Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

MỘT số KHÓ KHĂN TRONG CÔNG tác tự ĐÁNH GIÁ và KIỂM ĐỊNH CHẤT LƯỢNG GIÁO dục ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG sư PHẠM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.94 KB, 9 trang )

MỘT SỐ KHĨ KHĂN TRONG CƠNG TÁC TỰ ĐÁNH GIÁ VÀ KIỂM
ĐỊNH CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM
Ths. Lê Văn Thắng –
Trường Cao đẳng Sư phạm Nam Định
Số điện thoại: 0944191491
1. Đặt vấn đề
Theo Luật Giáo dục (2019), mục tiêu của kiểm định chất lượng giáo dục bao
gồm: “a) Bảo đảm và nâng cao chất lượng giáo dục; b) Xác nhận mức độ đáp ứng
mục tiêu của cơ sở giáo dục hoặc chương trình đào tạo trong từng giai đoạn; c)
Làm căn cứ để cơ sở giáo dục giải trình với chủ sở hữu, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, các bên liên quan và xã hội về thực trạng chất lượng giáo dục; d) Làm cơ sở
cho người học lựa chọn cơ sở giáo dục, chương trình đào tạo, cho nhà tuyển dụng
lao động tuyển chọn nhân lực.”. Trong bối cảnh cạnh tranh và hội nhập quốc tế
trong giáo dục ngày càng mạnh mẽ, công tác đảm bảo chất lượng và khẳng định
chất lượng thơng qua kiểm định có ý nghĩa sống cịn đối với các cơ sở giáo dục.
Theo thống kê của Cục Quản lý chất lượng (Bộ Giáo dục và Đào tạo), tính
đến ngày 31/8/2019, số cơ sở giáo dục và chương trình giáo dục đã hồn thành tự
đánh giá và đánh giá ngoài cụ thể như sau:
Bảng 1. Số liệu thống kê về kiểm định cơ sở giáo dục của Bộ Giáo dục và
Đào tạo tính đến ngày 31/8/2019
Số trường đã hoàn
thành báo cáo tự đánh
giá
Số trường được đánh
giá ngoài

Số trường được công
nhận đạt tiêu chuẩn
chất lượng

Cơ sở giáo dục đại học (trường đại học,


học viện)
Trường cao đẳng sư phạm, trung cấp sư
phạm
Cơ sở giáo dục đại học (trường đại học,
học viện)
Trường cao đẳng sư phạm, trung cấp sư
phạm
Cơ sở giáo dục đại học (trường đại học,
học viện)
Trường cao đẳng sư phạm, trung cấp sư

Số lượng
222
29
133
7
122
5


phạm

Về số lượng chương trình đào tạo được kiểm định: có 158 chương trình thuộc
25 cơ sở giáo dục, bao gồm: 19 chương trình đánh giá theo tiêu chuẩn trong nước;
139 chương trình đánh giá theo tiêu chuẩn khu vực và quốc tế.
Như vậy, so với số lượng cơ sở giáo dục trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo
(235 trường đại học và 60 trường cao đẳng) (thống kê năm học 2017-2018), vẫn cịn
nhiều trường và nhiều chương trình đào tạo chưa được kiểm định chất lượng.
Từ thực tiễn công tác tự đánh giá ở trường Cao đẳng Sư phạm Nam Định (là
đơn vị đã được công nhận kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục tháng 6/2018 cho

