRÒ
CỦA
VĂN
HOA
KINH
DOANH TRONG
THƯƠNG
MẠI
VIỆT
-
MỸ VÀ
XÂY
DỤNG
VÃN
HOA
KINH
DOANH
TẠI VIỆT
NAM 71
ì.
BÀI
HỌC
CHO
CÁC
DOANH
NGHIỆP
VIỆT
NAM 71
li.
MỘT SỐ
GIẢI PHÁP
NHẰM
PHÁT
HUY
VAI TRÒ
CỦA
VÃN
HOA KINH
DOANH TRONG QUAN
HỆ
THƯƠNG
MẠI
VIỆT
-
MỸ
74
1.
Nâng
cao
nhận
thức
chung
về
văn hoa
kinh
doanh
74
2.
Đẩy
mạnh
quan
hệ
song
phương,
kết
hợp
giao
lưu
kinh
tế
và
giao
lưu
văn hoa
75
3.
Cung
cấp và
tổ
chức
giới
thiệu
thông
tin
về
thị
trường
Mỹ
nói chung và
về
văn hoa
kinh
doanh
Mỹ
nói riêng
76
4.
Đào
tạo
nhà
kinh
doanh
thương mại quốc
tế
kiến
thức,
kỹ
năng nghiên
cứu
và thích
nghi
về văn hoa
kinh
doanh
78
III.
MỘT SỐ
GIẢI PHÁP
NHẰM
XÂY
DỆNG VÀ
PHÁT TRIỂN
VÃN
HOA
KINH
DOANH
Ở
VIỆT
NAM 79
1.
Nhóm
giải
pháp
vĩ
mô
79
1.1.
Tạo
lập
môi
trường lành
mạnh cho
văn
hoa
kinh
doanh vụt
Nam 79
1.2.
Năng
cao
ý
thức
về văn
hoa
kinh
doanh
81
1.3.
Khuyến
khích xuất khẩu
những mặt hàng
có
bản
sắc văn
hoa dân
tộc.
82
1.4.
Kết hợp
giao
lưu
kinh
tế
và
giao
lưu văn
hoa
83
1.5.
Có
biện
pháp quản
lý
để đảm bảo
tính
văn
hoa
trong hoạt
động
kinh
doanh
của các
doanh nghiệp Việt
Nam 84
1.6.
Có
biện
pháp họ trợ
xây
dụng
văn
hoa
doanh nghiệp
và
tuyên dương,
khen
thưởng
những doanh
nghiệp tiêu biểu
về
văn
hoa
trong hoạt
động
kinh
doanh
85
2.
Nhóm
giải
pháp
vi
mô 86
2.1.
Lãnh
đạo
doanh nghiệp
cần
chú
trọng giáo
dục
nâng
cao
nhận
thức
về
văn
hoa
doanh nghiệp
cho các
nhân
viên trong doanh nghiệp
mình
86
2.2.
Doanh
nghiệp
cẩn chú
trọng
đầu
tu,
nghiên
cứu để
xây
dựng văn
hoa doanh
nghiệp
86
2.3.
Doanh
nghiệp
cần có
chiến lược phát triển
văn hoa
trong từng tinh
vực
chuyên
môn 88
KẾT
LUẬN
89
TÀI
LIỆU
THAM KHẢO 91
PHỆ
LỆC
93
DANH
MỤC
CHỮ
VIẾT
TẮT
VHKD:
Văn
hoa
kinh
doanh
VHDN:
Văn
hoa
doanh
nghiệp
LỜI
NÓIĐẦU
ì.
Tính cấp
thiết
của đề tài
Thế
giới
đã và đang
diễn ra
những
biến đổi to lớn
và sâu
sắc,
một
trong
những
biến đổi
quan
trọng
đó
là sự
xích
lại
ngày một gần
nhau
hơn
của
các
quốc
gia
ừên
thế
giới.
Các
hoạt
động
giao lưu,
đặc
biẩt
là
trên
lĩnh
vực
kinh tế
cũng
trở
nên
sôi
động hơn bao
giờ hết;
từ
đó thúc đẩy quá
trình
toàn
cầu
hoa
ưong
sản
xuất
và
tiêu
dùng,
đặt
người
tiêu
dùng
trước
sự
lựa
chọn phong
phú
và đa
dạng
các
loại
sản
phẩm hàng hoa và
dịch
vụ,
đồng
thời
cũng cũng
tạo
nên một môi trường
cạnh
tranh
gay
gắt,
quyết
liẩt
giữa
các nhà
sản
xuất
và
kinh
doanh
trong
và ngoài phạm
vi
lãnh
thổ
một
quốc
gia.
Người
tiêu dùng
sau
một
thời
gian
dài
ngự
trị
chủ nghĩa
tiêu
dùng,
sùng
bái
vật chất
đang có
xu
hướng
chuyển
mạnh
sang
tìm
kiếm
sự
hưởng
thụ với
những sắc
thái
văn
hoa
trong
tiêu
dùng:
họ không
chỉ đòi
hỏi
sản
phẩm
phải
có
chất
lượng
cao,
hợp túi
tiền
mà còn
đòi
hỏi
sản
phẩm dó
phải thoa
mãn
cả những
yêu
cầu
về
thị
hiếu,
sở
thích tiêu
dùng
cũng
như
những
yêu
cầu
về
phong
tục tập
quán,
lối
sống
và các
chuẩn
mực
tồn
tại
trong
xã
hội
mà
họ
đang
sinh
sống.
Xu
thế
toàn
cầu hoa cũng buộc
các
doanh
nghiẩp phải
tiếp
xúc
với
những con
người,
những
tổ
chức
và các
thể chế
hình
thành
trong
những nền
văn
hoa
khác
nhau.
Để
giao
tiếp
thành công và
tiếp
cận
được
những
thị
trường
mới,
các nhà
kinh
doanh nói chung
và
các
nhà
kinh
doanh
thương
mại quốc
tế
nói
riêng
phải
có
những
hiểu
biết
nhất
định
về
phương pháp
tư duy
và cách
thức
làm
viẩc
cũng
như
những
tập
quán,
thói
quen
tiêu
dùng
tại
thị
trường
đó.
Hơn
nữa,
khi
hoạt
động
kinh
doanh
ngày càng phát
triển,
vai
trò
quản
lý
của
Nhà nước ngày
càng được nâng
cao
thì
viẩc
kinh
doanh
không
chỉ
đơn
thuần vì
lợi
nhuận
mà
còn nhằm nâng cao
đời
sống
vật chất
và
tinh
thần
cho con
người,
nghĩa
là
ngày càng
hướng
tói yếu
tố
văn hoa
nhiều
hơn.
Kinh
nghiẩm
thực tế
của
nhiều
nước
trên
thế
giới
đã
cho
thấy chỉ
có
con
đường
phát
triển
kinh
tế
gắn
liền
với
phát
triển
văn
hoa mới
đảm
bảo sự
phát
triển
bền vũng cho mỗi quốc
gia,
tức
là
phải
đưa
yếu
tố
vãn hoa vào
hoạt
động
sản
xuất,
kinh
doanh.
Như
vậy,
đứng
trên
phương
diẩn
người
tiêu
dùng,
các
doanh
nghiẩp
hay
rộng
hơn
Ì
nữa là cả
một
quốc
gia,
yếu
tố
văn hoa
trong
tiêu
dùng,
sản
xuất, kinh
doanh
đang ngày càng đóng
vai
trò quan
trọng.
Đây chính
là
tiền
đề cho
việc
hình
thành
và
phát
triển
tư duy
VHKD
trên
thế
giới.
Trong
nền
kinh tế
thế
giới,
không
ai
có
thể
phủ
nhận vị trí
và
vai
trò
quan
trọng
của nền
kinh tế
Mỹ.
Nhiều
đối tấc
của
Mỹ
đã
lấy thị
trường này
làm
thị
trường
trọng
điểm,
trong
đó
cổ
Việt
Nam.
Thị
trường
Mỹ
luôn
là
một
thách
thức đối với
các
doanh
nghiệp xuất
khựu của
Việt
Nam,
song nếu
tiếp
cận
được,
doanh
nghiệp
đó có
thể
chứng
tỏ thực lực
của
mình có
thể
mở
rộng
ra
hầu
hết
các
thị
trường
trên
thế
giới.
Mỹ
cũng
là
một
đối
tác
có
nền
VHKD
rất
đặc
thù.
