Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Biện pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt văn miêu tả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (719.52 KB, 26 trang )

PHẦN 1: MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Lý do chọn đề tài
Mục tiêu của Giáo dục Tiểu học hiện nay là giúp học sinh hình thành
những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí
tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học Trung
học cơ sở. Mục tiêu nói trên có được thông qua việc dạy, học các môn học
và việc thực hiện các hoạt động có định hướng theo yêu cầu giáo dục. Ở
Tiểu học, hai môn học chiếm thời lượng nhiều nhất là Tốn và Tiếng Việt.
Mơn Tiếng Việt hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng
Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường
hoạt động của lứa tuổi. Thơng qua việc dạy và học Tiếng Việt góp phần rèn
luyện các thao tác tư duy; cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về
xã hội, con người, văn hóa, văn học Việt Nam và nước ngồi. Bồi dưỡng
tình u Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng của Tiếng
Việt là góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Môn Tiếng Việt ở Tiểu học chia thành các phân mơn: Học vần, Tập
đọc, Tập viết, Chính tả, Luyện từ và câu, Kể chuyện, Tập làm văn.
Qua thực tế giảng dạy phân môn Tập làm văn ở tiểu học trong những
năm qua, tôi nhận thấy: Cùng với sự đổi mới về nội dung, chương trình thì
yêu cầu đặt ra là phải đổi mới phương pháp dạy học. Với đặc trưng của phân
mơn là thực hành, do đó giáo viên cần phải tổ chức cho học sinh thực hành
sao cho có hiệu quả, tránh dạy theo lối cũ “làm mẫu” cho học sinh học
thuộc. Tuy nhiên, đây là một vấn đề khơng phải người giáo viên nào cũng có
thể làm tốt được, đặc biệt là trong việc xây dựng hệ thống các bài tập để rèn
luyện các kĩ năng cho học sinh còn đơn điệu, nghèo nàn...
Mặt khác, học sinh được học phân môn Tập làm văn bắt đầu từ lớp 2
và được nâng lên một bước ở lớp 3 với đề tài rộng hơn. Nhưng sang lớp 4,
phân môn Tập làm văn có một bước ngoặt quan trọng. Học sinh phải bắt đầu
tự hình thành bố cục một bài văn đủ ba phần (mở bài, thân bài, kết bài), tự
quan sát và tìm ý, tự lập dàn bài...Đây là một bước chuyển mới của học sinh,


nếu giáo viên không chuẩn bị cho học sinh một cách chu đáo và nếu không
1


có những phương pháp khoa học, hợp lí trong giảng dạy thì kết quả sẽ khó
đạt được như mong muốn.
William Arthur Ward - nhà giáo dục lỗi lạc của nước Mỹ đã có một
phát biểu rất nổi tiếng: “Người thầy trung bình chỉ biết nói, người thầy giỏi
biết giải thích, người thầy xuất chúng biết minh hoạ, người thầy vĩ đại biết
cách truyền cảm hứng”. Giúp học sinh hiểu bài là việc làm nhiều giáo viên
đã làm rất tốt nhưng làm thế nào để học sinh làm chủ được những kiến thức
ấy, biết vận dụng chúng vào giải quyết các vấn đề trong thực tế cuộc sống
lại là việc làm khơng hề đơn giản.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài :“Một số
biện pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt văn miêu tả.” Qua đó giúp giáo viên
tự điều chỉnh phương pháp dạy học để tiết học diễn ra nhẹ nhàng và có hiệu
quả cao.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu về nội dung chương trình dạy học Tập làm văn ở lớp 4, các
bài văn miêu tả trong phân môn Tập làm văn lớp 4.
Đề xuất một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt văn miêu tả.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Phân môn Tập làm văn lớp 4, các bài văn miêu tả trong chương trình
mơn Tiếng Việt lớp 4.
- Học sinh lớp 4 trường Tiểu học Thanh Phong năm học 2015-2016 và
năm học 2016-2017.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Về việc nghiên cứu nội dung viết văn
miêu tả ở một số tài liệu có liên quan.
- Phương pháp điều tra: Được tiến hành dưới các hình thức:

+ Dùng phiếu điều tra.
+ Trao đổi trực tiếp với GV và HS.
+ Dự giờ tiết dạy văn ở trường tiểu học để tìm hiểu các hình thức và phương
pháp dạy học của GV.
- Phương pháp phân tích thống kê: Tổng hợp các số liệu điều tra từ thực tế
để phân tích, làm cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất biện pháp giúp học sinh
lớp 4 học tốt văn miêu tả.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Từ các biện pháp đã đề xuất tiến hành
thực nghiệm tại Trường Tiểu học Thanh Phong – huyện Thanh Liêm – tỉnh
Hà Nam.
1.5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
2


Do điều kiện thời gian có hạn nên đề tài của tôi chỉ dừng lại ở mức độ
nghiên cứu các dạng văn miêu tả ở lớp 4: miêu tả đồ vật, miêu tả cây cối,
miêu tả con vật trong phạm vi học sinh khối 4 của Trường Tiểu học Thanh
Phong - Huyện Thanh Liêm -Tỉnh Hà Nam.
PHẦN II: NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Trong các môn học ở tiểu học, Tiếng Việt là một trong hai mơn học
(Tốn, Tiếng Việt) chiếm thời lượng nhiều nhất trong chương trình. Chương
trình Tiểu học mới (ban hành theo Quyết định ngày 9/11/2001 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo) xác định mục tiêu của mơn Tiếng Việt như sau:
- Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt:
nghe, nói, đọc, viết để học tập và giao tiếp. Thơng qua việc dạy và học Tiếng
Việt góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy.
- Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và
những hiểu biết sơ giản về xã hội, con người, về văn hóa, văn học Việt Nam
và nước ngồi.

