Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

TIỂU LUẬN Đề tài: Cảm nhận về tư tưởng Hồ Chí Minh.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.89 KB, 21 trang )

Mục Lục
I.

Nguyễn Tất Thành ở thời điểm anh chấp nhận làm nghề quét tuyết,đốt
lò…
ở Anh để kiếm sống. ..............................................................................................
4
1. Suy nghĩ của Nguyễn Tất Thành ở thời điểm anh chấp nhận làm nghề
quét tuyết,đốt lò… ở Anh để kiếm sống. ..........................................................
4
2.

Từ hình ảnh Nguyễn Tất Thành phục vụ khách sạn ở Anh hãy viết về suy
nghĩ của anh về công việc, mục tiêu mà anh đang theo đuổi ở thời điểm
đó. 4

3.

Liên hệ bản thân đối với bác và đất nước. ................................................ 5

II. Sự kiện Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp, đọc Luận cương
dân tộc của Lê nin trên tờ báo Nhân Đạo của Đảng Xã hội Pháp. .......................
6 1.

Từ sự kiện Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp, đọc

Luận cương dân tộc của Lê nin trên tờ báo Nhân Đạo của Đảng Xã hội
Pháp. ........ 6 2. Liên hệ bản thân thông qua sự kiện đó của
Bác ....................................... 8
III. Sự kiện Nguyễn Tất Thành viết và gửi bản Yêu sách của nhân dân An
Nam gửi đến hội nghị các cường quốc đế quốc đang họp ở Véc Xay, nước Pháp,


, từ sự kiện các đại biểu của cường quốc đế quốc trong hội nghị không quan tâm
đến bản Yêu sách. ..................................................................................................
9
1.

IV.

Hãy viết về suy nghĩ của của Nguyễn Tất Thành ở thời điểm đó về công
việc, về mục tiêu mà anh đang theo
đuổi. ......................................................... 9

(1)Hãy viết về những suy nghĩ của Nguyễn Tất Thành ở thời điểm anh
quyết định đi sang Phương tây tìm con đường cứu nước và thời điểm anh
bước
chân xuống con tàu của người Pháp tại Bến Nhà Rồng. .....................................
15


V.

(2)Hãy viết về những suy nghĩ của Nguyễn Tất Thành ở thời điểm anh
quyết định đi sang Phương tây tìm con đường cứu nước và thời điểm anh
bước
chân xuống con tàu của người Pháp tại Bến Nhà Rồng. .....................................
17
1.

Hãy viết về những suy nghĩ của Nguyễn Tất Thành ở thời điểm đó. .... 17

2.


Liên hệ bản thân ..................................................................................... 20

I.

Nguyễn Tất Thành ở thời điểm anh chấp nhận làm nghề quét tuyết,đốt
lò… ở Anh để kiếm sống.
1. Suy nghĩ của Nguyễn Tất Thành ở thời điểm anh chấp nhận làm nghề quét
tuyết,đốt lò… ở Anh để kiếm sống.
Hướng tới mục tiêu độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào, Người đã
trải qua bao khó khăn, thử thách với khoảng gần 20 nghề khác nhau để kiếm
sống như: quét tuyết, đốt lị, in phóng ảnh, phụ bếp,… Sau mỗi giờ làm việc vất
vả, Người vẫn dành thời gian tự học, tự trau dồi tri thức và ngoại ngữ. Khó
khăn gian khổ không làm Nguyễn Tất Thành chùn bước, trái lại, càng tơi luyện,
hun đúc thêm lịng u nước kiên định mục tiêu giải phóng dân tộc. Đồng thời,
hành trình khảo sát thế giới đã giúp Người hiểu rõ cội nguồn những khổ đau
của nhân dân lao động chính là ở sự áp, bức bóc lột của chủ nghĩa đế quốc và
hình thành nên ý thức giai cấp. Sau này, Người rút ra kết luận: “Dù màu da có
khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống
người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một tình hữu ái là thật mà thơi: tình hữu ái vơ
sản”.

2. Từ hình ảnh Nguyễn Tất Thành phục vụ khách sạn ở Anh hãy viết về suy
nghĩ của anh về công việc, mục tiêu mà anh đang theo đuổi ở thời điểm đó.


Tại nước Anh (năm 1913), Nguyễn Tất Thành làm phụ bếp ở khách sạn
Drayton Court, làm dọn dẹp và rửa bát đĩa ở khách sạn Carlton trước khi được
đầu bếp huyền thoại người Pháp Escosffier chuyển Người lên khu vực làm bánh
và “truyền nghề” cho để anh có số lương cao hơn và có thì giờ hơn để học tiếng

Anh. Mùa đông giá rét, mỗi buổi sáng trước khi đi làm, Người đều để một viên
gạch vào bếp lò Đến chiều, anh lại lấy viên gạch ra, bọc trong những tờ báo cũ
rồi để trên giường cho đỡ rét. Ăn uống thiếu thốn cùng với lao động và hoạt
động vất vả, sức khoẻ của Nguyễn Tất Thành giảm sút, nhưng nhờ vào ý chí
nghị lực rèn luyện Người đã vượt qua những khó khăn về sức khoẻ để tiếp tục
tham gia vào những hoạt động chính trị. Những thử thách đó càng tiếp thêm
cho anh nghị lực, ý chí và sức mạnh để cổ vũ anh vượt qua, kiên định lập
trường của mình là tìm con đường cứu nước cho nhân dân Việt Nam.
Có thể nói, ý chí và nghị lực là tố chất rất quan trọng đối với mỗi một
con người, giúp con người xác định mục đích và đưa ra những quyết định cho
hướng hoạt động của mình và giúp con người vượt qua những khó khăn, thử
thách nhằm đạt được mục đích. Ở Nguyễn Tất Thành ý chí và nghị lực mang
tính nhân văn sâu sắc và được thể hiện ở một tầm cao mới, định hướng cho lý
tưởng, cho mục đích cao cả trọn cuộc đời của anh: “nước ta được hoàn toàn
độc lập, dân ta được hồn tồn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai
cũng được học hành”, không chỉ giúp anh vượt qua tất cả những khó khăn gian
khổ trong khi còn làm phục vụ cho khách sạn mà cịn giúp anh trong hành trình
suốt 30 năm bơn ba tìm đường cứu nước.
3. Liên hệ bản thân đối với bác và đất nước. Chúng tôi đã đi không tiếc đời
mình Tuổi hai mươi làm sao khơng tiếc?
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì cịn chi Tổ Quốc?
Bất cứ thời đại nào, mỗi con người chúng ta nhất là thế hệ thanh niên cũng ln
phải ý thức vai trị trách nhiệm của mình đối với đất nước. Trước tiên chúng ta
phải xác định tư tưởng, tình cảm, lí tưởng sống của mình: yêu quê hương đất
nước, sống và học tập theo tư tưởng của Hồ Chủ Tịch vĩ đại, tự hào tự tơn dân
tộc, có ý thức bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của dân tộc; lao động, học tập để
khẳng định bản lĩnh, tài năng cá nhân và phục vụ cống hiến cho đất nước, sẵn