Trong
giao
dịch song
phương nhà
kinh
doanh
chuyên
nghiệp
cần
trang
bị cho
bản thân
những
hiểu
biết
đựy đủ về
VHKD
khác
biệt
của
nước
bạn,
để
từ
đó gác
lại
những giá
tri
riêng
của
mình mà
có những
cư xử
và
hành
vi
phù
hợp,
tạo
điều
kiện
thuận
lợi
bước đầu cho
giao
dịch
nhằm
đạt
được
mục
tiêu
đề
ra.
Nước
Mỹ
thực
ra
không
phải
là
quá
xa
lạ với
người
dân
Việt
Nam nói
chung
và nhà
kinh
doanh
ngoại
thương
Việt
Nam
nói
riêng
song
VHKD Mỹ
cho đến nay vẫn chưa
phải
là một vấn đẻ hay được
nhắc
đến.
Chính
vì vậy tôi chọn
"Văn hóa
kinh
doanh
Mỹ"
làm đề
tài
nghiên
cứu của
mình.
Với
những
nghiên
cứu này, khoa
luận
mong
muốn
được đóng góp một
phần
vào
việc
cung cấp
thêm
những
thông
tin
bổ
ích,
thiết
thực
cho thương
mại
song phươngViệt
-
Mỹ.
n. Mục
đích,
ý
nghĩa của
đề tài
Mục đích cơ
bản của
đề
tài là
nhằm nghiên
cứu
một cách hệ
thống
và
bao
quát nhằm
chỉ
ra
được
những
nét đặc
trung,
tiêu
biểu
của
VHKD Mỹ.
Qua đó có
thể
giúp
các
nhà
kinh
doanh quốc
tế
có
được
cái
nhìn
tổng thể
về
VHKD
nói
chung
và
VHKD Mỹ
nói
riêng.
Từ đó đề
tài sẽ
có
ý
nghĩa
trong
việc
giúp
các
nhà
kinh
doanh quốc
tế kinh
doanh
thành công hơn
vối
các
đối
tác
Mỹ
và
trên
thị
trường
Mỹ,
qua
đó góp
phần
nâng
cao
hiệu
quả
hoạt
động
kinh
tế
đối
ngoại
của
Việt
Nam
nói chung.
2
in.
Đối
tượng
và phạm
vi
nghiên cứu
VHKD
là
một đề
tài
rất
rộng
nên
khoa
luận
chỉ
tập trung
nghiên cứu
những
đặc trưng
riêng
biệt
của
VHKD
Mỹ. Tuy
nhiên,
do hạn
chế
về
thời
gian
và
tài
liệu,
khoa
luận chỉ
có
thể
đưa
ra
một
cái
nhìn
khái
quát
về
VHKD
Mỹ và
tập trung
nghiên cứu sâu hơn vào
phần
VHDN
và
VHKD
trong
đàm
phán,
chứ
không
thể
đề
cập sâu đến mụi
khía
cạnh
trong
VHKD Mỹ.
IV.
Phương pháp nghiên cứu
Để
giải
quyết
những vấn
đề có liên
quan
đến đề
tài,
khoa
luận
đã sử
dụng
phương pháp
duy
vật biện
chứng
và
duy
vật lịch
sử
theo
quan
điểm
của
chủ
nghĩa
Mác
-
Lênin.
Các phương pháp
cụ
thể
bao gồm:
phương pháp phân
tích
- tổng hợp,
phương pháp
đối chiếu -
so
sánh,
phương pháp mô
tả
và
khái
quát
hoa
đối
tượng
nghiên
cứu.
Các phương pháp này được
kết
hợp
chặt
chẽ
với
nhau để rút
ra
những
kết luận
phục vụ cho đề tài.
V.
Kết cấu của
đề
tài
Khoa
luận
được
chia
làm 3 chương:
Chương ì:
Tổng
quan về văn hoa
và vãn
hoa
kinh
doanh
Chương li:
Văn
hoa
kinh
doanh
Mỹ
Chương
UI:
Những
bài hục cho doanh
nghiệp
Việt
Nam
và
những
giải
pháp nhằm phát
huy
vai
trò
vãn
hoa
kinh
doanh
trong
thương
mại
Việt -
Mỹ
và xây
dựng
văn
hoa
kinh
doanh
ở
Việt
Nam
Đây
là
một đề
tài
mới
mẻ
cả
ở
trên
thế
giói
và
Việt
Nam, hơn nữa do
thời
gian
và
trình
độ còn hạn
chế,
khoa
luận
chắc chắn sẽ
không tránh
khỏi
những
thiếu
sót,
tôi
rất
mong
nhận
được
sự
góp
ý,
phê bình
của
các
thầy
cô
giáo
cũng
như
các
bạn
sinh
viên để có cơ
hội
hoàn
thiện
những
kiến thức
về
vấn
đề này.
Trước
khi
đi
vào
trụng
tâm
của
khoá
luận,
tôi xin
được
bày
tỏ
lòng
biết
ơn sâu
sắc
đến các
thầy
cô
giáo,
những
người
đã
tận
tâm
dìu
dắt tôi trong suốt
4
năm
hục
qua;
đến
gia
đình,
nguồn
động
viên
lớn
nhất
đã
cổ
vũ
tôi
trên
suốt
3
chặng
đường
dài;
đến bạn
bè, những
người
đã luôn bên
tôi,
giúp tôi
trong
những
năm tháng
sinh
viên.
Cuối
cùng,
tôi
xin gửi
lời
cảm ơn chân thành
tới
Thạc
sỹ
Trần
Việt
Hùng,
người
đã
nhiệt
tình
giúp đỡ
và
tạo
điều
kiện
cho tôi
hoàn
thành
bài
luận
văn
tốt
nghiệp
này.
Hà
Nội,
tháng
10
năm
2005
Nguyễn
Thị
Hương
4
CHƯƠNG ì:
Tổng quan
về văn
hoa và văn hoa
kỉnh doanh
ì. KHÁI QUÁT CHUNG VẾ VĂN HOA
1.
Khái
niệm
vãn hoa
Văn
hoa là
một phạm
trù
mang
tính
lịch sử,
là sản
phẩm do
con
người
sáng
tạo
ra.
Văn hoa gắn
liền
với
sự
ra đời
và phát
triển
của
toàn nhân
loại.
Cho
đến
nay,
nền
văn
hoa
thế
giới
đã có một bề
dày
lịch
sử khá lâu
đời.
Thuật
ngữ
"văn
hoa"
bắt
nguồn
từ tiếng Latinh
"Cultus".
Qua
thời
gian
nó đã dện
trở
thành
một
thuật
ngữ chung cho các
môn
khoa học
xã
hội
và
nhân
văn.
Hệu
hết
các
nước
theo
hệ
Latinh
đều
giữ
lại
nguyên âm
của
từ
này:
tiếng
Đức là
"Kutur",
tiếng
Anh và
tiếng
Pháp
tuy
có
sự
khác
biệt
trong
phát âm nhưng
giống
nhau
về chữ
viết
"Culture",
còn
tiếng
Nga
cũng
có
thể
phiên âm thành
"Kutur".
Chúng
ta
có
thể
nhận
thấy
sự
khá
thống
nhất
trong
các
ngôn
ngữ
khi
phiên âm
thuật
ngữ
"văn
hoa", tuy
nhiên
trong việc
quan
niệm
thế
nào là
văn
hoa
lại
tồn
tại
khá
nhiều
quan
điểm
khác
nhau.
Trong
tiếng Latinh
Cultus
animi
có
nghĩa là
trồng
trọt tinh
thện.
Như
vậy
nội
hàm
ban
đệu
của
văn hoa
là trồng
trọt,
thích
ứng vói
tự
nhiên,
khai
thác
tự
nhiên
và
giáo
dục,
dào
tạo
cá
thể
hay cộng
đồng
để họ
có
những
phẩm
chất
tốt
đẹp.
Tuy
nhiên
cùng
với
thời
gian, việc
xác
định
và sử
dụng
khái
niệm
văn hoa không còn đơn
giản
nữa,
hàm
nghĩa của
thuật
ngữ
này đã
được
mở
rộng
hơn
trước
rất
nhiều.
