Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TIỂU LUẬN 9.5 ĐIỂM CUỐI KỲ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.1 KB, 17 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
MƠN: LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ

TÊN ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN
TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Người thực hiện:
MSSV:
Lớp:

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2021
1


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.............................................................................................................1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT...................................................................................2
I. Nhận định chung về nhãn hiệu nổi tiếng.........................................................................2
1. Định nghĩa.............................................................................................................2
2. Đặc điểm...............................................................................................................3
3. Vai trị..................................................................................................................3
II. Tiêu chí để một nhãn hiệu được công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng......................................4
1. Theo pháp luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam......................................................................4
1.1. Các tiêu chí xác định nhãn hiệu nổi tiếng................................................................4
1.2. Điểm bất cập.....................................................................................................5
2. Tiêu chí xác định nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật nước ngồi......................................7


2.1. Tiêu chí xác định nhãn hiệu nổi tiếng theo Pháp luật Nhật bản...................................7
2.2. Tiêu chí xác định nhãn hiệu nổi tiếng theo Pháp luật Hoa Kỳ.....................................8
III. Thực trạng áp dụng các tiêu chí để xác định nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam....................9
IV. Các giải pháp về nâng cao hiệu quả hoạt động công nhận nhãn hiệu nổi tiếng...................10
KẾT LUẬN...............................................................................................................12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................13
I. Danh mục văn bản pháp luật...................................................................................13
II. Danh mục các tài liệu tham khảo............................................................................13


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Nghĩa

SHCN

Sở hữu công nghiệp

NHNT

Nhãn hiệu nổi tiếng

SHTT

Sở hữu trí tuệ

TRIPS

Các khía cạnh của thương mại liên quan đến sở hữu trí tuệ


WIPO

Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới

WTO

Tổ chức Thương mại Thế giới


1

LỜI NĨI ĐẦU
Ngày 11/1/2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO),
sự kiện này là một dấu mốc quan trọng tạo ra nhiều tác động tích cực cho nền kinh tế Việt Nam. Ngoài
ra, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế toàn cầu từ đầu thế kỉ XX kéo theo xu thế hội nhập quốc
tế ngày càng sâu rộng trong lĩnh vực thương mại. Làm cho hàng hóa, dịch vụ ngày càng đa dạng và
phong phú tạo ra một môi trường cạnh tranh khốc liệt giữa các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường như hiện nay. Việc giao lưu thương mại, trao đổi hàng hóa giữa các nước cũng dễ dàng hơn.
Đơn cử như ở thị trường Việt Nam, ngày càng có nhiều sản phẩm hàng hóa từ nước ngồi và được ưa
chuộng như là nước giải khát CocaCola, quần Jean Levi’s,…
Bên cạnh những hoạt động kinh doanh lành mạnh, khơng trái với pháp luật thì cũng xuất hiện nhiều
hành vi sai trái trong cạnh tranh. Để có thể thu lợi một cách nhanh chóng, nhiều chủ thể kinh doanh đã
tìm mọi cách để hưởng lợi ích không chính đáng từ thành quả đầu tư, sáng tạo của người khác. Trong
lĩnh vực sở hữu trí tuệ (SHTT) có rất nhiều vi phạm khác nhau, tuy nhiên trong các đối tượng SHTT thì
nhãn hiệu là đối tượng dễ bị xâm phạm quyền nhất.
Tuy nhiên, tác giả nhận thấy, trong các loại nhãn hiệu thì nhãn hiệu nổi tiếng (NHNT) là loại nhãn
hiệu dễ bị xâm phạm nhất. Bởi vì, đó là các nhãn hiệu lâu đời, có tiếng trên thị trường, được người tiêu
dùng tin tưởng, cho nên, đối tượng vi phạm có thể dễ đạt được mục đích ban đầu về lợi ích thu được.
Nhưng để được cơng nhận là một NHNT thì Pháp luật SHTT Việt Nam cũng đã đặt ra nhiều tiêu chí

khác nhau.
Bài tiểu luận này, tác giả tập trung phân tích các tiêu chí để được cơng nhận là một NHNT theo
Pháp luật SHTT Việt Nam. Ngồi ra cịn có liên hệ đến pháp luật của một số nước về NHNT để cho
người đọc có cái nhìn rõ hơn về NHNT.


2

NỘI DUNG BÀI LÀM
I. Nhận định chung về nhãn hiệu nổi tiếng
1. Định nghĩa
Trên thế giới, NHNT đã được đề cập từ rất lâu, được điều chỉnh tại Điều 6bis của Cơng ước Paris
1883 có nội dung như sau “(ii) để được bảo hộ là NHNT theo Điều 6bis, một nhãn hiệu phải được công
nhận là nổi tiếng ở nước thành viên đó” 1. Từ đó đặt ra nguyên tắc về cơng nhận một nhãn hiệu là
NHNT thì dựa theo các tiêu chí của mỗi nước thành viên. Điều này có một số hạn chế nhất định cho
nên tại khoản 2, 3 Điều 16 của Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền SHTT
(Hiệp định TRIPS) đã khắc phục được những hạn chế này: “(ii) quy định tiêu chuẩn công nhận một
nhãn hiệu là nổi tiếng một cách mềm dẻo hơn hay nói cách khác là thừa nhận việc một nhãn hiệu có
thể được coi là nổi tiếng nếu được biết đến rộng rãi trong một bộ phận cơng chúng có liên quan tương
ứng - quy định này khiến cho các tiêu chuẩn công nhận một NHNT phù hợp hơn với thực tiễn của thị
trường và phản ánh đúng thực tiễn cuộc sống;”.
Ngoài ra, để có thể trở thành thành viên của WTO thì một trong số những điều kiện tiên quyết mà
các nước muốn gia nhập phải thực hiện đó là việc xây dựng một hệ thống Pháp luật SHTT đáp ứng đầy
đủ các tiêu chuẩn được quy định trong Hiệp định TRIPS. Vì Việt Nam là thành viên của WTO từ năm
2007 và là thành viên của Công ước Paris 1883 từ năm 1994 cho nên có trách nhiệm phải thực hiện các
cam kết về bảo hộ NHNT quy định trong các điều ước quốc tế này để đảm bảo phát triển một cách bền
vững.
Ở Việt Nam, văn bản pháp luật đầu tiên đề cập đến thuật ngữ NHNT là Nghị định số 63/CP ngày
24/10/1996 tại Điều 6.1e: “e. không trùng hoặc không tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hóa
của người khác được coi là nổi tiếng (theo Điều 6bis Cơng ước Paris) hoặc với nhãn hiệu hàng hóa