sàng có mặt khi Tổ Quốc cần. Thời đại ngày nay, xu thế toàn cầu là xu thế hội

nhập, khoa học kĩ thuật phát triển với tốc độ cao, vậy thế chúng ta cần phải học
tập tích lũy tri thức để góp phần phát triển đất nước theo kịp thời đại, hội nhập
với xu thế phát triển chung của quốc tế. Bên cạnh đó, phải rèn luyện sức khỏe
để có khả năng cống hiến và bảo vệ đất nước. Đồng thời chúng ta cũng cần
quan tâm theo dõi đến tình hình chung của đất nước, tỉnh táo trước hành động
của mình khơng bị kẻ xấu lợi dụng. Về vấn đề chủ quyền biển đảo, chúng ta cần
hưởng ứng và tích cực các diễn đàn hợp pháp trên các phương tiện thông tin đại
chúng, trên Internet, khẳng định chủ quyền biển đảo của Việt Nam trên các diễn
đàn, đồng thời kịch liệt lên án và đấu tranh tham gia ngăn chặn các hành vi vi
phạm xâm phạm chủ quyền biển, hải đảo thiêng liêng của Tổ Quốc, phải ln
có “trái tim nóng, cái đầu lạnh”.

II.

Sự kiện Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp, đọc Luận cương
dân tộc của Lê nin trên tờ báo Nhân Đạo của Đảng Xã hội Pháp.

1. Từ sự kiện Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp, đọc Luận cương
dân tộc của Lê nin trên tờ báo Nhân Đạo của Đảng Xã hội Pháp.
Hành trang lớn nhất Người mang theo là lòng yêu nước, thương dân sâu sắc và
đôi bàn tay lao động với quyết tâm tìm ra chân lý để trở về cứu dân, cứu nước khỏi
kiếp đọa đày, nô lệ. Tuy nhiên, với vốn tri thức phong phú và những kinh nghiệm
quý báu có được trong gần 10 năm bơn ba, hịa mình vào cuộc sống của các tầng
lớp nhân dân lao động ở khoảng 30 quốc gia trên thế giới; cộng với tư duy sắc sảo,
nhãn quan chính trị nhạy bén, Người đã bắt gặp và đến được với Chủ nghĩa
MácLênin, Chủ nghĩa Cộng sản và trở thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Đây là bước ngoặt chính trị vĩ đại đánh dấu sự chuyển biến căn bản trong nhận
thức của Nguyễn Ái Quốc về con đường cứu nước, vạch ra hướng đi đúng đắn cho
cách mạng Việt Nam-đó là: cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng
vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Trước Nguyễn Tất Thành đã có những người Việt Nam xuất dương cứu nước.
Chỗ khác nhau cơ bản không phải ở hành động xuất dương, mà trước hết ở mục
đích của nó. Những chuyến đi của Tơn Thất Thuyết, của những nhân vật trong


phong trào Đơng Du chủ yếu để tìm ngoại viện. Nguyễn Tất Thành xác định mục
tiêu xuất dương hoàn toàn khác: “Tơi muốn đi ra nước ngồi xem nước Pháp và các
nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”.
Rõ ràng, trước lúc ra đi, Người đã nhận thức một cách rõ ràng, cái mà dân tộc cần
trước tiên chưa phải là súng đạn, của cải mà là cách đuổi giặc cứu nước, là làm
cách mạng, hay nói cách khác là lý luận cách mạng và phương pháp cách mạng.
Với những chuyến đi, những cuộc khảo nghiệm trong 10 năm ròng (19111920), bàn chân của Người đã từng in dấu trên 3 đại dương, 4 châu lục (Âu, Á, Phi,
Mỹ) và khoảng 3 chục quốc gia. Đặc biệt, Người đã dừng chân khảo sát khá lâu ở 3
đế quốc lớn nhất thời đó là Mỹ, Anh và Pháp. Đâu đâu Người cũng chịu đựng mọi
gian khổ, hịa mình vào cuộc sống của những người lao động, sẵn sàng làm mọi
nghề như nấu bếp, làm vườn, vẽ thuê... không chỉ để kiếm sống mà là để trải
nghiệm, thấu hiểu hơn về cuộc sống của người dân lao động trên khắp thế giới. Từ
đó, chủ nghĩa yêu nước ở Người có những chuyển biến mới. Sự đồng cảm với đồng
bào mình đã được nâng lên thành đồng cảm với nhân dân lao động các dân tộc
cùng cảnh ngộ. Và cũng qua đó, sự nhận biết diện mạo của kẻ thù trở nên sâu sắc
hơn, khái quát hơn không chỉ đối với thực dân Pháp mà cả chủ nghĩa thực dân, chủ
nghĩa đế quốc nói chung. Trên cơ sở đó, Người rút ra một kết luận có tính chất nền
tảng đầu tiên: Ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu những
người lao động cũng bị bóc lột, áp bức nặng nề và “dù màu da có khác nhau, trên
đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”.
Những nhận biết căn bản đó càng giục giã Người quyết tâm tìm con đường giải
phóng dân tộc mà Người đã ấp ủ từ ngày rời Tổ quốc.
Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, Chiến tranh thế giới lần thứ Nhất kết
thúc. Thành phố Paris hoa lệ sống trong bầu khơng khí sơi động với những cuộc
đấu tranh của giai cấp công nhân Pháp và sự chuyển mình của những người cánh tả

trong Đảng Xã hội Pháp theo đường lối Quốc tế Cộng sản của V.I.Lênin. Nguyễn
Tất Thành vừa bước đến Paris đã lao ngay vào hoạt động chính trị. Người cùng với
Phan Văn Trường, Phan Chu Trinh-những người đã trao đổi thư từ khi còn ở nước
Anh lập ra Hội những người Việt Nam yêu nước, nhằm đưa phong trào yêu nước
của Việt kiều ở Pháp đi theo một hướng tích cực.