Bản thân
khái
niệm
văn hoa
rất
rộng
lớn,
bao quát
mọi
mặt
của
xã
hội,
các nhà
khoa
học
thuộc
các
lĩnh
vực,
dân
tộc,
trường
phái khác
nhau
lại tiếp
cận
văn hoa
dưới
nhiều
góc độ khác
nhau,
vì vậy
hiện
có
rất
nhiều
định
nghĩa
khác
nhau
về
văn hoa.
Từ
thế kỉ
XIX (năm
1871)
Edward
Burnett
Tylor
đã đưa
ra
một
định
nghĩa
cổ
điển,
theo
đó văn hoa bao gồm
mọi
năng
lực
(capabilities)
và thói
quen,
tập
quán
(habits)
của con
nguôi
với
tư cách
là
thành viên
của
xã
hội.
Theo
Tylor,
có
thể
nói
văn hoá
là
mẫu hình
nhất
thể
hoa
(Ậntegrated pattern)
5
về
tri
thức,
tín
ngưỡng
và
hành
vi
của con
người.
Vói
định
nghĩa
này,
văn hoa
bao
gồm ngôn
ngữ, tư
Mỏng,
tín
ngưỡng,
phong
tục,
tập
quán,
nghi
thức,
quy
tắc,
thể chế,
chuẩn
mực, công
cụ,
kỹ
thuật,
công trình
nghệ
thuật
(hại
hoa,
điêu
khắc,
kiến
trúc)
và
những
yếu tố
khác
có
liên
quan
đến con
người.
Heriot
đã đưa
ra
mạt
định
nghĩa
mà có
người
xem
là
"mờ"
ựlou).
Theo
ông,
văn hoá
là sự
phát
triển
làm
cho
phong
phú các
khả
năng đa
dạng
về trí
tuệ
và
trạng
thái
của trí tuệ.
Văn
hóa,
đó
là cái
còn
lại
sau khi
người
ta
đã
quên
tất
cả, là cái
còn
thiếu
khi
người
ta
đã
học
tất
cả (La
cuture, c'est
ce qui
reste quand
ôn a
tout oublié, c'est
ce qui
reste quand
ôn a
tout appris).
Như
vậy,
văn hoá
mang
tính
chất
đạng,
nó
là cả
mạt quá
trình
có
sự
tích
lũy,
làm
giàu cho
trí tuệ
(nhưng
cũng
không tránh
được
quá ữình quên - quá trình
chọn
lọc tự
nhiên
về
tri
thức)
và
những
điều
còn
lại
trong
trí
tuệ,
ưong
tư duy,
trong
phong
cách
sống.
"Văn hoa bao gồm
tất
cả
những
gì
làm
cho
dân
tộc
này
khác
với các
dân
tộc
khác,
từ
những
sản
phẩm
tinh
vi
hiện
đại
nhất
cho đến
tín
ngưỡng
phong
tục tập
quán,
lối
sống
và
lao
động".
Có
lẽ
chính vì đã nêu
bật
được
tính vừa bao quát
vừa
cụ
thể của
khái
niệm
văn hoa mà
định
nghĩa
này của
Frederico
Mayor,
tổng
giám đốc
UNESCO
hiện
đang
được
chấp
nhận
và sử
dụng
rạng
rãi
trong
rất
nhiều
tài
liệu
nghiên cứu
cũng
như
trong
cách
hiểu
thông
thường.
Các
học giả
trong
lĩnh
vực
tâm
lý học
lại
định
nghĩa
"văn
hoa
là
hành
vi,
hành
động, thái
độ của con
ngưễi".
Khái
niệm
này
nhấn
mạnh
đến
việc
bên
cạnh
giáo dục
tri
thức,
kỹ năng
phải
đặc
biệt
coi
trọng
giáo dục
những
thái
đạ mà chúng
ta gọi
chung
là
nhân cách văn
hoa.
Cách
hiểu
này mới
chỉ
để
cập đến văn hoa
tinh
thần
và
thiếu
tính
cụ thể.
Trong
cuốn
Cơ
sỏ văn hoa Việt
Nam,
PGS.TS
Trần
Ngọc
Thêm đã
viết:
"Văn hoa
là
một hệ
thống
hữu cơ
các giá
trị
vật
chất
và
tinh thần
do con
ngưễi sáng
tạo
và
tích
lũy
qua quá
trình hoạt động thực tiễn, trong
sự
tương
tác
giữa
con
ngưễi
với
môi
trưễng
tự
nhiên
và xã
hội."
Định
nghĩa
trên dã
6
nhấn
mạnh
được yếu
tố
chủ
thể
của
văn hoa chính
là
con
người
và nêu
bật
được
nguồn
gốc
hình thành văn
hoá.
Con
người
chính
là chủ
thể
sáng
tạo
ra
văn
hoa.
Trong
suốt
lịch
sử
hình thành
và
phát
triển
của
mình,
con người
luôn
sáng
tạo
không
ngừng
để làm nên các
giá
trị
văn
hoa,
và một
trong
số
những
giá
trị
văn
hoa được
con người
sáng
tạo ra
chính
là
bản
thân
con
người
-
con
người
có văn
hoá.
Con
người
sáng
tạo ra
văn
hoa,
đồng
thời
chính
con người
cũng là sản
phẩm
của
văn
hoa.
Theo
thống
kê,
hiỉn
có
khoảng
hơn
400
định
nghĩa về
văn
hoa.
Vì khái
niỉm
văn
hoa,
như ữên đã
nói,
rất
rộng,
rất
bao
quát,
nên mỗi
định
nghĩa
thường
hoặc
chỉ
để
cập đến
một
khía
cạnh
nào đó
của
văn
hoa,
hoặc
bao
quát
song
lại
quá
trừu
tượng.
Tóm
lại
trong
ý
nghĩa
rộng
nhất,
văn
hoa
ngày
nay
có
thể
được
coi
là
"tổng
thể những
nét
tinh thần
và
vật
chất, trí
tuệ
và
xúc cảm
quyết định tính cách
của
một xã
hội
hay
của
một nhóm
người trong
xã
hội,
từ
đó
chi
phối
suy
nghĩ
và
hành
động
của con
người trong
xã
hội đó"
(Định
nghĩa
văn
hoa
của
UNESCO).
Vì
vậy,
văn hoá
mang
tính
cộng
đổng,
tổ
chức,
dân
tộc
và
được
thừa
kế qua
nhiều
thế hỉ.
Tuy
nhiên,
văn
hoa
cũng
liên
quan
đến
cá
nhân
với
tư
cách
là
thành viên
của
một
xã
hội
hay của
một
nhóm
người
sẽ
chia
sẻ
và
chịu
ảnh
hưởng
về tư
tưởng,
tập
quán,
chuẩn
mực và tính thòi
đại
của
xã
hội,
của
nhóm
người đó,
từ
đó ảnh
hưởng
đến tư duy
và hành
vi
của
cá nhân
đó.
Do
đó, mỗi
một xã
hội
có
một
hỉ thống giá
trị
tiêu
biểu
riêng
có và đó chính
là cái
để phân
biỉt
một
người thuộc
một
nền
văn hoa này
với
một người thuộc
một
nền
văn
hoa
khác.
2. Các yếu tố cấu thành văn hoa
Để
đạt
được
thành công
trên
trường
quốc
tế,
các
nhà
kinh
doanh
không
chỉ cần
có
cái
nhìn
tổng
quát
về nền
văn
hoa
nước
mình,
nước
đối
tác
hay
các
quốc
gia
có
liên
quan
mà hem
thế
nữa
họ
cần
phải
có
cái
nhìn
chi
tiết
cụ
thể
về
văn
hóa.
Vì
mọi
yếu
tố
cấu
thành văn
hoa,
dù
là
nhỏ
nhất cũng
có
những
tác
động
quan
trọng
và đóng
vai
trò nhất
định
trong
sự
thành
bại
của
thương
vụ.
Tìm
hiểu
các
yếu
tố
cấu
thành văn hoá
sẽ
giúp
cho
các thương
gia
có cái
nhìn
cụ
thể
và
sâu
sắc
hơn
về
văn
hoa.
7
Theo
các
chuyên
gia kinh
tế
phương
Tây văn
hoa
do 8
yếu
tố cấu
thành
nên,
đó
là:
+ Ngôn ngữ
+ Tôn giáo
+ Các
giá
trị
và
quan
điểm
+
Phong
tục tập
quán và
thói
quen
+
Đời
sống
vật chất
+ Nghệ
thuật
+ Giáo
dục
+ Cấu
trúc
xã
hội
2.1. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ
là
hệ
thống
các
âm
thanh,
từ ngữ,
mẫu
vẽ
được
con
người
sử
dụng
để
truyền
đạt
những
suy
nghĩ
vả
cảm
xúc của
mình.
