Chuyên đề thực tập
Lời mở đầu
Sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nền kinh tế nước ta
đã đạt được nhiều bước tiến hết sức quan trọng. Tuy nhiên để đặt được mục
tiêu đến năm 2020 đưa nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp với
cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lí và thực hiện công nghiệp
hoá hiện dại hoá đất nước thì đòi hỏi chúng ta chiến lược đúng đắn và hợp lí.
Cũng như tất cả các quốc gia trên thế giới phát triển nền kinh tế là mũ
nhọn của đất nước. Công cụ chủ yếu được dùng đó là tài chính. Vàđể cung
cấp những thông tin hữu ích cho việc ra quyết định kinh doanh và kinh tế của
các nhà quản lí doanh nghiệp và các nhà sử dụng thông tin tài chính ở bên
ngoài, hệ thống báo cáo tài chính đã ra đời. Dựa vào các nguồn thông tin nhận
được trong các Báo cáo tài chính, người sử dụng sẽ nắm được thực trạng tài
chính của doanh nghiệp và làm cơ sở cho việc ra quyết định của mình.
Các Báo cáo tài chính gồm Bảng Cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh
doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh Báo cáo tài chính, mỗi loại
cung cấp những thông tin tổng hợp về một khía cạnh khác nhau của tình hình
tài chính, tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Các báo cáo này bổ sung
cho nhau và cùng làm sáng tỏ bức tranh tài chính của doanh nghiệp. Trong
các báo cáo tài chính đó, Bảng cân đối kế toán đóng vai trò quan trọng, nó
đưa ra bức tranh tài chính tổng quát tại doanh nghiệp tại một thời điểm nhất
định. Tuy nhiên, Bảng cân đối kế toán cũng có những hạn chế vốn có của nó,
những hạn chế thuộc về bản chất được quy định bởi những nguyên tắc, quy
tắc hạch toán nên không thể khắc phục được. Vì vậy, để tránh đưa ra các
quyết định sai lầm, những người sử dụng thông tin của Báo cáo tài chính cần
được trang bị những công cụ phân tích thích hợp. Phân tích Báo cáo tài chính
sẽ giúp cho nhà phân tích nắm bắt được đầy đủ thực trạng tài chính doanh
nghiệp và khắc phục được những hạn chế trên.
Phân tích Báo cáo tài chính thông qua các công cụ và kĩ thuật phân tích
giúp các nhà phân tích kiểm tra Báo cáo tài chính, qua đó có thể đánh giá
1
1
Chuyên đề thực tập
được những thành tích và tình hình tài chính của doanh nghiệp cũng như dự
tính được những rủi ro và tiềm năng trong tương lai. Phân tích Báo cáo tài
chính có thể mang lại những thông tin có giá trị về xu thế và mối quan hệ, khả
năng sinh lợi của doanh nghiệp qua đó phát hiện được những điểm mạnh,
điểm yếu về tài chính của doanh nghiệp. Đối với các nhà quản trị của doanh
nghiệp, phân tích Báo cáo tài chính đóng vai trò quan trọng,đặc biệt trong tình
hình hiện nay, khi công việc ghi chép, xử lí thông tin kế toán đơn thuần đã
được máy vi tính đảm nhận thì công việc kế toán được thực hiện chủ yếu là
phân tích các thông tin kế toán có ích để phục vụ cho việc ra quyết định tài
chính của chủ doanh nghiệp.
Nhận thấy tầm quan trọng đặc biệt của việc phân tích tình hình tài chính
doanh nghiệp đối với việc ra quyết định của những nhà quản lí, với mong
muốn được nghiên cứu sâu hơn về vấn đề phức tạp và khó khăn này và để vận
dụng những hiểu biết, kiến thức đã thu thập được trong nhà trường và thực tế
thực tập tại một doanh nghiệp sản xuất cụ thể, em đã mạnh dạn lựa chọn đề
tài: “Phân tích tình hình tài chính trên cơ sở bảng cân đối kế toán với việc
tăng cường quản trị doanh nghiệp tại Công ty cơ khí Hà Nội” cho chuyên
đề của mình.
Luận văn ngoài Lời mở đầu và kết luận bao gồm ba nội dung chính sau:
Chương I: Hoạt động tài chính và cơ sở của việc phân tích tình hình tài
chính doanh nghiệp.
Chương II: Phân tích tình hình tài chính tại Công ty cơ khí Hà Nội.
Chương III: Phương hướng nâng cao công tác quản trị tài chính tại
Công ty cơ khí Hà Nội
Do trình độ lí luận và thực tiên còn nhiều hạn chế nên bài viết này
không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong được sự đóng góp ý kiến của
các thầy cô giáo cùng các cô chú trong công ty.
2
2
Chuyên đề thực tập
CHƯƠNG I
HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.1. HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH
TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP.
1.1.1. Hoạt động tài chính:
Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tiến hành sản xuất đều phải có một số
vốn. Số vốn đó được huy động từ nhiều nguồn khác nhau như từ nguồn vốn
góp của cá nhân, của Nhà nước và các nguồn vốn vay hay đi chiếm dụng của
các doanh nghiệp khác. Nguồn vốn đó chính là nguồn hình thành các yếu tố
sản xuất để tiến hành các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp là những quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với việc tổ
chức, huy động, phân phối, sử dụng và quản lý vốn trong quá trình kinh
doanh. Nó giúp cho quá trình sản xuất được thực hiện và tiến hành thông suốt.
Là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động kinh doanh, hoạt động tài
chính giải quyết các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình sản xuất
kinh doanh (SXKD) được biểu hiện qua các hình thái tiền tệ, xuất phát từ yêu
cầu và mục đích kinh doanh. Cũng do đặc điểm là một bộ phận của hoạt động
SXKD, hoạt động tài chính chịu tác đông của hoạt động SXKD nhưng nó
cũng có tác động trở lại đối với hoạt động SXKD (nếu hoạt động tài chính tốt
hay xấu sẽ có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm đối với quá trình sản xuất và
lưu chuyển hàng hoá).
Nếu hoạt động tài chính thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ của mình thông
qua việc hoàn thành tốt hai chức năng phân phối và giám sát thì nó sẽ góp
phần giúp cho doanh nghiệp:
- Tạo thuân lợi trong quá trình tạo vốn và đảm bảo sản xuất: giúp doanh
nghiệp tìm được các nguồn vốn để tăng vốn kinh doanh, đảm bảo đủ vốn để
sản xuất.
- Đảm bảo khả năng sinh lời tối đa trên cơ sở sử dụng vốn một cách tiết
kiệm, hiệu quả.
- Tạo đòn bẩy kích thích SXKD.
3
3
Chuyên đề thực tập
- Tăng cường hiệu quả của công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động
SXKD của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đó, hoạt động tài chính phải tuân theo
những nguyên tắc cơ bản:
- Phải có mục tiêu: Để giải quyết tốt mối quan hệ kinh tế với Nhà nước,
với đơn vị bạn, công nhân viên,… thì doanh nghiệp phải cụ thể hoá về số
lượng, chất lượng và thời gian tiến hành sản xuất, dự kiến bằng các con số kế
hoạch cụ thể. Nguyên tắc này giúp doanh nghiệp đảm bảo hoạt động an toàn
và phòng ngừa những rủi ro.