Đầu năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Ngày 18-6-1919, lấy tên
Nguyễn Ái Quốc, thay mặt Hội những người yêu nước Việt Nam ở Pháp, Người
đã gửi tới hội nghị Véc-xây bản Yêu sách của nhân dân Việt Nam địi chính phủ
Pháp phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt
Nam. Cùng ngày, bản yêu sách đó xuất hiện trên tờ báo Nhân đạo-Cơ quan ngôn
luận của Đảng Xã hội Pháp, dưới nhan đề: Quyền của các dân tộc. Bản Yêu sách
còn được Nguyễn Ái Quốc dịch ra chữ Hán và chuyển thành một bài diễn ca tiếng
quốc ngữ. Nó được in dưới dạng truyền đơn gửi tới các tòa báo, phân phát trong
các mít tinh, cuộc họp ở nhiều tỉnh nước Pháp và bí mật gửi về Việt Nam qua con
đường thủy thủ và khách về nước.
Với bản yêu sách đó, Nguyễn Ái Quốc đã gây tiếng vang lớn ở Pháp mà còn dội
mạnh về nước, tạo nên bước chuyển mới trong phong trào giải phóng dân tộc. Thực
dân Pháp đã đi từ kinh ngạc đến lồng lộn hò hét, cuối cùng ra lệnh điều tra tung
tích Nguyễn Ái Quốc và lập cơ quan chuyên trách theo dõi những hoạt động cách
mạng của Nguyễn Ái Quốc và Việt kiều yêu nước để áp dụng những biện pháp
ngăn chặn.
Báo L’Humanité (Nhân đạo) số ra ngày 16 và 17-7-1920 đã đăng toàn văn Sơ
thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin
dưới tiêu đề chạy suốt trang đầu. Bản Luận cương đã ngay lập tức thu hút sự chú ý
đặc biệt của Nguyễn Ái Quốc. Người đã đọc đi, đọc lại nhiều lần và qua lăng kính
chủ nghĩa yêu nước chân chính Người tìm thấy ở đó con đường đi đúng đắn giải
phóng dân tộc và đất nước khỏi ách thực dân. Từ đó, Người hồn tồn tin theo
Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba.

Đại hội lần thứ Nhất các dân tộc phương Đông nhằm phổ cập các nghị quyết của
Đại hội II Quốc tế Cộng sản và tư tưởng đoàn kết phương Tây vô sản và phương
Đông bị áp bức vào tháng 8 và tháng 9-1920. Tư tưởng đó được thể hiện rõ trong
khẩu hiệu lần đầu tiên trong Đại hội: Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp
bức đoàn kết lại. Biên bản của Đại hội đã thu hút sự chú ý của tất cả những ai quan
tâm đến phương Đơng, trong đó có Nguyễn Ái Quốc. Có thể nói, sau Luận cương,
những sự kiện chính trị trên đã góp phần củng cố thêm niềm tin vững chắc vào
Lênin, vào Quốc tế Cộng sản, củng cố thêm lập trường chính trị của Nguyễn


Ái Quốc.

2. Liên hệ bản thân thông qua sự kiện đó của Bác
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự tiếp thu, chọn lọc những giá trị tư tưởng nhân bản,
nhân văn của dân tộc và thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự thể hiện lịng u
nước, thương nịi, đức bao dung, sống hiến dâng cho Tổ quốc và đồng bào. Tư
tưởng Hồ Chí Minh là tầm trí tuệ cao xa; nhận thức đúng trong thực tại, tính tốn
đúng cho tương lai; đặt lợi ích dân tộc và lợi ích nhân dân lên trên hết, nhưng
khơng bó hẹp trong chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Tư tưởng Hồ Chí Minh được tốt
lên từ lời nói, cử chỉ, hành động, lối sống, đạo đức cách mạng, luôn thống nhất ở
“cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư”.
Truyền thống dân tộc, tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại cùng cuộc đời cách
mạng đã đưa Nguyễn Ái Quốc đến trực tiếp với chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng mà Hồ Chí Minh để
lại cho mn đời sau là kho báu tư tưởng vô giá của Người.
Hiện nay, trên mạng xã hội thường xuyên xuất hiện những luận điệu xuyên tạc,
bóp méo lịch sử, núp bóng chiêu bài dân chủ, nhân quyền, sắc tộc, tơn giáo, hịng
hạ bệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; như trước đây từng có những
trào lưu tư tưởng phi Mácxít, xét lại. Kẻ thù của cách mạng nước ta lúc này, ngoài
các thế lực phản động, các phần tử cơ hội chính trị, cịn có một bộ phận những

người đứng trong hàng ngũ của Đảng, song lại suy thoái tư tưởng chính trị, xuống
cấp đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Với tư cách là một thanh niên em ý thức rằng nghĩa vụ của mình ngày nay ln
phải chứng tỏ rằng mình là một con người của đất nước và phải có trách nhiệm gìn
giữ những di sản tinh thần của bác để lại. Từ sự kiện trên em lại càng nhận ra rằng
giới trẻ hiện nay muốn đất nước đi lên và giàu mạnh về mọi mặt, chúng ta phải học
tập tấm gương như bác khi xưa dám đứng lên cho những điều bất công và sai trái
của xã hội do hững thành phần tiêu cực gây ra để từ đó ln giữ được một hình
ảnh Đất Nước tươi đệp và bình yên cho nhân dân và cho những thế hệ kế tiếp. Vì
“Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan
điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” cũng chính là sự tiếp tục cụ thể hóa Di


chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tình hình mới, yêu cầu mới của cách mạng
Việt Nam. Đưa Nghị quyết này vào cuộc sống là nhiệm vụ quan trọng thường
xun của cả hệ thống chính trị và tồn xã hội. Vì cịn nền tảng tư tưởng của Đảng
thì chắc chắn còn Đảng, còn chế độ.

III.

Sự kiện Nguyễn Tất Thành viết và gửi bản Yêu sách của nhân dân An Nam
gửi đến hội nghị các cường quốc đế quốc đang họp ở Véc Xay, nước Pháp, ,
từ sự kiện các đại biểu của cường quốc đế quốc trong hội nghị không quan
tâm đến bản Yêu sách.

1. Hãy viết về suy nghĩ của của Nguyễn Tất Thành ở thời điểm đó về công
việc, về mục tiêu mà anh đang theo đuổi.
“Nếu Lê-nin là niềm tự hào của nước Nga, Fidel Castro là vì sao của nhân dân
Cuba, thì Bác Hồ chính là người anh hùng vĩ đại trong lòng người dân Việt
Nam.” Người là Cha, là Bác, là Anh.