Ngôn
ngữ
là
yếu
tố
quan
trọng
nhất
cấu
thành nên văn
hoa,
nó được
ví
như
những
viên
gạch
xây nên bức
tường
vãn
hoa.
Nhờ ngôn
ngữ
mà
con
người
có
thể
xây
dựng
và
duy
trì
văn hoa
của
mình.
Ngôn ngữ bao gổm ngôn ngữ có
lời
và ngôn ngữ
không
lời.
Ngôn
ngữ
có
lời
là
ngôn
ngữ
chính
thức trong giao
tiếp,
phản
ánh
cách
thức
con
người
nhận
biết
thế
giới
đổng
thời
nó
cũng
định
hướng
nền
văn
hoa.
Những nước nói
nhiều
hơn
hai
ngôn ngữ
thường
có
từ hai
nền văn hoa
trở
lên.
Ví dụ như
nền
văn hoa nói
tiếng
Anh và
nền
văn hoa nói
tiếng
Pháp
cùng
song song
tổn
tại
ỏ
Canada.
Ngoài
ra
chúng
ta
còn thông
tin
nhờ các
biểu hiện
bằng
hành
động,
cử
chỉ
khác:
tiếng
cười
là dấu
hiệu
của
niềm
vui,
sự
hài
lòng,
tặng
quà
là biểu
lộ
sự quan
tâm
và mối quan hệ hữu
nghị
nhưng
không có sự
thống
nhất
hoàn toàn
trong
ý
nghĩa của
những
biểu hiện
đó ở
mọi
nền
văn
hoa.
Nếu ở Mỹ, ngón
cái
và ngón
trỏ
khoanh
lại
thành hình tròn
là
một cử
chỉ
thân
thiện
thì
ở Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kì
lại
là
một
lời
mời mọc
khiếm
nhã
Sự đa
dạng
trong
ngôn
ngữ có
lời
và không
lời
của mỗi nền
văn
hoa
đòi
hỏi
thương
gia
quốc
tế
không
những
phải
nắm rõ ngôn ngữ địa
g
phương nhằm
tránh
những
sai sót trong
công
tác dịch
thuật
hay
giao
dịch
đàm
phán,
thương
thảo
hợp
đồng
mua bán mà còn
phải
có
những
hiểu
biết
nhất
định
về
những
điều
người
đối diện
muốn
ám
chỉ
thông
qua
hành
động,
cử
chỉ
của
mình để không mạc
sai
lẫm
đáng
tiếc
trong
quá
trình
giao
tiếp.
Giao
tiếp
thành công là một
chiếc
chìa
khoa quan
trọng
để
giao
dịch
thương mại
đạt
được
mục
tiêu
đề
ra.
Như
vậy
chúng
ta
có
thể
nhận
thấy
rằng
ngôn ngữ ảnh
hưởng
trực
tiếp
và sâu
sạc
đến
hoạt
động
kinh
doanh
thông qua
vấn
đề
giao
tiếp.
2.2. Tôn giáo
Tôn
giáo
là
một
hệ
thống
các
tín
ngưỡng
và
nghi thức
có
liên quan
đến
lĩnh
vực
thẩn thánh.
Ngày
nay
trên
thế
giới
đang có hàng trăm tôn giáo cùng
tồn
tại
nhung
có 5 tôn giáo
chủ yếu
là:
Thiên Chúa
Giáo,
Hồi
Giáo,
Ân Độ
Giáo,
Phật
Giáo và Đạo
Khổng.
Tôn giáo góp
phần
tạo
nên
lối
sống,
các mối
quan
hệ,
quyền
lực,
trách
nhiệm
và bổn
phận của
mỗi
cá
nhân.
Tôn giáo có
ảnh
hưởng
sâu
sạc
đến
thói
quen,
cách nhìn
nhận
sự
việc
và hành
động
của
con
người
trong
mọi
lĩnh
vực của đòi sống
xã
hội trong
đó có
kinh
doanh.
Có
lẽ
ý
nghĩa quan
trọng
nhất
của
tôn giáo
đối với kinh
doanh
trong
một xã
hội
chính
là
mức độ ảnh
hưởng
của
các tôn giáo khác
nhau
đến
thái
độ đòi
với
công
việc,
đến mối
quan
hệ
giữa
nguôi
lao
động
vói
giới
chủ và
kết
quả là
mức độ
ảnh
hưởng
của
tôn
giáo
đó
đến
chi
phí
kinh
doanh
ừong
xã
hội
đó.
2.3. Giá trị và thái độ
Giá
trị
là
những niềm
tin
và
chuẩn
mực
chung
cho một
tập thể
người
mà
được
các
thành viên chấp nhận. Thái
độ
là
sự
đánh
giá
những giải
pháp
khác nhau
dựa
trên những
giá
trị
này.
Các
giá
trị
và
quan
điểm
về tín
ngưỡng
càng ăn
sâu
vào
đời
sống con
người
thì
các
nhà
quản lý doanh
nghiệp
quốc
tế
càng
phải
thận
trọng hơn.
Nền văn hoá
Nhật
Bản
tự
nó đã
dựng
nên một hàng
rào vô hình
chống
lại
các
gaiịin
-
có
nghĩa là
người
nước ngoài.
Do
đó,
rất
nhiều
quan chức
tuổi
trung
niên
trong
Chính phủ và các công
ty
cho
rằng
dùng hàng
nước
ngoài
là
không yêu
nước;
những
công
ty
nước
ngoài
cũng
9
gặp
nhiều
khó khăn
trong việc
thuê nhân viên có trình độ
đại
học
hoặc
nhân
viêc lâu năm do làn sóng
phản
đối
các ông
chủ nước ngoài.
Văn hoa
mang
tính
năng
động
nhưng xu
hướng
thay đổi
chủ yếu
diễn ra
ở
các
nước
đã công
nghiệp
hoa,
ừong
khi
đó ở
những
xã
hội
nặng
tính
truyền
thống
hơn
thì
việc
đổi
mới
bị
xem xét
với
một
thái
độ hoài
nghi,
nhất
là
khi
nó
lại
xuất
phát
từ
phía
nước ngoài.
Tình
hình
đó
đòi
hậi
các
nhà
kinh
doanh quốc
tế
phải
nghiên
cứu
tỉ
mỉ, khoanh
vùng
tiếp
cận
và cân
nhắc
thời
gian
hợp
lý
để hành
động.
2.4. Phong tục tập quán và chuẩn mục đạo đức.
Phong
tục tập
quán
là
những
quy ước
thông thường
của
cuộc sống hàng
ngày.
Đó
thường
là
những
quy ước
về
thời
gian,
về
cách xử
sự
ưên bàn
tiệc
sao
cho
lịch sự,
về
cách chào
hậi,
đón
tiếp có
thể lấy
ví
dụ như cách
quan
niệm
của
các
xã
hội
về
thời
gian.
Người
Mỹ
và
người
Hà
Lan
rất
chính xác về
mặt
thòi
gian.
Người
Hà Lan
thường
đến sớm hơn một chút so
với giờ
hẹn.
Ngược
lại,
khi
bạn được mời
ăn
tối
tại
một
gia
đình
người
Anh,
đến đúng
giờ
lại
bị
coi
là
xử
sự
kém
vì
bạn
sẽ
làm
gia
chủ
lúng túng
vì mọi
thứ
vẫn
chưa
được
chuẩn
bị
xong.
Thông
thường
bạn nên đến
sau
giờ
hẹn
khoảng
Ì
giờ.
Nhưng
bạn
phải coi
chừng
khi
có ý
định
đó
trong buổi
gặp gỡ
với
người
Hà
Lan
hay
nguôi Mỹ,
những
nguôi
nổi tiếng
là
chính xác về
thời
gian.
Đối với
họ,
trễ
hẹn
5 phút đã
khiến
cho
họ
cảm
thấy
rất
bực
bội,
thậm chí
có
thể thay
đổi
quan
điểm
tốt
đẹp của họ dành cho bạn
chỉ
với
một
lỗi
lầm như
vậy.
Phong
tục tập
quán
nói
chung là
những
hành
động
ít
mang
tính
đạo
đức.