của người khác đã được sử dụng và đã được thừa nhận một cách rộng rãi”. Tuy nhiên, định nghĩa
chính thức NHNT lần đầu tiên được ghi nhận Nghị định số 06/2001/NĐ – CP ngày 01/02/2001 của
Chính phủ quy định chi tiết về NHNT: “Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được sử dụng liên tục cho
sản phẩm, dịch vụ uy tín khiến cho nhãn hiệu đó được biết đến một cách rộng rãi.” 2. Trước thời điểm
đó, khái niệm NHNT chưa từng được đề cập trong luật. Theo như khái niệm trên, một NHNT phải đáp
ứng được hai yếu tố là “được sử dụng liên tục” và “được biết đến một cách rộng rãi”. Quy định như
vậy là không rõ ràng. Thứ nhất, nếu “liên tục” dưới góc độ thời gian là liên tiếp, kế tiếp mà khơng có
sự gián đoạn thì một nhãn hiệu phải được sử dụng trong khoảng thời gian là 10 năm, 20 năm hay lâu
hơn mới được coi là “liên tục”? Thứ hai, một nhãn hiệu như thế nào thì được coi là có “uy tín” để
được biết đến “rộng rãi” . Đối với sản phẩm hàng hóa, “uy tín” được tạo nên bởi những yếu tố nào và
nếu “được biết đến rộng rãi” là nói tới số lượng người biết đến trong nước hay ngoài nước? 3 Năm
2005, Luật SHTT đã có quy định để khắc phục những thiếu sót này về NHNT. Theo khoản 20 Điều 4
Luật SHTT Việt Nam 2005, "NHNT là nhãn hiệu được nhiều người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên
toàn lãnh thổ Việt Nam”. Tùy vào mỗi căn cứ mà sẽ có các loại nhãn hiệu khác nhau, nếu căn cứ vào
danh tiếng của nhãn hiệu thì có nhãn hiệu thơng thường và NHNT. Vì bản chất của NHNT cũng là một
1

Hà Thị Nguyệt Thu, “Hoàn thiện pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”
[ (truy cập ngày 25/10/2021)
2
Hà Thị Nguyệt Thu, “Hoàn thiện pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”
[ (truy cập ngày 25/10/2021)
3
Sblaw, “Quy định pháp luật về nhãn hiệu nổi tiếng (NHNT)” [ (truy cập ngày 25/10/2021)


3

loại nhãn hiệu đặc biệt, khác biệt với nhãn hiệu thơng thường ở chỗ NHNT có các tính chất như là được
biết đến và mức độ/phạm vi được biết đến. Nếu khơng có các tính chất này thì nhãn hiệu đó cũng được

coi là nhãn hiệu thơng thường hoặc nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi (đây được xem là
một loại nhãn hiệu trung gian đứng giữa nhãn hiệu nổi tiếng và nhãn hiệu thông thường. Loại
nhãn hiệu này cũng tồn tại trong pháp luật Trung Quốc và được gọi là “mark with substantial
influence”, có thể tạm dịch là “nhãn hiệu có ảnh hưởng nhất định”) 4.
Tuy nhiên, ở vế thứ hai của định nghĩa về phạm vi được biết đến là trên toàn lãnh thổ Việt Nam,
theo tác giả quy định này đã đi xa hơn so với quy định tại khoản 2 Điều 16 Hiệp định TRIPS và khuyến
nghị của WIPO năm 1999 ở chỗ “trên tồn lãnh thổ Việt Nam”. Bởi vì, cả hai văn bản này chỉ yêu cầu
"khi đánh giá liệu một nhãn hiệu có nổi tiếng hay khơng, các nước thành viên sẽ xem xét đến sự biết
đến rộng rãi nhãn hiệu của nhóm cơng chúng tương ứng” 5. Bởi vì, “Nhóm cơng chúng tương ứng” ở
đây có nghĩa là nhóm cơng chúng nhất định mà sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ hướng tới. Cịn “trên
tồn lãnh thổ Việt Nam” thì có thể hiểu là hàng hóa hoặc dịch vụ đó phải được biết đến ở mọi nơi trên
lãnh thổ Việt Nam, nghĩa là tiêu chí này sẽ khơng được đáp ứng nếu có một hoặc vài nơi trên lãnh thổ
Việt Nam chưa biết đến hàng hóa hoặc sản phẩm đó. Hoặc tiêu chí này cịn có thể hiểu là hàng hóa
hoặc dịch vụ đó phải được mọi người dân của Việt Nam biết đến khơng phân biệt giới tính, tôn giáo,
địa vị xã hội được gọi tắt là người tiêu dùng đại chúng. Cho nên khái niệm này của Pháp luật Việt Nam
chưa hoàn toàn phù hợp với Hiệp định TRIPS và khuyến nghị của WIPO năm 1999. Ngoài ra, khi quy
định như khoản 20 Điều 4 Luật SHTT thì cũng có thể rút ra một hệ quả đó là có thể một nhãn hiệu đã
nổi tiếng trên thế giới từ lâu, tuy nhiên nếu nhãn hiệu này không được người tiêu dùng Việt Nam biết
đến, thì nhãn hiệu này cũng không được coi là nổi tiếng theo quy định của pháp luật SHTT Việt Nam.
2. Đặc điểm
Vì NHNT cũng là một loại nhãn hiệu cho nên NHNT cũng mang đầy đủ các đặc điểm của nhãn
hiệu. Tuy nhiên, NHNT cũng có những đặc điểm riêng của mình đó là:
Thứ nhất, một NHNT phải là một nhãn hiệu có tính phân biệt rất cao, thơng qua một NHNT, người
tiêu dùng có thể phân biệt ngay loại hàng hóa hoặc dịch vụ đó so với các loại hàng hóa và dịch vụ khác.
Thứ hai, NHNT thường có tính phổ biến cao, một NHNT là một nhãn hiệu được biết đến ở nhiều
khu vực địa lý khác nhau.
Thứ ba, nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng thường có giá trị kinh tế rất lớn, nó cấu thành một bộ phận tài
sản quan trọng trong khối lượng tài sản của doanh nghiệp, trong thực tế một số doanh nghiệp cịn có thể
sử dụng NHNT của mình như một loại vốn để đưa vào các hoạt động đầu tư kinh doanh.
Cuối cùng NHNT là đối tượng dễ bị xâm phạm, bởi NHNT là nhãn hiệu có tính phổ biến và giá trị

thương mại cao, tiềm tàng khả năng bị xâm phạm quyền SHTT6.
3. Vai trị
NHNT cũng chính là nhãn hiệu cho nên vai trị của NHNT cũng chính là vai trị của nhãn hiệu.
Nhãn hiệu có chức năng chủ yếu là một phương tiện phân biệt hàng hóa dịch vụ cùng loại của các cơ sở
4

Phan Ngọc Tâm, Lê Quang Vinh (2019), “Hoàn thiện khung pháp lý về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam - Một số giải pháp”,
Tạp chí Khoa học và công nghệ Việt Nam, (03), tr. 12.
5
Hà Thị Nguyệt Thu, “Hoàn thiện pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”
[ (truy cập ngày 25/10/2021)
6
Lê Thị Quỳnh, “Nhãn hiệu nổi tiếng theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ” [ (truy cập ngày 25/10/2021)