Quả tim lớn lọc trăm dịng máu nhỏ
(Tố Hữu)
Hồ Chí Minh vị lãnh tụ kính yêu, người cha già kính yêu của dân tộc suốt cả một
đời hiến dâng máu xương, tâm hồn cống hiến cho nhân dân, cho dân tộc, cho Tổ
quốc thân yêu. Với trí tuệ kiệt xuất, Bác đã: Hai tay xây dựng một cơ đồ. Đó là sự
nghiệp cách mạng vẻ vang, ghi dấu son trong lịch sử dựng nước và giữ nước của
dân tộc. Vì yêu nước, thương dân cơ cực, lầm than trong vịng nơ lệ của thực dân,
phong kiến nên Bác đã rời Tổ quốc, ra đi tìm đường cứu nước. Tìm hiểu về hành
trình tìm đường cứu nước của Người tôi càng than phục hơn, biết ơn sâu sắc hơn vì
sự hy sinh của Bác để tơi và mọi người có thể sống trong thời bình như hơm nay.
Trong hành trình gian nan và vơ tận, con người ln tìm kiếm những hình mẫu có
thật trong cuộc sống để tôn vinh và noi theo với mong muốn trở nên hồn thiện
hơn. Một trong những hình mẫu lý tưởng ấy là Bác Hồ kính yêu của chúng ta. Bác
là vị lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, là người anh hùng giải phóng dân tộc,
và đồng thời là một danh nhân văn hóa thế giới. Trước Bác, cũng có rất nhiều
người đi khắp thế giới, nhưng là đi thám hiểm, đi buôn. Nhưng người đi khắp thế
giới để cứu dân tộc mình thì chỉ có một. Đó chính là Bác Hồ kính u của chúng ta.


Đi đến đâu, Bác cũng để lại biểu tượng đẹp về lịng u nước. Bác khơng tiếc cống
hiến trọn tuổi thanh xn vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bác đã mang lại cuộc
sống ấm no hằng mơ ước cho nhân dân Việt Nam. Tất cả những gì Bác đã làm, từ
bé nhỏ đến lớn lao, đều xuất phát từ lịng u nước chân thành và mãnh liệt. Chính
lịng u nước ấy đã tạo nên Bác Hồ, người anh hùng dân tộc của chúng ta ngày
hôm nay.
Với tinh thần yêu nước nồng nàn, thương dân sâu sắc, sự nhạy bén về chính trị,
Người đã bắt đầu suy nghĩ về những nguyên nhân thành bại của các phong trào yêu
nước lúc bấy giờ và quyết tâm ra đi tìm con đường để cứu dân, cứu nước. Năm
1911 là sự kiện trọng đại, Người đi ra nước ngoài, suốt 30 năm hoạt động, Người
đã lênh đênh trên biển nhiều năm, đến nước Pháp và nhiều nước châu Âu, châu Á,

châu Phi, châu Mỹ. Người hịa mình với những phong trào của cơng nhân và nhân
dân các dân tộc thuộc địa, vừa lao động kiếm sống, làm đủ mọi loại công việc: cào
tuyết, làm vườn, vét bùn, đánh máy, phụ bếp,..., vừa học tập, hoạt động cách mạng
và nghiên cứu con đường giải phóng dân tộc. Người đã đi qua 28 quốc gia trên thế
giới trong vòng 30 năm chỉ với hai bàn tay trắng, trải qua rất nhiều công việc từ lao
động chân tay nặng nhọc như cào tuyết, phụ bếp, làm vườn, vét bùn, làm cơng ở
cảng đến những nghề trí óc như viết báo, rửa ảnh,..., không biết bao nhiêu lần bị
giam giữ trong ngục tù ở Trung Quốc. Phải trải qua vô vàn những tháng ngày cực
khổ nhưng ngời thanh niên ấy chỉ mong một điều duy nhất vô cùng cao cả đó là
làm sao cho nhân dân được tự do, hành phúc, bình yên và khát khao tìm ra con
đường đúng đắn giải phóng dân tộc khỏi lầm than. Và đặc biệt chính là sự kiện bác
đã thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pari (Pháp) gửi bản Yêu sách
của nhân dân An Nam đến Hội nghị Vécxây. Mặc dù không được chấp nhận, nhưng
bản Yêu sách như một ''quả bom'' đã làm chấn động dư luận nước Pháp. Đây là lần
đầu tiên trong lịch sử, những người đến từ một nước thuộc địa ngang nhiên đứng ra
địi quyền lợi chính đáng cho dân tộc mình ngay tại “chính quốc”.
Tám điểm của bản u sách tựu trung là các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân
Việt Nam, gồm “quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”,
quyền tự quyết của quốc gia, dân tộc, quyền được hưởng tự do và độc lập. Vượt
qua nhiều chông gai, thách thức qua các chặng đường lịch sử, dưới sự lãnh đạo của


Đảng Cộng sản Việt Nam, những quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam đã
từng bước được hiện thực hóa, và hiện nay đang hướng tới mục tiêu xây dựng một
xã hội XHCN dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Bản yêu sách” nổi tiếng của người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc gửi
Hội nghị Versaillé năm 1919 đó, bao gồm 8 điểm là:
1) Ân xá tồn thể chính trị phạm Việt Nam.
2) Cải cách nền pháp lý Đông Dương, cho người Việt Nam cũng được bảo đảm về
mặt pháp lý như người Âu, bỏ hẳn Tịa án đặc biệt, cơng cụ để khủng bố những

người Việt Nam lương thiện nhất.
3) Tự do báo chí và tự do tư tưởng.
4) Tự do lập hội và tự do hội họp.
5) Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do ra nước ngoài.
6) Tự do học tập và mở các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp cho người bản xứ ở
khắp các tỉnh.
7) 7Thay thế chế độ sắc lệnh bằng chế độ luật pháp.
8) Phải có đại biểu thường trực người Việt Nam do người bản xứ bầu ra, ở bên
cạnh Nghị viện Pháp để trình bày nguyện vọng của người bản xứ”.
Sau “Bản yêu sách 8 điểm” gửi Hội nghị Versailles, lần đầu tiên dư luận ở Pháp, và ở
Việt Nam biết đến cái tên Nguyễn Ái Quốc, một thanh niên Việt Nam trẻ tuổi đấu
tranh cho độc lập, tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam.