chu kỳ đánh giá 2013 - 2017), chúng tôi nhận thấy những khó khăn trong q trình
tự đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục. Những khó khăn này có nguyên nhân
chủ quan và khách quan, có đặc thù của địa phương đơn vị nhưng cũng có những
khó khăn chung cho các cơ sở giáo dục khác. Trong phạm vi bài viết này, chúng tơi
phân tích những khó khăn, thách thức trong tự đánh giá và kiểm định chất lượng
giáo dục, từ đó đề xuất một số giải pháp khắc phục những khó khăn này.
2. Một số khó khăn trong tự đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục ở
trường Cao đẳng Sư phạm Nam Định
Mặc dù nhận thức được tầm quan trọng của công tác kiểm định chất lượng,
nhưng đây là một hoạt động mới. Bên cạnh đó, sự hiểu biết, quan tâm, đầu tư cho
công tác này ở trường vẫn chưa đồng đều giữa các cá nhân dẫn đến việc triển khai
tự đánh giá, đảm bảo chất lượng và đăng kí kiểm định chất lượng gặp nhiều khó
khăn. Cụ thể như sau:
2.1. Sự chưa hồn thiện về cơ chế, chính sách và hệ thống văn bản quy định cho
hoạt động tự đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục
Mặc dù Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành tương đối đầy đủ các văn bản
quy định, hướng dẫn về công tác kiểm định chất lượng. Gần đây, ngày 23/2/2017,
Bộ đã ban hành Kế hoạch số 118/KH-BGDĐT về triển khai công tác kiểm định
chất lượng giáo dục đối với cơ sở giáo dục đại học, trường cao đẳng sư phạm và
trung cấp sư phạm năm 2017 và đề xuất mục tiêu đến năm 2020 khá chi tiết và cụ
thể lộ trình để nâng cao số cơ sở giáo dục và số chương trình được kiểm định. Đối
với các trường cao đẳng sư phạm thì chưa phải thực hiện theo bộ tiêu chuẩn kiểm


định chất lượng cơ sở giáo dục đại học mới (ban hành kèm theo Thông tư số
12/2017/TT-BGDĐT ngày 19/5/2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo). Tuy nhiên,
trước khi công tác kiểm định chất lượng trở thành một nhu cầu tự thân của mỗi cơ
sở giáo dục, thì cần có một cơ chế pháp lý “thưởng – phạt” gắn với yếu tố chất
lượng cụ thể. Ví dụ, theo kế hoạch 118/ KH-BGDĐT, những trường đạt chứng nhận
kiểm định chất lượng thì sẽ có những ưu tiên gì về chính sách. Đối với các trường

khơng đạt u cầu kiểm định thì sẽ phải cam kết hay chịu ảnh hưởng như thế nào,
thậm chí nếu khơng thể khắc phục những tồn tại và nâng cao chất lượng thì sẽ được
hỗ trợ hay có giải pháp cụ thể ra sao? Vấn đề này đã được bàn tới trong dự thảo quy
hoạch mạng lưới cơ sở đào tạo giáo viên, nhưng chưa trở thành một văn bản pháp lý
tạo sức ép hay động lực khi thực hiện kiểm định chất lượng.
Bên cạnh những quy định về kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục thì văn bản
quy định kiểm định chất lượng chương trình đào tạo mới từng bước được thể chế
hóa. Mặc dù Luật Giáo dục đại học sửa đổi có đề cập đến việc dừng tuyển sinh các
ngành không đạt yêu cầu kiểm định chương trình đào tạo, nhưng có thể thấy rõ ràng
rằng số lượng chương trình đào tạo cần được đánh giá và kiểm định ở tất cả các
trường còn rất nhiều. Để hướng tới kết quả tỉ lệ trường và chương trình đào tạo đạt
chuẩn kiểm định cao, cần có một lộ trình cụ thể, phù hợp hơn với điều kiện thực tế.
2.2. Sự không đồng nhất trong nhận thức về vai trị, ý nghĩa của cơng tác đảm
bảo chất lượng giáo dục
Trước và sau khi được nhận giấy chứng nhận kiểm định chất lượng giáo dục,
trường Cao đẳng Sư phạm Nam Định đã tích cực trao đổi kinh nghiệm và học hỏi từ
các cơ sở giáo dục khác về công tác tự đánh giá và kiểm định chất lượng. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy vẫn còn tồn tại sự khác biệt trong nhận thức về vai trò, ý
nghĩa và quyết tâm thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục giữa đội ngũ lãnh đạo,
cán bộ, giảng viên trong nội bộ trường và giữa các trường cùng hệ thống. Một số ý
kiến vẫn cho rằng công tác tự đánh giá, đảm bảo chất lượng là nhiệm vụ chủ yếu
của các cán bộ phụ trách công tác này hoặc của phòng chức năng (thường là 1-2 cán
bộ ở phòng Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục trong các trường cao đẳng
sư phạm). Do những nhận định đó, việc góp ý hay xây dựng các văn bản, kế hoạch
về tự đánh giá và đảm bảo chất lượng cho cả chu kỳ đánh giá khơng được đầu tư
thích đáng. Ví dụ về việc thu thập và sự dụng minh chứng phục vụ hoạt động tự
đánh giá và đánh giá ngoài giai đoạn 2013-2017 tại trường Cao đẳng Sư phạm
Nam Định cho thấy sự thiếu quan tâm của một số cá nhân với cơng tác kiểm định
chất lượng. Ngồi lý do chưa thành thạo kĩ thuật thu thập minh chứng; còn có nhóm