4

sản xuất, kinh doanh khác nhau. Từ chức năng chủ yếu trên, nhãn hiệu có những vai trị rất to lớn đối
với thương mại, kinh tế - xã hội như sau:
 Giúp người tiêu dùng lựa chọn một cách thuận lợi các hàng hóa, dịch vụ theo các nhu cầu
riêng của mình như chất lượng, giá cả, sở thích, thói quen…của mình.
 Thúc đẩy các cơ sở kinh doanh khơng ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, tính năng,
sự hấp dẫn…của hàng hóa, dịch vụ để nâng cao uy tín nhãn hiệu của mình, dẫn đến kích thích sự
phát triển sản xuất, kinh doanh.
 Nhãn hiệu là công cụ tiếp thị hữu hiệu, một phương tiện quảng cáo, xúc tiến thương mại
hiệu quả nhất. Mọi hoạt động tiếp thị, quảng cáo hay xúc tiến thương mại đều thực hiện chủ yếu
dựa trên nhãn hiệu và nhằm mở rộng việc kinh doanh hàng hóa mang chính nhãn hiệu đó.
 Nhãn hiệu là một trong những cơ sở để các cơ quan pháp luật phân biệt hàng thật với
hàng giả, hàng nhái nhằm xử lý kịp thời các vi phạm quyền sở hữu công nghiệp, đảm bảo cho
môi trường cạnh tranh lành mạnh và bảo vệ quyền lợi của nhà sản xuất và người tiêu dùng 7.

II. Tiêu chí để một nhãn hiệu được công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng
1. Theo pháp luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam
1.1. Các tiêu chí xác định nhãn hiệu nổi tiếng
Để được cơng nhận là NHNT, lần đầu tiên các tiêu chí đánh giá NHNT được quy định rõ ràng trong
Điều 75 của Luật SHTT, theo đó: “1. số lượng người tiêu dùng liên quan đã biết đến nhãn hiệu thông
qua việc mua bán, sử dụng hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu thơng qua quảng cáo; 2. phạm vi lãnh
thổ mà hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu đã được lưu hành; 3. doanh số từ việc bán hàng hóa hoặc
cung cấp dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc số lượng hàng hóa đã được bán ra, lượng dịch vụ đã được
cung cấp; 4. thời gian sử dụng liên tục nhãn hiệu; 5. uy tín rộng rãi của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn
hiệu; 6. số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu; 7. số lượng quốc gia công nhận nhãn hiệu là nổi tiếng; 8.
giá chuyển nhượng, giá chuyển giao quyền sử dụng, giá trị góp vốn đầu tư của nhãn hiệu.” Đó là
những tiêu chí được sử dụng khi đánh giá một nhãn hiệu có được coi là NHNT hay khơng, đây là một
bước nhảy vọt đáng chú ý trong việc quy định pháp luật về NHNT. Để đánh giá sự nổi tiếng của một
nhãn hiệu, không nhất thiết phải đánh giá tất cả các tiêu chí trên mà tuỳ từng trường hợp cụ thể.
Nếu so sánh 8 tiêu chí để được công nhận NHNT được quy định tại Điều 75 Luật SHTT với 6 yếu
tố để một nhãn hiệu có được coi là NHNT hay không theo Bản khuyến nghị của WIPO năm 1999.
Chúng ta có thể thấy rằng, về cơ bản 8 tiêu chí tại Điều 75 Luật SHTT thực chất chính là 6 yếu tố được
khuyến nghị bởi WIPO. Pháp luật Việt Nam đã đã tách một số nội dung của 6 yếu tố thành các tiêu chí
riêng, chẳng hạn như tiêu chí số 1 và 3 của Điều 75 hoàn toàn nằm trong phạm vi của yếu tố số 1 theo
Bản khuyến nghị WIPO, cụ thể “số lượng người tiêu dùng liên quan đã biết đến nhãn hiệu thơng qua
việc mua bán, sử dụng hàng hố, dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc thông qua quảng cáo” và “doanh
số từ việc bán hàng hoá hoặc cung cấp dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc số lượng hàng hoá đã được bán
ra, lượng dịch vụ đã được cung cấp” trùng với phạm vi xem xét của yếu tố số 1 “mức độ biết hoặc
công nhận nhãn hiệu bởi bộ phận công chúng có liên quan”. Các tiêu chí số 2, số 4 và số 5 là “phạm vi
7

Diệp Thị Thanh Xuân (2009), Vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật quốc tế, pháp luật một số nước trên thế giới và pháp
luật Việt Nam, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, tr. 19.



5

lãnh thổ mà hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu đã được lưu hành”, “thời gian sử dụng liên tục
nhãn hiệu” và “uy tín rộng rãi của hàng hố, dịch vụ mang nhãn hiệu” có ý nghĩa tương tự như các
yếu tố của Bản khuyến nghị WIPO quy định, yếu tố số 2“thời gian, quy mô và khu vực địa lý sử dụng
nhãn hiệu”, yếu tố số 3 “thời gian, quy mô và khu vực địa lý của bất kỳ hoạt động quảng bá nhãn
hiệu bao gồm quảng cáo hoặc quảng bá và giới thiệu tại các triển lãm, hội chợ đối với hàng hóa/dịch
vụ mang nhãn hiệu”, yếu tố số 4 “thời gian và khu vực địa lý mà nhãn hiệu đã được đăng ký và/hoặc
đã được nộp đơn đăng ký trong chừng mực mà chúng phản ánh việc sử dụng hoặc công nhận nhãn
hiệu” và yếu tố thứ 5 “hồ sơ thực thi thành công quyền độc quyền nhãn hiệu, đặc biệt là phạm vi
mà nhãn hiệu được cơng nhận là nổi tiếng bởi cơ quan có thẩm quyền”.
Mặt khác, quy định tại Điều 75 Luật SHTT là một quy định mở, dựa vào các tiêu chí này các tổ
chức, cá nhân sẽ thu thập các chứng cứ liên quan đến quá trình nhãn hiệu được sử dụng để yêu cầu các
cơ quan chức năng xem xét, đánh giá. Cũng cần phải lưu ý rằng, các tài liệu khác cũng có thể cung cấp
để yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xem xét khi đánh giá NHNT như tài liệu chứng minh việc đầu tư,
chi phí cho quảng cáo, tiếp thị cho nhãn hiệu; các vụ việc xâm phạm, tranh chấp và các quyết định,
phán quyết của tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền; số liệu khảo sát người tiêu dùng biết đến nhãn hiệu
thông qua việc mua bán, sử dụng, quảng cáo, tiếp thị; xếp hạng, đánh giá uy tín nhãn hiệu của tổ chức
quốc gia, quốc tế, phương tiện thông tin đại chúng; giải thưởng, huy chương mà nhãn hiệu đã đạt được;
kết quả giám định của tổ chức giám định... 8 Việc ghi nhận NHNT được quy định rõ trong Điểm 42.4
Thông tư 01/2007/TT-BKHCN ngày 14/2/2007, theo đó, khi NHNT được cơng nhận theo thủ tục tố
tụng dân sự hoặc theo quyết định của Cục SHTT thì NHNT đó sẽ được ghi nhận vào Danh mục NHNT
được lưu giữ tại Cục SHTT.
1.2. Điểm bất cập
Thơng qua việc xem xét các tiêu chí nêu trên, tác giả nhận thấy việc quy định 8 tiêu chí để được
công nhận là NHNT tại Điều 75 Luật SHTT có một số điểm bất cập như sau9:
Thứ nhất, sự không khớp nhau giữa định nghĩa NHNT tại Điều 4 và tiêu chí đánh giá NHNT tại
Điều 75 Luật SHTT. Cụ thể, theo quy định tại Điều 4: "NHNT là nhãn hiệu được nhiều người tiêu dùng
biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam”, tuy nhiên ở tiêu chí đánh giá NHNT tại khoản 6, khoản
7 Điều 75 thì lại có các tiêu chí như là số lượng quốc gia công nhận bảo hộ hay là số lượng quốc gia coi