Và cũng từ đó, mật thám Pháp bắt đầu để ý, theo dõi chặt chẽ mọi hoạt động
của ông Nguyễn Ái Quốc. Bởi vì, với Nhà nước thực dân độc tài, phản dân chủ, thì
mọi tiếng nói địi tự do, dân chủ cho người dân Việt Nam đều bị coi là nguy hiểm cho
Nhà nước thực dân.
Nhưng tất cả những u sách ơn hịa đó của Nhóm người Việt Nam yêu nước
của ông Nguyễn Ái Quốc đều không được Chính phủ Pháp, cũng như các nước trong
Hội nghị Versailles quan tâm, để ý. Từ đó, ơng Nguyễn Ái Quốc rút ra kết luận quan


trọng rằng không thể trông cậy vào các nước khác, “muốn được giải phóng, các dân
tộc chỉ có thể trơng cậy vào mình, trơng cậy vào lực lượng của bản thân mình”.
Sau đó 1 năm (vào ngày 16 và 17-7-1920) Nguyễn Ái Quốc đã tiếp cận và phát
hiện chân lý thời đại trong Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa của Lênin (đăng trong 2 số liền nhau trên Báo “Nhân đạo” của Pháp).
Bước ngoặt then chốt trong tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc đã ở độ chín
muồi. Người khẳng định: “Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải
phóng chúng ta”. Người tin tưởng rằng, chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất là

chủ nghĩa Lênin. Bác từng nói : “Hơm trước cháu phác thảo ra 7 điều yêu sách đưa
hai bác xem, nhưng đêm hôm qua cháu mới nảy thêm một ý. Cháu thấy rằng ở Đông
Dương, bọn quan lại chỉ dựa vào các sắc lệnh của tên toàn quyền để cai trị dân ta mà
khơng hề có luật. Cháu muốn đưa thêm một điều yêu sách nữa: “Thay thế chế độ sắc
lệnh bằng chế độ luật pháp”. Từ việc bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” không
được Hội nghị Véc-xai (1919) chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc rút ra kết luận: “muốn giải
phóng các dân tộc thuộc địa chỉ có thể trơng cậy vào lực lượng của bản thân
mình”.Nếu đặt vào bối cảnh những năm 20 của thế kỷ XX, khi mà quốc tế cộng sản
đang phải tự mình khẳng định tính cách mạng, tính khoa học giữa mn màu tư tưởng
phi Mác xít, thì mới thấy rõ cách mạng Việt Nam vơ cùng may mắn vì đã có được
Nguyễn Ái Quốc tiên phong lựa chọn đúng, trúng chân lý thời đại. Những ngày này,
khi cả nước ta bắt đầu triển khai chuyên đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh tồn khóa Đại hội XIII của Đảng với chủ đề “Học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” thì việc tìm hiểu bản “Yêu sách của
nhân dân An Nam” cho thấy tầm nhìn vượt thời gian và nhân cách cao đẹp của Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Đó là con đường cách mạng vơ sản, đảng vơ sản chân chính lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, hành động vì mục tiêu tối thượng: Độc lập
cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Đó là giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh xun
suốt tiến trình cách mạng ở nước ta trong những năm qua cũng như cho tương lai, nuôi
dưỡng khát vọng trường tồn, cường thịnh dân tộc như lúc sinh thời Bác Hồ kính yêu
hằng mong muốn.


Cuộc hành trình cứu Nước của Bác vẫn nối tiếp với rất nhiều công việc và tại
nhiều quốc gia khác nhau, qua đó ta thấy được tình u nước của Bác là khơng thể
đong đếm và khó có từ nào để em có thể diễn tả được ngồi từ vĩ đại. Em là thế hệ sau
này được lớn lên trong nền hịa bình mà Bác dày cơng tạo nên được từ những sự hi
sinh của Bác và đồng bào ta nên em cảm thấy trách nhiệm của bản thân là học tập và
tiếp thu những kiến thức mới của thời đại, trau dồi bản thân để góp sức của mình cho

xã hội, cho Đất Nước. và luôn học theo 5 điều Bác dạy. Mỗi người khi học tập, lao
động, tạo lập cho mình một cuộc sống tốt đẹp cũng chính là góp phần phục vụ cống
hiến cho chính tổ quốc.. Có thể nói, ý chí và nghị lực là tố chất rất quan trọng đối với
mỗi một con người, giúp con người xác định mục đích và đưa ra những quyết định cho
hướng hoạt động của mình và giúp con người vượt qua những khó khăn, thử thách
nhằm đạt được mục đích bởi :
“Khơng có việc gì khó
Chỉ sợ lịng khơng bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên”.
Thực hiện tốt “cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư” theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh, có tinh thần hợp tác, giúp đỡ đồng chí, đồng nghiệp. Thực hành tiết kiệm,
đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu...tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa
cá nhân, lối sống thực dụng, nói khơng đi đơi với làm. Ngay cả lời nói giao tiếp, ứng
xử hàng ngày chúng ta hãy nói những lời hay ý đẹp, không văng tục chửi thề, khơng
cầu kì, lai căng, lạm dụng ngơn ngữ nước ngồi. Điều tiếp theo chúng ta cần học tập ở
Bác tinh thần tự học, tự tìm tịi nghiên cứu sáng tạo. Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh
đã từng nói: "Đường đời là một chiếc thang khơng có nấc chót, học tập là một quyển
vở khơng có trang cuối cùng. Bác học bằng cách viết lên bàn tay, học dưới ánh trăng,
dưới ánh đèn vàng vọt của con tàu. Bác học ở mọi lúc, mọi nơi, những lúc có thì giờ
rảnh rỗi, và cũng chính nhờ tự học Người đã tìm ra con đường cứu nước đưa dân tộc
Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ của thực dân đế quốc. Bác dạy “Nếu khơng chịu khó
học thì khơng tiến bộ được. khơng tiến bộ là thối bộ. Xã hội ngày càng đi tới, cơng
việc ngày càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình mà khơng chịu học thì lạc hậu,
mà lạc hậu là bị đào thải, tự mình đào thải mình”.