- Bồi dưỡng tình u Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự
trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt góp phần hình thành nhân cách con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, học sinh học tốt môn Tiếng Việt sẽ có cơ sở vững chắc để
tiếp nhận, nghiên cứu các tri thức thuộc các lĩnh vực khoa học khác của nền
văn minh nhân loại.
Phân mơn Tập làm văn có vị trí đặc biệt quan trọng trong dạy và học
Tiếng Việt. Bởi vì:
+ Phân mơn Tập làm văn tận dụng các hiểu biết và kĩ năng về Tiếng
Việt do các phân mơn khác rèn hoặc cung cấp đồng thời góp phần hồn thiện
chúng. Để làm được một bài văn nói hoặc viết, người làm phải hoàn thiện cả
bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết, phải vận dụng các kiến thức về Tiếng Việt.
Trong quá trình này, các kĩ năng, kiến thức đó được hồn thiện và nâng cao
dần.
+ Phân mơn Tập làm văn có nhiệm vụ rèn cho học sinh kĩ năng sản
sinh ngơn bản; sử dụng và hồn thiện một cách tổng hợp các kiến thức và kĩ
năng mà các phân mơn khác của Tiếng Việt đã hình thành. Viết văn là cái
3


đích cuối cùng của việc học mơn Tiếng Việt. Đối với học sinh tiểu học, biết
nói đúng, viết đúng, diễn đạt mạch lạc đã khó; để nói hay, viết hay, có cảm
xúc, giàu hình ảnh lại khó hơn nhiều. Cái khó ấy địi hỏi người GV phải trăn
trở, tìm tịi giúp HS đạt tới. Từ đó, các em được mở rộng vốn sống, rèn
luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc, thẩm mĩ, hình thành nhân cách.
+ Sản phẩm của phân môn Tập làm văn là các bài văn viết hoặc nói
theo các kiểu bài do chương trình quy định. Để làm được điều này, học sinh
phải có thêm nhiều kĩ năng khác ngồi các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, dùng
từ, đặt câu đó là các kĩ năng phân tích đề, tìm ý, lựa chọn ý, lập dàn ý, viết
đoạn và liên kết đoạn ...Các kĩ năng này không được phân môn nào trong

Tiếng Việt rèn luyện và phát triển ngồi phân mơn Tập làm văn. Chính vì
thế, có thể nói nhiệm vụ cơ bản, chủ yếu của phân môn Tập làm văn là giúp
học sinh sau một q trình luyện tập lâu dài và có ý thức, dần dần nắm được
cách viết các đoạn văn, bài văn do chương trình quy định.
Ở Tiểu học, phân mơn Tập làm văn có nhiệm vụ rèn luyện kĩ năng nói
và viết các kiểu bài miêu tả, kể chuyện, viết thư .... Trong đó, kiểu bài miêu
tả được đưa vào giảng dạy ở tiểu học bắt đầu từ lớp 4 và chiếm thời lượng
đáng kể. Vì thế, viết đoạn văn miêu tả, bài văn miêu tả là một trong những
nội dung yêu cầu kiến thức, kĩ năng cơ bản ở tiểu học.
Khi dạy học văn miêu tả cần hình thành và rèn luyện cho HS các kĩ
năng sau:
- Kĩ năng xác định đề bài, yêu cầu và giới hạn đề bài bài viết (kĩ năng
tìm hiểu đề); kĩ năng xác định tư tưởng cơ bản của bài viết.
- Kĩ năng tìm ý và lập dàn ý.
- Kĩ năng diễn đạt, thể hiện chính xác, đúng phong cách bài văn, tư
tưởng bài văn; kĩ năng viết đoạn, viết bài theo các phong cách khác nhau.
- Kĩ năng hoàn thiện bài viết (phát hiện và chữa lỗi).
Văn miêu tả ở lớp 4 bắt đầu dạy ở tuần học thứ 14, chia thành 29 tiết
và được sắp xếp theo thứ tự như sau:
* Giới thiệu thế nào là miêu tả (1 tiết)
* Văn miêu tả đồ vật (10 tiết)
* Văn miêu tả cây cối (10 tiết)
* Văn miêu tả con vật (8 tiết)
2. Cơ sở thực tiễn
4


Trong đời sống, muốn người khác nhận ra những điều mình đã nhìn
thấy, đã trải qua… chúng ta phải miêu tả. Trong văn học, các câu chuyện,
các cuốn tiểu thuyết, thậm chí ngay cả trong văn nghị luận hay văn viết thư,