- Phải đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm có hiệu quả: Nó có ý nghĩa là phải
đảm bảo đầy đủ, kịp thời số vốn tối thiểu cần thiết cho sản xuất và lưu thông,
đồng thời phải sử dụng số vốn đó một cách hợp lý vào các khâu, các giai đoạn
của quá trình kinh doanh nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
- Phải tôn trọng pháp luật, tuân theo chế độ tài chính tín dụng, pháp luật
về tài chính, kỷ luật thanh toán, đảm bảo doanh nghiệp vừa đạt được lợi
nhuận tối đa, vừa đảm bảo các yếu tố xã hội.
1.1.2. Sự cần thiết phải phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp.
Tình hình tài chính doanh nghiệp (TCDN) được ghi chép và biểu hiện
qua các con số trên các tài liệu kế toán. Những con số đó tự thân nó không nói
lên một điều gì cả. Hơn nữa, chúng chỉ là những minh chứng cho quá khứ, chỉ
là những con số trên sổ sách, không thể hiện được thực trạng đa dạng và sôi
động của hoạt động tài chính trong doanh nghiệp. Chính phân tích sẽ làm cho
chúng biết nói, không những làm hiện ra bức tranh tài chính hiện tại của
doanh nghiệp mà còn chỉ ra xu hướng của nó trong tương lai tươi sáng hay ảm
đạm. Nói cách khác, phân tích làm công việc thổi hồn cho bức tranh tài chính
của doanh nghiệp, khiến nó trở nên sống động và có ích.
Hoạt động tài chính là một hoạt động đóng vai trò cực kì quan trọng đối
với sự phát triển của doanh nghiệp và cũng là đối tượng quan tâm đặc biệt của
những đối tượng bên ngoài doanh nghiệp, những người có quan hệ tài chính
với doanh nghiệp. Do tính chất quan trọng đó, đối tượng hoạt động tài chính
luôn là đối tượng cần được nắm bắt để kiểm tra tình hình hoạt động và đưa ra
những dự đoán, quyết định cho tương lai. Nếu chỉ nhìn vào những con số khô
4
4
Chuyên đề thực tập
cứng trong các báo cáo tài chính và các tài liệu tài chính khác thì thông tin tài
chính không mang một ý nghĩa nào đáng kể, các mối quan hệ, các xu hướng
biến đổi, những cơ hội và rủi ro tiềm tàng sẽ chìm trong biển chi tiết các con
số. Vì vậy chỉ có phân tích tình hình tài chính mới giúp người sử dụng đánh
giá và đưa ra các dự đoán, quyết định trong tương lai một cách có hiệu quả,
đáp ứng nhu cầu thông tin đa dạng của người dùng.
1.2. HAI BÁO CÁO TÀI CHÍNH CƠ BẢN SỬ DỤNG ĐỂ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH
TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP.
1.2.1. Bảng cân đối kế toán
Có những tài liệu khác nhau để phân tích tình hình tài chính doanh
nghiệp, chúng bao gồm các báo cáo tài chính (BCTC) được công bố rộng rãi,
các tài liệu bổ xung của bộ phận quản lý và các tài liệu khác như: Môi trường
hoạt động của doanh nghiệp, lĩnh vực hoạt động, loại hình doanh nghiệp, các
chính sách tài chính hiện hành... nghĩa là mọi nguồn thông tin có khả năng
làm rõ mục tiêu của dự đoán tài chính. Tuy nhiên, trong các tài liệu đó, thông
tin kế toán là một nguồn thông tin đặc biệt cần thiết. Các thông tin kế toán
phản ánh trong các BCTC là nguồn thông tin có sẵn, được công bố rộng rãi,
sát thực và đầy đủ. Làm một bộ phận của BCTC, bảng CĐKT luôn là đối
tượng được quan tâm, là tài liệu quan trọng và phổ biến để phân tích tài chính
doanh nghiệp.
1.2.1.1. Đặc trưng và ý nghĩa của bảng CĐKT trong việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp
a) Đặc trưng của BCĐKT
- Bảng CĐKT cơ ba đặc trưng cơ bản. Những đặc trưng này được hình
thành từ những quy định về nội dung và kết cấu hết sức khoa học và hợp lý.
Chúng bao gồm:
- Các chỉ tiêu trên bảng CĐKT được biểu hiện bằng giá trị (tiền) nên có
thể tổng hợp được toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp đang tồn tại dưới
các hình thái( cả vật chất và tiền tệ).
- Bảng CĐKT được chia thành hai phần theo hai cách phản ánh vốn kinh
doanh của doanh nghiệp là tài sản và nguồn hình thành tài sản (nguồn vốn).
Về mặt lượng, tổng số tài sản luôn cân bằng với tổng số nguồn.
- Bảng CĐKT phản ánh tài sản và nguồn vốn tại một thời điểm. Thời
điểm đó thường là ngày cuối cùng của quý, năm. Tuy nhiên, do tính chất là
5
5
Chuyên đề thực tập
báo cáo so sánh nên căn cứ vào số liệu ở hai thời điểm cuối kì và đầu năm sẽ
thấy được sự thay đổi của vốn và nguồn vốn trong kì báo cáo.
b) Ý nghĩa của bảng CĐKT trong việc phân tích tình hình tài chính doanh
nghiệp.
Do những đặc trưng cơ bản, riêng có, bảng CĐKT khái quát hoá toàn bộ
tài sản và nguồn vốn hiện có tại doanh nghiệp vào thời điểm cuối kì. Nhìn vào
hai dòng cuối cùng của phần tài sản và nguồn vốn, người đọc có thể thấy
được quy mô tài sản của doanh nghiệp và các nguồn vốn tài trợ cho các tài
sản đó.
Do được sắp xếp khoa học theo các khoản mục và mục chi tiết, người
đọc có thể dễ dàng nắm bắt được các con số tổng hợp, các con số chi tiết của
từng loại tài sản và nguồn vốn, qua đó có thể tiến hành phân tích dọc để có
thể thấy sự biến động về cơ cấu của chúng. Việc sắp xếp, phân loại hết sức
lôgíc này cũng giúp người phân tích tài chính giảm thời gian và công sức
phân loại thông tin trước khi tiến hành phân tích.
Ngoài ra, do mang tính chất là báo cáo so sánh, bảng CĐKT luôn có số
liệu của đầu năm và cuối kỳ. Việc cung cấp số liệu của hai kì liên tiếp tạo điều
kiện choviệc so sánh, đối chiếu để dễ nhận thấy sự biến đổi qua thời gian, qua
đó sự đoán dược xu hướng phát triển trong tương lai.