Thấm nhuần lời dạy đó em ln tâm niệm mình phải chăm chỉ, chịu khó, cố
gắng trong học tập, rèn luyện. Ngồi kiến thức được tiếp nhận từ thầy cơ, sách vở, em
sẽ chịu khó đọc sách tham khảo, các tài liệu, xem tin tức thời sự. Em sẽ còn học từ bạn

bè, những người xung quanh để hoàn thiện bản thân góp 1 phần mình xây dựng đất
nước ngày giàu đẹp hơn "sánh vai với các cường quốc năm châu". Nhưng thật đáng
tiếc vẫn cịn những bạn đồn viên khơng chịu khó học hành, lười suy nghĩ, ỉ lại vào
người khác, trơng chờ vào sự may rủi, phung phí tiền bạc vào những thói vơ bổ, chạy
theo những trào lưu phản cảm. Xây dựng tình thương yêu, sống cuộc sống chan hòa
với mọi người, để gây dựng lên một cuộc sống tốt đẹp, và đầy sự đoàn kết. Đất nước ta
ngày càng phát triển, cuộc sống của nhân dân ta ngày càng ấm no, vui tươi, hạnh phúc,
chúng ta càng khắc sâu trong tim lịng biết ơn vơ hạn đối với những hy sinh gian khổ
mà Bác đã trải qua trong hơn 30 năm bơn ba tìm đường cứu nước. Càng được học,
càng tìm hiểu về Bác Hồ, em thấy càng tự hào vì nước Việt Nam của chúng ta nhỏ bé
nhưng lại sinh ra những danh nhân không hề bé nhỏ. Điều đó khơi dậy trong em mong
muốn học tập, phấn đấu tu dưỡng và rèn luyện để trở thành con người có ích cho xã
hội. Mỗi chúng ta khi sinh ra được sống trong nền hịa bình đã là một sự may mắn,
chính vì vậy chúng ta cần phải cống hiến nhiều hơn để phát triển nước nhà vững mạnh,
có thể chống lại mọi kẻ thù. Mỗi người khi học tập, lao động, tạo lập cho mình một
cuộc sống tốt đẹp cũng chính là cống hiến cho tổ quốc. Bên cạnh đó, mỗi chúng ta cần
phải yêu thương, giúp đỡ đồng bào, đoàn kết với mọi người vì điều đó khơng chỉ giúp
cho chúng ta được u thương, trân trọng mà còn thể hiện sức mạnh đại đoàn kết dân
tộc.

IV.

(1)Hãy viết về những suy nghĩ của Nguyễn Tất Thành ở thời điểm anh
quyết định đi sang Phương tây tìm con đường cứu nước và thời điểm anh
bước chân xuống con tàu của người Pháp tại Bến Nhà Rờng. Ở Nguyễn Tất
Thành, ý chí và nghị lực được hình thành, phát triển trong mơi trường sống và điều
kiện, hoàn cảnh lịch sử của đất nước, từ những tố chất cá nhân của Người và thừa
hưởng từ cha mẹ, gia đình, quê hương. Người sinh ra và lớn lên khi đất nước bị
thực dân Pháp xâm lược, nhân dân bị lầm than đói khổ. Quê hương Người là Nghệ



An, vùng đất địa linh nhân kiệt, giàu truyền thống yêu nước với những tên tuổi lớn
như: Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, Phan Đình Phùng, Phan Bội
Châu… Người xuất thân trong một gia đình nhà Nho nền nếp, mang những nét đặc
trưng của xã hội Việt Nam thời phong kiến. Cha của Người là ông Nguyễn Sinh
Sắc đã đỗ Phó bảng trong kỳ thi Hội năm 1901 nhưng nhiều năm liền trì hỗn việc
làm quan bởi với ơng: “Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ” (nghĩa là:
Làm quan là nô lệ trong đám nô lệ, lại càng nô lệ hơn). Mẹ của Người là bà Hoàng
Thị Loan, một người phụ nữ Việt Nam điển hình, làm nghề nơng và dệt vải, tần tảo
ni chồng con ăn học. Được nuôi dưỡng bởi những truyền thống tốt đẹp của quê
hương xứ Nghệ; của ý chí học tập và sự kiên nhẫn của người cha, của tâm hồn và
tình cảm của người mẹ hiền, Nguyễn Tất Thành và anh chị em của mình ngay từ
khi cịn nhỏ tuổi đã biết nói những điều hay, làm những việc tốt, giàu lòng vị tha,
nhân ái, chan hòa trong nghĩa cử đồng bào.
Bản thân Người, ngay từ thuở nhỏ đã có tố chất thơng minh, ham học hỏi và thích
khám phá những điều mới lạ. Được cha gửi đến học chữ Hán với các thầy giáo có
tư tưởng yêu nước tiến bộ, Nguyễn Tất Thành dần hiểu được thời cuộc và sự day
dứt, bế tắc của các bậc cha chú trước cảnh nước mất nhà tan. Lớn lên, càng tiếp cận
với nền văn minh Pháp qua sách vở học ở nhà trường, Nguyễn Tất Thành càng
muốn tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của Tây Âu. Những điều thầy dạy ở trường
khác xa với cuộc sống, với thân phận của người dân mà Người phải chứng kiến
hằng ngày. Rồi thực tiễn thất bại của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX đã
đặt ra nhiều câu hỏi và tác động đến chí hướng của Nguyễn Tất Thành, để rồi
Người tự xác định mục đích cho hành động và định hướng hoạt động của mình:
Rời Tổ quốc, sang phương Tây tìm đường cứu nước, cứu dân. Như chính Người đã
xác nhận trong cuộc trả lời phỏng vấn nhà báo Nga Osip Mandelstam năm 1923:
“Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình
đẳng, Bác ái. Đối với chúng tơi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người
Pháp đã nói thế. Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp,
muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy… Tơi quyết định tìm cách đi ra

nước ngoài”(1).


Ý chí và nghị lực của Nguyễn Tất Thành cịn thể hiện sâu sắc ở sự khắc phục
những khó khăn, gian khổ, khơng chỉ vượt qua khó khăn, gian khổ mà còn vượt
qua cả những cám dỗ để vững vàng, kiên định với lý tưởng, mục đích của mình.
Sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, những năm cịn nhỏ Nguyễn Tất Thành
đã trải qua cuộc sống khó khăn, thiếu thốn. Và nỗi đau mất mát lớn nhất đầu tiên
tác động đến tình cảm, ý chí và nghị lực trong cuộc đời Nguyễn Tất Thành là vào
năm 1900. Mới 11 tuổi Người đã mất mẹ và em trai nhỏ, phải thay cha, thay anh
chị, nhờ sự giúp đỡ của bà con hàng xóm ở Huế để lo tang cho mẹ. Hồn cảnh khó
khăn cùng với nỗi đau và sự mất mát đã tiếp thêm cho Nguyễn Tất Thành ý chí và
nghị lực để vượt qua những thử thách, gian khổ trong cuộc hành trình tìm đường
cứu nước của Người sau này.
Thời điểm đầu thế kỷ XX, với Nguyễn Tất Thành và phần đông người Việt Nam
lúc bấy giờ, thế giới Đơng - Tây vẫn cịn khép kín, tách biệt. Con đường đi sang
phương Tây của tầng lớp lao động chỉ rộng mở hơn nếu họ có quan hệ với ngành
hàng hải, thương mại. Nghĩ đến cuộc hành trình lênh đênh trên biển hàng vạn dặm,
không phải Nguyễn Tất Thành khơng có băn khoăn. Người nói về quyết định của
mình, bày tỏ những băn khoăn của mình với một người bạn, “đi một mình, thật ra
cũng có điều mạo hiểm, ví như khi đau ốm…”, đồng thời bày tỏ nguyện vọng
khuyên người bạn cùng đi. Và khi người bạn không dám mạo hiểm ra đi, Người đã
quyết tâm ra đi bằng đơi bàn tay trắng, với ý chí “sẽ làm bất cứ việc gì để sống và
để đi”.
Cả cuộc hành trình 30 năm tiếp theo đó, Nguyễn Tất Thành phải đối mặt và vượt
qua mn vàn khó khăn thử thách. Những ngày khó khăn, cực nhọc đầu tiên đó là
những ngày Người làm phụ bếp trên tàu Latouche Tréville: Mỗi ngày phải làm từ
bốn giờ sáng, quét dọn sạch sẽ nhà bếp lớn trên tàu, tối đốt lửa trong các lò, đi
khuân than, xuống hầm lấy rau, thịt cá, nước đá... Cơng việc khá nặng nhọc vì dưới
bếp rất nóng và trong hầm rất rét, nhất là khi vừa phải vác một bao nặng vừa leo