Tuy
nhiên,
chuẩn
mực đạo đức
là
những
quy
tắc
được
coi
là
trọng
tâm
trong việc
thực
hiện
các
chức
năng xã
hội
và xây
dựng
nên
đời
sống
xã
hội.
Chuẩn mực
đạo
đức
là
những cách
cư
xử
được
coi là
đúng
đắn và có
tính chất
bắt
buộc
chung
đối với
các
thành viên trong
xã
hội.
Chuẩn
mực
đạo đức
có ý
nghĩa
lớn
hơn
nhiều
so
với
phong
tục tập
quán.
Do
đó,
việc
làm
trái
các
chuẩn
mực đạo
đức có
thể
đem
lại
hậu quả
nghiêm
trọng.
Chuẩn
mực đạo đức bao gồm các
yếu
tố
như
sự lên
án các hành
động
trộm
cắp,
ngoại
tình,
loạn
luân hay
giết
người,
ở
nhiều
xã
hội,
một
số chuẩn
mực đạo đức đã
được
cụ
thể
hoa
trong
luật
pháp nhưng
vẫn
có
rất
nhiều
khác
biệt
trong việc
xây
dựng
chuẩn
mực
lo
đạo
đức.
Ví dụ như
việc
uống rượu
ở Mỹ được xem
là
một
hoạt
động bình
thường
ữong
khi
đó ở
Arab
Saudi
uống rượu bị
coi
là
vi
phạm nghiêm
trọng
chuẩn
mực
đạo đức và có
thể bị
bầ
tù.
2.5. Đời sống vật chất
Nền văn
hoa
vật
chất
khởi
đầu
từ
Mỹ và đang ngày càng có xu
hướng
lan
rộng
khắp
các nước
trên
thế
giói.
Một
nền
văn hoa
vật
chất
thường được
coi
là sản
phẩm
của
công
nghệ
và được
liên
hệ
trực
tiếp
với việc
xã
hội
đó
tổ
chức
hoạt
động
kinh tế của
mình như
thế nào.
Văn
hoa
vật
chất
thể hiện
qua
dời
sống
vật
chất
của quốc
gia đó.
Công
cụ,
công
nghệ,
phương pháp mà xã
hội
đó
sử
dụng để sản
xuất
hàng
hoa,
dịch
vụ,
cũng
như
việc
phân
phối
và
tiêu
thụ sản
phẩm
đều
có
liên
quan đến
vãn
hoa. Đời
sống
vật
chất
ở
một quốc
gia
phản
ánh mức
sống
và
trình
độ công
nghệ của quốc
gia đó.
Trong
một xã
hội
mà
lực
lượng sản
xuất
tập trung
chủ yếu
ở ngành công
nghiệp,
số lượng
dân
cư thành
thị
đông,
các
tiện
nghi
hiện đại
như
tivi,
báo
chí,
Internet đều
rất
phổ
biến
thì
việc kinh
doanh nói chung
và
kinh
doanh vượt
ra
ngoài phạm
vi
quốc
gia
mới
có
điều
kiện
phát
triển
và có ý
nghĩa quan ữọng
đối với
xã
hội.
Điều
này hoàn toàn khác so
với
một xã
hội
mà nông
nghiệp
chiếm
tỷ trọng
lớn,
việc
cơ
giới
hoa
hoạt
động nông
nghiệp
còn quá hạn
chế,
phần
lớn
là
tự
cung
tự cấp.
Ở
xã
hội
đó
kinh
doanh quốc
tế
không
đóng
vai
trò quan ữọng
và
gần
như không
tồn
tại.
2.6. Nghệ thuật thẩm mỹ
Nghệ
thuật là
phương
tiện
để
truyền
tải
cái đẹp
trong
một
nền
vãn hóa
đến mọi
đối
tượng.
Mỗi một
nền
văn
hoa
có
thể
định
ra
một
quan niệm
riêng
về
cái
đẹp.
Quan
niệm về vẻ
đẹp
của
người
phụ
nữ
trên
thế
giới
là
một
ví
dụ
điển
hình.
Mặc dù ầ Châu
Âu,
Châu Á và Châu Mỹ mẫu
người
thon
thả
đều
đang
là
mốt
nhung những
chi
tiết
khác
lại
hoàn
toàn
khác
biệt.
Ở Châu Âu và
Châu Mỹ
người
ta
ưa
chuộng
người
phụ
nữ có dáng
người
khoe
mạnh,
gò má
cao,
miệng
rộng,
mắt
xếch,
có
làn da
rám
nắng
trong khi
đó
người
Châu Á
lại
thích tuýp
người
mảnh
mai,
dịu
dàng
với
nước
da
trắng,
khuôn mặt
trái
xoan
li
và đôi mắt
to
tròn.
Miệng
rộng,
mắt
xếch,
gò má cao đều là
những
nhược
điểm
khó
được
chấp
nhận,
đôi
khi
người
ta
còn
quan niệm
đó
là dấu
hiệu
báo
trước
cho
những điều
không lành sẽ xảy
ra trong
tương
lai.
Tìm
hiểu
nghệ
thuật
của
một
nền
văn
hoa cũng sẽ
giúp chúng
ta
nắm được
quan niệm thẩm
mỹ nói
chung của
người
dân
trong
nền
văn hóa
đó.
Quan
niệm thẩm
mỹ
của
một
xã
hội thể hiện
ở
thiết
kế, kiểu
dáng,
màu
sắc,
cách
thể hiện biểu
tượng,
dộng
tác,
tình
cảm và
chịu
ảnh
hưởng
của
một
nền
văn
hoa
nhất
định.
Yếu
tọ
này có tác động không nhỏ đến
việc
thiết
kế và
quảng
cáo sản
phẩm
ở
thị
trường
đó.
Ví
dụ:
ở phương Tây váy
cưới
chủ yếu là
màu
trắng,
họ
coi
đó là
tượng
trưng
cho
sự
tinh
khiết
và
trong
trắng,
ngược
lại
người
phương Đông
lại
quan niệm
rằng
đó
là
dấu
hiểu
của
sự
tang
tóc.
2.7. Giáo dạc
Giáo dục là một thành
tọ hết
sức
quan
trọng
của văn
hoa.
Hệ
thọng
giáo
dục
khác
nhau
ỏ
mỗi
nước
cũng
góp
phần duy
trì
và
tạo
nên
sự
khác
biệt
về
văn
hoa
giữa
các quọc
gia.
Giáo
dục
có
ảnh
hưởng
sâu
sắc
đến
trình
độ văn
hoa,
nhận
thức,
tinh
thần,
ý
thức
và năng
lực
làm
việc
của mỗi
cá nhân
trong
xã
hội.
Đọi với
thương
mại quọc
tế
hiện nay, khi
mà
thế
giới
đang
chuyển
dần
sang
nền
kinh
tế
tri
thức,
một
trong
những
khía
cạnh quan
trọng
nhất
đóng
vai
trò
như một nhân
tọ
quyết
định
trong
lợi
thế
so sánh
quọc
gia
chính
là
giáo
dục
.
Nhân
tọ
chủ
chọt
của
thành công
trong
sự phát
triển
kinh tế
của
một
quọc
gia
chính
là
nhân
tọ con
người:
lực
lượng
lao
động
được
giáo
dục
và đào
tạo
tọt.
Một hệ
thọng
giáo
dục quọc
gia
tọt
là
cỗ máy
sản
xuất
ra lực
lượng
sản
xuất
đầy
tiềm
năng
cho nền
kinh
tế.
Sự
phát
triển
thần
kì của nền
kinh tế
Nhật
Bản
từ
sau những
năm
1945
là
minh chứng
hùng
hồn
nhất
cho điều
này:
sau chiến
tranh,
đất
nước
Nhạt
Bản nghèo nàn
tài
nguyên
hầu
như không còn
gì
ngoài
nguồn
nhân
lực
được rèn
luyện
tọt
cả về
tinh
thần
và kỹ
năng.
Đây
chính
là
yếu
tọ
tiên
quyết
cho
thành
công
của kinh
tế
Nhật
thời
hậu
chiến.
Một hệ
thọng
giáo
dục
tọt
không
chỉ là
nhân
tọ của
lợi
thế so
sánh
quọc
gia,
bên
cạnh
đó nó còn
là
một nhân
tọ
quan
ữọng
trong việc
hình thành nên
một
môi
trường
đầu tư hấp dẫn
thu
hút các
nhà
đầu tư
nước
ngoài.
