Cải cách tài chính ở Việt Nam theo hướng tự do hóa – Thực tiễn tính chuyển đổi VND
PHẦN I:
CẢI CÁCH TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM THEO HƯỚNG TỰ DO HÓA
I. Tổng quan về tự do hóa tài chính
Trong một quốc gia, hệ thống tài chính có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế – xã hội. Quốc gia có hệ thống tài chính mạnh có thể làm cho quá trình lưu thông
tiền tệ được diễn ra suôn sẻ hơn, kích thích mọi thành phần kinh tế phát triển.
Với bối cảnh hiện nay, vấn đề tự do hóa tài chính từng bước hội nhập kinh tế khu vực
và thế giới không còn là sự lựa chọn của bất kỳ một quốc gia nào, mà nó đang là xu thế tất
yếu bắt buộc các quốc gia phải thực hiện để đưa nền kinh tế của quốc gia mình đi vào quỹ
đạo chung của kinh tế thế giới. Thế nhưng tự do hóa tài chính là gì? Và được gì khi một quốc
gia thực hiện tự do hóa tài chính? Chúng ta sẽ cùng đi vào tìm hiểu sau đây:
1.1. Khái niệm tự do hóa tài chính:
Tự do hóa tài chính là quá trình giảm thiểu và cuối cùng là hủy bỏ sự kiểm soát của
Nhà nước đối với hoạt động của hệ thống tài chính quốc gia, làm cho hệ thống này hoạt động
tự do hơn và hiệu quả hơn theo quy luật thị trường.
Một số chính sách tự do hóa tài chính:
o Cải cách khu vực ngân hàng với việc nới lỏng lãi suất đồng nội tệ.
o Loại bỏ tín dụng chỉ định với lãi suất thấp.
o Cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước.
o Loại bỏ những ngăn cầm chuyển tiền lời/thu nhập về nước.
o Tháo dỡ những quy định liên quan đồng ngoại tệ và nới lỏng hàng rào chính
thức để hợp nhất thị trường
o Tự do hóa tài khoản vốn với nhiều cấp độ khác nhau
o Cho phép người nước ngoài sở hữu cổ phiếu.
1.2. Nội dung của tự do hóa tài chính
Nội dung cơ bản của tự do hóa tài chính bao gồm: Tự do hóa lãi suất, tự do hóa hoạt
động cho vay của các ngân hàng thương mại (NHTM), tự do hóa hoạt động ngoại hối
1.3. Bản chất của tự do hóa tài chính
1
Cải cách tài chính ở Việt Nam theo hướng tự do hóa – Thực tiễn tính chuyển đổi VND
Bản chất của tự do hóa tài chính là hoạt động tài chính theo cơ chế nội tại vốn có của
thị trường và chuyển vai trò điều tiết tài chính từ chính phủ sang thị trường, mục tiêu là tìm
ra sự phối hợp có hiệu quả giữa Nhà nước và thị trường trong việc thực hiện các mục tiêu,
nhiệm vụ kinh tế – xã hội. Do đó, kết quả của tự do hóa tài chính thường được thể hiện bằng
tỷ số giữa tiền mở rộng (tiền mặt và tiền gửi trong hệ thống NHTM) trên thu nhập quốc dân.
1.4. Các cấp độ của tự do hóa tài chính
Tự do hóa tài chính bao gồm tự do hóa tài chính trong nước và tự do hóa tài chính với
nước ngoài.
o Tự do hóa tài chính trong nước là cho phép các tổ chức tài chính trong nước tự
do thực hiện các dịch vụ tài chính theo nguyên tắc thị trường, các thị trường tài chính trong
nước được khuyến khích phát triển, các công cụ chính sách tiền tệ được điều hành theo tín
hiệu thị trường.
o Tự do hóa tài chính với nước ngoài bao gồm tự do hóa giao dịch vãng lai và tự
do hóa giao dịch vốn.
1.5. Một quốc gia được gì và mất gì khi tự do hoá tài chính?
Trong những năm đầu thập kỷ 70, phần lớn các nước áp dụng chính sách kiềm chế tài
chính nội địa. Nội dung của kiềm chế tài chính thời gian này như sau:
o Kiểm soát lãi suất, quy mô tín dụng. cấm giao dịch những khoản tiền gởi và
cho vay bằng ngoại tệ. Đặc biệt chính sách kiềm chế bao gồm kiểm soát lãi suất tiền gởivà
cho vay cũng như tỷ giá hối đoái, dòng chảy vốn và thị trường vốn.
o Khu vực ngân hàng chủ yếu thuộc sở hữu nhà nước.
o Chính phủ thực hiện chính sách tín dụng chỉ định: những ngành nghề ưu tiên
nhận tín dụng với lãi suất thực thấp (âm)
o Khi lãi suất bị khống chế thì sẽ dẫn đến lãi suất thực âm, và do đó tạo ra sự đột
biến trong nền kinh tế theo những hướng sau đây:
o Lãi suất thấp sẽ kích thích cá nhân gia tăng tiêu dùng hiện tại và giảm tiết kiệm
để tiêu dùng cho tương lai.
o Dẫn đến nguồn cung tiền giảm.
o Phân phối vốn không hiệu quả
2
Cải cách tài chính ở Việt Nam theo hướng tự do hóa – Thực tiễn tính chuyển đổi VND
o Hạn chế kích thích nâng cao trình độ nhân lực, do các cá nhân khó tiếp cận
được các nguồn tài chính một cách dễ dàng để đầu tư nâng cao kiến thức cho chính bản thân
họ và con cái của họ.
Nếu như kiềm chế tài chính dẫn đến các tác động xấu cho nền kinh tế thì tại sao các
quốc gia không thực hiện tự do hóa tài chính?
Cho đến nay, có rất nhiều nghiên cứu về vấn đề tự do hoá tài chính đã được thực hiện
trong các nước đang phát triển bởi các nhà kinh tế học nổi tiếng. Kết quả nghiên cứu của họ
đều khẳng định rằng việc tự do hóa tài chính có mối quan hệ chặt chẽ với vấn đề tăng trưởng
kinh tế bền vững. Nói cách khác tự do hoá tài chính sẽ nâng cao chất lượng của nguồn nhân
lực, gia tăng tiết kiệm và đầu tư, làm cho tỷ trọng tiết kiệm dành cho đầu tư ngày càng tăng,
hiệu quả đầu tư; và do đó, sẽ kích thích sự tăng trưởng kinh tế và chất lượng của tăng trưởng
kinh tế (tăng trưởng bền vững).
1.5.1 Những mặt lợi của tự do hóa tài chính
Tự do hoá tài chính tác động đến quá trình chuyển tiết kiệm cho đầu tư
Tự do tài chính sẽ đẩy mạnh việc sử dụng vốn nhàn rỗi của tư nhân vào tiến trình đầu
tư, bởi vì khi đó, các ràng buộc về thủ tục vay vốn sẽ được đơn giản hoá, lãi suất huy động
tương đối thấp do sự cạnh tranh của các tổ chức đầu tư tài chính. Một nhược điểm nổi bật
của quá trình luân chuyển tiền tệ là không thể chuyển hết toàn bộ số tiền tiết kiệm huy động
được cho đầu tư, mà nó bị tiêu hao cho các giao dịch phát sinh và còn đọng lại trong các tổ
chức kinh doanh tài chính (dưới dạng dự trữ bắt buộc, tiền mặt chờ luân chuyển ). Do đó,
tự do hoá tài chính bằng hình thức mở rộng các chi nhánh của các ngân hàng thương mại và
giảm lượng dự trữ bắt buộc sẽ kích thích sự cạnh tranh trong khu vực kinh doanh tài chính,
điều này làm giảm các khoản chi phí giao dịch, chi phí quản lý và đặc biệt là giảm sự khác
biệt giữa lãi suất cho vay và lãi suất vay vốn
Tự do hoá tài chính góp phần nâng cao hiệu quả việc phân bổ nguồn lực đầu tư
Bằng cách chuyển nguồn vốn vào các dự án đầu tư có khả năng sinh lời cao, tự do hoá
tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả vốn đầu tư toàn xã hội. Quá
trình tự do hoá tài chính đòi hỏi các tổ chức tín dụng phải làm việc thật sự cật lực nhằm xác
định những dự án nào là những dự án mang lại khả năng sinh lợi cao, để quyết định việc cho
vay vốn trong khoảng thời gian ngắn nhất với thủ tục nhanh gọn nhất. Như vậy, do áp lực
cạnh tranh ngày càng tăng, các định chế tài chính ngày càng nâng khả năng làm việc. Kết
3
Cải cách tài chính ở Việt Nam theo hướng tự do hóa – Thực tiễn tính chuyển đổi VND
quả là việc đánh giá, thẩm định dự án được thực hiện nghiêm túc và đạt hiệu quả cao hơn.
Chính vì vậy, vốn đầu tư có thể được đưa vào những dự án mang tính sinh lợi và có hiệu quả
cao.
Ngoài ra , tự do hóa tài chính tạo điều kiện cho các công ty trong nước có thể tiếp cận
với thị trường tài chính toàn cầu. Cải thiện hệ thống quản lý công ty, tăng cường năng lực
cạnh tranh(qua việc áp dụng chuẩn mực quản lý chất lượng, chuẩn mực kế toán, tăng cường
tính trách nhiệm và minh bạch).
Hơn nữa, quá trình tự do tài chính sẽ giúp cho các cá nhân dễ dàng tiếp cận được các
nguồn tín dụng. Thông qua việc kinh doanh hoặc học tập bằng các nguồn tín dụng vay mượn
được, mỗi cá nhân có thể nâng cao kiến thức của mình. Ngoài ra, hiệu ứng lan tỏa về “vốn
tri thức” sẽ làm cho mặt bằng kiến thức của xã hội không ngừng nâng cao. Chính vì vậy, chất
lượng nguồn nhân lực của xã hội được cải thiện một cách đáng kể.