lên những bậc thang trong khi tàu trịng trành, thậm chí có lần st chết đuối vì
biển nổi sóng to... Nhiều lúc tưởng chừng như Người không vượt qua nổi thử thách


đầu tiên. Nhưng ý chí và nghị lực kiên cường, càng gian khổ, khó khăn sức chịu
đựng của Người ngày càng rắn rỏi. Công việc quen dần, nỗi vất vả như lùi lại phía
sau mỗi hải lý con tàu vượt qua. Những năm tháng đặt chân đến Anh, Pháp, Mỹ,
Nguyễn Tất Thành tiếp tục trải qua những tháng ngày lao động gian khổ với nhiều
nghề vất vả khó khăn để kiếm sống và ni chí lớn tìm con đường cứu nước.

Là một thanh niên của thời đại mới là một sinh viên của trường đại học Văn Hiến
em rất biết ơn và tự hào và cảm ơn trường đã cho em cơ hội được học và biết thêm
nhiều hơn vè bác Hồ kính u qua mơn học “ Tư tưởng Hồ Chí Minh “do thầy Tạ
Trần Trọng đã giảng dạy chúng em bộ môn này em hứa sẽ cố gắng phấn đấu cho
tương lai bản thân và cho đức nước để xứng đáng với tư tưởng của vị lãnh tụ Vĩ đại
Hồ Chí Minh.

V.

(2)Hãy viết về những suy nghĩ của Nguyễn Tất Thành ở thời điểm anh
quyết định đi sang Phương tây tìm con đường cứu nước và thời điểm anh
bước chân xuống con tàu của người Pháp tại Bến Nhà Rồng.
1. Hãy viết về những suy nghĩ của Nguyễn Tất Thành ở thời điểm đó.
Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành sinh ra và lớn lên khi đất nước đã đắm
chìm trong đêm trường nơ lệ. Chịu ảnh hưởng sâu sắc từ mảnh đất giàu truyền
thống của người dân xứ Nghệ, lịng u nước, ý chí ham học hỏi, ham hiểu biết của
người cha; lòng yêu thương con trẻ, sự chịu thương, chịu khó của người mẹ; tinh
thần vượt khó và vươn lên, cần cù trong lao động, cố kết trong tình làng nghĩa xóm
của q hương, đất nước, v.v.. đã là chiếc nôi tốt, sớm nuôi dưỡng trong Nguyễn
Tất Thành tình yêu nước, thương dân với một thiên hướng đặc biệt đến mẫn cảm.

Những năm tháng đó, khơng chỉ sống ở xứ Nghệ, Nguyễn Tất Thành còn được
sống ở kinh thành Huế. Người không chỉ được học chữ Hán, bước đầu làm quen
với thời đại qua những sách “Tân thư”, “Tân văn” bằng tiếng Hán; được nghe các
thầy giảng giải về nền dân chủ và văn minh phương Tây mà khi theo học lớp dự bị
(préparatoire) ở Trường tiểu học Pháp - bản xứ ở thành phố Vinh trước đó, lần đầu
tiên Nguyễn Tất Thành đã được tiếp xúc với khẩu hiệu Tự do - Bình đẳng - Bác ái


nổi tiếng của cách mạng tư sản Pháp 1789. Sau này, Người kể lại với nhà văn Liên
Xơ Ơxíp Manđenxtam rằng: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tơi được nghe
ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cùng
là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với
nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy”.
Trong bối cảnh sớm bị mất mẹ và người em ruột khi mới hơn 10 tuổi đầu,
Nguyễn Tất Thành không chỉ chịu ảnh hưởng bởi các phong trào đấu tranh yêu
nước của nhân dân ta (cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo,
cuộc khởi nghĩa nơng dân do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo, mang “nặng cốt cách
phong kiến” dù cốt cách đó có chiều dày hàng ngàn năm; phong trào Đông Du của
Phan Bội Châu, phong trào Duy Tân của Phan Chu Trinh… theo lập trường dân
chủ tư sản Việt Nam - một nước thuộc địa nửa phong kiến và tính khơng triệt để
của nó) liên tiếp nổ ra và thất bại mà Người còn suy tư, “sớm hiểu biết và rất đau
xót trước cảnh thống khổ của đồng bào”.
Nhờ ảnh hưởng của những thầy giáo tân học và được tiếp xúc với báo chí tiến
bộ, ý muốn đi sang phương Tây để tìm hiểu tình hình các nước và học hỏi thành
tựu văn minh nhân loại đã từng bước lớn dần lên trong tâm trí của Nguyễn Tất
Thành. Trăn trở về con đường cứu nước, lại được cộng hưởng bởi bầu khơng khí
u nước, cảnh thực dân Pháp chém giết người yêu nước, đàn áp các cuộc khởi
nghĩa của nhân dân ta trong bể máu và những bất công diễn ra thường ngày…
Nguyễn Tất Thành dường như đã hiểu được những hạn chế của các vị tiền bối
trong việc không nhận thức đúng, đầy đủ những yêu cầu cấp bách của lịch sử đất

nước; chưa tìm ra được một con đường đi đúng để các phong trào đấu tranh yêu
nước giành được thắng lợi; đồng thời cũng không thể quy tụ sức mạnh của quần
chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng. Trong khi đó, giai
cấp phong kiến với hệ tư tưởng phong kiến đã hết vai trò lịch sử, còn giai cấp tư
sản với hệ tư tưởng tư sản cũng khơng đủ năng lực để tập hợp tồn thể dân tộc
trong cuộc đấu tranh chống lại ách áp bức của chủ nghĩa thực dân; đồng thời, cũng
không thể gắn phong trào yêu nước của dân tộc với cuộc đấu tranh của các dân tộc
khác cũng bị áp bức, bóc lột, nơ dịch vì mục tiêu độc lập, tự do, hạnh phúc.