nó là NHNT thì dường như những tiêu chí này là để đánh giá một nhãn hiểu có sự nổi tiếng ở phạm vi
Thế giới. Mặt khác, khi cần được chứng nhận NHNT, trong đó có tiêu chí này, thì các chủ thể kinh
doanh phải cung cấp số lượng quốc gia mà nhãn hiệu đã được đăng ký là bao nhiêu?, vấn đề về việc
quy định số lượng người tiêu dùng cũng giống như vậy.
Thứ hai, trong số các tiêu chí đánh giá NHNT được quy định tại Điều 75 thì pháp luật khơng có quy
định rõ là phải đáp ứng đầy đủ tất cả các tiêu chí này mới được công nhận là NHNT hay chỉ cần đáp
ứng một số tiêu chí trong tám tiêu chí này hay là ngồi các tiêu chí được quy định tại Điều 75 còn xem
xét đến các yếu tố khác, các tiêu chí khác nếu nó có liên quan hay khơng thì Điều 75 khơng xác định rõ
mà chỉ liệt kê ra 8 tiêu chí để được cơng nhận là NHNT chứ không quy định rõ.
Thứ ba, pháp luật cũng không nói rõ đối với NHNT phạm vi người tiêu dùng ở đây là người như thế
nào? Là người tiêu dùng gắn liền với việc sử dụng đối với nhãn hiệu đối với sản phẩm mang nhãn hiệu
8

Hà Thị Nguyệt Thu, “Hoàn thiện pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”
[ (truy cập ngày 25/10/2021)
9
Hà Thị Nguyệt Thu, “Hoàn thiện pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”
[ (truy cập ngày 25/10/2021)


6

đó hay là tất cả người tiêu dùng thuộc mọi lĩnh vực ngành nghề trên lãnh thổ Việt Nam thì pháp luật
cũng khơng nói rõ. Quy định này, vơ hình trung đã loại bỏ những nhãn hiệu của các sản phẩm đặc thù
khỏi đối tượng để được công nhận là NHNT như là các thiết bị trong lĩnh vực ngân hàng hay máy quét
kiểm tra an ninh,…
Thứ tư, việc chia nhỏ 6 yếu tố thuộc Bản khuyến nghị WIPO thành 8 tiêu chí tại Điều 75 Luật
SHTT là khơng cần thiết. Điều này dễ gây nhầm lẫn khi áp dụng pháp luật và gây khó khăn cho việc
hướng dẫn các chủ nhãn hiệu cung cấp chứng cứ 10. Ví dụ tiêu chí số 1 và 3 quy định rằng “số lượng
người tiêu dùng liên quan đã biết đến nhãn hiệu thơng qua việc mua bán, sử dụng hàng hố, dịch vụ

mang nhãn hiệu hoặc thông qua quảng cáo” và “doanh số từ việc bán hàng hoá hoặc cung cấp dịch vụ
mang nhãn hiệu hoặc số lượng hàng hoá đã được bán ra, lượng dịch vụ đã được cung cấp”, chỉ cần
gộp cả 2 tiêu chí lại chúng ta sẽ nhận được yếu tố số 1 của Bản khuyến nghị WIPO có tính chất và
u cầu tương đương “mức độ biết hoặc công nhận nhãn hiệu bởi bộ phận công chúng có liên quan”.
Cuối cùng, tại tiêu chí thứ 5 của Điều 75 Luật SHTT thì quy định chứng minh trực tiếp tiêu chí “uy
tín” trong khi Bản khuyến nghị của WIPO thì khơng hề đề cập đến. Việc quy định như vậy đã gây ra
khó khăn cho chủ nhãn hiệu. Bởi vì, chủ nhãn hiệu sẽ khơng thể cung cấp được bằng chứng nào để
giúp cơ quan hữu quan thấy ngay lập tức và trực tiếp uy tín của nhãn hiệu từ chính bằng chứng đó, kể
cả dù có thơng qua xem xét bằng chứng xác thực nhãn hiệu đang xem xét là rất uy tín, nổi tiếng bởi
các cơ quan tổ chức khác bao gồm cả báo chí. Hơn nữa, bản chất của “uy tín” vốn là vơ hình, nằm sâu
bên trong tập hợp nhiều thông tin và bằng chứng khác nhau được cung cấp, chỉ có thể cảm nhận được
hoặc đánh giá được bằng cách suy luận từ việc đánh giá tổng hợp toàn bộ các yếu tố cần phải đánh giá
chứ khơng phải là tìm cách đánh giá nó một cách trực tiếp11.
Trong Bản án số 1388/2012/KDTM-ST ngày 13/9/2012 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh giữa ngun đơn là Cơng ty Interbrand Group và bị đơn là Công Ty Cổ phần Thương Mại Quốc
tế (Interbrand JSC). Trong bản án có đoạn: “Căn cứ các tài liệu do công ty Interbrand cung cấp và cơ
sở dữ liệu hiện có, Cục SHTT trả lời q tịa như sau: 1. Nhãn hiệu Interbrand của công ty Interbrand
đã được sử dụng và được thừa nhận rộng rãi trên thế giới,… 2. Nhãn hiệu Interbrand của công ty
Interbrand đã được sử dụng và được biết đến tại Việt Nam,... 3. Kết luận: Do nhãn hiệu Interbrand của
Công ty Interbrand có số lượng người tiêu dùng và người sử dụng biết đến rộng rãi thông qua việc sử
dụng dịch vụ và phương tiện quảng cáo liên tục từ năm 1974 tại nhiều quốc gia trên thế giới, doanh số
đạt được từ dịch vụ mang nhãn hiệu cũng như tổng số giá trị của các thương hiệu được công ty
Interbrand định giá rất lớn, dịch vụ mang nhãn hiệu đã đạt được uy tín rộng rãi, đồng thời nhãn hiệu
đã được sử dụng và được biết đến tại Việt Nam thông qua các phương tiện truyền thông. Căn cứ các
quy định về NHNT tại khoản 20 Điều 4, Điều 75 Luật SHTT và khoản 2 Điều 6 Nghị định
103/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật SHTT về sở hữu công nghiệp, Cục SHTT xác nhận nhãn hiệu Interbrand của Interbrand
Group được xác định là NHNT trong lĩnh vực định giá và tư vấn xây dựng thương hiệu tại thời điểm
ngày 21/3/2006.”12
Có thể thấy, trên thực tế, Cục SHTT chỉ có thể dựa vào bằng chứng do đương sự cung cấp, thể hiện