Tự do hoá tài chính và tiết kiệm
Việc tự do hoá tài chính sẽ đảm bảo cho lãi suất thực được dương bởi vì sự cân bằng
giữa cung và cầu vốn trên thị trường tài chính. Do sự tự điều chỉnh bởi quy luật cung và cầu,
lãi suất tiền gửi vào trong các tổ chức tín dụng loại trừ đi tốc độ lạm phát sẽ luôn luôn
dương, khi đó người cho vay sẽ an tâm hơn khi gửi tiền vào các tổ chức tín dụng. Chính vì
điều này sẽ thu hút vốn nhàn rỗi trong dân chúng, kết quả là làm gia tăng tín dụng cho các dự
án đầu tư, kích thích tăng trưởng kinh tế.
1.5.2. Những mặt trái của tự do hóa tài chính
Tiềm năng lợi ích của tự do hoá tài chính là rất lớn, tuy nhiên tự do hoá tài chính cũng
cố những mặt trái nhất thiết phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, đặc biệt trong điều kiện xu thế
tự do hoá tài chính cũng mới chỉ dừng lại ở những bước đi ban dầu. tự do hóa tài chính có
thể dẫn đến một số nguy cơ.
Thứ nhất, nguy cơ tiền tệ hay đúng hơn là nguy cơ mất giá nội tệ do chính sách tỷ giá
hối đoái không hợp lý và nhà đầu tư nước ngoài dễ dàng chuyển vốn ra nước ngoài.
Thứ hai, nguy cơ tiền tháo chạy do thiếu các biện pháp kiểm soát dòng vốn ngắn hạn.
Thứ ba, đó là nguy cơ vỡ nợ do sử dụng tiền vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn. Nguy cơ
này càng nghiêm trọng khi xảy ra biến động tỷ giá hối đoái, giá bất động sản, đặc biệt là biến
động giá trị của tài sản thế chấp vay ngân hàng và giá chứng khoán.
4
Cải cách tài chính ở Việt Nam theo hướng tự do hóa – Thực tiễn tính chuyển đổi VND
Thứ tư, nguy cơ mất chủ quyền là vấn đề mà quốc gia nào cũng lo ngại khi tự do hóa
tài chính. Bởi khi xảy ra biến cố, Chính phủ buộc phải hy sinh một số mục tiêu kinh tế xã
hội, xiết chặt ngân sách, giảm các chỉ tiêu tăng trưởng và chương trình xã hội, chấp nhận trợ
giúp nước ngoài
Dưới tác động của các nguy cơ trên, một số lượng không nhỏ các quốc gia trên thế
giới khi tiến hành tự do hóa tài chính đã dẫn đến khủng hoảng tài chính, thứ mà không có
một quốc gia nào mong đợi đó là do:
o Tự do hoá tài chính có thể làm tăng thêm khả năng gây ra khủng hoảng tài
chính nếu tiến trình tự do hoá được thực hiện một cách nôn nóng, sai trình tự hoặc thiếu
đồng bộ trong các biện pháp quản lý vĩ mô ở cả cấp độ quốc gia và quốc tế. Việc cải cách hệ
thống tài chính và tự do hoá lật tẩy và làm trầm trọng thêm những yếu kém trong thẻ chế và
các chính sách tài chính vĩ mô vốn dĩ đã tiềm ẩn, và do đó làm tăng thêm rủi ro của việc dẫn
đến khủng hoảng tài chính.
o Tài chính thường được coi là công cụ quản lý chiến lược và là lĩnh vực đặc biệt
cần được nắm giữ bởi Nhà nước để tập trung thực hiện những mục đích quan trọng của một
quốc gia. Việc mở cửa thị trường tài chính có thể có nguy cơ làm xao nhãng hoặc thiếu tập
trung trong việc điều hành để thực hiện những mục tiêu đó vì các tổ chức, doanh nghiệp
nước ngoài sẽ không quan tâm đến một mục đích nào khác hơn là mục đích lợi nhuận. Đặc
biệt, trong điều kiện hệ thống tài chính nội địa có khả năng cạnh tranh kém, nền tài chính có
nguy cơ bị thống trị bởi các tổ chức, doanh nghiệp tài chính nước ngoài thì quyền lực kiểm
soát, khống chế và điều khiển thị trường tài chính của Nhà nước sẽ dần bị thu hẹp lại, và do
đó có thể phương hại đến mục tiêu chiến lược của quốc gia. Hơn nữa, việc mở cửa thị
trường tài chính nếu không được chuẩn bị kỹ lưỡng có thể sẽ dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu
cực, thiếu lành mạnh như lừa đảo, phá sản, đổ vỡ gây thiệt hại đến lợi ích của người tiêu
dùng.
Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng: trong đa số các trường hợp, lợi ích
của tự do hoá tài chính, hoàn toàn có thể vượt trội những chi phí rủi ro có thể xảy ra trong
quá trình cải cách.Khủng hoảng tài chính diễn ra ở một số nước trên thế giới không có
nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ việc tự do hoá tài chính mà bắt nguồn từ chính những yếu
kém tiềm ẩn trong hệ thống ngân hàng, sự thiếu vắng của một chế độ giám sát có hiệu quả
cũng như những sai lầm trong chính sách quản lý tiền tệ và chính sách tỷ giá hối đoái.
5
Cải cách tài chính ở Việt Nam theo hướng tự do hóa – Thực tiễn tính chuyển đổi VND
II. Cải cách tài chính ở Việt Nam theo hướng tự do hóa:
2.1. Kinh nghiệm quốc tế về tự do hóa tài chính và bài học đối với Việt Nam
2.1.1 Kinh nghiệm quốc tế về tự do hóa tài chính
Việt Nam có thể thu nhận được nhiều bài học kinh nghiệm về tự do tài chính, thông
qua câu chuyện của các nước láng giềng.
Kinh nghiệm từ Thái Lan: câu chuyện 10 năm trước và ngày thứ Ba đen tối:
Thái Lan được xem là nơi châm ngòi cho cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ tại châu
Á vào năm 1997-1998
Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến cuộc khủng hoảng này là do các nước
trong khu vực đã quá vội vã trong việc tự do hóa tài khoản vốn và áp dụng cơ chế cố định tỷ
giá khi mà nền kinh tế chưa thực sự ổn định, khu vực tài chính ngân hàng còn bộc lộ nhiều
yếu kém cộng với những cải cách khác chưa được thực hiện theo tiến trình tự do hóa tài
chính nêu trên.
Ở Thái Lan, khi tài khoản vốn được tự do cộng với kỳ vọng quá lớn của các nhà đầu
tư và sự lỏng lẻo trong việc kiểm soát các khoản nợ vay đã làm cho dòng vốn ồ ạt chảy vào.
Chỉ trong 10 năm từ 1987-1996, đã có đến 100 tỷ đôla được đổ vào Thái Lan.
Nghiêm trọng hơn, trên 70% số tiền này là vốn vay với hơn nửa là vay ngắn hạn do
các tổ chức tài chính, nhất là các công ty tài chính trong nước vay để đầu tư dài hạn và bất
động sản chiếm một tỷ trọng không nhỏ
Thêm vào đó, với tỷ giá được giữ gần như cố định ở mức 25 Baht ăn 1 đôla quá lâu
khi mà thâm hụt thương mại kéo dài đã làm cho áp lực giảm giá đồng Baht ngày càng gia
tăng.
Những chỉ số kinh tế vĩ mô đẹp mắt tồn tại trong thời gian dài như: tốc độ tăng trưởng
bình quân 9,5%, thất nghiệp được giữ ở con số dưới 2%, dự trữ ngoại hối tăng bình quân
26,2% với 35 tỷ đô-la được mua thêm, trong khi tốc độ tăng cung tiền chỉ là 18,7% và tỉ lệ
lạm phát bình quân 4,7%, năm cao nhất chỉ là 6% , dường như đã đánh lừa được mọi người.
Tuy nhiên, điều gì phải đến đã đến. Áp lực của những khoản nợ đến hạn, áp lực của
thâm hụt ngoại thương liên tục đã vượt quá sức chịu đựng của nền kinh tế, nhu cầu ngoại tệ
gia tăng đột biến. Mặc dù đã bán ra gần 15 tỷ đôla trong gần 40 tỷ dự trữ ngoại hối, nhưng
Thái Lan đã không đủ sức giữ được tỷ giá. Đồng baht bị phá giá và khủng hoảng xảy ra với
những hậu quả khôn lường.
6
Cải cách tài chính ở Việt Nam theo hướng tự do hóa – Thực tiễn tính chuyển đổi VND
Sau cuộc khủng hoảng này, tuy có một số biện pháp xiết chặt, nhưng nhìn chung tài
khoản vốn vẫn coi như được tự do cộng với một cái mới là tỷ giá được thả nổi. Điểm đáng
chú ý nhất của Thái Lan là sau khi phá giá đồng Baht, thặng dư thương mại ngày càng gia
tăng. Hơn thế nữa, dòng vốn nước ngoài đang quay trở lại ngày một nhiều hơn. Hệ quả tất
yếu của điều này là áp lực tăng giá đồng tiền trong nước tác động tiêu cực đến hoạt động
xuất khẩu.
Sự lo lắng đã biến thành hành động cụ thể khi mà vào ngày 18/12/2006, Thái Lan đã
quyết định áp dụng các biện pháp hành chính nhằm hạn chế dòng dòng tiền đổ vào.
Hậu quả tức thời là ngay ngày thứ Ba hôm sau, thị trường chứng khoán sụt giảm 15%,
mức cao nhất kể từ năm 1990. Lo sợ một cuộc khủng hoảng xảy ra , ngay ngày hôm sau
quyết định này đã được dỡ bỏ trong sự lúng túng đối với vấn đề đang cần giải quyết.
Trung Quốc, con đường trở thành đại gia:
Cũng giống một số nước khác, vào năm 1994, Trung Quốc đã cố định tỷ giá 8,28 nhân
dân tệ đổi 1 đôla Mỹ. Điều thú vị ở đây là khác với nhiều nước Đông Á, với tỷ giá này, đồng
nhân dân tệ đã bị định giá thấp, nhưng tạo được lợi thế xuất khẩu gia tăng.
Cộng với những yếu tố thuận lợi khác, một kết quả hết sức mỹ mãn đối với Trung
Quốc là kể từ đó thặng dư mậu dịch và dự trữ ngoại hối liên tục gia tăng. Con số kỷ lục được
thiết lập vào năm 2006 với thặng dư ngoại thương lên đến 177,6 tỷ đôla, dự trữ ngoại hối
vượt 1.000 tỷ đôla.