nhiều lúc ta cũng chen vào các đoạn văn miêu tả. Vì thế, có thể nói văn
miêu tả có một vị trí quan trọng trong sáng tác văn chương. Cũng vì thế văn
miêu tả chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình tập làm văn
bậc tiểu học.
Trong thực tế giảng dạy, để làm bài văn miêu tả đối với HS lớp 4
thường rất khó khăn. Do đặc điểm tâm lí chưa ổn định, hơn nữa các em còn
ham chơi, khả năng tập trung chú ý quan sát chưa tinh tế, năng lực sử dụng
ngôn ngữ chưa phát triển tốt… dẫn đến khi viết văn, HS còn thiếu hiểu biết
về đối tượng miêu tả hoặc không biết cách diễn đạt điều muốn tả.
Đối với GV đây cũng là loại bài khó dạy. GV cịn thiếu linh hoạt trong
việc vận dụng phương pháp và chưa sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt
động học tập cho HS. Vì vậy, không phải dạy loại văn nào cũng đạt hiệu quả
như mong muốn và không phải GV nào cũng dạy tốt văn miêu tả. Việc tìm
ra các phương pháp để hướng dẫn HS quan sát, tìm ý, lập dàn ý, tưởng
tượng…của GV cũng còn nhiều hạn chế.
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy trên lớp, tôi nhận thấy rằng các
em rất ngại học phân môn Tập làm văn, nhất là khi làm bài văn viết. Bởi kỹ
năng làm bài của các em còn hạn chế, chất lượng bài làm chưa cao. Cụ thể
là các em chưa biết cách quan sát để miêu tả. Nhiều em còn chưa hiểu quan
sát là gì. Thường thì nhìn thấy cái gì các em nghĩ cái đó theo kiểu liệt kê,
chứ khơng biết chắt lọc các chi tiết quan sát được. Mặt khác do vốn từ của
các em chưa phong phú nên các em dùng từ chưa chính xác, sử dụng câu
chưa trọn vẹn nội dung, ít hình ảnh, khơng chọn lọc. Cách diễn đạt ý của
câu văn mang tính chất văn nói nên khi đọc gây cảm giác rườm rà, lủng
củng, lộn xộn,… Hầu hết các em chưa biết cách sử dụng các biện pháp nghệ
thuật như nhân hóa, so sánh, điệp từ, điệp ngữ, từ láy,… nên bài văn của các
em tuy đủ ý nhưng rất khơ khan. Bên cạnh đó cịn một số bài viết mắc nhiều
lỗi chính tả. Có em viết hết cả bài văn mà khơng có lấy một dấu chấm, một
lần xuống dịng. Có em lại sử dụng dấu câu một cách tùy tiện. Thông
thường khi viết văn, học sinh thường gặp các lỗi điển hình sau:

- Vốn từ ngữ của học sinh cịn nghèo nàn, khơng hiểu nghĩa từ, dùng
sai từ đồng nghĩa.
5


- Lặp từ làm câu rườm rà
- Vốn kiến thức và kinh nghiệm viết văn tả cảnh của học sinh cịn hạn chế.
- Học sinh khơng phân biệt được kể khác với tả.
- Học sinh chưa có được kĩ năng quan sát thực tế cảnh vật, khả năng
quan sát của học sinh khơng được thường xun rèn luyện, q trình quan
sát còn hời hợt thiếu định hướng, thiếu tinh tế chính vì vậy học sinh chưa
tìm ra được đặc điểm nổi bật của cảnh để tả. Khả năng liên tưởng của học
sinh cịn hạn hẹp.
- Học sinh chưa có được kĩ năng lập dàn ý, phát triển ý xây dựng đoạn
văn. Học sinh chưa biết liên kết đoạn thành bài.
- Học sinh chưa biết bộc lộ cảm xúc trong quá trình miêu tả, chưa viết
được câu văn có hình ảnh, chưa biết sử dụng biện pháp tu từ đã học vào việc
viết văn.
Nói tóm lại, khi viết một bài văn miêu tả học sinh gặp rất nhiều khó
khăn. Đứng trước thực trạng như vậy thì bất cứ người giáo viên nào cũng
phải băn khoăn, lo lắng.
3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
Biện pháp 1: Lựa chọn, vận dụng linh hoạt các phương pháp trong
từng loại bài nhằm đạt hiệu quả thiết thực
Xác định dạy học là một nghề sáng tạo, tôi luôn trăn trở, dạy như thế
nào là thành công nhất. Qua thực tế giảng dạy tơi thấy rằng để có giờ dạy tốt
cần nhiều yếu tố. Phương pháp và hình thức dạy học là một trong những yếu
tố quan trọng nhất. Để dạy tốt tập làm văn miêu tả giáo viên cần nắm vững
phương pháp dạy và vận dụng linh hoạt trong từng loại bài và hiểu bài.
* Đối với loại bài hình thành kiến thức

- Giáo viên cần tập trung vào những yêu cầu cơ bản, có biện pháp dạy
học linh hoạt, tránh kéo dài thời gian gây khơng khí nặng nề trong tiết học.
Đối với các bài dạy có văn bản làm ngữ liệu khai thác, hình thành kiến thức
tập làm văn hoặc bài tập có số lượng chữ khá nhiều, bài có nhiều câu hỏi
hay bài tập cần nhiều thời gian để thực hiện, giáo viên không nên tập trung
nhiều thời gian vào việc đọc văn bản thành tiếng mà cần chú trọng thực hành
kỹ năng đọc, hiểu (có thể yêu cầu học sinh khá, giỏi đọc thành tiếng, cả lớp
đọc thầm, sau đó trả lời câu hỏi sách giáo khoa), tập trung giải quyết bài tập,
câu hỏi trọng tâm, tìm cách giảm độ khó của bài tập để học sinh dễ thực
hiện.
6