Dấu ấn quê hương và gia đình, sự tác động về nhiều mặt đã ảnh hưởng mạnh
mẽ đến Nguyễn Tất Thành. Vì vậy, dù rất khâm phục lịng u nước của các bậc
tiền nhân, nhưng khác họ, qua những kiến thức mới mẻ tiếp thu được từ Tân thư, từ
những năm tháng học tập, sinh sống ở Huế, và bằng nội lực bẩm sinh, Nguyễn Tất
Thành hiểu rằng một thời đại mới, đòi hỏi một con đường đi mới, một phương thức
đấu tranh mới, khác hẳn con đường cách mạng cải lương từng diễn ra, đó là làm
cách mạng. Đây là một suy nghĩ đúng đắn, hợp quy luật và thời đại.
Thực tế, sự hiểu biết, chí hướng yêu nước, hành động tham gia cuộc biểu tình
chống thuế của nơng dân Trung Kỳ năm 1908 chính là cơ sở, là tiền đề chuẩn bị
cho quyết định của Nguyễn Tất Thành sau này. Đầy nhiệt huyết và mang trong lịng
hồi bão giành lại “độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng bào tôi”, người thanh
niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết định rời nhà trường, rời Tổ quốc ra đi
tìm đường cứu nước. Và khác những vị tiền bối cách mạng, vì muốn tìm hiểu và
khảo nghiệm thực tế những gì đang diễn ra trong lịng chế độ tư bản, trong “nội bộ
kẻ thù của dân tộc mình”, Nguyễn Tất Thành ước muốn "đi ra nước ngoài, xem
nước Pháp”, “muốn làm quen với nền văn minh Pháp” và các nước khác không
phải chỉ để thỏa mãn những hiểu biết của tuổi trẻ mà chính là "muốn tìm xem
những gì ẩn giấu đằng sau”, những gì đã làm nên sức mạnh và văn minh của
phương Tây - nơi sản sinh những tư tưởng lớn, những cuộc cách mạng lớn và "sau
khi xem xét họ làm như thế nào… sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”.

Vậy là, khi quyết định không sang phương Đông, không nhờ cậy vào những
người “anh lớn” như Trung Quốc và Nhật Bản, mà muốn làm quen với văn minh
Pháp, muốn xem những gì ẩn dấu đằng sau những từ mỹ từ “Tự do, Bình đẳng, Bác
ái” của cách mạng tư sản Pháp, Nguyễn Tất Thành đã muốn học hỏi nhiều hơn
những gì mình đang có, dân tộc mình đang có để khơng chỉ làm giàu tri thức cho
mình mà chính là hướng đến giải phóng dân tộc mình. Từ xuất phát điểm này, từ sự
vượt lên chính mình này đã quyết định sự lựa chọn, con đường đi sau đó của Người
- con đường bơn ba tìm đường cứu nước, mở đầu một chặng đường dài xa Tổ quốc.
Với ý chí và quyết tâm của một người dân mất nước, với nhiệt huyết và sức trẻ
của tuổi thanh xuân, Nguyễn Tất Thành đã khởi đầu một con đường đúng khi quyết


định xin làm thuê trên tàu Đô đốc Latútxơ Trêvilơ, rời Tổ quốc ngày 5/6/1911 để
“tìm đường đi cho dân tộc theo đi”.
2. Liên hệ bản thân
Mỗi người trẻ chúng ta được sống trong nền hịa bình và tự do như hiện nay là
một điều vô cùng may mắn. Nhưng khơng vì thế mà chúng ta bàng quang với xã
hội mà ngay cả trong thời bình, chúng ta cũng cần có trách nhiệm với que hương
đất nước, trách nhiệm này trong suy nghĩ của mỗi người là khác nhau, tuy nhiên, là
thanh niên, chúng ta cần sống có cho mình mục tiêu sống. Mục tiêu sống là những
suy nghĩ, hành động tích cực của con người, hướng đến những điều tốt đẹp và cao
cả. Mục tiêu sống ảnh hưởng quan trọng đến suy nghĩ và hành động của giới trẻ
đặc biệt là các bạn thanh niên hiện nay. Một lí tưởng sống, mục tiêu sống tốt đẹp
của thanh niên hiện nay đó chính là việc cố gắng học tập, tu dưỡng đạo đức, vươn
lên trong công việc để bản thân mình phát triển hơn. Người có mục tiêu sống là
người biết phấn đấu, vươn lên trong cuộc sống của mình, nỗ lực hết sức để mong
muốn đạt được những thành tựu cho riêng mình. Khi vấp ngã họ khơng chán nản,
bng xi mà tìm cách đứng dậy để đi tiếp con đường mình đã chọn. Bên cạnh
đó, người có mục tiêu sống còn là người biết yêu thương những người xung quanh,
ln muốn lan tỏa những thơng điệp tích cực ra xã hội, làm cho xã hội này tốt đẹp

hơn. Việc sống có mục tiêu mang đến cho con người nhiều lợi ích, ý nghĩa tốt đẹp:
nó giúp ta đạt những thành quả sau bao nỗ lực, cố gắng. Ngoài ra, chúng ta cịn tơi
luyện những phẩm chất q giá: chăm chỉ, cần cù, lạc quan… khiến ta được người
khác yêu thương, tin tưởng và học tập theo. Tuy nhiên, trong xã hội hiện nay vẫn
cịn nhiều người sống khơng có ước mơ, hồi bão, vơ cảm, bàng quang với cuộc
sống của mình và với vận mệnh chung của đất nước. Lại có những người có ước
mơ nhưng khơng cố gắng thực hiện mà chỉ hão huyền, viển vông về một cuộc sống
tốt đẹp hơn,… những người này đáng bị phê phán, chỉ trích. Mục tiêu sống của mỗi
người là không giống nhau, tuy nhiên nếu tất cả cùng cố gắng, chúng ta sẽ xây
dựng được một đất nước vững mạnh. Khơng một ai là hồn hảo, nhưng khi ta biết
cố gắng hồn thiện bản thân và vươn lên phía trước, chúng ta sẽ đạt được những
thành quả xứng đáng với công sức bỏ ra.




×