Với sức mạnh về ngoại thương và số tiền có sẵn trong tay, Trung Quốc đã khiến cho
tất cả các đối tác thương mại, kể cả Hoa Kỳ phải e ngại. Có lẽ, một trong những vấn đề được
tranh luận nhiều nhất trên chính trường nước Mỹ là vấn đề tỷ giá giá đồng Nhân dân tệ.
Vào cuối tháng 07/2005, Trung Quốc đã quyết định bỏ chế độ tỷ giá cố định, cho phép
đồng Nhân dân tệ dao động linh hoạt hơn. Nhưng điều này có vẻ vẫn chưa làm hài lòng các
chính trị gia cũng như các nhà đầu tư. Thực tế cho thấy, sau 18 tháng, đồng Nhân dân tệ chỉ
tăng giá vào khoảng 6%, thấp hơn mức người ta kỳ vọng rất nhiều.
Hơn thế nữa, nhờ khoản tiền dữ trữ ngoại hối dồi dào mà Trung Quốc có thể chi ra cả
trăm tỷ đô-la để biến các ngân hàng thương mại nhà nước với tình trạng tài chính yếu kém
trở thành những ngân hàng có khả năng cạnh tranh được biết đến qua những vụ phát hành cổ
phiếu ra công chúng hết sức rùm beng trong hai năm qua.
7
Cải cách tài chính ở Việt Nam theo hướng tự do hóa – Thực tiễn tính chuyển đổi VND
Không phải ngẫu nhiên mà Trung Quốc có được vị thế như hiện nay mà song song với
quá trình cải cách kinh tế, họ đã thực hiện một quá trình cải cách và tự do hóa tài chính một
cách hợp lý qua 5 giai đoạn khác nhau mà bắt đầu bằng việc tự do hóa lần đầu tiên trong
những năm 1978-1986, đến giai đoạn tự do hóa và mở cửa ngành tài chính sau khi gia nhập
WTO vào năm 2001.
Trong quá trình tự do hóa tài chính của mình, không phải lúc nào cũng suôn sẻ đối với
Trung Quốc, sau cuộc khủng hoảng năm 1997, sức ép phá giá lên đồng Nhân dân tệ rất
nhiều, nhưng nhờ sức mạnh sẵn có của nền kinh tế cộng với một lượng ngoại tệ dự trữ tương
đối lớn (gần 150 tỷ đôla) mà Trung Quốc đã thành công trong việc duy trì chính sách tỷ giá
của mình. Điều này cũng đã giúp Đông Á không chìm sâu vào khủng hoảng.
Điều đáng chú ý ở đây là trong vòng 10 năm qua, Trung Quốc đã tung ra số Nhân dân
tệ bằng 40% cung tiền để mua vào gần 1.000 tỷ đôla giá trị ngoại tệ mạnh, nhưng lạm phát
bình quân chưa đến 1%, trong khi tốc độ tăng cung tiền lên đến 16% và tốc độ tăng dự trữ
ngoại hối trên 24%.
Nhiều người lý giải vấn đề này là do đồng Nhân dân tệ đang mạnh, người ta muốn cất
giữ nó (bằng tiền mặt) hoặc chuyển ra nước ngoài để chờ khi nó lên giá mới bán ra. Đây là
một trong những điều lo ngại của Trung Quốc. Dù sao, với vị thế của mình, Trung Quốc
đang thực hiện một tiến trình cải cách tỷ giá hối đoái và tự do hóa tài chính một cách chủ
động.
Nhận xét
Một trong những sai lầm lớn nhất gây ra cuộc khủng hoảng năm 1997 là việc Thái Lan
đã mở tài khoản vốn quá sớm làm cho một dòng nợ, nhất là nợ ngắn hạn khổng lồ đổ vào kết
hợp với chính sách cố định tỷ giá ở mức cao, đồng tiền kém sức cạnh tranh, thâm hụt thương
mại gia tăng làm cho vấn đề trầm trọng hơn.
Trái lại, thành công của Trung Quốc có được là do nước này đã định giá đồng tiền ở
mức thấp tạo ra lợi thế cạnh tranh ngoại thương cộng với một tiến trình cải cách thương mại
và cải cách tài chính hợp lý.
2.1.2 Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Từ thực tiễn tự do hóa tài chính ở các nước, một số bài học kinh nghiệm Việt Nam có
thể rút ra:
8
Cải cách tài chính ở Việt Nam theo hướng tự do hóa – Thực tiễn tính chuyển đổi VND
Thứ nhất, VN nên tiếp tục tiến hành việc mở cửa dần dần thị trường tài chính với một
phạm vi thích hợp và một trình tự hợp lý sao cho vừa đảm bảo nâng dần năng lực và khả
năng cạnh tranh vừa thích nghi và tiến gần hơn đến những tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. Sự
thành công về việc xúc tiến mở cửa thị trường tài chính thời gian qua đã cho thấy rằng, sự
tham gia của các hoạt động đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ tài chính cũng đã mang
lại lợi ích đáng kể như tăng cường sự cạnh tranh, hạ thấp chi phí, nâng cao chất lượng phục
vụ, tăng cường chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý và tăng thêm tích lũy vốn cho
nền kinh tế. Kinh nghiệm mở cửa thị trường của Trung Quốc cũng đã cho thấy, do có sự bảo
hộ quá lâu thông qua những điều kiện ngặt ngh•o không cho phép sự du nhập phổ biến của
hoạt động kinh doanh quốc tế, nên công cuộc cải cách đã diễn ra trên hai thập kỷ song hệ
thống dịch vụ tài chính ở Trung Quốc vẫn kém phát triển với tính cạnh tranh thấp.
Thứ hai, việc mở cửa thị trường tài chính không thể gắn liền với một tiến trình cải
cách liên tục hệ thống dịch vụ tài chính ở nước ta hiện nay. Mặc dù đã có hơn 10 năm cải
cách song hệ thống dịch vụ tài chính ở nước ta vẫn còn ở điểm xuất phát thấp, kém hiệu quả
và vẫn mang nặng dấu ấn của thời kỳ bao cấp.
Thứ ba, nâng cao năng lực giám sát tài chính tiền tệ Quốc gia trong điều kiện hiện
nay là rất cần thiết, là việc làm cần được tiến hành thường xuyên liên tục và cần phải đặt ra
trong quy trình vận hành hệ thống tiền tệ Quốc gia. Ở nước ta Uỷ ban giám sát tài chính
Quốc gia là cơ quan đặc biệt vừa có chức năng hoạt động độc lập vừa có chức năng hoạt
động phối hợp
Thứ tư, thực hiện chính sách tiền tệ thận trọng: chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt, kiểm
soát tốt các rủi ro trong hoạt động tài chính ngân hàng. Đồng thời cần tiến hành các biện
pháp mạnh để hạn chế sử dụng tiền mặt trong các giao dịch kinh tế, kiểm soát thị trường
ngoại hối, thị trường vàng trên thị trường tự do, kiểm soát tất cả các hoạt động thu nhập bất
chính và có ảnh hướng xấu tới an ninh tài chính. Thị trường chứng khoán cần được duy trì an
toàn, ổn định phù hợp với các quy luật của thị trường và có sự kiểm soát của Nhà nước.
Thứ năm, xây dựng hệ thống Ngân sách Nhà nước an toàn, phát triển và có vai trò
định hướng chiến lược trong hệ thống tài chính Quốc gia. Ngân sách Nhà nước mạnh sẽ làm
cho Nhà nước chủ động hơn trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô và giải quyết kịp thời
những khó khăn, sự cố tài chính vi mô.
9
Cải cách tài chính ở Việt Nam theo hướng tự do hóa – Thực tiễn tính chuyển đổi VND
Thứ sáu, đảm bảo an ninh tài chính nội địa trong đầu tư phát triển. Thu hút các nguồn
lực trong nước để đầu tư cho phát triển là sự khẳng định sức mạnh nội lực của một nền kinh
tế. Đây là nguồn vốn đầu tư phát triển đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển của mỗi
quốc gia. Cần phải củng cố các khoản đầu tư có sử dụng các nguồn vốn trong nước, vì đây là
nguồn vốn vừa cơ bản vừa lâu dài. Chiến lước đầu tư sai trong một giai đoạn nhất định sẽ
làm suy yếu nền tài chính Quốc gia.
Vì vậy cần phải xác định cơ cấu đầu tư, hướng đầu tư và chiến lược đầu tư phù hợp
với từng yêu cầu của các giai đoạn cụ thể
Thứ bảy, đảm bảo an ninh tài chính đối ngoại thông qua việc nâng cao việc huy động
và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn nước ngoài, đảm bảo nguồn trả nợ vững chắc nhằm
loại bỏ nguy cơ mất an ninh tài chính. Vì nguồn vốn nước ngoài dưới các hình thức FPI,
FDI, ODA thực chất là những khoản nợ luôn tiềm ẩn khủng hoảng nghiêm trọng. Vì vậy,
vấn đề tăng cường quản lý các khoản nợ nước ngoài nhằm đảm bảo mức vay an toàn, có
nguồn trả đối ứng rõ ràng là một việc làm vô cùng quan trọng trong bối cạnh hội nhập kinh
tế quốc tế hiện nay.
Thứ tám, các biện pháp nâng cao năng lực hoạt động của toàn bộ nền kinh tế nói
chung, năng lực kiểm soát an ninh tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng là việc
làm rất quan trọng có ảnh hướng không nhỏ đến an ninh tài chính Quốc gia. Đối với các
doanh nghiệp nhỏ và vừa cần tập trung các biện pháp hỗ trợ nhằm nâng cao khả năng đề
kháng rủi ro trong hoạt động tài chính doanh nghiệp.
2.2 Quá trình cải cách tài chính ở Việt Nam theo hướng tự do hóa
2.2.1 Những thay đổi trong chính sách tài chính
Những thay đổi trong chính sách lãi suất
- Từ khi có Pháp Lệnh Ngân hàng đến nay, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã không
ngừng đổi mới cơ chế điều hành lãi suất nhằm từng bước tiến tới tự do hoá lãi suất.