Ví dụ: Bài: Thế nào là văn miêu tả?
Bài tập 1: (Phần nhận xét): Đoạn văn sau miêu tả những sự vật nào?
Để tránh tình trạng học sinh nêu tất cả các từ chỉ sự vật có trong đoạn
văn (cây sịi, cây cơm nguội, làn gió, chiếc lá, đốm lửa, lạch nước, tảng
đá…), giáo viên có thể định hướng bằng câu hỏi như; ba câu đầu miêu tả
những gì? (cây sòi, cây cơm nguội). Hai câu sau miêu tả sự vật gì? (lạch
nước). Từ đó học sinh viết vào vở những điều em hình dung được về các sự
vật theo lời miêu tả trong đoạn văn. Có thể gợi ý để học sinh biết cách làm
theo bảng mẫu sách giáo khoa. Sau khi hướng dẫn học sinh trao đổi về câu
hỏi ở bài tập, giáo viên giúp các em tự rút ra kiến thức về văn miêu tả

* Đối với loại bài luyện tập thực hành
Đây là loại bài chủ yếu nhằm mục đích rèn luyện kỹ năng làm văn. Nội
dung bài học thường gồm 3 đến 4 bài tập hoặc một đề bài tập làm văn.
Dựa vào mục đích yêu cầu, giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện từng
bài theo yêu cầu, theo trình tự thao tác hướng dẫn luyện tập hoặc hướng dẫn học
sinh thực hiện từng nội dung gợi ý trong sách giáo khoa để luyện tập các kỹ

năng làm văn dưới hình thức nói và viết theo đề bài cho trước.
Đối với loại bài này giáo viên cần nắm vững trình độ của học sinh để
giải quyết những khó khăn các em thường gặp như: chưa biết vận dụng kiến
thức đã học để làm bài, hạn chế về vốn sống, vốn ngôn ngữ nên chưa có cơ
sở tạo lập một bài văn, đoạn văn địi hỏi tính sáng tạo.
* Đối với những tiết trả bài
Giờ trả bài có mục đích rèn cho học sinh nhận xét, đánh giá, tự điều
chỉnh bài viết. Trong giờ trả bài nên dùng biện pháp động viên, khuyến
khích là chính khơng nên phê bình bài làm của các em.
Đối với các tiết trả bài giáo viên cần nhận thức đúng về tác dụng của
việc chữa lỗi cho học sinh. Hoạt động nhận xét, chữa bài cho học sinh phải
được thực hiện một cách nghiêm túc, có hệ thống, đảm bảo tính khoa học
mới có thể nâng cao chất lượng bài viết cho các em. Để thực hiện có hiệu
quả giáo viên cần thực hiện theo các bước:
- Nhận xét:
+ Xác định thái độ đúng mực khi nhận xét bài làm cho học sinh. Việc
nhận xét phải được thực hiện một cách nghiêm túc, tránh sự qua loa đại khái
7


để chỉ ra một cách đầy đủ và chính xác các lỗi trong bài làm của học sinh.
Mặt khác khi nhận xét giáo viên cần tôn trọng bài làm của các em, cố gắng
hiểu ý định cũng như cảm xúc của các em thể hiện trong bài.
+ Phân loại gọi thành tên các lỗi của học sinh trong bài làm. Việc phân
loại lỗi phổ biến ở nhiều học sinh, những lỗi có tính cá nhân, cá biệt.
+ Tìm hiểu ngun nhân các loại lỗi. Việc phân loại và gọi tên các lỗi
giúp cho việc tìm hiểu nguyên nhân mắc lỗi của học sinh được thuận lợi và
có cơ sở.
- Trả bài:
+ Nhận xét bài làm của học sinh.

+ Đọc mẫu một vài bài làm tốt để học sinh tham khảo.
+ Chỉ ra các lỗi phổ biến và cá biệt.
+ Thực hành chữa mẫu một số lỗi cơ bản.
+ Hướng dẫn học sinh cách sửa lỗi.
+ Kiểm tra, nhận xét việc sửa lỗi cho học sinh.
Phần nội dung chữa lỗi cho học sinh nếu được các giáo viên thực hiện
nghiêm túc, có hệ thống, đảm bảo tính khoa học sẽ rèn cho học sinh kỹ năng
phát hiện lỗi và biết cách sửa lỗi trong bài viết của mình, nâng cao ý thức
của học sinh về dùng từ, đặt câu, diễn đạt câu, trình bày đoạn, liên kết đoạn
thành bài.
Biện pháp 2: Rèn luyện kĩ năng quan sát.
Với bất kì một kiểu bài văn miêu tả nào, trước khi tạo ra được sản
phẩm HS đều phải trải qua quá trình quan sát rồi từ đó nhận xét, tưởng
tượng, ví von, so sánh… để làm nổi bật được những đặc điểm của sự vật.
Nghĩa là trên cơ sở thu thập trực tiếp các nhận xét, ấn tượng, cảm xúc…của
mình, HS mới bắt tay vào làm bài.
Sau khi xác định được nội dung trọng tâm của đề bài, các em sẽ tiến
hành quan sát. Khi hướng dẫn học sinh quan sát giáo viên cần lưu ý:
- Hướng dẫn quan sát theo trình tự (trình tự khơng gian: từ trái qua
phải, từ ngồi vào trong…; trình tự thời gian: từ sáng đến tối, từ lúc mới
mua đến lúc đã cũ…). Học sinh tự quan sát và ghi chép lại những điều mình
quan sát được theo dàn bài chi tiết.
- Cho học sinh quan sát và trình bày kết quả quan sát trong nhóm hoặc
trước lớp để các bạn góp ý bổ sung.
8