chuyên trách một số tiêu chí thực hiện mang tính chất đối phó, từ đó mà việc tìm
minh chứng cịn sơ sài.
Ở một số các cán bộ, giảng viên vẫn tồn tại tâm lý ngại thay đổi, thực hiện
theo các yêu cầu đảm bảo chất lượng. Bên cạnh đó, do cơ cấu biên chế số lượng
giảng viên trong mỗi ngành đào tạo ở trường cao đẳng sư phạm rất thấp (trung bình
khoảng 5 giảng viên có trình độ thạc sĩ chuyên ngành), dẫn đến số lượng đầu việc
mà các giảng viên trường cao đẳng sư phạm phải thực hiện khá nhiều, thời gian
dành cho việc nghiên cứu giải pháp đảm bảo chất lượng hướng tới mục tiêu kiểm
định chất lượng bị hạn chế.
Trước khi tiến hành kiểm định chất lượng, sự tham gia của người học và các
bên liên quan như các cơ quan quản lý, tuyển dụng sinh viên,.. vào đóng góp ý kiến
nâng cao chất lượng đào tạo và chương trình đào tạo vẫn cịn hạn chế. Ví dụ, để xây
dựng chương trình đào tạo giáo viên tiểu học, chúng tôi đã khảo sát ý kiến của giáo
viên và cán bộ quản lý trường tiểu học để xây dựng hồ sơ năng lực giáo viên tiểu
học. Sau khi hồn thành dự thảo chương trình đào tạo đó, nhà trường cũng gửi xin ý
kiến đánh giá của một số chuyên gia trong lĩnh vực đào tạo giáo viên tiểu học.
Những công việc nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên như trên
mới được triển khai ở một số chương trình đào tạo. Có thể nói rằng sự tham gia của
các bên liên quan đến công tác đảm bảo chất lượng của nhà trường chưa thực sự
đều đặn và vẫn còn một số hạn chế, nhất là trước khi tiến hành kiểm định chất
lượng.
2.3. Ảnh hưởng của một số yếu tố khách quan đến tâm lý cán bộ giảng viên
Hiện nay, việc tuyển sinh của các trường cao đẳng sư phạm đang gặp nhiều
khó khăn. Việc quy hoạch mạng lưới các cơ sở đào tạo giáo viên, và sự tồn tại của
hệ thống các trường cao đẳng sư phạm chưa được xác định rõ ràng. Sự tham gia của
giảng viên các trường cao đẳng sư phạm trong việc bồi dưỡng giáo viên, nhất là bồi
dưỡng giáo viên nhằm thực hiện chương trình giáo dục phổ thơng mới gần như
khơng có. Những yếu tố đó ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý của giảng viên các trường
cao đẳng sư phạm. Hiện tượng nhiều giáo viên trong trường cao đẳng sư phạm

chuyển công tác bắt đầu xảy ra. Sự thiếu hụt giảng viên dẫn đến chất lượng giảng
dạy ít nhiều bị ảnh hưởng. Hơn nữa, khi các giảng viên còn lo lắng đến những vấn
đề lớn như sự tồn tại của nhà trường, đến cơng việc thì sự quan tâm đến công tác
kiểm định chất lượng sẽ bị giảm sút.
2.4. Đầu tư các nguồn lực cho công tác tự đánh giá và kiểm định chất lượng
giáo dục