- Thời kỳ kế hoạch hoá tập trung: lãi suất bị áp đặt theo kiểu mệnh lệnh, hành chính
của NHNN, chính sách lãi suất tách rời với các hoạt động kinh tế, tài chính, bao cấp tín dụng
hình thành lãi suất thực âm, Áp dụng nhiều lãi suất khác nhau áp dụng cho nhiều đối tượng
khác nhau tạo nên sự bất bình đẳng trong kinh doanh
- Từ năm 1990 đến tháng 6/1992 : Điều hành lãi suất bằng cách ban hành nhiều lãi
suất khác nhau, mặt khác lãi suất cho vay còn bị phân biệt theo thành phần kinh tế như kinh
10
Cải cách tài chính ở Việt Nam theo hướng tự do hóa – Thực tiễn tính chuyển đổi VND
tế quốc doanh với mức lãi suất thấp, hộ nông dân với mức lãi suất cao. Ngoài ra tính bao cấp
còn thể hiện trong việc cho các doanh nghiệp vay thấp hơn lãi suất huy động
- Từ tháng 6/1992 đến năm 1995: Lãi suất thực dương bắt đầu hình thành vào tháng
10/1992 đồng thời sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế cũng được xoá bỏ, điều này đã
đánh dấu một bước ngoặt của hoạt động Ngân hang từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị
trường. Tuy nhiên NHNN vẫn ấn định lãi suất tiền gửi và cho vay.
- Bước sang năm 1996, NHNN đã tiến hành cải cách đáng kể tiếp theo về điều hành
lãi suất thông qua việc tự do hoá lãi suất tiền gửi và thực hiện quy định trần lãi suất cho vay,
khống chế chênh lệch lãi suất cho vay với lãi suất huy động vốn ở mức bình quân là
0,35%/tháng.
- Cuối năm 1998 quy định chênh lệch lãi suất được xoá bỏ, chỉ quy định trần cho vay.
- Từ năm 2000 NHNN đã thực hiện bước đổi mới cơ bản về điều hành lãi suất, thay
thế cơ chế điều hành trần lãi suất cho vay bằng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản. Theo luật
dân sự năm 2005 và quyết định 16/2008/QĐ/NHNN các TCTD không được huy động và cho
vay cao hơn 150% lãi suất cơ bản.
- Ngày 14/04/2010 NHNN ban hành thong tư số 12/2010/NHNN hướng dẫn các tổ
chức TD cho vay bằng VNĐ theo lãi suất thoả thuận. Cùng với việc ban hành thong tư này
thì quy định về lãi suất cho vay theo quyết định 16/2008/QĐ/NHNN hết hiệu lực.
Những thay đổi trong chính sách tín dụng.
- Chính sách tín dụng cũng có những thay đổi căn bản đáng kể theo hướng tiến dần tới
mục tiêu tự do hoá tín dụng thể hiện ở việc xoá bỏ các hạn mức tín dụng. Trước hết cần phải
kể đến việc Chính phủ và NHNN đã ban hành các cơ chế tín dụng khá đồng bộ, tạo khuôn
khổ hành lang pháp lý ngày càng có tính hệ thống phù hợp với cơ chế thị trường, hạn chế tới
mức thấp nhất bao cấp qua tín dụng và cơ chế “xin-cho”, từng bước tách tín dụng theo chính
sách ra khỏi hoạt động tín dụng của các NHTM. Các cơ chế tín dụng mới ngày càng được
hoàn thiện theo hướng chỉ đưa ra các quy định mang tính nguyên tắc. Theo đó các TCTD
chủ động tìm kiếm các dự án khá thi có hiệu quả và có khả năng trả nợ để quyết định cho
vay và tự chịu trách nhiệm về việc cho vay. Phạm vi điều chỉnh của cơ chế tín dụng cũng
ngày càng mở rộng phù hợp với quy định của luật pháp.
- Theo quyết định số 284/2000/QĐ-NHNN1 ngày 25/8/2000 của thống đốc NHNN,
quy chế cho vay mới được chỉnh sửa trên nguyên tắc thông thoáng về thủ tục nhưng vẫn đảm
bảo an toàn hiệu quả của hoạt đông tín dụng, nâng cao năng lực kinh doanh của các TCTD.
Bên cạnh các hình thức cho vay thông thường theo quy chế cho vay, Chính phủ và NHNN đã
11
Cải cách tài chính ở Việt Nam theo hướng tự do hóa – Thực tiễn tính chuyển đổi VND
ban hành một số văn bản quy định về một số hình thức cấp tín dụng khác như cho thuê tài
chính, bảo lãnh, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá trị ngắn hạn….
- Đặc biệt, để tạo môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng có hiệu quả, tháo gỡ các
vướng mắc, nâng cao quyền tự chủ và trách nhiệm của các TCTD trong việc quyết định cho
vay, tạo lập sự bình đẳng giữa mọi khác hàng và mọi TCTD trong đảm bảo tín dụng, Chính
phủ đã ban hành Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay của các
TCTD. Theo đó, vấn đề bảo đảm tiền vay được quy định theo hướng bở sung thêm hình thức
tín chấp… Thủ tục cấp tín dụng và đảm bảo tiền vay được đổi mới theo hướng đơn giản hoá.
Việc đảm bảo tiền vay đối với các khoản tín dụng ưu đãi theo chính sách của Nhà nước được
tách ra khỏi tín dụng thương mại. Ngoài ra, các TCTD được tự quyết định việc áp dụng các
biện pháp bảo đảm hay không bảo đảm trong cấp tín dụng đối với từng khách hàng, không
có sự chỉ định bắt buộc hay miễn trừ áp dụng biện pháp bảo đảm đối với từng loại TCTD và
khách hàng của họ từ phía Chính phủ.
- Cơ chế bảo đảm tiền vay cũng đã được ban hành khá hệ thống và đồng bộ. Bên cạnh
Nghị định 178 nêu trên, Chính phủ, NHNN và các Bộ ngành khác đã ban hành một số các
văn bản liên quan dến đảm bảo tiền vay như Nghị định 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999
“Về giao dịch bảo đảm”, Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày 10/3/2000 “Về đăng ký giao
dịch đảm bảo”, Nghị định 17/1999/NĐ-CP ngày 29/3/1999 “Về thủ tục chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử dụng đất, góp vốn bằng giá trị sử dụng đất”
và các Thông tư hướng dẫn các Nghị định nêu trên.
- Ngày 31/12/2001 Quyết định số 1627/2001/QĐ – NHNN ra đời và thay thế quyết
định số 284/2000/QĐ ngày 25/08/2000.
- Ngày 03/02/2005 Thống đốc ra Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN về việc sửa đổi ,
bổ sung một số điều của quy chế cho vay 1627/2001/QĐ – NHNN
Những thay đổi trong chính sách tỷ giá
Về quản lý ngoại hối
Trong những năm qua, chính sách quản lý ngoại hối đã từng bước đổi mới theo hướng
tăng cường khả năng quản lý, kiểm soát ngoại hối của Nhà nước, thu hẹp dần phạm vi hoạt
động của ngoại tệ. Một loạt các chính sách, quy định về quản lý ngoại hối và các hoạt động
liên quan đến ngoại hối đã được ban hành và ngày càng hoàn thiện và hỗ trợ thực hiện mục
tiêu chính sách tiền tệ, tạo tiền đề thực hiện mục tiêu trên đất Việt Nam chỉ lưu hành đồng
Việt Nam, hướng tới mục tiêu đồng Việt Nam trở thành đồng tiền có khả năng chuyển đổi và
tự do hoá các giao dịch ngoại hối.
12
Cải cách tài chính ở Việt Nam theo hướng tự do hóa – Thực tiễn tính chuyển đổi VND
Nghị định 63/1998/NĐ-CP ngày 17/8/1998 của Thủ tướng Chính phủ về quản lý ngoài
hối đã xây dựng khung pháp lý khá toàn diện và hệ thống quản lý ngoại hối, phù hợp với yêu
cầu chuyển đối sang kinh tế thị trường và tăng cường hội nhập quốc tế. Nghị định 63 đã đưa
ra một số điểm khá cơ bản về quản lý ngoại hối tạo tiền đề cần thiết để tiến tới tụ do hoá các
giao dịch ngoại hối như: Đưa ra khái niệm mới về ngoại hối, xác định rõ khái niệm người cư
trú và người không cư trú, phân chia các giao dịch liên quan đến ngoại hối thành giao dịch
vãng lai, giao dịch vốn và giao dịch liên quan đến ngoại hối của TCTD, chỉ thừa nhận vàng
tiêu chuẩn quốc tế làm ngoại hối.
Về điều hành tỷ giá.
+ Giai đoạn thả nổi tỷ giá: 1989 – 1993
Trong giai đoạn này, tỷ giá hối đoái VNĐ/USD thể hiện qua bảng dưới đây
Năm
Tỷ giá USD/VNĐ
Lạm
phát
Giá chính
thức của Nhà
nước
Giá thị
trường tự do
Tăng
giảm/%
1989 4.200 4.570 + 8.80 + 34%
1990 6.650 7.550 + 13.50 67,5%
1991 12.720 12.550 - 0.02 68%
1992 10.720 10.500 - 0.02 17,5%
1993 10.835 10.736 -0.01 5.2%
Qua bảng số liệu trên chúng ta thấy, tỷ giá VNĐ/USD qua các năm chỉ biến động lên
xuống. Tuy nhiên rổng quát mà nói trong khoảng thời gian này, tỷ giá VNĐ/USD có khuynh
hướng tăng và được nhà nước điều chỉnh sát với giá thị trường tự do, điều này cho thầy nhà
nước bắt đầu thả nổi tỷ giá, quan hệ cung cầu được quan tâm hơn. Tuy nhiên chính sự thay
đổi tỷ giá đã dẫn đến tâm lý đầu cơ ngoại tệ, , nhà nước không quản lý được quá trình lưu
đông tiền tệ đẫn đến tâm lý dự trữ USD.