sự hạn chế về mặt chứng cứ. Trong các phần lập luận của Cục SHTT để công nhận nhãn hiệu
Interbrand của Interbrand Group là NHNT trong lĩnh vực định giá và tư vấn xây dựng thương hiệu, vì
10

Phan Ngọc Tâm, Lê Quang Vinh, (03). tr. 11.
Phan Ngọc Tâm, Lê Quang Vinh, (03), tr. 12.
12
Đỗ Văn Đại, Nguyễn Phương Thảo (2013), “Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Pháp lý Việt Nam, (02
(75)), tr. 47-57.
11


7

chưa có một văn bản nào hướng dẫn về việc áp dụng một số hay tồn bộ tiêu chí tại Điều 75 Luật
SHTT để công nhân NHNT nên trong trường hợp này Cục SHTT đã trải dài phân tích lập luận cả 8 tiêu
chí. (i). “được sử dụng và thừa nhận rộng rãi trên thế giới” nhưng khơng nói rõ là được thừa nhận ở
nước nào? Thừa nhận ở lĩnh vực nào hay là tất cả các lĩnh vực mà cơng ty này hoạt động? số lượng các
quốc gia đó là bao nhiêu? (ii). nói chung chung là “người tiêu dùng” mà khơng nói rõ là người tiêu
dùng đối với dịch vụ nào? Có phải là người tiêu dùng liên quan hay không? (iii). “được biết đến tại
Việt Nam” mà khơng nói cụ thể là được biết đến trên tồn lãnh thổ Việt Nam hay một phần đáng kể của
lãnh thổ Việt Nam. (iv). Sử dụng thêm tiêu chí về doanh số, giá trị nhãn hiệu, có uy tín rộng rãi. Nhưng
dù đã phân tích đầy đủ cả 8 tiêu chí, xong trong các lập luận đó đều chưa thật sự thỏa đáng vì thiếu
bằng chứng cũng như vần cịn những bất cập trong các quy định pháp luật. Từ đó, làm cho bản án này
mất đi tính thuyết phục.
2. Tiêu chí xác định nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật nước ngoài
Đa số các nước trên thế giới mà là thành viên của Công ước Paris 1883 hoặc thành viên của WTO
đều quy định trong pháp luật của quốc gia mình và thực tiễn bảo hộ các NHNT, nhưng nội dung và
cách thức cơng nhận và bảo hộ có khác nhau. Định nghĩa về NHNT không đồng nhất ở các nước,
nhưng đa phần các nước áp dụng theo các tiêu chí đánh giá do WIPO đưa ra. Đa số các nước đều sử

dụng một khái niệm “nhãn hiệu nổi tiếng”, riêng Cộng đồng châu Âu sử dụng hai khái niệm “nhãn hiệu
nổi tiếng” và “nhãn hiệu rất nổi tiếng”. Cơ quan quốc gia có thẩm quyền cơng nhận NHNT thường là
cơ quan SHCN quốc gia và toà án, tại một số nước chỉ là cơ quan SHCN hoặc toà án. Nói chung, các
nước khơng lập một danh mục các NHNT của mình mà giải quyết theo từng vụ việc một trong quá
trình cấp đăng ký nhãn hiệu hoặc xét xử tranh chấp tại tồ. Chỉ có Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan là
lập danh sách NHNT, nhưng chỉ là của các doanh nghiệp trong nước, nhằm phục vụ cho mục đích xúc
tiến thương mại hoặc trao đổi thơng tin với nước khác13.
2.1. Tiêu chí xác định nhãn hiệu nổi tiếng theo Pháp luật Nhật bản
2.1.1. Khái quát
Theo quy định của pháp luật Nhật Bản về NHNT, NHNT được hiểu một cách chung chung là
NHNT đối với người tiêu dùng thơng qua việc sử dụng trên những hàng hóa hoặc dịch vụ cụ thể. Ở
Nhật Bản, người ta phân chia ra ba mức độ của một nhãn hiệu về mức độ nổi tiếng đó là nhãn hiệu
thơng thường, NHNT và nhãn hiệu rất nổi tiếng. Đặc biệt, ở Nhật Bản pháp luật điều chỉnh đối với
NHNT đó là Luật Nhãn hiệu Nhật Bản (商商商 - Japanese Trademark Law).
Trong Luật Nhãn hiệu Nhật Bản, tại Điều 4-1-10 quy định sẽ từ chối việc nộp đơn của một bên hoặc
tuyên bố việc đăng ký những nhãn hiệu trùng hoặc tương tự với NHNT cho những sản phẩm dịch vụ
trùng hoặc tương tự là vơ giá trị. Như vậy, có thể thấy phạm vi bảo hộ của Điều 4-1-10 tương tự so với
các quy định của Điều 6Bis Công ước Paris.
Thực tế ở Nhật Bản một nhãn hiệu được xem là nổi tiếng thì khơng cần thiết phải nổi tiếng đối với
người sử dụng cuối cùng mà chỉ cần các chuyên gia trong lĩnh vực đó biết đến là đủ. Và nhãn hiệu đó
cũng khơng cần thiết phải được biết đến trên phạm vi cả nước mà chỉ cần được biết đến trên một địa
phương nhất định. Như vậy, tiêu chuẩn công nhận NHNT tùy thuộc vào quy mô kinh doanh và giá trị
kinh tế của sản phẩm. Ví dụ, đối với những hàng hóa liên quan đến nhu cầu ăn, mặc, nhãn hiệu đó phải
được người tiêu dùng cuối cùng biết đến thì mới được cơng nhận là NHNT. Hay những doanh nghiệp
sản xuất sản phẩm khóa, khơng cần thiết nhãn hiệu đó phải được biết đến trên phạm vi cả nước mà có
13