Mặc dù nhà trường đã thành lập bộ phận phụ trách công tác kiểm định chất
lượng và cử cán bộ chuyên trách (2 cán bộ và 1 trưởng phòng phụ trách chung)
nhưng có thể nói cơ cấu tổ chức và nhân sự đảm nhận cơng tác này cịn mỏng.
Trước năm 2013, việc thu thập minh chứng và tự đánh giá được giao cho phịng
Khảo thí – Kiểm định chất lượng giáo dục. Tới chu kỳ đánh giá 2013-2017, nhà
trường đã thay đổi phương thức thu thập, lưu trữ minh chứng và đánh giá tiêu chí
bằng cách giao cho các nhóm phụ trách gắn với các đơn vị chức năng trong trường.
Bằng cách này, việc tự đánh giá trở thành việc chung của tất cả mọi cá nhân, đơn vị
trong trường. Tuy nhiên, việc chỉ có 3 cán bộ phụ trách làm đầu mối phục vụ mọi
hoạt động liên quan đến tự đánh giá, đảm bảo chất lượng và kiêm nhiệm những
công việc khác là một tồn tại cần khắc phục ở trong trường. Ngồi ra, do những khó
khăn về ngân sách dành cho công tác kiểm định chất lượng (ở trường cao đẳng sư
phạm nguồn thu ngoài ngân sách nhà nước cấp rất ít), việc cử cán bộ tham gia các
lớp kiểm định viên hay các hội nghị, hội thảo về tự đánh giá, kiểm định chất lượng
giáo dục còn hạn chế. Hiện nay nhà trường mới có 2 người đã được tham gia học
lớp kiểm định viên, trong đó chỉ có 1 người trực tiếp làm cơng tác kiểm định.
2.5. Cơng tác quản lý hành chính, văn thư lưu trữ còn yếu
Một trong những yếu tố quyết định sự thành cơng cũng như phản ánh khách
quan, chính xác, trung thực và hỗ trợ đắc lực cho công tác tự đánh giá và kiểm định
chất lượng chính là hệ thống các minh chứng. Tuy nhiên, đây lại là vấn đề nan giải
bởi những yếu kém trong công tác quản lý hành chính, văn thư lưu trữ. Trước đây,
các văn bản, quyết định, kế hoạch của cấp trên và của nhà trường được lưu trữ theo

năm và chưa được phân loại theo tính chất cơng việc. Nhiều văn bản chỉ đạo của
cấp trên được giao trực tiếp cho đơn vị triển khai thực hiện. Chính vì thế, nhiều văn
bản bị thất lạc nên trong quá trình tự đánh giá, phải tìm kiếm lại rất mất thời gian,
công sức. Từ giai đoạn 2013 – 2017, việc đánh giá tiêu chí và lưu trữ minh chứng ở
trường Cao đẳng Sư phạm Nam Định được giao cho các đơn vị. Vì thế, việc lưu trữ
minh chứng chưa thành hệ thống, chưa khoa học, nhiều minh chứng bị thất lạc. Ví
dụ, khi tìm minh chứng cho tiêu chuẩn 10, chúng tơi rất khó thu thập những minh
chứng để chứng minh sự thiết lập được các mối quan hệ giữa nhà trường với chính
quyền địa phương, các cơ quan đoàn thể để thực hiện các hoạt động văn hóa, văn
nghệ, thể dục thể thao.
2.6. Sự phối hợp giữa các đơn vị trong nội bộ nhà trường
Công tác đảm bảo chất lượng là công việc chung của tất cả các cá nhân, đơn
vị trong nhà trường. Tuy nhiên, do mỗi đơn vị đảm nhiệm những nhiệm vụ khác
nhau hoặc cách thức tổ chức công việc khác nhau dẫn đến những khó khăn khi phối