Trước tình hình đó, từ năm 1992 chính phủ đã chọn con đường thay đổi cách quản lý
ngoại tệ và đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái VNĐ/USD. Nội dung chính của những
thay đổi về chính sách và cơ chế nêu trên là: Thay thế biện pháp hành chính, bắt buộc các
đơn vị kinh tế quốc doanh phải bán ngoại tệ cho Ngân hàng theo tỷ giá ấn định bằng biện
pháp minh tế, mở trung tâm giao dịch ngoại tệ để cho các Ngân hàng và doanh nghiệp trao
13
Cải cách tài chính ở Việt Nam theo hướng tự do hóa – Thực tiễn tính chuyển đổi VND
đổi mua bán ngoại tệ với nhau theo giá thỏa thuậnVới cơ chế linh hoạt này thì từ tháng
3/1992 thì giá USD bắt đầu giảm.
+ Giai đoạn cố định tỷ giá ( Giai đoạn 1994 – 1996)
Từ năm 1994, với sự ra đời của thị trường liên ngân hàng, NHNN đã thực hiện bước
đổi mới đáng kể đầu tiên về điều hành tỷ giá theo cơ chế mới thay cho chế độ đa tỷ giá trước
đây. Do đó, tỷ giá mua bán trên thị trường chỉ được phép dao động trong biên độ cho phép.
Từ 1994-1996, chế độ tỷ giá ở Việt Nam thiên về mục tiêu đảm bảo tính ổn định của tỷ giá
danh nghĩa giữa đồng Việt Nam và đồng USD. Năm 1997, việc điều hành tỷ giá ngày càng
trở nên linh hoạt, mục tiêu quản lý tỷ giá đã chuyển hướng từ nhấn mạnh tính ổn định sang
điều hành linh hoạt trên cơ sở đảm bảo sự ổn định giá trị đồng Việt Nam.
+ Giai đoạn từ năm 1999 đến nay:
NHNN thực hiện một bước đổi mới cơ bản về điều hành tỷ giá từ quản lý có tính chất
hành chính theo hướng thị trường có sự quản lý của nhà nước. Kể từ ngày 26/2/1999, NHNN
công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Tỷ giá này được
áp dụng làm cơ sở để các TCTD được phép kinh doanh ngoại tệ, xác định tỷ giá mua bán
ngoại tệ, áp dụng để tính thuế xuất nhập khẩu. Trên cơ sở tỷ giá giao dịch bình quân trên thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất trước đó do NHNN công bố, các
TCTD được quy định tỷ giá giao dịch giữa VND và USD không vượt số % được quy định so
vơi với tỷ giá liên Ngân hàng trong từng thời kỳ. Việc thay đổi cơ chế quản lý điều hành tỷ
giá đã tạo quyền chủ động cho các NHTM trong việc tự quy định tỷ giá giữa đồng Việt Nam
với các ngoại tệ khác
Những kết quả đạt được
Với tư cách là công cụ quản lý vĩ mô, là nguồn máu của cơ thể sống, là nguồn lực,
bằng chính sách và cơ chế vận hành phù hợp, các chính sách tài chính đã góp phần thúc đẩy
công cuộc đổi mới, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế. Qua 20 năm đổi mới và mở cửa, hệ
thống tài chính Việt Nam đã được xây dựng và phát triển, làm tốt vai trò của mình với nền
kinh tế quốc dân và đã được một số kết quả như sau:
Thứ nhất là, chính sách lãi suất đã đem lại một bước đệm quan trọng tiến tới tự do hoá
lãi suất, góp phần luân chuyển vốn hợp lý. Lãi suất thỏa thuận hiện nay được coi là phù hợp
với mức độ phát triển của thị trường tiền tệ .
14
Cải cách tài chính ở Việt Nam theo hướng tự do hóa – Thực tiễn tính chuyển đổi VND
Thứ hai là, việc đổi mới chính sách, cơ chế tín dụng phù hợp với các nguyên tắc thị
trường và thông lệ quốc tế đã có những kết quả đáng kể. Những bước đổi mới trong lĩnh vực
tín dụng đã được thực hiện theo hướng từng bước tiến dần tới mục tiêu tự do hóa tín dụng.
Điều này có thể thấy được qua việc xây dựng và hoàn thiện các cơ chế, chính sách tín dụng
nhằm đạt được các mục tiêu chủ yếu là mở rộng tín dụng cho mọi thành phần kinh tế, tạo lập
sự bình đẳng giữa các TCTD và các khách hàng, nâng cao tính hiệu quả, chất lượng của tín
dụng và đổi mới cơ cấu tín dụng.
Trên thực tế, về cơ bản các mục tiêu của chính sách tín dụng đã được thực hiện. Tín
dụng đã không những tập trung cho khu vực quốc doanh mà còn mở rộng ra cho các khu vực
ngoài quốc doanh. Vào năm 1991, tỷ trọng cho vay doanh nghiệp quốc doanh chiếm tới 90%
tổng dư nợ cho vay nền kinh tế của hệ thống ngân hàng. Cho đến nay thì tỷ trọng này nhỏ
hơn rất nhiều
Bên cạnh đó, cơ cấu tín dụng cũng đổi mơí đáng kể phù hợp với tiến trình phát triển
kinh tế đất nước và chuyển sang kinh tế thị trường. Vào đầu năm 1990, các ngân hàng chỉ
tập trung cho vay ngắn hạn, tỷ trọng tín dụng ngắn hạn chiếm tới 85% đến 90% tổng dư nợ.
Nhưng qua các năm, tỷ trọng tín dụng ngắn hạn ngày càng giảm bớt. Từ năm 1998, tỷ trọng
tín dụng ngắn hạn trong tổng dư nợ chỉ còn khoảng 54%. Trong khi đó tỷ trọng cho vay
trung và dài hạn trong tổng dư nợ từng bước được nâng lên. Đồng thời, trong những năm
qua, chất lượng tín dụng được hệ thống ngân hàng từng bước nâng cao.
Có thể khẳng định rằng một trong những bằng chứng rõ nét nhất thể hiện các bước đổi
mới trong lĩnh vực tín dụng theo hướng tự do hóa tín dụng là việc tạo lập sự bình đẳng giữa
các TCTD và khách hàng. Nếu như tín dụng đã được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế
thể hiện sự bình đẳng đối với các khách hàng, thì sự bình đẳng giữa các TCTD được thể hiện
thông qua việc NHNN đưa ra các quy định về cơ chế tín dụng và bảo đảm tiền vay áp dụng
chung đối với mọi TCTD.
Thứ ba là: Cơ chế điều hành tỷ giá mới đã góp phần ổn định tỷ giá, tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp chủ động hơn trong kinh doanh nhưng vẫn đảm bảo vai trò kiểm soát của
Nhà nước. Đồng thời, cùng với các biện pháp đẩy mạnh sự phát triển của thị trường ngoại tệ,
với cơ chế điều hành tỷ giá mới, tỷ giá VND được hình thành trên cơ sở giao dịch trên thị
trường đã phản ánh tương đối khách quan sức mua của đồng Việt Nam so với ngoại tệ.
Những vướng mắc cần tháo gỡ:
15
Cải cách tài chính ở Việt Nam theo hướng tự do hóa – Thực tiễn tính chuyển đổi VND
Bên cạnh những kết quả tích cực mà sự đổi mới chính sách tài chính Việt Nam đem
lại, vẫn tồn tại một số yếu kém nhất định như tỷ lệ huy động vốn thấp, chất lượng tín dụng
tại các ngân hàng không cao, các doanh nghiệp tư nhân rất khó tiếp cận với các nguồn vốn
tín dụng ngân hàng, dẫn tới thiếu cơ hội để phát triển. Điều đó được thể hiện cụ thể như sau:
- Thứ nhất là, mặc dù đã có cơ chế lãi suất dương, tính tự chủ của các ngân hàng đã
được nâng cao, lãi suất dần dần được xác định theo cung-cầu thị trường và theo hướng biến
động của lãi suất quốc tê, song do nền kinh tế của Việt Nam là nền kinh tế mở, có quy mô
nhỏ nên biện pháp của chúng ta vẫn chưa thực sự hiệu quả và tính bao cấp hành chính vẫn
còn tồn tại. Ngoài ra, vẫn còn có sự can thiệp của chính quyền vào việc xác định lãi suất cho
vay của các tổ chức tín dụng. Chính sách lãi suất của NHNN vẫn bộc lộ những yếu kém cơ
bản, cụ thể như: Mặc dù NHNN đã thực hiện tự do hoá ngoại tệ, chuyển sang cơ chế điều
hành lãi suất cơ bản đối với đồng nội tệ nhưng vẫn còn quy định biên độ để khống chế lãi
suất cho vay nội tệ. Điều này đã làm hạn chế tính chất thị trường hoá lãi suất của đồng nội tệ
và dẫn đến những bất cập nhất định. Trước những biến động về lãi suất trên thị trường tài
chính thế giới sẽ làm gia tăng rủi ro trong hoạt động kinh doanh đồng nội tệ vì các ngân hàng
không có sự chủ động trong việc điều chỉnh lãi suất đồng nội tê. Lãi suất không bao quát đủ
rủi ro tiền tệ và gây ra hạn chế tính chủ động trong kinh doanh mà lẽ ra các NHTM phải có
để ấn định lãi suất cho vay cho phù hợp với thực trạng tình hình tài chính lẫn uy tín của từng
khách hàng. Chưa tạo ra môi trường kinh doanh thực sự theo cơ chế thị trường của hệ thống
TCTD trên thị trường tài chính. Hiện tại, vì sự điều phối vốn khả dụng của các NHTM trên
thị trường tiền tệ chưa được thực hiện hiệu quả nên lãi suất thị trường liên ngân hàng chưa
phản ánh đúng đắn cung cầu vốn khả dụng khiến cho lãi suất thị trường liên ngân hàng chưa
thực sự trở thành nguồn cung cấp thông tin hiệu quả phục vụ cho việc điều hành chính sách
tiền tệ của NHNN. Trong bối cảnh đó, công cụ lãi suất cấp vốn tỏ ra rất mờ nhạt trong việc
tác động đến sự hình thành lãi suất kinh doanh của các NHTM. Mặc dù NHTM đã chuyển
dần từ cơ chế tái cấp vốn dưới hình thức cho vay chỉ định, thế chấp chứng từ hồ sơ tín dụng
sang cơ chế cho vay chiết khấu, cầm cố tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN và các chứng từ
có giá khác.