- Khi quan sát cần chọn vị trí quan sát tốt, góc quan sát phù hợp. Với
cách chọn vị trí như vậy sẽ giúp ta nắm được cái thần của đối tượng.
- Quan sát đối tượng không chỉ bằng thị giác mà phải huy động mọi

giác quan : thính giác (nghe), khứu giác (ngửi), xúc giác (sờ, nắm), vị giác
(nếm). Những đoạn văn hay là những đoạn văn dùng nhiều giác quan để
quan sát.
- Quan sát vật thật là tốt nhất. Nếu khơng có vật thật mới quan sát tranh
ảnh. Tranh ảnh chỉ giúp (chứ không thay thế) cho việc quan sát trực tiếp.
- Tuỳ từng kiểu bài ta có những cách quan sát khác nhau:
+ Đối với kiểu bài tả đồ vật: Quan sát theo trình tự : mắt nhìn, tay sờ,
tai nghe, mũi ngửi,…
+ Đối với bài văn tả cây cối: Quan sát theo trình tự từ xa đến gần, từ
bao quát đến bộ phận, nét khác biệt của cây đó với cây khác.
+ Đối với bài văn tả lồi vật: Quan sát ngoại hình rồi đến những thói
quen sinh hoạt và hoạt động của con vật.
- Quan sát luôn đi liền với ghi chép. Ghi chép hỗ trợ trí nhớ, giúp học
sinh có cơ sở lựa chọn những chi tiết, những hình ảnh đặc sắc. Giáo viên
hướng dẫn học sinh cách ghi chép (ghi những đặc điểm cơ bản vè hình dáng,
màu sắc, hoạt động…. của đối tượng, nhất là những nét riêng, độc đáo mà
người khác khơng nhìn thấy). Để đảm bảo u cầu giáo viên cần hướng dẫn
kỹ cho học sinh việc quan sát trước ở nhà.
Ví dụ: Khi miêu tả chiếc cặp, giáo viên khéo léo khêu gợi để các em
huy động vốn hiểu biết, khả năng liên tưởng, cảm xúc và ngôn ngữ; quan sát
bằng nhiều giác quan.
Có nhiều HS sau khi quan sát lại không đưa ra được những nhận xét cụ
thể, chính xác mà chỉ là những nhận xét chung chung, mơ hồ. GV cần hướng
dẫn các em đưa ra nhận xét từ sự quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả, kết
hợp với kinh nghiệm sống và trí tưởng tượng của các em.
Biện pháp 3: Rèn các kỹ năng làm văn
a, Kỹ năng xác định yêu cầu đề bài
Đây là việc làm vơ cùng quan trọng, nó tạo cho các em có thói quen
làm việc khoa học, có trình tự, tạo tiền đề cho việc học văn ở lớp trên.
Mỗi đề bài giáo viên yêu cầu học sinh xác định:

+ Thể loại ?
+ Kiểu bài ?
9


+ Nội dung miêu tả ?
+ Trọng tâm miêu tả ?
Khi phân tích xác định những yêu cầu trên tránh hiện tượng xa đề, lạc
đề. Bài làm của các em ln bám sát đề và có trọng tâm, u cầu học sinh
gạch chân những từ là trọng tâm của bài.
Ví dụ: Đề bài: Em hãy tả một cây ăn quả.
Các em sẽ xác định:
+ Bước 1: Thể loại : Văn miêu tả.
+ Bước 2: Kiểu bài: Tả cây cối.
+ Bước 3: Nội dung: Tả cây cam, cây chuối, cây bưởi….
+ Bước 4: Trọng tâm: Quả
b, Kĩ năng tìm ý và lập dàn ý
Sau khi HS đã quan sát và có những ghi chép cơ bản về đối tượng. GV
hướng dẫn HS tìm ý cho bài văn bằng cách;
+ Căn cứ vào hình ảnh đã lựa chọn được khi quan sát.
+ Chọn lọc những chi tiết, hình ảnh, hoạt động đặc trưng riêng, đẹp và
khác biệt của đối tượng để miêu tả chi tiết.
+ Lựa chọn hình ảnh, hoạt động khác của đối tượng để tả khái quát, bổ
trợ tạo hình ảnh tổng thể về đối tượng. Có thể lồng ghép các hình ảnh, sự
việc gắn bó với đối tượng.
Sau đó giáo viên hướng dẫn học sinh xây dựng một dàn ý chi tiết cho
bài văn. Dàn ý này giống như một khung xương cho bài văn. Nó sẽ định
hướng trong quan sát làm bài văn miêu tả có trọng tâm.
Muốn lập dàn ý học sinh tiến hành 2 công việc chính:
+ Chọn lọc ý

+ Sắp xếp thành dàn ý
Đối với bài văn miêu tả việc lập dàn ý phải dựa trên ý định miêu tả.
Dựa vào ý định này học sinh sẽ lược bỏ các chi tiết khơng cần thiết.
Ví dụ: Quan sát cây bàng nhận thấy cây đã trồng từ lâu năm, to cao,.
Muốn nhấn mạnh ý này giáo viên cần giúp học sinh lược bỏ các chi tiết khác
(cong, khẳng khiu….), giữ lại chi tiết (thân nó lớn hơn cột nhà, thân cây
mốc xỉn lại…). sau khi chọn lọc ý cho học sinh sắp xếp thành dàn ý.
Là người hướng dẫn, tơi khơng gị ép các em theo các khuôn mẫu, để các
em được tùy ý sáng tạo, trình bày với những tư liệu mình đã quan sát, cảm nhận
được. Và mọi suy nghĩ, cách nhìn của các em đều được tơn trọng. Chính điều đó
10


đã giúp các em tự tin hơn vào những cảm nhận và đánh giá cá nhân của mình.
Khi cho các em lập dàn ý, tơi thường khuyến khích các em vẽ tranh theo những
gì mà các em quan sát được sau đó mới lập thành dàn ý để các em có những
hình ảnh rõ nét hơn về đối tượng định tả.
Ví dụ 1: Dàn ý bài văn miêu tả con gấu bơng.