hợp thực hiện hoạt động kiểm định. Ví dụ, sự khác biệt trong điều hành hoạt động
giữa các phòng ban, các khoa tổ chun mơn hay các tổ chức đồn thể trong trường
sẽ tác động đến đối tượng người học khác nhau. Vì thế, khi thực hiện kế hoạch tự
đánh giá và kiểm định chất lượng, kế hoạch khắc phục những tồn tại hạn chế sau
kiểm định, dù được Hội đồng tự đánh giá và nhà trường giao nhiệm vụ cụ thể, các
thành viên phụ trách công tác kiểm định vẫn gặp nhiều khó khăn khi làm việc với
các đơn vị khác trong trường.
3. Một số giải pháp khắc phục những khó khăn trong tự đánh giá và kiểm định
chất lượng cơ sở giáo dục ở trường cao đẳng sư phạm
Để khắc phục những khó khăn tồn tại đã phân tích ở trên, ngồi những yếu tố
khách quan hay do cơ chế chính sách, chúng tơi đề xuất một số giải pháp mang tính
nội tại như sau:
3.1. Nâng cao nhận thức về công tác kiểm định chất lượng giáo dục
Đảm bảo chất lượng giáo dục là vấn đề then chốt, có ý nghĩa sống và là mối

quan tâm hàng đầu trong Chiến lược phát triển của nhà trường qua từng giai đoạn
phát triển; là phương châm hành động, là tư tưởng chủ đạo trong hoạch định chiến
lược, kế hoạch hành động của toàn Trường, của từng cán bộ, giảng viên. Chính vì
thế, Ban Giám hiệu, lãnh đạo các đơn vị chun mơn cũng như từng giảng viên, cán
bộ trong tồn trường cần nhận thức về vị trí, tầm quan trọng của hoạt động bảo đảm
chất lượng giáo dục, từ đó tạo được sự đồng thuận và quyết tâm cao để thực hiện
thành công yêu cầu đảm bảo chất lượng đáp ứng yêu cầu của xã hội. Trong bối cảnh
yêu cầu của xã hội đối với sản phẩm của quá trình đào tạo ngày càng cao, nhưng
trường cũng phải đối mặt với những thách thức như khó khăn trong tuyển sinh,
tuyển dụng, thắt chặt về tài chính,.. mỗi cá nhân và tập thể đều ý thức được yếu tố
chất lượng đặt lên hàng đầu. Cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tăng
cường nguồn lực… từ đó tạo sự chuyển biến về nhận thức của toàn thể cán bộ,
giảng viên, công nhân viên và các bên liên quan về tầm quan trọng và ý nghĩa của
công tác đảm bảo chất lượng giáo dục.
3.2. Tăng cường đầu tư các nguồn lực về đảm bảo và kiểm định chất lượng
Với những tồn tại về đội ngũ phụ trách công tác kiểm định chất lượng trong
trường, giải pháp khắc phục vấn đề này là cần quan tâm hơn nữa đối với công tác tự
đánh giá, đảm bảo chất lượng thơng qua việc hồn chỉnh hệ thống đảm bảo, quản lí
chất lượng; bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách. Bên cạnh việc cử cán bộ tham
gia lớp bồi dưỡng kiểm định viên thì thường xuyên tổ chức hoặc cử cán bộ tham gia
các hội nghị, hội thảo về kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục và kiểm định chương