Cuối cùng, bảng CĐKT được sắp xếp theo thứ tự khả năng chuyển đổi
thành tiền của tài sản, từ nguồn vốn tài trợ tạm thời đến thường xuyên giúp
cho người phân tích nhanh chóng thấy được khả năng thanh toán của doanh
nghiệp.
Nói tóm lại, bảng CĐKT là một báo cáo tổng hợp, phản ánh tình hình tài
sản và nguồn vốn của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Nó cung cấp
những thông tin tài chính tổng hợp theo các chỉ tiêu kinh tế, tài chính để
nghiên cứu, phân tích toàn diện tình hình tài chính, kết quả và xu hướng phát
triển của doanh nghiệp. Nó cũng cung cấp những thông tin, mối quan hệ cơ
bản giữa các yếu tố, quá trình giúp cho việc đề xuất phương hướng và biện
pháp quản lý hiệu quả. Chính nhờ sự khái quát hoá của bảng CĐKT và dựa
vào các thông tin được phân theo bản chất kinh tế, tài chính, pháp lý,... nhà
6
6
Chuyên đề thực tập
phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp sẽ có thể phân tích nhanh chóng và
hiệu quả hơn.
1.2.1.2 Nội dung, kết cấu, nguyên tắc lập và kiểm tra bảng CĐKT
a) Nội dung:
Bảng CĐKT là báo cáo tổng hợp phản ánh tình hình tài chính của doanh
nghiệp tại một thời điểm nhất định (thời điểm lập báo cáo). Như vậy, nó có
nội dung gồm hai phần tài sản và nguồn vốn cân bằng nhau theo công thức:
Tài sản = Nguồn vốn
Hay ta có thể viết:
Tài sản = Nợ phải trả + Nguồn vốn chủ sở hữu (CSH)
b) Nguyên tắc lập bảng cân đối kế toán :
Cơ sở số liệu để lập bảng CĐKT là các số liệu ở sổ kế toán tổng hợp, sổ
kế toán chi tiết và số liệu ở bảng CĐKT cuối năm trước. Nguyên tắc quy định
như sau:
+ Trước khi lập bảng CĐKT, nhân viên kế toán cần phải phản ánh tất cả
các nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào sổ kế toán tổng hợp và chi tiết liên quan,
thực hiện việc kiểm kê tài sản và phản ánh kết quả kiểm kê vào sổ kế toán
trước khi khóa sổ. Sau đó tiến hành đối chiếu công nợ phải thu, phải trả, đối
chiếu giữa số liệu tổng hợp và chi tiết, số liệu trên sổ kế toán và số thực kiểm
kê, khoá sổ kế toán và tính số dư các tài khoản.
+ Khi lập bảng cân đối kế toán, những chỉ tiêu liên quan đến những tài
khoản phản ánh tài sản có số dư bên Nợ thì căn cứ vào số dư Nợ để ghi.
Những chỉ tiêu liên quan đến những tài khoản phản ánh nguồn vốn có số dư
Có thì căn cứ vào số dư Có của tài khoản để ghi.
+ Những chỉ tiêu thuộc các khoản phải thu, phải trả ghi theo số dư chi
tiết của các tài khoản phải thu, phải trả. Nếu số dư chi tiết là dư nợ thì ghi ở
phần tài sản, nếu dư có thì ở phần nguồn vốn.
+ Một số chỉ tiêu liên quan đến các tài khoản điều chỉnh hay tài khoản
dự phòng như tài khoản 214, 129, 229,139, 159…Các tài khoản này luôn có
7
7
Chuyên đề thực tập
số dư có nhưng khi lên bảng CĐKT phải ghi ở phần tài sản theo số âm. Các
tài khoản phản ánh nguồn vốn như tài khoản 412, 413, 421…nếu có số dư bên
nợ thì vẫn ghi ở phần nguồn vốn và ghi theo số âm.
c) Kiểm tra bảng CĐKT
Kiểm tra bảng CĐKT là yêu cầu bắt buộc với công tác hạch toán và quản
lý doanh nghiệp. Thực chất của công việc kiểm tra là thẩm định tính chính
xác của số liệu trong bảng CĐKT thông qua kiểm tra nguồn số liệu và kĩ thuật
lập bảng. Việc thực hiện công việc này hoàn toàn không dễ dàng. Vì vậy, để
hỗ trợ, một hệ thống các phương pháp kiểm tra đã ra đời, cho phép người sử
dụng, tuỳ từng trường hợp cụ thể, có thể vận dụng linh hoạt, lựa chọn hay kết
hợp nhiều phương pháp để đạt được mục đích của mình. Tuy nhiên, dù có áp
dụng phương pháp nào đi nữa thì công việc kiểm tra cũng được tiến hành qua
các bước sau:
Bước 1: Kiểm tra khái quát.
Việc kiểm tra khái quát được tiến hành theo nhận thức cảm quan hoặc
kiểm tra lôgíc các số liệu trong bảng CĐKT và một số tài liệu có liên quan.
Thông qua kiểm tra lôgíc người ta phân tích sự biến động của các khoản
mục có liên quan với nhau trên bảng CĐKT. (Khoản phải thu giảm tương ứng
với lượng tiền tăng, khoản vay dài hạn tăng tương ứng với TSCĐ tăng...)
Việc kiểm tra khái quát cho phép người phân tích nắm bắt được những
mâu thuẫn, những dấu hiệu sai phạm trọng yếu có thể tồn tại qua đó có định
hướng khoanh vùng kiểm tra, tiết kiệm được thời gian và công sức.
Bước 2: Kiểm tra kĩ thuật lập bảng:
Sau khi nắm bắt được những sai sót trên bảng CĐKT, người ta cần tiến
hành kiểm tra kĩ thuật lập bảng nhằm xem xét khả năng xảy ra sai phạm trong
quá trình chuyển sổ. Việc kiểm tra được tiến hành thông qua sự so sánh, đối
chiếu các số liệu của các chỉ tiêu phản ánh trong bảng CĐKT với số dư các tài
khoản, tiểu khoản tương ứng được ghi trong sổ cái hoặc sổ chi tiết. Về nguyên
tắc, các số liệu so sánh này phải khớp đúng. Nếu các số liệu đối chiếu đã hoàn
toàn khớp đúng, người ta phải xem xét khả năng nguồn số liệu cung cấp cho
hạch toán đã không chính xác.
8
8
Chuyên đề thực tập
Bước 3: Kiểm tra tính chính xác của nguồn số liệu.
Kiểm tra tính chính xác của nguồn số liệu là một công việc rất phức
tạp.Thực chất của việc kiểm tra này là kiểm tra công tác kế toán- tức là dựa
vào các tài liệu, chứng từ, sổ sách và báo biểu kế toán để tiến hành đối chiếu
kiểm tra từ việc ghi chép, tính toán số liệu đến việc thực hiện các chế độ thể lệ
và phương pháp kế toán có phù hợp với tình hình, đặc điểm sản xuất kinh
doanh của đơn vị hay không.