Ví dụ 2: Dàn ý bài văn miêu tả cây cam.

11


Ví dụ 3: Dàn ý bài văn miêu tả hoa cúc.

c, Kĩ năng viết những câu văn sinh động, gợi tả, gợi cảm, giàu hình
ảnh và nhạc điệu
Từ cách dẫn dắt gợi mở của GV và từ một ý cho trước hay từ một câu
đơn, GV hướng dẫn HS tập mở rộng câu bằng cách thêm các thành phần phụ

cho câu (trạng ngữ…); sử dụng các hình ảnh, chi tiết sinh động, biểu cảm,
các biện pháp nghệ thuật…làm cho cách diễn đạt câu, đoạn văn thêm cụ thể,
sống động giúp người đọc như cùng cảm nhận với mình.
Ví dụ:
+ Câu: “Những chùm hoa phượng đỏ rực.” Hướng dẫn HS viết lại
thành câu: “Những chùm hoa phượng đỏ rực đung đưa trong gió như đang
chào đón mùa hè đến.”
Việc rèn luyện kĩ năng này GV cần làm ở những tiết học Luyện từ và
câu, tiết trả bài Tập làm văn. Bài tập luyện viết câu sẽ giúp HS có ý thức
viết câu ngày càng chặt chẽ về ý, sinh động và giàu cảm xúc.
d, Kĩ năng xây dựng đoạn văn
12


Đối với học sinh đoạn văn là khái niệm khá phức tạp, giáo viên cần
giúp học sinh hiểu rõ khái niệm về đoạn và dấu hiệu nhận biết về đoạn văn.
Khi hướng dẫn học sinh viết đoạn văn, giáo viên chỉ cần yêu cầu học sinh
viết từ ba đến bốn câu diễn đạt một ý.
Giáo viên hướng dẫn học sinh viết bài miêu tả theo đoạn, mỗi đoạn tả
một bộ phận của đồ vật, con vật hay cây cối. Các câu trong đoạn văn phải có
sự liên kết chặt chẽ về ý nghĩa. Muốn vậy giáo viên cần giúp học sinh biết
cách dùng từ ngữ liên kết câu, biện pháp liên kết.
Để giúp học sinh viết được đoạn văn hay tơi ln khuyến khích các em
nói, viết những đoạn văn ngắn theo mức độ từ dễ đến khó như:
+ Cho một số từ: Mặt trời, mùa hè, bãi cát, biển, tiếng nhạt, trắng xóa,
… Hãy viết một đoạn văn ngắn có sử dụng các từ trên.
+ Hãy viết một đoạn văn tả hoạt động gáy sáng của con gà trống có sử
dụng biện pháp nhân hóa.
+ Chuyển đoạn thơ thành đoạn văn xuôi.
Bài tập viết đoạn văn: GV nên rèn cho HS kĩ năng tạo lập được đoạn

văn đảm bảo sự liên kết chặt chẽ về ý. Các đoạn văn được luyện viết là đoạn
mở bài: trực tiếp, gián tiếp; đoạn thân bài; đoạn kết bài: mở rộng, không mở
rộng. Các đoạn phải có sự liền mạch về ý (khơng rời rạc, lộn xộn), các ý
trong đoạn phải được diễn tả theo một trình tự nhất định nhằm minh họa, cụ
thể hóa ý chính (có câu mở đoạn, kết đoạn).
e, Hướng dẫn viết bài văn hoàn chỉnh.
Dựa vào dàn bài các em viết thành câu, đoạn, bài hoàn chỉnh với lời văn
gọn gàng, ý tứ rõ ràng, rành mạch, trong sáng. Câu văn phải diễn đạt với
hình ảnh sinh động và gợi cảm. Muốn vậy giáo viên yêu cầu học sinh:
- Phải quan sát tỉ mỉ, chính xác, lựa chọn các chi tiết và cách diễn đạt
tốt nhất.
- Dùng từ đúng, sát, lựa chọn từ ngữ hay nhất để có câu văn có hồn.
Muốn dùng từ hay các em phải ln có sự liên tưởng các sự vật với nhau, so
sánh sự vật này với sự vật khác, hiện tượng này với hiện tượng khác, lựa
chọn từ ngữ có hình ảnh gợi cảm. Đặc biệt các em nên sử dụng nhiều từ láy,
từ ghép để diễn tả.
- Viết câu linh hoạt không theo công thức, cần thay đổi các kiểu câu,
dạng câu cho linh hoạt.
- Để viết được bài văn hay, hồn chỉnh cần có sự sắp xếp chặt chẽ giữa
mở bài, thân bài, kết bài. Phần mở bài cần hấp dẫn, gợi mở gây cảm xúc ban