- Thứ hai là, mặc dù hoạt động tín dụng đã có nhiều cải thiện, song xét trên phương
diện vĩ mô, hoạt động tín dụng có tính thụ động, chưa chú trọng vấn đề phát triển thị trường,
định hướng nền kinh tế. Hoạt động tín dụng vẫn còn mang tính bao cấp: Các doanh nghiệp
16
Cải cách tài chính ở Việt Nam theo hướng tự do hóa – Thực tiễn tính chuyển đổi VND
nhà nước được hưởng nhiều ưu đãi trong vay vốn hơn so với các doanh nghiệp tư nhân. Bên
cạnh đó, còn có nhiều hình thức tín dụng ưu đãi trong nền kinh tế.
- Thứ ba là, mặc dù chính sách điều hành tỷ giá trong thời gian vừa qua đã đạt được
những thành tựu nhất định, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao song vẫn còn tồn tại một
số hạn chế nhất định cần phải khắc phục. Một là, việc tỷ giá được quyết định theo thị trường
với hoàn cảnh như nền kinh tế Việt Nam trước khủng hoảng tài chính khu vực đã tạo ra
những cơn sốc định kỳ cuối quý hoặc cuối năm; lạm phát thường tăng vọt bất thình lình, hiện
tượng đôla hoá trong hệ thốn lưu thông, thanh toán ngày càng tăng nhanh; sự mất cân đối
giữa các vùng, các lĩnh vực; sự quản lý lỏng lẻo đã dẫn đến hàng loạt vụ đổ bể tín dụng; và
một vấn đề nổi cộm khác là vấn đề nợ nước ngoài và công tác quản lý nợ, một cái giá phải
trả cho việc thả nổi tỷ giá là gánh nặng nợ nước ngoài khi tính bằng đồng Việt Nam trong
ngân sách nhà nước đã tăng mạnh. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, dưới chế độ tỷ giá trung
bình thị trường, tình hình kinh tế vĩ mô Việt Nam đã có những bước phát triển đáng được ghi
nhận.
2.2.2. Cải cách hệ thống tài chính ngân hàng
Tính tất yếu phải cái cách hệ thống tài chính Ngân hàng
- Năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam còn rất yếu, đặc biệt là
đối với các NHTMCP. Do đó khả năng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam
đối với ngân hàng thương mại nước ngoài có phần hạn chế. Trong đó NHTMQD thành phần
chủ chốt của hệ thống ngân hàng Việt Nam có vốn tương đối lớn nhưng so với ngân hàng
nước ngoài thì rất thấp.
Riêng ngân hàng TMQD lớn nhất của Việt Nam là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn vốn pháp định cao nhất chỉ là 5000 tỷ VND, Ngân hàng Công thương Việt
Nam là 2500 tỷ VND. Đây là một bất cập rất lớn vì với vốn tự có hiện nay các ngân hàng
thương mại Việt Nam chỉ có tỷ lệ từ 2,5% đến 4% so với tổng tài sản trong khi thông lệ
quốc tế đòi hỏi tỷ lệ này ít nhất phải không dưới 8%. Rõ ràng là nội lực sơ khai của các Ngân
hàng thương mại Việt Nam không đủ sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập quốc tế.
- Trình độ công nghệ và kinh nghiệm quản trị của các ngân hàng thương mại Việt
Nam còn lạc hậu so với khu vực và thế giới. Các dịch vụ của các Ngân hàng Việt Nam chỉ
mới chiếm 1/20 tổng số dịch vụ của ngân hàng hiện đại trên thế giới.
- Tình trạng nợ xấu trong đó có thể bao gồm cả nợ quá hạn không thu hồi được đang là
gánh nặng đối với các Ngân hàng thương mại và làm cho hệ thống Ngân hàng thương mại đi
tới tình trạng nguy hiểm. Mặt khác, việc xếp loại nợ quá hạn khó đòi của ta hiện nay chủ yếu
là dựa vào tiêu chí thời gian quá hạn mà chưa tính đến các tiêu chí khác như nợ đang còn
17
Cải cách tài chính ở Việt Nam theo hướng tự do hóa – Thực tiễn tính chuyển đổi VND
trong diện nợ trong hạn hoặc quá hạn thông thường nhưng thực tế doanh nghiệp đã bị thua lỗ
nặng, khả năng trả nợ rất thấp; như vậy nếu phân loại nợ xấu theo tiêu chuẩn quốc tế thì thực
trạng nợ xấu trong hệ thống NHTM sẽ còn cao hơn
- Hệ thống NHTM đang phải đối mặt với nợ tồn đọng lớn, vốn tự có thấp, do đó hạn
chế khả năng huy động vốn và cho vay của hệ thống ngân hàng.
- Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi khối lượng vốn lớn. Nhu
cầu về vốn cho công nghiệp hoá đòi hỏi NHTM có tiềm lực tài chính mạnh mẽ trong việc
huy động và sử dụng vốn một cách có hiệu quả với quy mô ngày càng lớn.
- Quá trình hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế và tự do hoá tài chính làm cho
môi trường tài chính cạnh tranh trở nên khốc liệt và rủi ro hơn đặt ra yêu cầu bức bách cơ
cấu lại hệ thống ngân hàng một cách mạnh mẽ toàn diện.
- Xu hướng phát triển của khoa học kỹ thuật mà đặc biệt là công nghệ tin học trong
lĩnh vực ngân hàng đang đặt ra yêu cầu cơ cấu lại hệ thống ngân hàng làm cơ sở để áp dụng
kỹ thuật mới, nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng.
Nội dung cải cách
Xử lý nợ tồn đọng
- Xử lý nợ tồn đọng lành mạnh hoá tài chính của NHTMNN là vấn đề cần được quan
tâm hàng đầu trong chương trình tái cơ cấu hệ thống NHTMNN, bởi:
+ Nợ tồn đọng lớn chứa đựng nguy cơ đổ vỡ hệ thống ngân hàng sẽ dẫn đến khủng
hoảng tài chính tiền tệ.
+ Nợ tồn đọng tạo ra gánh nặng chi phí cho NHTMNN, suy giảm khả năng huy động
vốn và cho vay đối với nền kinh tế, làm giảm lòng tin của dân chúng và uy tín quốc tế đối
với hệ thống ngân hàng
- Kể từ khi Chính phủ chỉ đạo xử lý nợ tồn đọng theo Quyết định số 149/2001/QĐ-
TTg ngày 5/10/2001, các NHTMNN đã và đang tiến hành cơ cấu lại.
- Đến cuối năm 2004, các NHTMNN đã xử lý được 19.606 tỷ đồng (nợ tồn đọng khoá
sổ thời điểm 31/12/2000), trong đó: các ngân hàng tự xử lý được 11.688 tỷ đồng, Chính phủ
hỗ trợ nguồn vốn để xử lý nợ nhóm 2 và nợ có tính chất như nợ tồn đọng nhóm 2 là 7.918 tỷ
đồng, và đến nay về cơ bản đã xử lý xong loại nợ này. Chủ trương “làm sạch bảng cân đối tài
khoản” của các NHTMNN được đề cập hàng chục năm trước đây, nay đã trở thành hiện
thực.
- Năng lực tài chính của các TCTD được tăng cường, tỷ lệ nợ xấu giảm đáng kể: Hầu
hết các ngân hàng thương mại (kể cả NHTMNN lẫn NHTMCP) đều đạt tỷ lệ an toàn vốn
trên 10-12% hoặc lớn hơn. Điều này góp phần tăng cường năng lực tài chính, khả năng cạnh
18
Cải cách tài chính ở Việt Nam theo hướng tự do hóa – Thực tiễn tính chuyển đổi VND
tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong khu vực.
- Hiện nay, Tỷ lệ nợ xấu của các NHTM đã được khống chế ở mức khá thấp trong
khoảng từ 1-2% tổng dư nợ cấp tín dụng. Các ngân hàng thương mại đã đạt được lợi nhuận
cao.
Tăng vốn tự có của các NHTM
- Song song với việc giải quyết nợ xấu, lành mạnh hóa tài chính của NHTM là việc
tăng cường khả năng về vốn tự có để từng bước phù hợp với chuẩn mực quốc tế và khu vực.
Tăng vốn tự có cho các NHTM là vấn đề bức bách bởi lẽ tăng vốn tự có là nhân tố quyết
định để có thể tăng cường huy động vốn mở rộng đầu tư phục vụ phát triển kinh tế, vừa thực
hiện tỷ lệ an toàn tối thiểu theo chuẩn mực quốc tế .
- Theo quy định cho vay đối với một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có. Với
mức vốn tự có hiện nay, các NHTM không đủ sức tài trợ cho những dự án lớn như dầu khí,
điện lực, hàng không, bưu chính viễn thông làm giảm khả năng cạnh tranh của các NHTM
- Theo tính toán để đảm bảo tỷ lệ an toàn tối thiểu hiện nay theo chuẩn mực quốc tế là
8% (tỷ lệ vốn tự có/tổng tài sản có) thì số lượng vốn cấp bổ sung cần được xử lý là 10.000 tỷ
đồng và ước tính để bảo đảm mức tăng dư nợ bình quân ở mức 18%/năm
-Năm 2006, Chính phủ có Nghị định 141/2006/NĐ-CP ngày 22.11.2006 về việc về ban
hành danh mục mức vốn pháp định đối với các tổ chức tín dụng (TCTD) thành lập và hoạt
động tại Việt Nam. Theo đó, các TCTD đã được cấp giấy phép thành lập và hoạt động phải
có biện pháp bảo đảm có số vốn điều lệ thực góp hoặc được cấp tối thiểu tương đương mức
vốn pháp định quy định tại danh mục ban hành k•m theo Nghị định 141. Trong đó, mức vốn
3.000 tỉ đồng đối với các NHTM phải thực hiện chậm nhất vào ngày 31.12.2010.