Rõ ràng
là
12
rất
khó có
thể
tiến
hành
việc
sản
xuất
đòi
hỏi lao
động kỹ
thuật
cao
tại
một
đất
nước
mà
hệ
thống
giáo
dục
không
thể
đáp
ứng những
yêu
cầu
tối
thiểu
về
trình
độ kỹ
thuật
dù
cho các yếu
tố
nhu
nguyên
liệu,
môi
trường
pháp
lý
có
thuận
lựi
đến
đâu chăng
nữa.
Đây
là
tình
trạng
đáng
buồn
hiện
nay của
nhiều
nước
Châu
Phi,
nơi đưực
coi
là
mỏ khoáng
sản của
thế
giới
nhưng
lại
không
thể
xây
dựng
đưực
một
ngành
luyện
kim
hiện
đại.
Ngoài
ra chất
lưựng
giáo
dục
còn ảnh
hưởng
rất
lớn
đến
việc
đưa
thiết
bị
vào
thị
truồng,
tuyển
chọn
và đào
tạo
nhân
công,
lựa
chọn
các phương
tiện
quảng
cáo
và
lựa
chọn sản
phẩm
thích
hựp
để
tung ra
thị
trường.
Ví
dụ:
tại
thị
trường
có
tỷ
lệ
người
mù chữ cao thì các nhà
quảng
cáo nên sử
dụng
các
phương
tiện
nghe
nhìn hơn
là tài
liệu
in ấn.
Hơn
nữa,
việc
tuyển
chọn
nhân
viên bán hàng
tại
địa
phương
cũng sẽ
phụ
thuộc
vào ừình độ
của người lao
động
tại
thị
trường
đó.
2.8. Cấu trúc xã hội
Cấu
trúc
xã
hội
của một
xã
hội là
cách thức
tổ
chức
xã
hội
cơ bản
của
nổ.
Cấu
trúc
xã
hội
bao
gồm
nhiều
khía
cạnh song sự
khác
biệt
cơ
bản của
nó
thường
dưực
nhấn
mạnh
ở
hai
khứa cạnh:
Một là sự
khác
nhau về
đơn
vị
cơ
bản của
cách
thức tổ
chức
xã
hội:
nó
có
thể
là
một cá nhân như ở
các
nước phát
triển
phương
Tây: Anh,
Mỹ, Đức,
Pháp
hay một nhóm
người:
đơn
vị
gia
đình,
họ
tộc
như ở
Trung
Quốc,
Ân
Độ
Xã
hội
phương Tây có xu
hướng
đề cao
vai
trò cá
nhân,
trong
khi
ở
nhiều
xã
hội
khác
lựi
ích của
toàn
bộ nhóm
người
luôn
đưực
đặt
lên
hàng
đầu,
các thành viên
trong
nhóm có
thể phải hi
sinh
quyền
lựi
của
mình để bảo về
lựi
ích cho
toàn
nhóm.
Hai
là mức độ phân hoa của các
giai
tầng
trong
xã
hội.
An Độ và
Vương
quốc
Anh
là những điển
hình
cho
xã
hội tồn
tại
chế
độ phân
biệt
sâu
sắc
giữa
các
tầng lớp
và
giai
cấp
khác
nhau
trong
xã
hội.
Ngưực
lại,
Mỹ
lại
là
điển
hình
cho những
xã
hội
mà ở
đó,
sự
phân
biệt
này
thực
sự
không rõ nét,
13
việc
thay đổi
đẳng
cấp
và
tầng
lớp
của mỗi
người
hoàn toàn
là
có
thể
và phụ
thuộc
rất
nhiều
vào
sự
cố
gắng
vươn
lên của
chính cá nhân đó.
Hai
khía
cạnh
này có ọnh
hưởng
quyết
định
đến
việc lựa
chọn
cơ
cấu
mặt
hàng
chiến
lược
và
thị
trường
mục
tiêu
của
các doanh
nghiệp
n. VĂN HÓA
VÀ
THƯƠNG MẠI
QUỐC TẾ
1.
Mối quan hệ
giữa
văn
hoa
và
kinh
doanh
Kinh doanh
là tất
cả
những hoạt động
hợp pháp nhảm
thoa
mãn
các
nhu
cầu của con
người thông
qua
các
hoạt động trao
đối
bằng tiền
tệ
cố vốn
ứng
trước
nhằm
thu
được
lợi
nhuận.
Chúng
ta
có
thể thấy
văn hoa và
kinh
doanh
bề
ngoài
là hai
hoạt
động
nhằm
những
mục
đích
hoàn toàn khác
nhau.
Văn hoa là
những
kết
tinh
trong
đời sống
tinh
thần
của con
người
nhằm
hướng
tới
cái
đẹp,
cái
thiện
trong
xã
hội.
Còn
kinh
doanh là
nhằm mục đích
thu
lợi
nhuận,
mà
theo
cách
hiểu
thông
thường
thì
lợi
nhuận
không
thể
đồng
nghĩa
với
cái
đẹp.
Nhưng trên
thực
tế,
mối
quan
hệ
giữa
văn hoa và
kinh
doanh
là mối
quan
hệ
biện
chứng
có tính quy
luật,
vừa
thống
nhất
vừa phụ
thuộc
vào
nhau:
1.1.
Kinh
doanh
có văn
hoa
tạo
cơ sở cho
phát trin
bền
vững
Từ
trước
tới
nay,
văn hoa
thường
bị
xếp
vào
lĩnh
vực
sọn
xuất phi vật
chất,
nghĩa là
phọi
phụ
thuộc
vào
lĩnh
vực
kinh tế
và
nó
chỉ
có
thể
phát
triển
khi
nền
kinh tế
dã
dạt
được
những
thành
tựu
nhất
định.
Tuy
nhiên,
kinh
nghiệm
thực
tế
của
hàng
loạt
quốc
gia trong
những
thập
kỉ
qua
đã
cho
thấy:
"Khi
các mục
tiêu
tăng
trưởng
kinh
tế
được
đặt ra
mà
tách
rời
với
môi
trường
văn
hoa
thì kết
quọ
thu
được
sẽ
rất
khập
khiễng,
mất cân
đối
cọ về
kinh tế lẫn
văn
hoa,
đồng
thời
tiềm
nàng sáng
tạo
của mỗi dân
tộc
sẽ suy yếu đi
rất
nhiều".
Có
thể lấy
Thái Lan
là
một
ví
dụ
điển
hình cho
nhận
định
trên của
tổng
giám đốc
UNESCO
-
ông
F.Mayor.
Việc
quá ưu
tiên
phát
triển
kinh tế
mà
thiếu
chú
ý
đến vấn đề văn hoa đã xâm phạm nghiêm
trọng
đến
thuần
phong
mỹ
tục
của quốc
gia,
biến đất
nước
mơi
đẹp
có
nền
văn
hoa phong
phú,
giàu
bọn
sắc
dận
tộc
thành một
đất
nước
bị
ô
nhiễm
nặng
nề
với
số
lượng
gái
14
mại
dâm và
tỉ lệ
người
nhiễm
mv
cao
nhất
Châu
Á.
Rõ
ràng
là kinh
tế
không
thể
phát
triển
lành
mạnh
và lâu bền nếu
thiếu
nền
tảng
là
văn
hoa.
Nhưng
điều
đáng
buồn là
không
phải
lúc nào
cũng
có một
giải
pháp
dung
hoa
giữa
văn
hoa
và
kinh
doanh.
Kinh
tế
phát
triển
kéo
theo
hàng
loạt
hậu
quả:
phân hoa
giàu
nghèo ngày
một
cách
biệt,
tài
nguyên
thiên nhiên
cạn
kiệt,
môi
trường
bị
ô
nhiễm nặng
nề,
nền
vãn
hoa
dân
tộc
bị suy
tàn,
mai
một
Tuy
nhiên,
theo
xu thế
chung của
thời
đại
ngày nay
thì
"mục đích
tổi
thượng
của
kinh
doanh
không
phải
hoặc
không nên
chỉ
đơn
giản
là
kiếm
tiền"
mà
kinh
doanh
phải
phát
triển
theo
hướng
lấy
mục tiêu đa
dạng
văn hoa và ổn định môi trường
làm động cơ và
hoạt
động chính của
nó.
Không có
VHKD
vẫn
hoạt
động
nhung điều
đó không dẫn đến phát
triển
bền
vững,
không có phát
triển
bền
vững;
các
hoạt
động
kinh
doanh sẽ dần
phá
sản.