13


đầu nhẹ nhàng. Phần kết bài phải viết cô đọng, ngắn gọn tránh hành văn cộc
lốc, công thức khuôn sáo.
- Khi viết bài cần tránh cẩu thả về cách trình bày và chữ viết, tránh sai
lỗi chính tả.
- Viết xong cần đọc lại, kiểm tra sửa chữa sai sót trong bài làm.
Tóm lại: Đây là khâu quan trọng nhất quyết định chất lượng bài làm

của các em. Vì vậy giáo viên cần giúp các em tổng hợp, vận dụng kỹ năng
đã học để viết được một bài văn hay.
Biện pháp 4: Hướng dẫn tích lũy vốn từ miêu tả và rèn luyện cách
dùng từ ngữ biểu cảm, biện pháp tu từ.
Ngơn ngữ góp phần làm cho bài văn tả cảnh trở nên sinh động và tạo
hình. Khi hướng dẫn học sinh sử dụng ngôn ngữ miêu tả, giáo viên cần
hướng dẫn các em sử dụng tính từ chỉ màu sắc, hình khối, tính chất….. các
từ tượng thanh và tượng hình, các phép so sánh, nhân hóa, ẩn dụ….. Nếu
học sinh biết sử dụng khéo chúng sẽ phối hợp với nhau, đan cài vào nhau dệt
nên bức tranh phong cảnh bằng ngơn từ nhiều màu sắc, có góc cạnh. Sự
sống của bài văn nằm trong hình ảnh. Khi sử dụng hợp lí các biện pháp tu từ
sẽ giúp cho hình ảnh trở nên sống động, gợi cảm, gợi hình. Thơng qua việc
sử dụng ngơn từ và hình ảnh, học sinh có thể bộc lộ cảm xúc của mình khi
viết khiến bài văn chân thực và tạo đặc trưng riêng của cá nhân mỗi học
sinh. Muốn giúp học sinh biết sử dụng ngơn từ, lựa chọn hình ảnh phù hợp
khi tả, giáo viên phải giúp học sinh tích lũy vốn từ thơng qua việc học các
phân môn khác của Tiếng Việt. Việc tích lũy ấy chẳng khác nào dịng sơng
chắt chiu dần từng hạt phù sa để rồi có một bãi bồi màu mỡ hứa hẹn cho một
vụ mùa bội thu cây trái.
a, Tích lũy vốn từ miêu tả:
Thơng qua các bài tập đọc, giáo viên cần định hướng kiến thức học
sinh cần tích lũy trong qua trình đọc các tác phẩm.
- Kiến thức về các hiện tượng tự nhiên được miêu tả ở dạng sinh động
cụ thể, có thể cảm nhận trực tiếp.
Ví dụ: Bài “Mưa” của Trần Đăng Khoa, học sinh cảm nhận được tiết
tấu của trận mưa rào mùa hạ qua những hình ảnh âm thanh vơ cùng sống
động: lụ khụ gió cuốn, bụi bay cuồn cuộn, hàng bưởi đu đưa, chớp rạch
ngang trời, cây dừa sải tay bơi, ngọn mùng tơi nhảy múa, mưa ù ù như say
lúa, mưa chéo mặt sân…


14


- Kiến thức về ngôn ngữ: Đọc các tác phẩm văn học, học sinh biết mở
rộng phạm vi gợi ý, lựa chọn về ngơn ngữ (từ vựng, hình ảnh, cấu trúc câu)
giúp các em dễ dàng hơn khi diễn đạt đối tượng.
Để học sinh nắm được các kiến thức phong phú từ các tác phẩm văn
học, vai trò của người thầy hết sức quan trọng. Thầy định hướng giúp học
sinh tiếp cận giá trị nội dung và nghệ thuật của các phẩm.
Ví dụ: Để giúp học sinh cảm thụ vẻ đẹp của các biện pháp tu từ tôi đã
thực hiện theo các bước sau:
+ Phát hiện tín hiệu nghệ thuật: Học sinh làm các bài tập (gạch dưới,
đóng khung, nối…).
+ Đánh giá giá trị nghệ thuật của biện pháp: Học sinh làm một số bài
tập (đánh dấu vào ô trống để lựa chọn ý, điền từ …).
+ Đọc diễn cảm câu văn, đoạn văn.
Thói quen đọc sách có chọn lọc, định hướng, bồi dưỡng cho học sinh
tình yêu văn học; đọc yêu cầu phải kết hợp với ghi chép những chi tiết, hình
ảnh, đoạn thơ, đoạn văn đặc sắc; biết tổng hợp kiến thức bổ sung thêm vốn
kiến thức của mình.
* Từ các mơn học khác: Các mơn học khác cũng là nguồn cung cấp
vốn từ khá phong phú.
- Môn Khoa học: Các em hiểu các hiện tượng thiên nhiên như nắng,
mưa, mây, các loài cây, các con vật …
- Mơn Mĩ thuật: Rèn luyện kỹ năng quan sát, trí tưởng tượng phong
phú, sự cảm nhận tinh tế về màu sắc …
- Mơn Chính tả: Giúp học sinh viết đúng chính tả. Các phân mơn của
mơn Tiếng Việt hỗ trợ rất nhiều cho khả năng viết văn miêu tả của các em.
Vì vậy giáo viên cần dạy tốt các mơn học, học sinh học tốt các môn học.
b, Rèn luyện cách dùng từ ngữ biểu cảm và biện pháp tu từ.