- Trong năm 2006 cho đến những tháng đầu năm 2007 đã xuất hiện sự kiện các ngân
hàng đua nhau tăng vốn điều lệ, có thể kể ra như trong năm 2006 Ngân hàng Nhà Hà Nội
(Habubank) nâng vốn điều lệ từ 300 tỷ đồng lên 1.000 tỷ đồng, Ngân hàng An Bình nâng
vốn từ 200 tỷ đồng lên 1.000 tỷ đồng, Ngân hàng Kỹ thương (Techcombank) nâng vốn điều
lệ từ 618 tỷ đồng lên 1.500 tỷ đồng ; trong năm 2007, Ngân hàng thương mại cổphần
(NHTM CP) quân đội (MB) sẽ tăng vốn điều lệ lên mức 1.500 tỷ đồng, đại hội cổ đông của
NHTM CP nông thôn Đại Á (Đại Á) đã nhất trí lộ trình tăng vốn điều lệ lên 1.000 tỷ đồng,
EAB sẽ tăng vốn điều lệ từ 880 tỷ đồng lên 2.000 tỷ đồng, NHTM CPCác doanh nghiệp
ngoài quốc doanh (VPBank) sẽ tăng vốn điều lệ từ 750 tỷ đồng lên 1.500 tỷ đồng, NHTM
CP Phương Đông (OCB) sẽ tăng vốn điều lệ lên 1.200 tỷ đồng, Ngân hàng Nhà nước VN
vừa cho phép NHTM CP Đông Nam Á (SeABank) tăng vốnđiều lệ lên 1.000 tỷ đồng…
Tuy nhiên, quá trình tăng vốn điều lệ đã chịu tác động của một số nguyên nhân khách
19
Cải cách tài chính ở Việt Nam theo hướng tự do hóa – Thực tiễn tính chuyển đổi VND
quan khiến việc tăng vốn điều lệ từ các nguồn khác nhau của nhiều tổ chức tín dụng trong
nước gặp phải một số khó khăn. Do đó, Nghị định 141 đã sửa đổi, bổ sung theo hướng gia
hạn thời gian tăng vốn điều lệ cho các tổ chức tín dụng đến 31/12/2011.
Nâng cao năng lực quản lý của các nhà quản trị Ngân hàng
- Trong một môi trường cạnh tranh như nhau, sự thành công hay thất bại của một ngân
hàng hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực quản trị của ngân hàng đó. Thực tế Việt Nam đã cho
thấy rằng, trong điều kiện hoạt động không thuận lợi hiện nay nhưng các chi nhánh Ngân
hàng nước ngoài vẫn hoạt động tốt. Điều đó chứng tỏ rằng năng lực nội tại của ngân hàng là
yếu tố quyết định trong kinh doanh. Vì vậy, điểm xuất phát để cải tổ hệ thống ngân hàng là
phải đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao năng lực quản trị của các ngân hàng và việc gia
tăng các yếu tố vật chất chỉ được thực hiện trên cơ sở chất lượng quản trị
- Chất lượng quản trị ngân hàng đang được cải thiện: Đây là một nội dung quan trọng
trong cải cách ngân hàng. Các NHTM đang thiết lập bộ máy quản trị doanh nghiệp theo
phương thức hiện đại. Vai trò và mối quan hệ của Ban điều hành, Hội đồng quản trị, cổ đông
được quy định theo thông lệ quốc tế về quản trị công ty. Sự tham gia của các nhà đầu tư
chiến lược là các tổ chức tài chính ngân hàng có uy tín trên thế giới sẽ góp phần quan trọng
trong việc nâng cao năng lực điều hành, quản trị ngân hàng.
Hiện đại hóa công nghệ Ngân hàng và đa dạng hóa các dịch vụ
- Trước đây, các Ngân hàng Thương mại Việt Nam đang sử dụng các công nghệ còn
lạc hậu so với các Ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. Mặt khác, các dịch vụ cho vay
và nhận tiền gửi còn ngh•o nàn. Điều này sẽ là một bất lợi lớn của các Ngân hàng thương
mại Việt Nam khi nền kinh tế chúng ta hội nhập vào nền kinh tế thế giới, sự gia nhập thị
trường của hàng loạt các Ngân hàng lớn với số vốn lớn, công nghệ hiện đại, chất lượng dịch
vụ tốt, đa dạng các loại hình dịch vụ. Muốn đứng vững và cạnh tranh được với các ngân
hàng nước ngoài bắt buộc các Ngân hàng thương mại của Việt Nam phải nhanh chóng cải
tiến công nghệ, đa dạng hóa các loại hình dịch vụ ngân hàng. Có như vậy thì các ngân hàng
này mới có thể dứng vững trước sự cạnh tranh quyết liệt của các Ngân hàng nước ngoài
trong thời gian tới.
- Khung pháp lý về hoạt động thanh toán qua ngân hàng không ngừng được hoàn
thiện, làm cơ sở để các TCTD đầu tư đổi mới công nghệ, cải tiến qui trình giao dịch. Đặc
biệt, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động ngân hàng đã giúp các TCTD mở
rộng các loại hình và phương thức cung cấp dịch vụ thanh toán và dịch vụ ngân hàng hiện
đại.
- Đã xây dựng được hệ thống công nghệ ngân hàng đạt trình độ trung bình trong khu
20
Cải cách tài chính ở Việt Nam theo hướng tự do hóa – Thực tiễn tính chuyển đổi VND
vực, nhất là sau khi thực hiện thành công hai Dự án hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống
thanh toán giai đoạn I và II. Quá trình đổi mới và áp dụng công nghệ ngân hàng hiện đại đã
và đang được thúc đẩy mạnh mẽ nhằm tạo ra sự đồng bộ, có khả năng khai thác, sử dụng có
hiệu quả nguồn vốn ngân hàng.
- Cơ sở vật chất của các TCTD ngày càng được tăng cường, đảm bảo điều kiện làm
việc cho đội ngũ cán bộ với các trang thiết bị cần thiết.
- Về việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, tính đến hết năm 2010 số lượng
thẻ trên phạm vi cả nước đạt khoảng 28,5 triệu, hơn 11.000 ATM và gần 50.000 thiết bị chấp
nhận thẻ (POS). Tuy nhiên, so sánh với một số nước trong khu vực và trên thế giới thì khả
năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng hiện đại tại Việt Nam còn chưa cao, mức độ phân bố các chi
nhánh và phòng giao dịch chưa đồng đều.
Những bất cập cần giải quyết
- Việc tăng vốn quá nhanh của các NHTM CP ở VN xét về mặt xu hướng thì phù hợp
với quy luật và sự biến đổi của môi trường kinh doanh, nhưng tăng vốn quá nhanh như vậy
xét về mặt thời điểm thì có vẫn còn nhiều bất lợi như:
+ Do tăng vốn quá nhanh, trong khi quy mô kinh doanh vẫn như cũ (hoặc có tăng chút ít)
nên đã có một số NHTM CP gặp khó khăn trong việc tiêu hóa nguồn vốn tăng thêm, đã làm
giảm hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng. Một bằng chứng hiển nhiên là tỷ lệ an toàn vốn
tối thiểu của một số NHTM CP VN trong thời gian qua đã vượt xa mức tối thiểu là 8% (có
ngân hàng do tăng vốn quá nhanh đã đạt tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu đến 30%).
+ Nhiều ngân hàng cứ tăng vốn mà không hoạch định được nhu cầu mức vốn tăng
thêm là bao nhiêu cho phù hợp với quy mô hoạt động như nhu cầu nâng cao cơ sở vật chất
kỹ thuật phục vụ hoạt động kinh doanh, mở rộng quy mô cho vay, phạm vi kinh doanh, địa
bàn hoạt động.
+ Tăng vốn nhưng không đảm bảo tính khả thi của hiệu quả kinh doanh trên cơ sở vốn
điều lệ mới, điều này có thể ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng và kết quả hoạt động của ngân
hàng, thể hiện qua sự biến động theo chiều hướng bất lợi của các chỉ tiêu như lãi ròng trên
vốn (ROE), lãi ròng trên tổng tài sản có (ROA), mức tăng trưởng tín dụng, mức tăng trưởng
tài sản có, mức tăng tiền gửi…
+Tăng vốn nhưng khả năng quản trị, năng lực quản lý, giám sát của ngân hàng đối với
quy mô vốn và quy mô hoạt động lại không tăng lên tương ứng: ngân hàng chưa có đủ trình
độ, năng lực, số lượng nhân sự cần thiết để quản trị, điều hành và kiểm soát được quy mô
21
Cải cách tài chính ở Việt Nam theo hướng tự do hóa – Thực tiễn tính chuyển đổi VND
hoạt động tăng lên (như mức tăng tổng tài sản có dự kiến, mà đặc biệt là mức tăng tổng dư
nợ), đảm bảo các quy định về an toàn hoạt động.
- Nghiệp vụ của ngân hàng thương mại chưa phong phú, chủ yếu là các nghiệp vụ
truyền thống, do đó làm cho hoạt động của ngân hàng trở nên đơn điệu chưa thật sự thu hút
đối với khách hàng:
+ Về nghiệp vụ nguồn vốn :
Hình thức huy động còn hạn chế chủ yếu dưới dạng nhận tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ
hạn, tiết kiệm .… Trong cơ cấu vốn huy động thì vốn ngắn hạn lại chiếm tỷ trọng lớn so với
các thành phần khác . Điều này chứng tỏ NHTM chưa xây đựng được chiến lược huy động
vốn dài hạn, chưa kết hợp được hình thức huy động vốn với các phương thức thanh toán hiện
đại. Do đó không thể khai thác hết nguồn vốn tìm năng trong nền kinh tế.
+ Về nghiệp vụ sử dụng vốn:
Nghiệp vụ sử dụng vốn hiện nay chủ yếu là hoạt động tín dụng nhưng trong mảng này
chưa mở rộng được hoạt động cho vay mới chẳng hạn tín dụng thấu chi, chiết khấu chứng từ
có giá, cho vay tiêu dùng thì chỉ áp dụng cho thành phần kinh tế nhà nước. Hoạt động đầu tư
thì chủ yếu tập trung vào mua các tín phiếu và tín dụng kho bạc chưa mạnh dạn đầu tư vào
các loại chứng khoán khác.