Sau khi kiểm tra tính chính xác của nguồn số liệu, người kiểm tra sẽ đưa ra nhận
xét cuối cùng về tính chính xác và đúng đắn của các số liệu trên bảng cân đối kế
toán. Không chỉ đảm bảo tính trung thực của bảng cân đối kế toán, việc kiểm tra
còn là cơ sở vững chắc cho việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp trong
kỳ và phương hướng nhiệm vụ cho kỳ tới. Vì vậy, kiểm tra bảng cân đối kế toán là
một bước chuẩn bị không thể thiếu trước khi tiến hành phân tích tình hình tài
chính doanh nghiệp.
1.2.1.3. Những hạn chế của Bảng cân đối kế toán.
Bên cạnh những ưu điểm lớn khiến cho bảng cân đối kế toán trở thành
một trong hai tài liệu đáng tin cậy cho những nhà phân tích tài chính (Bảng
CĐKT và báo cáo KQKD) thì tự bản thân bảng CĐKT cũng có những hạn
chế lớn. Nhưng hạn chế này bắt nguồn ngay trong quá trình hạch toán ghi
chép do những nguyên tắc hạch toán kế toán khắt khe gây nên. Vì vậy, những
hạn chế này không thể khắc phục được. Tuy nhiên, việc nhận biết những hạn
chế đó lại cần thiết cho những nhà phân tích giúp họ có hướng khắc phục,
giảm thiểu những ảnh hưởng của chúng đến kết quả phân tích của mình.
Thứ nhất, bảng CĐKT không phản ánh giá trị hiện hành hay giá trị thị
trường thích hợp vì nhân viên kế toán phải tuân thủ nguyên tắc chi phí lịch sử
trong việc đánh giá và báo cáo Tài sản và Nguồn vốn.
Thứ hai, Bảng CĐKT bỏ sót nhiều mục có giá trị về tài chính đối với
doanh nghiệp như giá trị nguồn nhân lực cùng vơí khả năng quản lý, những
nhân tố rất quan trọng, đặc biệt trong nền kinh tế tri thức ngày nay.
9
9
Chuyên đề thực tập
Thêm vào đó, những sự đánh giá và giải quyết có tính chất nghiệp vụ rập
khuôn thường được sử dụng trong quá trình chuẩn bị lập bảng CĐKT cũng có
thể làm giảm tính hữu ích của các báo cáo.
Do vậy, để có thể phân tích có hiệu quả, nhà phân tích phải biết vận dụng
những phương pháp phân tích thích hợp và có những biện pháp xử lý các hạn
chế, thiếu sót của bảng CĐKT trong quá trình phân tích.
1.2.2. Báo cáo kết quả kinh doanh
1.3. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH BẢNG CÂN ĐỐI KẾ TOÁN VÀ
BÁO CÁO KẾT QUẢ KINH DOANH
1.3.1. Những nghiên cứu cơ bản:
Phân tích bảng CĐKT bắt đầu bằng việc hình thành mục tiêu phân tích.
Mục tiêu có thể là: để đưa ra quyết định đầu tư, xem xét khả năng thanh toán,
phân tích điểm hoà vốn,… Mục tiêu phân tích sẽ là điểm khởi đầu để lựa chọn
các công cụ phân tích và thu nhập, tích luỹ tư liệu từ các báo cáo tài chính và
các nguồn khác. Các kết quả phân tích phải được tóm tắt lại, lý giải rõ ràng và
phải rút ra được kết luận. Để làm được những điều đó, người phân tích phải :
- Được làm quen với thực tế kinh doanh.
- Hiểu được mục đích, bản chất và những hạn chế của công tác hạch
toán.
- Thông thạo với các thuật ngữ của công tác kinh doanh và công tác hạch
toán.
- Có kiến thức đầy đủ về những nguyên tắc cơ bản của tài chính.
- Được làm quen với các công cụ phân tích báo cáo tài chính.
Việc làm quen với thực tiễn kinh doanh giúp người phân tích có 1 cái
nhìn động, thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các hoạt động kinh doanh
qua đó có khả năng xem xét trong tổng thể thay vì riêng rẽ. Cạnh đó, làm
quen với thực tiễn kinh doanh giúp họ thấy được những nhân tố bên ngoài có
thể tác động đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Những tác động không
được thể hiện trên báo cáo tài chính như lạm phát, trượt giá, để điều chỉnh
thông tin kịp thời, chính xác.
1.3.2. Nội dung phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp
Nội dung của việc phân tích tình hình TCDN bao gồm :
10
10
Chuyên đề thực tập
- Phân tích tổng quát tình hình tài chính.
- Phân tích tình hình bảo đảm nguồn vốn, diễn biến nguồn vốn và sử dụng
vốn.
- Phân tích nguồn vốn lưu động và tình hình dự trữ cho sản xuất.
- Phân tích hiệu quả sử dụng vốn.
Do những hạn chế của bảng CĐKT và của các công cụ phân tích (số tỷ
lệ, so sánh) như đã trình bày ở các phần trên, nên khi phân tích tình hình tài
chính doanh nghiệp các con số tỷ lệ và các tỷ suất, chỉ số nhận được đều phải
so sánh với các doanh nghiệp khác cùng ngành và có sự điều chỉnh con số so
với sự thay đổi giá cả qua các năm.
1.3.2.1-Phân tích khái quát tình hình tài chính :
Thực chất của việc phân tích khái quát là đánh giá khái quát tình hình tài chính
của doanh nghiệp. Trong phân tích chung, trước hết phải quan sát các chỉ tiêu tổng
hợp của bảng CĐKT thông qua sự thay đổi số đầu năm và cuối kỳ của tài sản và
nguồn vốn sau đó đánh giá sự thay đổi đó là tích cực hay tiêu cực để có định
hướng đưa ra phân tích chi tiết và hoạch định những giải pháp trong quản lý và
điều hành.
Trước hết phải so sánh tổng số tài sản và tổng số nguồn vốn giữa đầu kỳ và cuối
kỳ. Sự thay đổi này cho thấy quy mô tài sản tăng hay giảm, nguồn vốn tài trợ cho
các tài sản đó được huy động như thế nào.
Tuy nhiên, việc tăng hay giảm số tổng cộng chưa thể biểu thị cho sự hoạt động
tích cực hay tiêu cực của doanh nghiệp một cách đầy đủ. Ví dụ như: Nếu số tổng
cộng tăng do dự trữ quá nhiều thì số tiền vay nợ sẽ tăng, đây là nhân tố tiêu cực.
Nhưng số tổng cộng giảm do hạ giá thành, tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu
động làm giảm nhu cầu về vốn vay thì đây là nhân tố tích cực.
Hơn nữa, tính ổn định của số tổng cộng còn chưa phản ánh được chất lượng công
tác ở doanh nghiệp và các kết quả tài chính. Bởi vì tuy số tổng cộng không đổi
nhưng kết cấu của bảng CĐKT đã có sự thay đổi theo chiều hướng phân phối và
sử dụng vốn tối ưu hơn hoặc ngược lại làm cho tình hình tài chính của doanh
nghiệp xấu đi…
Chính vì vậy, ngoài việc so sánh sự thay đổi của các số tổng cộng, ta cần tiến hành
tìm hiểu mối quan hệ và biến động của các khoản mục trong bảng CĐKT để nắm
11
11
Chuyên đề thực tập
được một cách đầy đủ thực trạng tài chính và tình hình sử dụng tài sản của doanh
nghiệp.