trình đào tạo. Những việc này sẽ góp phần củng cố và xây dựng hệ thống đảm bảo
chất lượng bên trong một cách vững chắc và hiệu quả.
3.3. Xây dựng các kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn
Quá trình kiểm định chất lượng giáo dục giai đoạn 2013 – 2017 ở trường Cao
đẳng Sư phạm Nam Định cho thấy một trong những vấn đề tồn tại là thiếu tư duy
phát triển chiến lược. Vì thế, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong trường cần xây
dựng các kế hoạch hoạt động dài hạn, trung hạn, ngắn hạn thay vì chỉ tập trung xử

lý các nhiệm vụ trước mắt, trọng tâm như trước đây. Việc nghiên cứu, thảo luận,
xây dựng kế hoạch hành động theo từng giai đoạn (ngắn, trung và dài hạn) nhằm
phát huy ưu điểm, từng bước khắc phục những điểm tồn tại được phát hiện sau quá
trình tự đánh giá. Đối với các giảng viên, bên cạnh việc phát triển chuyên môn cá
nhân, cần huy động trí tuệ vào việc tham gia xây dựng các kế hoạch mang tính
chiến lược, đặc biệt là chiến lược phát triển đội ngũ, phát triển năng lực chuyên
môn.
3.4. Thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và
quản lý
Lãnh đạo trường chịu trách nhiệm chỉ đạo thực hiện nâng cao chất lượng trong
mọi hoạt động của trường; điều phối các hoạt động, kiểm tra giám sát và đảm bảo
các nguồn lực để triển khai các kế hoạch đảm bảo chất lượng trong nhà trường.
Trong công tác quản lý điều hành nhà trường, cần quan tâm đến tính chun nghiệp
và chuẩn hóa mọi hoạt động hơn. Ví dụ, hệ thống minh chứng được tập hợp theo hệ
thống chuẩn, đảm bảo các hoạt động được thực hiện một cách nghiêm túc, trung
thực và tin cậy. Hơn nữa, yêu cầu đảm bảo chất lượng giáo dục đã được thể hiện
ngay từ khâu hoàn thiện bộ máy tổ chức nhà trường, xây dựng quy chế hoạt động,
quy chế đào tạo, nghiên cứu khoa học... Tất cả các hoạt động này đều bám sát yêu
cầu kiểm định chất lượng giáo dục.
Chương trình đào tạo và hoạt động đào tạo có tác dụng chuyển hóa mục tiêu
đào tạo, thậm chí là một phần sứ mạng của nhà trường thành sản phẩm của q
trình đào tạo thơng qua chuẩn đầu ra và những mục tiêu năng lực cụ thể. Thông qua
kiểm định, các bước rà sốt, điều chỉnh chương trình đào tạo sẽ được thực hiện theo
đúng quy định với những yêu cầu cụ thể. Hơn nữa, trong quá trình xây dựng và điều
chỉnh chương trình đào tạo địi hỏi sự tham gia nhiều hơn của các bên liên quan như
nhà tuyển dụng, cựu sinh viên, giáo viên phổ thông… đồng thời cập nhật những nội
dung mới, tham khảo những cách xây dựng chương trình tiên tiến trên thế giới. Ý
thức nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đào tạo sẽ khơng chỉ gói gọn trong
phạm vi cán bộ quản lý, giảng viên, người học mà liên quan đến tất cả mọi đối