Văn
hoa
và
kinh
doanh
đều
cẩn
đến nhau và nhờ
vậy
cả
hai
mói có
thể
cùng
phát
triển.
1.2.
Văn hoa
là
một ngành kinh doanh
Xét một cách toàn
diện,
không có
hoạt
động
kinh tế
nào
không
hướng
tói
mục
tiêu
phát
triển
con
nguôi,
nâng
cao
đời
sổng
vật chất,
văn
hoa,
tinh
thần
cho con
người.
Ngược
lại,
cũng
không có
hoạt
động văn
hoa
nào
lại
chỉ
thuần
tuy
là
văn hoa mà không
ít
hoặc
nhiều,
trực
tiếp
hay gián
tiếp,
mang
tính
chất kinh
tế.
Mỗi dân
tộc
đều có
những
nét riêng
biệt
về văn hoa trên
từng
lĩnh
vực được
gọi
chung
là bản sắc văn
hoa. Khi
các giá
trị
văn hóa
truyền
thổng
đó
trở
thành
đổi
tượng
kinh
doanh, doanh
nghiệp
sẽ vừa
thu
được
lợi
nhuận vừa
có
thể
quảng
bá
bản
sắc
văn hoá
của
dân
tộc
mình
ra
toàn
thế
giói.
Một ừong những
cơ
hội kinh
doanh
bắt
nguồn
từ
văn hoa rõ
rệt
nhất
chính
là
du
lịch.
Sự phát
triển
thần
kì của
ngành du
lịch
là
một
trong
những
thay đổi
đáng kể
trong
thương
mại quổc
tế
nửa sau
thế kỉ
XX. Doanh
thu
của
ngành du
lịch
quổc
tế
tăng
từ
18
tỷ
USD
lên
tới
324
tỷ
USD
từ
năm
1970
đến
1993.
Du
lịch
đang ngày càng
chiếm
tỷ
ữọng
cao
trong
hoạt
động
thương mại
quổc
tế.
Ngoài
những
đóng góp về mặt
kinh
tế,
du
lịch
còn có một
vai
trò
quan
trọng
không kém
là truyền
bá các
giá
trị
văn
hoa, truyền
thổng
của
một
15
quốc
gia ra
ngoài
thế
giói.
Du
lịch
văn
hoa
ngày
nay
đã và đang
trở
thành sự
lựa
chọn hấp dẫn của
du
khách.
Tuy
nhiên,
điều
đáng
quan
tâm ở đây
là
làm
thế
nào
để
vẫn duy
trì
được
tốc
độ
phát
triển
của
ngành du
lịch,
giói
thiệu
nét
văn hoá
truyền
thống
của
đất
nước,
đồng
thời
không ảnh
hưởng
tiêu
cực
đến
việc
bảo
tận
những
tài sản
văn
hoa
vô
giá
đó.
Nhu
cầu
mở
rộng
cơ
sở vật chất
nhằm đáp
ứng số lượng
du khách ngày càng tăng đang dân
đến nguy
cơ
biến
những
vùng
đất
yên ả
thanh
bình và giàu tính văn
hoa
thành
những phố chợ
ồn ào,
ô
hợp,
chen
lán,
giành
giật,
khiến
cho
tính xác
thực
của những yếu
tố
văn
hoa
truyền
thống
-
đối
tượng quan
tâm
chủ yếu
của
khách
tham quan
-
trở
nên mờ
nhạt
và
dần mai
một.
Một
khi
những giá
trị
văn
hoa ấy
không còn
thì
du
lịch
chắc chắn
sẽ
không
thể
tiếp
tục
duy
trì
được
những
thành
tựu
đáng kể
như
thời
gian
vừa qua.
Bên
cạnh
ngành du
lịch,
văn hoa
cũng
có
thể trở
thành một
lĩnh
vực
đem
lại lợi
nhuận
thông
qua
việc
mua bán
những
sản
phẩm
thủ
công mỹ
nghệ
hay
qua
việc biểu diễn
những
bộ môn
nghệ
thuật truyền
thống.
Đồ mây
tre
đan,
thêu
ren thủ
công,
mỹ
nghệ
khảm
trai
của
Việt
Nam
được
thị
trường
nước
ngoài đánh
giá
khá
cao.
Các
loại
hình
nghệ
thuật
dân
tộc
như
hát
chèo,
tuồng,
cải
lương,
quan
họ,
múa
rối
cũng
thu
hút
sự quan
tâm chú ý không
chỉ
của
người
dân
trong
nước mà còn được đón chào
nồng
nhiệt
tại
nhiều
sân
khấu
quốc
tế.
Văn
hoa là cái vĩnh cửu
trường
tồn,
nó
chứa dựng
tất
cả những
gì
tinh
tuy
nhất
của
một
dân
tộc,
chính
những nét đặc thù
riêng
biệt
ấy
sẽ
dem
lại
cho doanh
nghiệp
những
lợi
thế
rất
riêng
mà không
một
đối thủ
cạnh
tranh
tại
bất
kì quốc
gia
nào có
thể
có
được.
Vì
vậy nếu các
nhà
kinh
doanh quốc
tế
nếu
đi sâu
tìm
hiểu
nền
văn
hoa
dân
tộc
và đánh
giá
nó đúng
đắn
dưới
góc độ
kinh
doanh thì
hoàn toàn có
thể thu
được
lợi
nhuận
cao và làm giàu chính
đáng
bằng
chính
nội lực
văn
hoa của quốc
gia
mình.
1.3.
Văn hoa
và
kinh
doanh đều có những ngành
chuyên biệt
phục
vụ mạc
đích
của
nhau
Văn hoa và
kinh
doanh
là
hai lĩnh
vực riêng
biệt,
có mục đích và
phương
thức
hoạt
động không đồng
nhất.
Tuy nhiên để
đạt
được mục đích
16
chính
của
mình
thì cả
hai lĩnh
vực đều cần
đến
những
bộ
phận
chuyên trách
thực
hiện
những
công
việc
mang
tính
chất
hỗ
ỪỢ.
Trong
các doanh
nghiệp
lớn
phòng
Marketing
hay
phòng P.R
(Public
relation)
là những
bộ
phận
đặc
biệt
quan
trọng.
Nó không
trực
tiếp
tham
gia
vào quá trình
sản
xuất
nhưng cùng
với
hoạt
động nghiên cểu
thị
trường,
đi
sâu vào tìm
hiểu
những
nét đặc thù
của
nền
văn
hoa nói chung
và vãn
hoa
tiêu
dùng ở
thị
trường
đó bộ
phận
này
chính
là
nguôi
"khai
sáng"
cho doanh
nghiệp
khi
tiếp
cận
một
thị
trường
mới,
hơn
nữa họ cũng
chính
là cầu nối
quan
trọng giữa
doanh
nghiệp
và
thị
trường.
Ngày
nay, nhiều
hoạt
động
văn
hóa, thể
thao
gắn
liền
vói tên
tuổi
của các
nhà
tài
trợ: giải
tranh
cáp Độc
Lập
do ngân hàng Nông
nghiệp
và
phát
ữiển
nông
thôn
tài
trợ
nay được
đổi
tên thành
cúp
Agribank,
hay nói đến chương trình
Bài hát
Việt
người
ta
không
thể
không
nhắc
đến hãng
Clear,
giải
Sao Mai
2005 luôn đồng hành cùng hãng My
Vita
Một
số
công
ty lớn
còn
lập
các
quỹ tài
trợ
cho
các
lĩnh
vực
phát
triển
văn
hoa,
giáo
dục,
khoa học
như quỹ
Ford,
quỹ học bổng Sumimoto
dù mục
đích
chính
của
hoạt
động
tài
trợ
vẫn
là
kinh
doanh,
quảng
bá thương
hiệu
nhưng
cũng
không
thể
phủ
nhận
được
vai
trò của những
hoạt
động đó
tới
việc
mở
rộng
và
khuếch
trương tầm ảnh
hưởng
của
các
hoạt
động văn
hoa đến mọi
tầng
lớp
dân
cư.
Hơn
nữa,
xét
một
cách
tổng
thể
thì
trong kinh
doanh
đã có một
nền
VHKD
thể hiện
ở sự vận
dụng khoa
học,
kỹ
thuật,
tổ
chểc
và
quản
lý
kinh
doanh,
ở
những
cách
thểc
giao
tiếp
và ểng xử
trong kinh
doanh,
thương
mại.