Mối quan hệ và biến động của các khoản mục trong bảng CĐKT:
a. Mối quan hệ cân đối giữa nguồn vốn và tài sản của bảng CĐKT:
Theo quan điểm luân chuyển vốn, tài sản của doanh nghiệp bao gồm tài sản lưu
động và tài sản cố định. Tại thời điểm thành lập doanh nghiệp, hai loại tài sản này
sẽ được tài trợ bởi nguồn chủ sở hữu. Vì vậy ta có cân đối:
B. Nguồn vốn = A.(I + II + IV + V(2,3)+VI). Tài sản + B.(I + II + III )tài sản (1).
Cân đối (1) chỉ mang tính lý thuyết, trên thực tế thường xảy ra một trong hai
trường hợp sau :
* Vế trái > vế phải: Doanh nghiệp thừa vốn và sẽ bị chiếm dụng.
* Vế trái < vế phải: Doanh nghiệp thiếu vốn để trang trải tài sản nên phải bù
đắp bằng các nguồn đi vay hoặc chiếm dụng bên ngoài.
Việc doanh nghiệp đi vay hoặc chiếm dụng vốn trong thời hạn cho phép đều hợp
pháp, trừ trường hợp vay quá hạn. Vì vậy, về mặt lý thuyết lại có quan hệ cân đối
(2):
B.Nguồn vốn+ A.[I(1)+ II ] Nguồn vốn = A.(I+II+IV+V(2,3)+VI)Tài
sản +B.(I+II+III) tài sản (2)
Cân đối (2) chỉ mang tính lý thuyết vì trên thực tế, trong quan hệ buôn bán
nhiều chiều, doanh nghiệp không thể dùng vốn vay và vốn CSH để tài trợ cho tài
sản mà không bị các đơn vị khác chiếm dụng. Thực tế chỉ xảy ra một trong hai
trường hợp:
*Vế trái > vế phải: doanh nghiệp còn thừa vốn kinh doanh và sẽ bị các đơn vị
khác chiếm dụng.
*Vế trái < vế phải: Doanh nghiệp thiếu nguồn bù đắp, phải đi chiếm dụng bên
ngoài.
Do tính chất cân đối của bảng CĐKT, cân đói (2) được viết lại như sau:
[A(I(1),II) + B] Nguồn vốn + [A(I(2,3,..,8)III)] Nguồn vốn =
= [AIII, V(1,4,5) + B.IV] Tài sản – [A.I(2,3,..,8)III] Nguồn vốn (4)
Cân đối (4) cho thấy số vốn mà doanh nghiệp bị chiếm dụng (hoặc đi
chiếm dụng) đúng bằng số chênh lệch giữa số tài sản phải thu và công nợ phải trả.
12
12
Chuyên đề thực tập
Khi cả hai vế của cân đối (4) <0 tức là công nợ phải trả của doanh nghiệp ít hơn
các tài sản phải thu ( doanh nghiệp bị chiếm dụng ). Và ngược lại, nếu cả hai vế
cân đối (4) > 0 tức là công nợ phải trả lớn hơn tài sản phải thu (doanh nghiệp đi
chiếm dụng).
b. Phân tích sự biến động của các khoản mục trong bảng CĐKT:
Để hiểu chi tiết hơn về tình hình tài chính doanh nghiệp, biết được những nguyên
nhân gây ảnh hưởng tới sự biến động của tổng tài sản và tổng nguồn vốn, ta cần đi
sâu phân tích cơ cấu tài sản, cơ cấu nguồn vốn và một số tỷ suất quan trọng.
Sự phân tích này nhằm mục đích :
- Đánh giá trình độ sử dụng tài sản của doanh nghiệp và việc bố trí cơ cấu tài sản.
Tuỳ theo đặc điểm từng lĩnh vực, ngành hoạt động sẽ cho ta thấy cơ cấu tài sản là
hợp lý hay không.
- Đánh giá sự biến động về tỷ trọng của từng loại tài sản, nguồn vốn qua thời gian
để thấy rõ tầm quan trọng của mỗi khoản mục trong tổng tài sản, nguồn vốn.
- Đánh giá và phát hiện chính sách mà doanh nghiệp đã thực hiện cũng như xu
hướng phát triển của doanh nghiệp.
Phân tích cơ cấu tài sản :
Việc phân tích cơ cấu tài sản nhằm mục đích xem xét tính chất hợp lý của việc sử
dụng vốn của doanh nghiệp như thế nào. Với số vốn đã có doanh nghiệp phân bổ
cho các loại tài sản có hợp lý không, sự thay đổi kết cấu các loại vốn có ảnh
hưởng gì đến quá trình sản xuất của doanh nghiệp?
Phương pháp phân tích là so sánh tổng số vốn giữa cuối kỳ với đầu năm;
xác định tỷ trọng từng loại tài sản ở thời kỳ đầu năm và cuối kỳ; so sánh sự thay
đổi tỷ trọng giữa cuối kỳ với đầu năm để xác định chênh lệch và tìm nguyên nhân
cụ thể. Mặt khác phải xác định được tỷ suất đầu tư và tỷ suất TSCĐ so với tài sản
cũng như tỷ suất TSCĐ so với tổng tài sản.
Căn cứ vào số liệu trên bảng CĐKT ngày cuối kỳ ta lập bảng phân tích sau :
BẢNG PHÂN TÍCH CƠ CẤU TÀI SẢN
Chỉ tiêu
Đầu năm Cuối kì Chênh lệch
Số
tiền
Tỷ
trọng
Số tiền
Tỷ
trọng
Số
tiền
Tỷ trọng
A.TSLĐ và Đầu tư ngắn hạn
13
13
Chuyên đề thực tập
1. Tiền
2. Đầu tư tài chính ngắn hạn
3. Các khoản phải thu
4. Hàng tồn kho
5. TSLĐ khác
6. Chi sự nghiệp
B.TSCĐ và đầu tư dài hạn
1.TSCĐ
2.Đầu tư tài chính dài hạn
3.Chi phí xây dựng cơ bản
Cộng
Quá trình phân tích được tiến hành trên cơ sở sự biến động của từng
loại tài sản. Riêng về đầu tư chiều sâu, đầu tư mua sắm trang thiết bị, đổi mới
quy trình công nghệ để tạo tiền đề tăng năng suất lao động thì việc phân tích
cơ cấu tài sản phải được xem xét đồng thời với các tỷ suất đầu tư cụ thể (vì
đây là đòn bẩy vận hành).
-Tỷ suất đầu tư chung phản ánh tình hình chung về đầu tư vốn cho việc
trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật mua sắm và xây dựng TSCĐ, đầu tư tài chính.