+ Về kinh doanh dịch vụ ngân hàng:
Được xem là mảng nghiệp vụ mang lại tỷ suất lợi nhuận cao nhưng chưa có sự quan
tâm đúng mức. Dịch vụ chủ yếu của ngân hàng hiện nay là dịch vụ thanh toán, chuyển
tiền…. Chất lượng sản phẩm dịch vụ còn hạn chế chưa tạo được lợi thế trên thị trường
- Trình độ chuyên môn nghiệp vụ cán bộ công nhân viên chưa đồng đều. Ngân hàng
chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của công tác bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho cán
bộ ngân hàng.
- Trong quản lý chưa có sự tách bạch giữa nghiệp vụ chính sách và nghiệp vụ kinh
doanh, chủ yếu là ở các NHTM QD. Do đó tạo sức ỳ trong hoạt động kinh doanh của ngân
hàng.
2.3. Những giải pháp thúc đẩy tự do hóa tài chính ở nước ta
2.3.1 Các giải pháp cho chính sách tài chính
Chính sách tỷ giá
22
Cải cách tài chính ở Việt Nam theo hướng tự do hóa – Thực tiễn tính chuyển đổi VND
Tự do hoá thương mại và tự do hoá tài chính yêu cầu các quốc gia dần phải từ bỏ cách
kiểm soát quá chặt chẽ tỷ giá và tài khoản vốn, nhanh chóng đưa đồng bản tệ có khả năng
chuyển đổi tức là để cho tỷ giá được tự do xác định trên thị trường và chính phủ từ bỏ việc
can thiệp quá sâu của mình vào chính sách tỷ giá, nhằm theo đuổi chính sách tỷ giá tự do.
Ban đầu Ngân hàng Trung ương thực hiện sự linh hoạt tỷ giá bằng cách nới rộng các
biên độ dao động của tỷ giá. Ngân hàng Trung ương cố gắng hạn chế sự can thiệp của mình,
chỉ hành động khi có những xu hướng bất lợi hoặc vượt quá một giới hạn cho phép đối với
nền kinh tế. Tiếp dần đó các ngân hàng sẽ sử dụng các công cụ gián tiếp mang tính thị
trường để hướng dẫn tỷ giá thị trường.
Quá trình tự do tỷ giá cần tiến hành tuần tự theo hai giai đoạn:
+ Bước 1: Dần nới lỏng các biện pháp quản lý hành chính thiết kế và dần chuyển sang
sử dụng các công cụ gián tiếp mang tính thị trường
+Bước 2: Để tỷ giá tự do xác định trên thị trường ngoại hối
- Trong giai đoạn đầu dự trữ ngoại hối còn thấp cần quản lý chặt chẽ lượng ngoại hối,
xây dựng quỹ ngoại tệ để đảm bảo can thiệp khi cần thiết ,cần tích luỹ một lượng dự trữ
ngoại tệ đủ lớn để ổn định giá trị nội tệ .
- Nền kinh tế vĩ mô ổn định và tăng trưởng là điều kiện tiên quyết. Cần có một thị
trường ngoại hối và thị trường nội tệ tương đối phát triển, với các công cụ tương đối phong
phú và đa dạng.
Đối với Việt Nam trong thời gian trước mắt chưa thể thực hiện được mậu dịch tự do
hoàn toàn nên không thể áp dụng chế độ linh hoạt, thả nổi hoàn toàn, bởi vì:
+ Thứ nhất, do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất chưa cao, độ co giãn của
cung hàng hoá xuất khẩu củaViệt Nam chưa nhiều, nên nếu thả nổi tỷ giá thì xuất khẩu cũng
không tăng lên mạnh mẽ và nhập khẩu cũng không thể giảm nhiều được, cũng không thể kỳ
vọng vào việc thả nổi tỷ giá để tự điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế được . Ngược lại,
việc thả nổi tỷ giá hoàn toàn lại có khả năng làm cho thương mại không ổn định và dẫn đến
nạn đầu cơ tỷ giá mang lại hậu quả tiêu cực cho nền kinh tế.
+Thứ hai ,do nền kinh tế thị trường chưa phát triển , chưa có điều kiện thả nổi tỷ giá
hoàn toàn. Đặc biệt là do thị trường tài chính tiền tệ chưa phát triển mạnh, chưa tạo điều kiện
thật tốt cho xuất khẩu-nhập khẩu hàng hoá tư bản. Tất cả điều đó làm cho việc thả nổi tỷ giá
sẽ không mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế Việt Nam
23
Cải cách tài chính ở Việt Nam theo hướng tự do hóa – Thực tiễn tính chuyển đổi VND
Các giải pháp đặt ra cho vấn đề tự do hoá tỷ giá
1- Tiếp tục hoàn thiện thị trường ngoại hối và thị trường nội tệ.
2- Tập trung tích lũy ngoại tệ do Ngân hàng Trung ương quản lý.
3- Hoàn thiện các văn bản pháp quy về quản lý ngoại hối, cách thức điều hành tỷ
giá .
4- Tiến hành tự do hoá lĩnh vực tài chính, tự do hoá các tài khoản vốn, đưa đồng Việt
Nam trở thành đồng tiền có khả năng chuyển đổi cao.
5- Ổn định kinh tế vĩ mô, giảm lạm phát, thực hiện các chương trình sản xuất hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu nhằm cân đối cán cân thanh toán.
6- Cần tiếp tục duy trì cơ chế điều hành tỷ giá hiện nay trong thời gian ngắn sắp tới
theo hướng nới rộng kiểm soát cho phép tỷ giá được hình thành khách quan hơn theo các quy
luật của thị trường.
Cụ thể bao gồm những vấn đề sau:
- Luật hóa các hoạt động ngoại hối bao gồm các hoạt động đầu tư, vay và cho vay, bảo
lãnh, mua bán các giao dịch về ngoại hối. Nghiên cứu cơ chế chính sách để tạo điều kiện cho
các tổ chức kinh tế kể cả NHTM được phép thu hút ngoại tệ thông qua việc phát hành trái
phiếu, cổ phiếu ra thị trường trong nước và quốc tế.
- Nâng cao năng lực của hệ thống ngân hàng để có thể đảm đương được nhiệm vụ
chuyển tiền, thanh toán ngoại hối cho khách hàng một cách thuận lợi nhất.
- Sửa đổi các quy định về tiền tệ, ngoại hối đối với các nhà đầu tư nước ngoài với tinh
thần thông thoáng nhất, tự do hóa thị trường giao dịch ngoại hối để các nhà đầu tư nước
ngoài có điều kiện thuận lợi khu mua bán ngoại tệ phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh
doanh.
- Đổi mới chính sách tỷ giá theo hướng tỷ giá hình thành một cách khách quan trên cơ
sở cân bằng cung cầu ngoại tệ trên thị trường, có sự điều tiết của Nhà nước.
- Phát triển mạnh mẽ thị trường ngoại tệ liên ngân hàng song song với việc phát triển
thị trường tiền tệ liên ngân hàng.
Chính sách lãi suất.
Tự do hóa lãi suất là một bộ phận quan trọng của tự do hóa tài chính, thực chất của tự
do hóa lãi suất chính là cơ chế điều hành lãi suất hoàn toàn để cho cung cầu vốn trên thị
24
Cải cách tài chính ở Việt Nam theo hướng tự do hóa – Thực tiễn tính chuyển đổi VND
trường xác định lãi suất cân bằng. Ngân hàng Trung ương chỉ can thiệp bằng các công cụ để
điều chỉnh theo định hướng mà thôi.
Tự do hóa lãi suất là mục tiêu cần hướng tới để đảm bảo sự vận hành của thị trường về
cơ bản tuân theo quy luật cung cầu, phân bổ nguồn vốn hợp lý. Song, với thực trạng nền kinh
tế đang phải đối mặt cùng với những bất cập của thị trường tiền tệ thì áp dụng cơ chế kiểm
soát lãi suất trực tiếp là cần thiết, trong khi từng bước tạo dựng những điều kiện cần thiết để
tự do hóa lãi suất.
- Trước mắt, cần thiết lập một mức lãi suất cơ bản định hướng được lãi suất thị trường.
Theo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, để có thể phát huy được tốt vai trò định
hướng của lãi suất cơ bản thì bản thân NHTƯ của quốc gia đó phải xác định được những
mục tiêu điều hành cụ thể trên cơ sở định lượng cụ thể về lạm phát, tăng trưởng, hoặc lãi suất
ngắn hạn mà tại đó nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng. Vì vậy, việc hoàn thiện cơ chế hình
thành lãi suất cơ bản - làm cơ sở định hướng chuẩn mực cho lãi suất thị trường liên ngân
hàng, thị trường tiền tệ là một việc cần thiết phải thực hiện trong thời gian này.
- Trên cơ sở mức lãi suất cơ bản, hình thành đồng bộ các mức lãi suất chỉ đạo, như lãi
suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất nghiệp vụ thị trường
mở nhằm chủ động điều tiết lãi suất thị trường và các hành vi cho vay, đi vay của các thành
viên trên thị trường tiền tệ. Lượng tiền cung ứng sẽ được điều tiết hợp lý để đảm bảo các
mức lãi suất mục tiêu.
- Đối với lãi suất huy động, do những bất cập về cấu trúc thị trường hiện nay làm nảy
sinh tình trạng cạnh tranh lãi suất thiếu lành mạnh, cũng như là diễn biến của lãi suất thực
huy động có thể làm kỳ vọng lạm phát gia tăng nên việc thực hiện duy trì mức lãi suất trần
trong giai đoạn này là cần thiết để bình ổn mặt bằng lãi suất.
- Đồng thời trong thời gian này NHNN cần tích cực hỗ trợ thanh khoản đối với NHTM
với kỳ hạn dài hơn, khối lượng lớn hơn so với trước đây, hỗ trợ thông qua tái cấp vốn và
hoán đổi ngoại tệ và chỉ đạo các NHTM nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong cung ứng vốn và
điều chỉnh lãi suất giảm dần phù hợp diễn biến nền kinh tế.
Tuy nhiên về lâu dài, khi các xu hướng đầu tư đã rõ nét, nền kinh tế dần ổn định thì
việc tháo dỡ trần lãi suất huy động cũng sẽ được thực hiện nhằm tuân thủ các nguyên tắc trên
con đường tự do hóa lãi suất đã lựa chọn.
Giải pháp đề xuất để thực hiện thành công quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam:
25