Hà Trần, “Tiêu chí và bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng” [ (truy cập
ngày 25/10/2021)



8

thể chỉ được biết đến trên một địa phương nhất định vẫn được công nhận là NHNT. Tuy nhiên, đối với
sản phẩm rượu, nếu chỉ nổi tiếng trên một phạm vi như một tỉnh mà không được tỉnh khác biết đến thì
khơng được cơng nhận là NHNT14.
2.1.2. Các tiêu chí xác định nhãn hiệu nổi tiếng ở Nhật Bản
Pháp luật Nhật Bản chưa có một điều khoản nào quy định cụ thể các tiêu chí để xác định NHNT hay
nhãn hiệu rất nổi tiếng mà việc một NHNT được công nhận là dựa vào quá trình sử dụng trên thực tế
trong từng trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, cách đây một thời gian dài, Cơ quan sáng chế Nhật Bản cũng
đã đưa ra cho các thẩm định viên bản hướng dẫn về các tiêu chí cơ bản để xác định NHNT. Nội dung
của bản hướng dẫn này cũng tương tự với khuyến nghị của WIPO về xác định NHNT.
Theo đó, có năm tiêu chí để xem xét: (i) hàng hóa hoặc dịch vụ được sử dụng (mang nhãn hiệu) trên
thực tế, (ii) thời gian sử dụng nhãn hiệu, (iii) doanh số bán hàng, sản lượng… (iv) quảng cáo, (v) báo
chí, tạp chí, trang web.
Trên thực tế ở Nhật Bản, các chứng cứ chứng minh sự nổi tiếng, rất nổi tiếng của nhãn hiệu bao
gồm: (i) giấy tờ giao dịch (vận đơn, hóa đơn, sổ sách kế tốn.v.v.), (ii) các ấn phẩm (báo chí, tạp chí, tờ
rơi v.v...), (iii) xác nhận của doanh nghiệp quảng cáo, các tổ chức phát thanh truyền hình, các nhà xuất
bản, các nhà in… (iv) xác nhận của các tổ chức thương mại, (v) xác nhận của các đối tác thương mại,
(vi) Xác nhận của các cơ quan có thẩm quyền (Cơ quan sở tại, các sứ qn nước ngồi ở Nhật Bản,
phịng thương mại...), (vii) các bài báo, tạp chí, địa chỉ website, (viii) bài báo, kết quả khảo sát bằng câu
hỏi.
Ngoài ra, một số tài liệu khác cũng có thể là nguồn để chứng minh NHNT, nhãn hiệu rất nổi tiếng
như: danh mục nhãn hiệu rất nổi tiếng (FAMOUS) ở Nhật Bản; NHNT (Well-Known) ở Nhật Bản được
đưa vào cơ sở dữ liệu trong Thư viện điện tử về SHCN (IPDL), hay các tài liệu tham khảo được biên
soạn bởi: Bundesverband der Deutschen Industrie. E. V (Hiệp hội Công nghiệp Liên bang Đức), INPI
(Viện sở hữu công nghiệp quốc gia Pháp), Tổng cục công thương Trung Quốc… 15
2.2. Tiêu chí xác định nhãn hiệu nổi tiếng theo Pháp luật Hoa Kỳ
Để có thể xác định một nhãn hiệu hàng hóa có phải là NHNT hay khơng, Tịa án sẽ phải cân nhắc,
xem xét đến các yếu tố sau đây16:

 Mức độ của tính phân biệt vốn có hay được yêu cầu của nhãn hiệu;
 Khoảng thời gian và mức độ sử dụng nhãn hiệu trong mối liên hệ với hàng hóa hay dịch
vụ mà nhãn hiệu được sử dụng;
 Khoảng thời gian và quy mô của các hoạt động quảng cáo hay phổ biến nhãn hiệu;
 Phạm vi địa lý của các khu vực thương mại mà nhãn hiệu được sử dụng;
 Các kênh lưu thơng đối với hàng hóa hay dịch vụ mà qua đó nhãn hiệu được sử dụng;
 Mức độ cơng nhận nhãn hiệu trong các khu vực thương mại và các kênh lưu thơng hàng
hóa hay dịch vụ được sử dụng bởi chủ sở hữu nhãn hiệu;

14

Diệp Thị Thanh Xuân, (05), tr. 32.
Diệp Thị Thanh Xuân, (05), tr. 39.
16
Diệp Thị Thanh Xuân, (05), tr. 53-54.
15


9

 Bản chất và mức độ của việc sử dụng nhãn hiệu hàng hóa giống hay tương tự của bên thứ
ba;
 Nhãn hiệu đã được đăng ký theo Đạo luật ngày 03/03/1881 hoặc Đạo luật ngày
20/02/1905, hoặc đăng ký nguyên tắc hay chưa.
Có thể thấy rằng các tiêu chí làm cơ sở cho Tòa Án xem xét một NHNT ở Hoa Kỳ khá rõ ràng và cụ
thể. So với Nhật Bản và Liên Minh Châu Âu, các tiêu chí này có phần chặt chẽ hơn, nó bổ sung thêm
tiêu chí các kênh lưu thơng đối với hàng hóa dịch vụ mà qua đó nhãn hiệu được sử dụng. Và đặc biệt là
tiêu chí bản chất và mức độ của việc sử dụng NHHH giống hay tương tự của bên thứ ba. Sở dĩ có tiêu
chí này bởi lẽ một nhãn hiệu càng nổi tiếng bao nhiêu thì càng có nhiều khả năng bị lợi dụng để làm
giả, bắt chước .