- Tỷ suất đầu tư TSCĐ phản ánh tình hình trang bị cơ sở vật chất, mua
sắm và xây dựng TSCĐ. Khi xác định chỉ tiêu này phải phân biệt giữa số đã
đầu tư và số hoàn thành để có cơ sở đánh giá đúng đắn hơn.
Trị giá hiện có của TSCĐ
Tỉ suất đầu tư TSCĐ = 100
Tổng tài sản
Tỉ suất cho biết trong một đồng tài sản có bao nhiêu phần trăm TSCĐ
- Tỷ suất đầu tư tài chính dài hạn phản ánh tình hình sử dụng vốn đầu tư
vào lĩnh vực liên doanh, mua cổ phần, cổ phiếu và kinh doanh bất động sản,
tạo ra nguồn lợi tức lâu dài cho doanh nghiệp.
Giá trị các khoản đầu tư tài chính dài
Tỷ suất đầu tư tài = 100
chính dài hạn Tổng tài sản
14
Tỉ suất
đầu tư chung = x 100%
14
Chuyên đề thực tập
Tỷ suất cho biết trong một đồng tài sản có bao nhiêu phần trăm là đầu
tư tài chính dài hạn.
* Phân tích kết cấu nguồn vốn:
Ngoài việc phân tích cơ cấu tài sản, nhà phân tích cần phải tiến hành
phân tích kết cấu nguồn vốn. Việc phân tích kết cấu nguồn vốn sẽ giúp doanh
nghiệp nắm được khả năng tự tài trợ về mặt tài chính, mức độ tự chủ, chủ
động trong sản xuất kinh doanh hoặc những khó khăn mà doanh nghiệp gặp
phải trong việc khai thác nguồn vốn.
Phương pháp phân tích cũng giống như phân tích cơ cấu tài sản nghĩa
là so sánh tổng số nguồn vốn cuối kỳ và đầu năm, xác định tỉ trọng từng
nguồn vốn cụ thể trong tổng số nguồn vốn, xác định số chênh lệch giữa cuối
kỳ với đầu năm cả về số tiền và tỉ trọng của từng nguồn, xác định tỷ suất tự
tài trợ để biết được khả năng chủ động về mặt tài chính, tỉ lệ nợ phải trả so với
tổng nguồn vốn.
Căn cứ vào số liệu trên bảng cân đối cuối kỳ, lập bảng phân tích sau:
Bảng phân tích cơ cấu nguồn vốn.
Chỉ tiêu
Số đầu năm Số cuối kỳ Chênh lệch
Số
tiền
Tỉ
trọng
Số tiền
Tỉ
trọng
Số tiền Tỉ trọng
A. Nợ phải trả
I Nợ ngắn hạn
II. Nợ dài hạn
III. Nợ khác
B. Nguồn vốn CSH
I. Nguồn vốn- quĩ
Nguồn kinh phí
Tổng
Số liệu của bảng phân tích cho thấy sự biến động của từng nguồn vốn
trong tổng số nguồn vốn của doanh nghiệp, việc tăng lên của các khoản nợ
nếu ở mức độ hợp lý chứng tỏ doanh nghiệp đã biết vận dụng “đòn bẩy tài
chính”, nhưng quá lớn lại cho thấy tình hình hoạt động không khả quan. Nhìn
chung sự tăng lên của nguồn vốn chủ sở hữu là tốt nhưng cơ cấu của các bộ
phận cấu thành nó sẽ đưa ra một cái nhìn cụ thể hơn.
15
15
Chuyên đề thực tập
Cùng với quá trình phân tích cơ cấu nguồn vốn, người ta phân tích một
số tỉ suất nhằm khẳng định mức độ độc lập tài chính của doanh nghiệp.
- Tỉ suất tự tài trợ phản ánh khả năng tự bảo đảm về mặt tài chính và tính
chủ động trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tỉ suất tự tài trợ cao thể
hiện tính chủ động trong sản xuất kinh doanh càng cao do khả năng tự bảo đảm
về mặt tài chính tốt. Tỉ suất tự tài trợ được xác định bằng công thức:
Nguồn vốn CSH
Tỉ suất tự tài trợ = 100
Tổng nguồn vốn
Theo công thức trên ta thấy được trong một đông vốn có bao nhiêu phần
trăm là vốn CSH.
Ngoài ra, người ta sử dụng tỉ suất nợ chung để đánh giá tình hình nợ
nần và năng lực đi vay của doanh nghiệp. Tỉ suất cho biết trong một phần vốn
có bao nhiêu là nợ phải trả.
Nợ phải trả
Tỉ suất nợ chung = 100
Tổng nguồn vốn
Các phân tích trên cho phép doanh nghiệp nhận biết được một cách khái
quát tình hình tài chính của mình. Tuy nhiên, để có cái nhìn cụ thể, ta cần đi sâu
vào phân tích các chỉ tiêu khác sẽ được trình bày trong các phần sau.
1.3.2.2: Phân tích tình hình bảo đảm nguồn vốn, diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn:
Để có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải
có tài sản (TSCĐ và TSLĐ). Nhu cầu tài sản là nhu cầu cốt yếu để đảm bảo
cho quá trình kinh doanh được tiến hành liên tục và có hiệu quả.
Để có đầy đủ tài sản, doanh nghiệp cần tiến hành nhiều biện pháp để
huy động và hình thành nguồn vốn. Nguồn vốn này trước hết được tài trợ bởi
người chủ sở hữu, sau đó là các nguồn vay nợ hợp pháp (cả dài hạn trung hạn
và ngắn hạn, vay hoặc chiếm dụng) và cuối cùng là các nguồn bất hợp pháp
( nợ quá hạn, chiếm dụng bất hợp pháp…)
Tiêu chuẩn để đánh giá mức độ bảo đảm nguồn vốn là các tài sản cố
định và đầu tư dài hạn phải được tài trợ bởi những nguồn vốn thường xuyên
16
16
Chuyên đề thực tập
(nguồn vốn CSH và nguồn vay nợ trung dài hạn) và các tài sản lưu động đầu
tư tài chính ngắn hạn phải được tài trợ bởi nguồn vốn tạm thời (vay ngắn hạn
và chiếm dụng, các khoản bất hợp pháp…) và một phần có thể được tài trợ
bằng nguồn vốn thường xuyên. Việc doanh nghiệp dùng một phần vốn tạm
thời để đầu tư dài hạn là bất hợp lý, doanh nghiệp cần có biện pháp huy động
thêm vốn dài hạn để tài trợ.
Để kiểm tra mức độ bảo đảm nguồn vốn cho doanh nghiệp cần lập bảng
phân tích sau:
17
17
Chuyên đề thực tập
Bảng phân tích mức độ bảo đảm nguồn vốn.