Bên
cạnh
đó,
có
những
ngành
thuộc
lĩnh
vực
văn hoa
cũng
có bộ
phận
làm công
việc kinh
doanh. Hoạt
động
kinh
doanh
không làm cho
những
ngành này
thay
đổi
bản
chất
hay
biến
tướng
trở
thành
những
ngành
kinh
doanh
thực
thụ
mà nó giúp
cho
các ngành dó có
điều
kiện
phát
triển
tốt
hem,
làm
tròn
nghĩa vụ
đối với
Nhà
nước
và phục vụ
nhân dân một cách
rộng
rãi
và
có
chất
lượng
cao hơn.
Mặt
khác,
cũng
có
những
ngành văn
hoa
và
khoa
học
đểng
ngoài công
việc kinh
doanh song
có
khả
năng
phục
vụ
sự
nghiệp
kinh
doanh
bằng
các công
trình
nghiên
cểu khoa họỹjữLnhững
hoat
đông chuyên
môn
của
mình như
các
ngành
kinh
tế
học,
xã
hộỊị
hoọ,
Ỉấầ
lị học,
giáo
dục
và
17
đào
tạo,
các phương
tiện
truyền
thông
đại
chúng.
Những công trình nghiên
cứu
về các
loại
hình
doanh
nghiệp,
về
Marketing,
về tâm lý tiêu
dùng,
về
những đặc
trưng
và
cấu
trúc
của
kinh
doanh,
về
chiến
lược
kinh
doanh
đã
và
đang
là những
nhân
tố
hỗ
trợ
đắc
lực
cho
hoạt
động
kinh
doanh
trên
toàn
thế
giới.
1.4.
Văn hoa ảnh hưởng mạnh mẽ
tới
tư duy và hành động của các
doanh nhân
Mỗi
con
người
đều có
hai
môi trường
sống:
môi trường
tự
nhiên và
môi
truồng
xã
hội;
ậong
môi
trường
xã
hội
văn
hoa
lại
đóng một
vai
trò quan
trọng,
nếu không
muốn
nói là
quyết
định.
Nền văn hoa đặc trưng của
tậng
dân
tộc
đã
khắc
sâu
dấu ấn
vào cách
nhận
thức
của mỗi
thành viên
của
nó,
là
nguồn
sữa
nuôi
dưỡng
tâm
hồn
họ,
hướng
dẫn họ
cách
cảm
nhận,
cách
tư duy.
Mặt
khác,
con
người
lại
chính
là
chủ
thể
của mọi
hành
động.
Như
vậy,
mỗi
cá
nhân
thuộc
mỗi nền văn hoa khác
nhau sẽ
có cách tư
duy,
ứng xử và hành
động
khác
biệt.
Bản thân
doanh
nhân
cũng là
một cá nhân
trong
tập
thể
đó vì
vậy
văn hóa
cũng
có
những ảnh
hưởng
nhất
định
đến
tư
duy
và hành động
của
họ.
Một nhà
kinh
doanh
được
coi
trọng,
theo
người
phương
Đông,
phải là
một
người
có
"tâm",
biết
làm
giàu
chính đáng không
chỉ
là cho bản
thân
mình mà
trên
hết
còn
phải
làm giàu
cho
toàn xã
hội,
hoặc
ít nhất
cũng
phải
có
những
đóng góp
nhất
định
cho sự
nghiệp
chung.
Khái
niệm
này hoàn toàn xa
lạ
với
các
doanh
nhân phương
Tây,
nơi ngự
trị
quan niệm
rằng
người
kinh
doanh
thành
đạt chỉ
đơn
giản là
người
có và làm
ra
nhiều
tiền,
Đạo Khổng luôn
dạy
con
người
phải
luôn
đạt
lợi
ích
của
tập
thể
lên
trước
cá nhân và các cá nhân
phải
hợp
tác,
giúp
đỡ
nhau
thực hiện
mục
đích
chung của
tập
thể.
Đó chính
là
lý
do
tại
sao
ở
Nhật
Bản,
quốc
gia
chịu
ảnh
hưỏng
sâu
sắc
của hệ
thống
đạo lý
Khổng
giáo,
người
ta
luôn
giới
thiệu
về
họ gắn
liền với
nơi làm
việc.
Ví
dụ:
"Tôi
là Tanaka
ở công
ty Toyota"
mà không
giới
thiệu
về
nghề
nghiệp
hay
chức
vụ.
Ngược
lại,
người
Mỹ thường
tự
giới
thiệu
"Tôi
là
Blazy,
tôi là
giám
đốc
kinh
doanh".
Đối
với
nguôi Mỹ, nơi làm
việc
không
mang
ý
nghĩa quan
trọng.
Dù làm ở
bộ phận
nào,
làm công
việc
gì,
người
Nhật cũng
có
xu
hướng
18
tự
coi
họ có
trách
nhiệm
với
toàn bộ
những
thành công
hay
thất
bại
của
công
ty
và
bất
cứ nguôi
Nhật
nào
cũng là
thành viên
của
những
nhóm khác
nhau,
phẩm
cách
của họ phụ
thuộc
vào
danh
tiếng
của
tổ
chức
mà họ
tham
gia.
Nói
chung
nhân
sinh
quan của
người
phương Đông thường
hướng
về
cộng
đồng,
coi
trọng
những
lừ
tiết
trong đời
sống
thường
nhật,
khác
với
lối
suy nghĩ
luôn
đặt
cái tôi lên
ừên
tất
thảy
của
người
phương
Tây.
Điều
này lý
giải tại
sao
ở
các nước phương
Tây,
mại dâm được
coi
là một
nghề
nghiệp
trong khi
đó
người
phương Đông
lại
khó có
thể
chấp nhận
được tình
trạng
này
vì
nó đi
ngược
lại
thuần
phong
mỹ
tục,
chà
đạp lên các giá
tri
đạo đức vốn
được
coi
là
bất
di
bất
dịch
của
toàn
xã
hội.
Văn hoa không
phải
là
di
tích khô
cứng
của quá
khứ.
Văn hoa nằm
chính
trong
lòng
của sự
phát
triển.
Các giá
trị
văn hoa
quyết
định
những
ưu
tiên
mà xã
hội đặt ra
để phát
triển
kinh tế
và
xã
hội trong
tương
lai.
Nếu các
nhân
tố
văn hoa có ảnh
huống
tích cực
tới
kinh
doanh
thì ngược
lại,
kinh
doanh
có phát
triển
bền vững cũng sẽ
tạo
những
tiền
đề
vật chất
hỗ
trợ
phát
triển
các
hoạt
động văn
hoa.
Như
vậy,
chỉ
có
trên
cơ
sở mối quan hệ hài
hoa
giữa
văn hoa và
kinh
doanh thì
một xã
hội
mới có
thể đạt
đến sự phát
triển
năng
động,
có
hiệu
quả
và
bền vững
trong
mọi mặt của
đời
sống.
2. Thương mại quốc tế dưới góc độ vãn hoa
Thương mại
quốc
tế
là
một
hoạt
động
trong
đó một
doanh
nghiệp
sẽ
tiến
hành
xuất
khẩu
hàng hoa
hoặc dịch
vụ
cho
người
tiêu dùng ở một
quốc
gia
khác hay
nhập
khẩu
hàng
hoa,
dịch
vụ
từ
quốc
gia
khác để
phục
vụ cho
người
tiêu
dùng ở
nước
mình.
Hàng
hoa
và
dịch
vụ
sản
xuất
tại
một
quốc
gia
chính
là
kết
tinh
của nền
văn hoa
quốc
gia đó.
Vì
vậy
dưới
góc
độ văn hoa
thương
mại quốc
tế
chính
là
sự
chuyển giao
sản
phẩm
là
hàng hoa hay
dịch
vạ
được
sản
xuất
từ nền
văn hoa này cho
những người thuộc
nên văn
hoa
khác
sử
dụng.
Do
đó,
văn
hoa
có ảnh
huống
rất
lớn đến
thương
mại
quốc
tế.
Qua
phần
khái
quát
về
văn
hoa,
chúng
ta
có
thể thấy
chính văn
hoa
đã
tạo
nên
lối
sống của
một
cộng
đổng.
Văn hoa có tác động
mạnh
mẽ đến
tất
19