III. Thực trạng áp dụng các tiêu chí để xác định nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam
Xuất phát từ bất cập là sự không khớp nhau giữa định nghĩa NHNT tại Điều 4 và tiêu chí đánh giá
NHNT tại Điều 75 Luật SHTT “số lượng quốc gia công nhận nhãn hiệu nổi tiếng”. Xuất hiện vấn đề là
liệu cách áp dụng có mâu thuẫn nhau, và có khó khăn gì cho các cơ quan có thẩm quyền khi áp dụng
theo các quy định như trên?
Thứ nhất, trên thực tế chúng ta đang thừa nhận nhãn hiệu “được coi là nổi tiếng” hoặc “được sử
dụng rộng rãi”, trong khi hoàn toàn khơng có một căn cứ cụ thể để xác định đo lường về nó theo các
tiêu chí đặt ra. Thơng qua hai vụ việc17:
 Vụ nhãn hiệu mì “Miliket” (Việt Nam) năm 1998: rõ ràng với việc coi nhãn hiệu mì
Miliket “được coi là nổi tiếng” thực tế chúng ta đang thừa nhận những nhãn hiệu có uy tín và độ
nổi tiếng nhất định với người tiêu dùng, nhưng không đáp ứng hết các tiêu chí như quy định của
Điều 75 Luật SHTT. Và nhãn hiệu “được coi là nổi tiếng” vẫn được bảo hộ tại Việt Nam. Tuy
vậy thuật ngữ này chưa được đề cập trong các văn bản pháp lý, và cũng chưa có một hoặc những
tiêu chí cụ thể nào để đo lường một nhãn hiệu “được coi là nổi tiếng” tại Việt Nam.
 Trường hợp nhãn hiệu SH sử dụng cho sản phẩm xe máy và phụ tùng xe máy. Có rất
nhiều đơn đăng ký nhãn hiệu của các chủ thể kinh doanh khác nhau có sử dụng thành phần chữ
“SH”, nhưng đã bị Cục SHTT từ chối bảo hộ vì tương tự với nhãn hiệu xe SH “được coi là nổi
tiếng” hoặc “được coi là đã sử dụng rộng rãi” của Công ty Honda. Thế nhưng khi chính Cơng ty
Honda đăng ký bảo hộ nhãn hiệu này thì lại bị từ chối với những nhãn hiệu đã đăng ký trước đó.
Thứ hai, mặc dù khơng có bằng chứng để xác định các nhãn hiệu trên, nhưng cơ quan có thẩm
quyền vẫn thừa nhận và bảo hộ gián tiếp cho các nhãn hiệu này. Điều này chỉ có thể lý giải bởi thiếu
những quy định về luật và các quy định hướng dẫn trong áp dụng luật nên dẫn đến những cách hiểu và
cách áp dụng luật khác nhau. Thông qua vụ việc của McDonald’s năm 1992. Năm 1992, Cục SHTT từ
chối cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu cho nhãn hiệu "McDolnald’s” cho một cơng ty của Úc.
Vào thời điểm đó, Cục SHTT có đủ thông tin để khẳng định "McDolnald’s” là NHNT trên thế giới cho
các sản phẩm đồ ăn nhanh và dịch vụ cung cấp đồ ăn nhanh dưới tên của McDolnald’s Corporation
(Mỹ), cho dù công ty này chưa hề đăng ký hoặc sử dụng nhãn hiệu McDolnald’s tại Việt Nam và hành
17

Trần Thị Thanh Huyền, “Tiêu chí xác định nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật Việt Nam” [ (truy cập ngày 25/10/2021)



10

động của cơng ty Úc trong tình huống này bị coi là đã lợi dụng danh tiếng của McDolnald 18. Tuy nhiên,
thực tiễn pháp lý phù hợp với thông lệ quốc tế này lại chưa được đưa vào Luật SHTT khi vẫn quy định
tại khoản 20 Điều 4 rằng, NHNT phải được người tiêu dùng trên toàn lãnh thổ Việt Nam biết đến.
Cuối cùng, trong một số Chương trình truyền thơng phổ biến như:“Chương trình tư vấn và bình
chọn nhãn hiệu cạnh tranh – nổi tiếng Việt Nam” do Hội Sở hữu trí tuệ Việt Nam tổ chức lần đầu tiên
vào năm 2006; Chương trình Khảo sát “thương hiệu – nhãn hiệu nổi tiếng năm 2013”. Chương trình do
Tạp chí Sở hữu Trí tuệ và Sáng tạo (Cơ quan Trung ương Hội Sở hữu trí tuệ Việt Nam) phối hợp với
Liên hiệp Doanh nhân Việt Nam, Vnpaco Media tổ chức… Đã xuất hiện một khái niệm gọi là “nhãn
hiệu nổi tiếng Việt Nam” và được thừa nhận trên thực tế dù cho khái niệm này chưa được ghi nhận
trong bất kỳ văn bản luật nào19.
Tuy nhiên, trong suốt 16 năm qua, kể từ khi Luật Sở hữu trí tuệ ra đời, Bộ Khoa học và Công nghệ
công bố 6 nhãn hiệu nổi tiếng Việt Nam gồm: Vinamilk, IKEA, Vinacafe, Nike, Petrolimex, Phạm và
Liên Danh20. Một số doanh nghiệp lớn tại Việt Nam cũng gặp khơng ít khó khăn trong việc được công
nhận nhãn hiệu nổi tiếng dù thực tế họ đã rất nổi tiếng với người tiêu dùng 21. Trên thực tế, dường như
khơng phải Cục Sở hữu trí tuệ - cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước cấp, mà các “Bằng chứng nhận”
này là do một tổ chức khác tại Việt Nam cấp. Vì khơng được sự thừa nhận của pháp luật, nên các “Bằng
chứng nhận” này sẽ khơng được pháp luật bảo hộ. Mặt khác, có thể gây nhầm lẫn cho tồn xã hội, hay
thậm chí có thể gây khó khăn cho các cơ quan thực thi quyền lực Nhà nước sau này. Đòi hỏi chúng ta
phải sớm có những biện pháp quản lý chặt chẽ để tránh tình trạng như trên.
IV. Các giải pháp về nâng cao hiệu quả hoạt động công nhận nhãn hiệu nổi tiếng
Thứ nhất, sửa đổi khoản 20 Điều 4 Luật SHTT về định nghĩa NHNT để phù hợp với khoản 3 Điều
16 Hiệp định TRIPS, theo đó, “NHNT là nhãn hiệu được nhiều người biết đến, thoả mãn các tiêu chí
được quy định tại Điều 75 Luật này”. Việc chỉnh sửa như vậy vừa đảm bảo tính thống nhất của pháp
luật, vừa phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Thứ hai, sắp xếp lại các tiêu chí của Điều 75 của Luật SHTT theo một trật tự hợp lý. Quy định rõ là
tiêu chí nào bắt buộc phải có, tiêu chí nào khơng bắt buộc phải có hay là buộc phải đáp ứng tồn bộ các

tiêu chí đó. Dẫn tới việc pháp luật cũng cần sắp xếp, thay đổi, bổ sung các yếu tố xác định NHNT theo
quy định tại Mục 5, Điều 42 về “ghi nhận nhãn hiệu nổi tiếng” của Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN
ngày 14/02/2007 hướng dẫn Nghị định số 103/2006/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Sở hữu trí tuệ. Sự
sắp xếp các yếu tố này theo hướng phải phù hợp, logic với trật tự sắp xếp theo Điều 75 của Luật Sở hữu
trí tuệ.
Thứ ba, pháp luật cần làm rõ nội dung từng tiêu chí và xây dựng nguyên tắc áp dụng của từng tiêu
chí xác định NHNT, xem xét nó trong mối liên hệ tổng thể với hệ thống các tiêu chí xác định NHNT.
Như là làm rõ phạm vi người tiêu dùng đối với NHNT tại tiêu chí 1, làm rõ số lượng quốc gia tại tiêu
chí số 6 và 7.
18