Tổng
tài sản
Tài sản
Số
tiền
Nguồn tài trợ
Số
tiền
Nguồn
tài trợ
TSCĐ
-TSCĐ hữu hình
-TSCĐ vô hình
-Đầu tư dài hạn
Tài trợ thường xuyên
Vốn CSH
Vay dài hạn, trung hạn
Nợ dài hạn trung hạn
TSLĐ
-Tiền
-Phải thu
-Đầu tư ngắn hạn
Tài trợ tạm thời
-Vay ngắn hạn
-Nợ ngắn hạn
-Chiếm dụng hợp pháp
-Chiếm dụng bất hợp pháp
Ngoài việc xem xét mức độ bảo đảm nguồn vốn, người ta còn phân tích
tình hình sử dụng vốn và các nguồn cung cấp vốn phát sinh trong kỳ để làm
rõ những trọng điểm đầu tư vốn và những nguồn vốn chủ yếu được hình
thành để tài trợ cho những đầu tư đó. Để phân tích, người ta thiết lập bảng kê
nguồn vốn và sử dụng vốn:
18
18
Chuyên đề thực tập
BẢNG KÊ NGUỒN VỐN VÀ SỬ DỤNG.
Chỉ tiêu Đầu năm Cuối kỳ Sử dụng
vốn
Nguồnvốn
Tài sản
- Tiền và các chứng khoán
dễ bán
- Các khoản phải thu
- Dự trữ
- Tài sản cố định theo giá
trị còn lại
Nguồn vốn
- Vay ngắn hạn
- Các khoản phải trả
- Các khoản phải nộp
- Vay dài hạn
- Lợi nhuận không chia
- Vốn CSH
Tổng cộng
Mỗi sự thay đổi được ghi nhận ở hai cột: Sử dụng vốn và nguồn vốn
theo nguyên tắc:
- Khi tăng tổng tài sản hoặc giảm nguồn, số chênh lệch được ghi vào cột
sử dụng vốn.
- Khi giảm tài sản hoặc tăng nguồn, số chênh lệch được ghi vào cột
nguồn vốn.
Nhìn vào bảng phân tích ta sẽ thấy doanh nghiệp khai thác nguồn vốn
bằng cách nào là chủ yếu, chiếm bao nhiêu phần trăm. Với tổng số nguồn vốn
đó, doanh nghiệp dùng để tài trợ cho các tài sản nào. Việc xem xét diễn biến
và sử dụng vốn sẽ giúp ta thấy được doanh nghiệp sử dụng vốn đã hợp lý
chưa, doanh nghiệp đã khai thác hết các nguồn vốn chưa…
19
19
Chuyên đề thực tập
Tuy nhiên trong một doanh nghiệp các hoạt động sản xuất diễn ra liên
tục dưới sự tài trợ của nguồn vốn lưu động. Vì vậy, để thấy rõ hơn tình hình
sử dụng vốn lưu động ta cần phải phân tích trong phần sau.
1.3.2.3. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
a) Phân tích nguồn vốn lưu động (NVLĐ)
Nguồn vốn lưu động là số vốn tối thiểu cần thiết đảm bảo cho doanh
nghiệp có vốn để dự trữ các loại tài sản lưu động (kể cả dự trữ trong sản xuất
và lưu thông).
Nguồn vốn lưu động dùng để dự trữ tài sản lưu động bao gồm:
- Vốn pháp định (đối với doanh nghiệp Nhà nước và nguồn vốn từ
ngân sách)
- Nguồn vốn lưu động tự bổ sung từ kết quả của quá trình kinh doanh,
từ quĩ phát triển sản xuất.
- Nguồn vốn do huy động từ liên doanh liên kết.
- Nguồn vốn tín dụng ngắn hạn.
Phân tích nguồn vốn lưu động nhằm xem xét mức độ bảo đảm vốn lưu
động so với nhu cầu của quá trình sản xuất kinh doanh và khả năng huy động
và phát triển vốn hay cấp thêm các nguồn vốn nào để dự trữ cho sản xuất kinh
doanh, việc sử dụng vốn lưu động có hợp lý, hợp pháp không.
Dựa vào bảng CĐKT và thuyết minh BCTC ta lập bảng phân tích
NVLĐ
Chỉ tiêu Đầu năm Cuối kỳ Chênh lệch
NVKD thuộc vốn lưu động Số
tiền
Tỉ
trọng
Số
tiền
Tỉ
trọng
Số tiền Tỉ
trọng
1.Nguồn vốn ngân sách cấp
2.Nguồn vốn tự bổ sung
3.Nguồn vốn liên doanh
4.Nguồn vốn cổ phần
5.Vay ngắn hạn
Tổng cộng
20
20
Chuyên đề thực tập
Để phân tích kỹ hơn về NVLĐ, ta xem xét NVLĐ thuần.
Toàn bộ tài sản doanh nghiệp đang sử dụng căn cứ vào thời gian quay
vòng được chia thành:
- TSCĐ và đầu tư dài hạn: là tài sản có thời gian hoàn vốn trên một
năm. Chúng được gọi là “ Tài sản dài hạn”
- TSLĐ và đầu tư ngắn hạn: là tài sản có thời gian quay vòng dươi một
năm:Tài sản ngắn hạn.
- Nguồn vốn chủ sở hữu, các khoản nợ dài hạn có thời gian đảo nợ
trên một năm: gọi là nguồn vốn dài hạn.
- Các khoản nợ ngắn hạn và các khoản nợ khác là các khoản nợ có
thời gian đáo hạn dưới một năm là nguồn vốn ngắn hạn.
“ Nguồn vốn dài hạn” được đầu tư hình thành “tài sản dài hạn”. Phần
dư ra (nếu còn) và “nguồn vốn ngắn hạn” được đầu tư hình thành “tài sản
ngắn hạn”. Chênh lệch giữa “nguồn vốn dài hạn” và “tài sản dài hạn” là
nguồn vốn lưu động thuần (hay NVLĐ thuần = NVLĐ - Nợ ngắn hạn)
Theo quan hệ cân đối tổng quát giữa tài sản và nguồn vốn:
Tài sản = Nguồn vốn
TSLĐ + TSCĐ = Nợ phải trả + Nguồn vốn CSH
Tài sản ngắn hạn + Tài sản dài hạn = Nguồn vốn ngắn hạn + Nguồn vốn CSH
Tài sản ngắn hạn + tài sản dài hạn = Nguồn vốn dài hạn - tài sản dài hạn
Như vậy:
Nguồn vốn lưu động thuần = Tài sản ngắn hạn – Nguồn vốn ngắn hạn
Hay NVLĐ thuần = Nguồn vốn dài hạn – Tài sản dài hạn
Trong trường hợp nguồn vốn lưu động thuần < 0 nghĩa là “ tài sản ngắn
hạn nhỏ hơn “nguồn vốn ngắn hạn” (hay nguồn vốn dài hạn < tài sản dài hạn).
Điều này cho thấy doanh nghiệp đã sử dụng một phần nguồn vốn dài hạn để
hình thành tài sản dài hạn, cán cân thanh toán sẽ mất cân bằng và dấu hiệu của
nguy cơ phá sản.