tượng trong và ngoài nhà trường ở các mức độ khác nhau. Các bên liên quan cũng
cần được khuyến khích tham gia nhiều hơn vào công tác quản trị nhà trường, đóng
góp ý kiến cho các văn bản cốt lõi của trường,..
Bên cạnh việc nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, giảng viên về công tác
đảm bảo chất lượng giáo dục, tiêu chuẩn về đội ngũ trong kiểm định cũng tạo ra áp
lực, đòi hỏi bản thân từng cán bộ giảng viên nhà trường phải nâng cao trình độ
chun mơn, nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, tin học và tiếp cận những phát triển
mới nhất trong chuyên môn. Trong quá trình đào tạo, từng giảng viên đã chú trọng
hơn đến những phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả của người học phù hợp hơn,
đồng thời nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học, làm cho người học chủ động hơn
trong quá trình học tập, nghiên cứu
4. Kết luận
Hoạt động kiểm định đã tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến mọi mặt công tác
của trường Cao đẳng Sư phạm Nam Định, thay đổi từ nhận thức đến hành động của
đội ngũ lãnh đạo đến các giảng viên và người học. Việc công nhận kiểm định chất
lượng giáo dục đã nâng cao vị thế của nhà trường nhưng cũng là cam kết với xã hội
về đảm bảo chất lượng giáo dục. Nhà trường đã nhận thấy được những khó khăn,
hạn chế trong q trình tự đánh giá và kiểm định chất lượng trường cao đẳng sư
phạm và đề xuất một số giải pháp khắc phục từ góc độ đảm bảo chất lượng bên
trong. Với mục tiêu ‘kiểm định để phát triển’, mọi quan điểm chỉ đạo cho đến kế
hoạch và hành động của trường cao đẳng đều phải gắn với đảm bảo chất lượng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Vũ Thị Phương Anh (2018). Những thách thức trong việc xây dựng văn hóa
chất lượng trong các trường đại học tại Việt Nam.
e/download/nhung-thach-thuc-trong-viec-xay-dung-vanhoa-chat-luong-trong-cac_pdf
[2]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017). Kế hoạch số 118/KH-BGDĐT về triển khai
công tác kiểm định chất lượng giáo dục đối với cơ sở giáo dục đại học,
trường cao đẳng sư phạm và trung cấp sư phạm năm 2017 ban hành ngày
23/2/2017.

[3]. Nguyễn Hữu Cương (2017). Phân biệt 3 mơ hình đảm bảo chất lượng giáo dục
đại học: Kiểm định chất lượng, đánh giá chất lượng và kiểm tốn chất lượng.
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục,Tập 33, Số 1, tr. 91-96.
[4]. Nguyễn Hữu Cương (2018). Các yếu tố thuận lợi và khó khăn khi thực hiện Kế
hoạch kiểm định chất lượng giáo dục đại học giai đoạn 2017-2020. Tạp chí


Khoa học ĐHSPHN: Khoa học giáo dục, Vol. 63, Iss. 2, pp. 17-26. DOI:
10.18173/2354-1075.2018-0002.
[5]. Cục Quản lý chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019). Danh sách các
chương trình đào tạo được đánh giá/ cơng nhận (dữ liệu cập nhật đến ngày
31/8/2019).
[6]. Cục Quản lý chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019). Danh sách các cơ sở
giáo dục được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục (dữ liệu cập
nhật đến ngày 31/8/2019).
[7]. Nguyễn Phương Nga (2018). Báo cáo đề dẫn hội thảo “Hậu kiểm định chất
lượng giáo dục: từ quản trị đại học đến văn hóa chất lượng” do Trung tâm
kiểm định chất lượng giáo dục (Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt
Nam) tổ chức, trang 1-4.
[8]. Mai Văn Trinh (2018). Khái quát về công tác đảm bảo và kiểm định chất lượng
giáo dục đại học Việt Nam. Tài liệu hội thảo “Hậu kiểm định chất lượng giáo
dục: từ quản trị đại học đến văn hóa chất lượng” do Trung tâm kiểm định chất
lượng giáo dục (Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam) tổ chức,
trang 5-18.
[9]. Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục - ĐH Quốc gia Hà Nội (2018). Nghị
quyết số 25/NQ-HĐKĐCL ngày 31/5/2018 về việc thẩm định kết quả đánh
giá chất lượng giáo dục trường Cao đẳng Sư phạm Nam Định.
[10]. Trường Cao đẳng Sư phạm Nam Định (2018). Báo cáo tự đánh giá giai đoạn
2013-2017.




×