Hà Thị Nguyệt Thu, “Hoàn thiện pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”
[ (truy cập ngày 25/10/2021)
19
Trần Thị Thanh Huyền, “Tiêu chí xác định nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật Việt Nam” [ (truy cập ngày 25/10/2021)
20
Nguyễn Thanh Hà, “Công bố 6 nhãn hiệu nổi tiếng Việt Nam” [ (truy cập ngày 29/10/2021)
21
Hoài Thu, “Thực tế Việt Nam chưa có nhãn hiệu được cơng nhận nổi tiếng” [ (truy cập ngày 25/10/2021)


11

Thứ tư, cần phải xây dựng điều kiện cần thiết để tiến tới việc thiết lập Danh mục NHNT. Bằng việc
quy định chi tiết về cách thức công nhận một nhãn hiệu là NHNT bằng thủ tục hành chính và tư pháp.
Xây dựng Danh mục NHNT trên cơ sở tập hợp các trường hợp đã xử lý liên quan đến NHNT trong giai
đoạn xác lập quyền, thực thi quyền (các quyết định gián tiếp công nhận một nhãn hiệu là nổi tiếng).
Hoạt động này đảm bảo thực hiện quy định tại Điểm 42.4 Thông tư 01/2007/TT-BKHCN ngày
14/2/2007 được sửa đổi lần cuối bằng Thông tư 05/2013/TT-BKHCN ngày 20/2/2013 của Bộ Khoa học
và Công nghệ. Danh mục NHNT sẽ hỗ trợ hiệu quả chủ nhãn hiệu chứng minh quyền đối với NHNT,

cơ quan xác lập quyền có căn cứ ngăn chặn việc đăng ký xác lập quyền đối với các dấu hiệu xâm phạm
quyền của NHNT, các cơ quan thực thi có căn cứ để xử lý xâm phạm quyền đối với NHNT... 22
Thứ năm, nên quy định thành 6 yếu tố như Bản khuyến nghị WIPO hoặc điều chỉnh lại cho phù hợp
bằng cách loại bỏ việc phải chứng minh trực tiếp tiêu chí “uy tín”. Ưu tiên hàng đầu của việc chuyển từ
pháp luật quốc tế thành pháp luật quốc gia đó là phải phù hợp với nội dung của pháp luật quốc tế đó.
Cuối cùng, cần nâng cao năng lực của cán bộ có thẩm quyền cơng nhận NHNT dựa vào các tiêu chí
đã được sửa đổi và giải thích cụ thể.

KẾT LUẬN

22

Hà Thị Nguyệt Thu, “Hồn thiện pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”
[ (truy cập ngày 25/10/2021)


12

Nhìn chung, những quy định về xác định, cơng nhận NHNT của Việt Nam là tương đối đầy đủ và
phù hợp với các vấn đề liên quan đến yêu cầu của một nhãn hiệu để được công nhận là NHNT của thế
giới. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về xác định, cơng nhận NHNT của chúng ta cịn thiếu những quy
định, hướng dẫn cụ thể về nội dung cũng như cách thức áp dụng trong việc xác định các tiêu chí của
NHNT. Cơ chế thực thi việc xác định và công nhận NHNT của Việt Nam hoạt động chưa đồng bộ,
thống nhất, chuyên nghiệp…
Do vậy, việc tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện hệ thống pháp luật về xác định, công nhận NHNT là
rất cần thiết trong bối cảnh nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ, sự hội nhập quốc tế sâu rộng về
kinh tế như hiện nay.
Qua việc tìm hiểu, phân tích, đánh giá các tiêu chí để được công nhận là NHNT trong pháp luật
SHTT Việt Nam và có sự đề cập đến quy định của Nhật Bản, Hoa Kỳ về vấn đề này. Cũng như việc đưa
ra một số giải pháp chủ yếu để hoàn thiện hệ thống các tiêu chí cơng nhận NHNT của pháp luật Việt

Nam. Từ đó, tác giả hy vọng người đọc có thể hiểu hơn về những mặt tích cực cũng như những bất cập
trong quy định của Pháp luật SHTT Việt Nam về tiêu chí để cơng nhận một nhãn hiệu là NHNT.
Vì đây là một bài viết ở phạm vi là một bài Tiểu luận, và có sự gấp rút về mặt thời gian cũng như có
sự giới hạn tài liệu do nhiều yếu tố khách quan. Tuy nhiên, tác giả đã cố gắng hết sức để có thể mang
lại một bài viết tốt nhất đến với người đọc. Xin chân thành cảm ơn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


13

I. Danh mục văn bản pháp luật
1. Công ước Paris 1883.
2. Bản khuyến nghị của WIPO năm 1999.
3. Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền SHTT (Hiệp định
TRIPS).
4. Quốc hội (2005), Luật Sở hữu trí tuệ, Hà Nội.
5. Luật Nhãn hiệu Nhật Bản (商商商 - Japanese Trademark Law)
6. Chính phủ (2001), Nghị định 06/2001/NĐ – CP ngày 01/02/2001 sửa đổi Nghị định
63/CP ngày 24/10/1996.
7. Bộ Khoa học và Công nghệ (2007), Thông tư 01/2007/TT-BKHCN ngày 14/2/2007.
8. Bộ Khoa học và Công nghệ (2013), Thông tư 05/2013/TT-BKHCN ngày 20/2/2013.
II. Danh mục các tài liệu tham khảo
1. Diệp Thị Thanh Xuân (2009), Vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật quốc tế,
pháp luật một số nước trên thế giới và pháp luật Việt Nam, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội.
2. Đỗ Văn Đại, Nguyễn Phương Thảo (2013), “Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam”,
Tạp chí Khoa học Pháp lý Việt Nam, (02 (75)).
3. Investone-law, “Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng tại Mỹ” [ (truy cập ngày 25/10/2021)
4. Hà Thị Nguyệt Thu, “Hoàn thiện pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” [ (truy cập ngày 25/10/2021)

5. Hà Trần, “Tiêu chí và bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng” [ (truy cập ngày 25/10/2021)
6. Hoài Thu, “Thực tế Việt Nam chưa có nhãn hiệu được cơng nhận nổi tiếng”
[ />(truy cập ngày 25/10/2021)
7. Lê Thị Quỳnh, “Nhãn hiệu nổi tiếng theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ”
[ (truy cập ngày 25/10/2021)
8. Phan Ngọc Tâm, Lê Quang Vinh (2019), “Hoàn thiện khung pháp lý về bảo hộ nhãn hiệu
nổi tiếng ở Việt Nam - Một số giải pháp”, Tạp chí Khoa học và cơng nghệ Việt Nam, (03).
9. Sblaw, “Quy định pháp luật về nhãn hiệu nổi tiếng (NHNT)” [ (truy cập ngày 25/10/2021)
10. Trần Thị Thanh Huyền, “Tiêu chí xác định nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật Việt Nam”
[ />(truy cập ngày 25/10/2021)



×