Để phân tích, ta lập bảng:
Tài sản ngắn hạn Nguồn vốn ngắn Nguồn vốn lưu
21
21
Chuyên đề thực tập
hạn động thuần
Năm N-1
Năm N
Chênh lệch
b) Phân tích tình hình dự trữ TSLĐ:
Để qúa trình sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục và hiệu quả,
doanh nghiệp phải tiến hành dự trữ. Các tài sản lưu động dự trữ gồm: nguyên
liệu, nhiên liệu, công cụ lao động, sản phẩm dở dang ( phục vụ cho quá trình
sản xuất), thành phẩm, hàng hóa (phục vụ cho quá trình lưu thông).
Dự trữ là một vấn đề tất yếu nhưng dự trữ bao nhiêu là hợp lý, không
thừa hoặc không thiếu là vấn đề phức tạp. Nếu dự trữ quá nhiều, doanh
nghiệp sẽ bị ứ đọng tài sản và vốn, tăng chi phí bảo quản, tăng lãi vay ngân
hàng, giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhưng nếu dự trữ quá ít sẽ dẫn đến
ngừng sản xuất, gây thiệt hại không nhỏ cho doanh nghiệp.
Quá trình phân tích tình hình dự trữ TSLĐ nhằm mục đích đánh giá kết
quả dự trữ và đươc tiến hành trên các mặt sau:
- Sự thay đổi về kết cấu các loại tài sản dự trữ thông qua tỉ trọng của
nó, có liên hệ với qui mô kinh doanh và chủng loại hàng hóa.
- Sự tăng, giảm từng loại tài sản dự trữ.
- So sánh với dự trữ hợp lí phù hợp với tính chất qui mô sản xuất, lưu
thông của doanh nghiệp.
Việc phân tích sẽ được tiến hành thông qua bảng sau:
BẢNG PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH DỰ TRỮ TSLĐ
Chỉ tiêu Đầu năm Cuối kỳ Chênh lệch
Số
tiền
Tỉ
trọng
Số
tiền
Tỉ
trọng
Số
tiền
Tỉ
trọng
1Hàng mua đang đi đường
2.Nguyên vật liệu tồn kho
3.Công cụ,dụng cụ trong kho
4.Chi phí sản xuất dở dang
22
22
Chuyên đề thực tập
5.Thành phẩm tồn kho
6.Hàng hoá tồn kho
7.Hàng gửi đi bán
8.Dự phòng giảm giá HTK
9.Chi phí trả trước
10.Chi phí chờ kết chuyển
Tổng cộng
c) Phân tích mức độ bảo đảm NVLĐ cho tài sản dự trữ:
Việc dự trữ là tài sản tất yếu nhưng không phải lúc nào doanh nghiệp
cũng có đủ nguồn để dự trữ. Để biết được thực trạng này, ta cần tiến hành
phân tích để qua đó có biện pháp sử dụng hợp lý nguồn vốn dư thừa hoặc tìm
kiếm nguồn bù đắp.
Mức độ bảo đảm nguồn vốn lưu động cho tài sản dự trữ được xác định
qua công thức:
Mức độ bảo đảm = Nguồn vốn lưu động – Tài sản dự trữ thực tế
Kết quả sẽ nằm trong một trong ba trường hợp sau đây.
- Mức độ bảo đảm < 0: doanh nghiệp thiếu nguồn bù đắp và phải đi
chiếm dụng để bù đắp.
- Mức độ bảo đảm = 0: Điều này không đảm bảo chắc chắn doanh
nghiệp có đủ nguồn để dự trữ tài sản. Trong thực tế, doanh nghiệp có thể vừa
đi chiếm dụng vốn và vừa bị chiếm dụng vốn với mức độ khác nhau tạo nên
sự cân bằng giả tạo.
- Mức độ bảo đảm > 0: doanh nghiệp thừa nguồn vốn bù đắp và sẽ có
xu hướng bị chiếm dụng vốn.
Việc đi chiếm dụng vốn và bị chiếm dụng vốn là một tất yếu trong kinh
doanh. Tuy nhiên, để đảm bảo “an toàn” trong kinh doanh, doanh nghiệp cần
tiếp tục xem xét khả năng thu hồi các khoản bị chiếm dụng.
1.3.2.4. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn.
23
23
Chuyên đề thực tập
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng
các nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp để đạt kết quả cao nhất trong kinh
doanh với chi phí thấp nhất.
Hiệu quả kinh doanh không những là thước đo chất lượng phản ánh
trình độ tổ chức quản trị mà còn là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Trong
điều kiện kinh tế thị trường ngày càng phát triển, doanh nghiệp muốn tồn tại,
vươn lên thì trước hết kinh doanh phải có hiệu quả. Hiệu quả càng cao, doanh
nghiệp càng có điều kiện mở rộng sản xuất, đầu tư mua sắm máy móc thiết bị,
áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật và qui trình công nghệ mới, cải thiện và
nâng cao đời sống người lao động, thực hiện tốt nghĩa vụ với ngân sách Nhà
nước.
Hiệu quả kinh doanh được đánh giá theo hai dạng: số và phân số (chênh
lệch tuyệt đối và chênh lệch tương đối) dựa trên các chỉ tiêu đánh giá tổng
hợp và chi tiết.
a) Phân tích khái quát:
Như đã đề cập ở trên, hiệu quả kinh doanh được đánh giá qua việc so
sánh giữa chi phí và kết quả và qua cả hai dạng số và phân số. Ở dạng số, hiệu
quả kinh doanh được xác định bằng hiệu số giữa kết quả trừ chi phí.
Hiệu quả kinh doanh = Kết quả đầu ra – Chi phí đầu vào
Kết quả này cho thấy doanh nghiệp đã đạt được lợi ích là bao nhiêu sau
một kỳ sản xuất. Tuy nhiên, con số đó chưa phản ánh được quá trình sản xuất
đó có thực sự đem lại hiệu quả hay không hay chỉ là một kết quả thông
thường. Vì vậy, người ta thường sử dụng phân số giữa kết quả và chi phí để
chỉ hiệu quả.:
Kết quả đầu ra
Hiệu quả kinh doanh = (*)
Chi phí đầu vào
Công thức (*) trên phản ánh sức sản xuất của các yếu tố đầu vào, được tính
cho tổng số và cho riêng phần gia tăng trong kì.
Hay:
Chi phí đầu vào
24
24
Chuyên đề thực tập
Hiệu quả kinh doanh = (**)
Kết quả đầu ra
Công thức (**) phản ánh suất hao phí của các chỉ tiêu đầu vào nghĩa là
để có một đơn vị kết quả đầu ra thì hao phí hết bao nhiêu chi phí đầu vào.
Kết quả đầu ra được đo bằng các chỉ tiêu như: giá trị tổng sản lượng, tổng
doanh thu thuần, lợi nhuận thuần, lợi tức gộp. Còn yếu tố đầu vào bao gồm:
lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động, vốn CSH, vốn vay…
Trong các chỉ tiêu đo lường kết quả kinh doanh, chỉ tiêu hiệu quả sử
dụng vốn sản xuất kinh doanh được coi là chỉ tiêu cơ bản nhất.
25
25