- Trong văn miêu tả thường xuất hiện các từ có giá trị biểu cảm như từ
láy, tính từ. Dạy học sinh viết văn miêu tả, giáo viên cần hướng dẫn học sinh
khai thác sử dụng có hiệu quả các từ láy tượng thanh, từ láy tượng hình, các
tính từ tuyệt đối chỉ màu sắc.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng có hiệu quả các biện pháp tu
từ đặc biệt là biện pháp so sánh, nhân hố.
Ví dụ: Để giúp học sinh vận dụng tốt biện pháp so sánh và nhân hố
tơi cho học sinh tực hiện bài tập dạng:
+ So sánh điền tiếp vào chỗ trống

15


Mùa đơng, Bác bàng như……. Mùa hè, Bác bàng như…………..đón
ánh nắng ấm áp của ông mặt trời.
Chao ôi trông chú ta mới tuyệt vời làm sao! Cái đầu to như….Chiếc
mỏ vàng ươm như…...
+ Hãy dùng biện pháp so sánh để:
Tả thân bút
Tả cành phượng
Tả hoa hồng
Tả hoạt động của chú gà trống
+ Hãy viết lại những câu văn sau để người đọc thấy cảnh vật mang
tâm hồn của con người.
Những chiếc lá xòe ra như đang vẫy chào. (Bác dang rộng cánh tay
vẫy chào chị gió xuân ấm áp).
Khi có gió, cành lá rung rinh (Chị gió đến, cành lá reo mừng đùa vui
cùng chị).
Ánh nắng trải xuống sân trường. (Chị nắng xuân tung tăng, nhảy nhót
trên sân trường).

Biện pháp 5: Bổ sung vốn hiểu biết và kĩ năng sống cho học sinh.
- Trước hết, giáo viên phải tạo tình huống khiến học sinh háo hức
khám phá điều thú vị trong đối tượng miêu tả. Bổ sung vốn hiểu biết và kĩ
năng sống cho học sinh có nghĩa là giúp cho học sinh nắm một số từ ngữ
gợi tả có thể dùng trong miêu tả.
Giúp học sinh tìm từ bằng cách quan sát trực tiếp như: quan sát thực tế
(cây cối, con vật), quan sát tranh ảnh, xem phim, đọc sách nhất là qua các phân
môn của Tiếng Việt hoặc các mơn học khác và qua hình thức trị chơi…
Ví dụ: giáo viên cho học sinh quan sát cây hoa phượng đang ra hoa đỏ
rực và hỏi: Em thấy cây hoa có đặc điểm gì mà tác giả ví “như mn vàn
con bướm thắm đậu khít nhau.”?
Giáo viên phân tích tìm ra đặc điểm tương đồng của bộ phận nào đó
của cây hoa với mn vàn con bướm thắm đậu khít nhau. Qua việc phân
tích này sẽ rèn cho học sinh óc quan sát tinh tế, sự liên tưởng và tư duy phân
tích, kích thích ở học sinh kĩ năng suy luận.
- Dạy học sinh làm văn miêu tả phải gắn liền với việc bổ sung một số
kiến thức cơ bản về tự nhiên và xã hội đồng thời hình thành kĩ năng sống
cho các em.
- Dạy học sinh biết phân biệt các đối tượng xung quanh mình bằng các
dấu hiệu bản chất. Ví dụ như:
16


+ Biết phân biệt một số đồ vật quen thuộc: đồ dùng vật dụng gia đình,
đồ dùng học tập…
+ Biết phân biệt một số loài cây: cây ăn quả, cây cho bóng mát, cây
cảnh….
- Giúp học sinh hiểu được lợi ích của đối tượng miêu tả: Bộ bàn ghế
trong gia đình có nhiều cơng dụng như tiếp khách, ngồi họp mặt cả gia đình,
….Từ đó, giáo dục ý thức và thái độ hành vi phù hợp cho các em: Biết u

q giữ gìn, và sử dụng hợp lí các đồ vật, có ý thức chăm sóc, bảo vệ cây
cối, lồi vật….
4. Hiệu quả của việc áp dụng sáng kiến vào thực tiễn
Trước khi thực hiện sáng kiến, đầu năm học 2015-2016 , tôi cho học
sinh làm một bài kiểm tra.
Đề bài: Tả một đồ vật mà em yêu thích.
Qua kết quả bài làm của học sinh và qua thực tế giảng dạy tơi thấy
bài làm của học sinh có một số ưu điểm, hạn chế sau:
* Ưu điểm:
Nhìn chung học sinh đã nắm được cấu tạo bài văn miêu tả đồ vật.
Bước đầu biết chọn lọc các chi tiết tiêu biểu để miêu tả. Việc lựa chọn đồ vật
khác nhau đã tạo cho các em cách cảm, cách nghĩ riêng, các đồ vật hiện lên
mang nét độc đáo, đặc trưng riêng. Một số em đã biết dùng từ ngữ phù hợp,
đặc biệt là những tính từ, động từ, những biện pháp tu từ để miêu tả hình
dáng, đặc điểm và công dụng của đồ vật.
* Hạn chế:
Bên cạnh những đoạn văn, bài văn có chất lượng tốt thì cũng vẫn còn
một số bài làm chưa tốt. Thể hiện ở chỗ: Bài làm của các em còn viết theo
một lối mòn khn sáo, kém hấp dẫn, ít cảm xúc, nghèo hình ảnh. Đặc biệt
là các em dùng từ, đặt câu chưa chính xác, chưa biết sử dụng các biện pháp
tu từ (so sánh, nhân hóa...). Các em cịn mắc nhiều lỗi về cấu tạo câu, ý
nghĩa của câu, diễn đạt còn lủng củng, cảm xúc còn gượng ép. Bài viết còn
sai lỗi chính tả. Những lỗi sai cơ bản của học sinh thường mắc là:
- Câu không đủ thành phần, chưa rõ nghĩa hoặc sai nghĩa.
Ví dụ:
+ “ Chiếc cặp da dáng.” (tả về chiếc cặp) (Câu thiếu bộ phận vị ngữ)
+ Khi đeo cặp lên. (Câu thiếu chủ ngữ và vị ngữ)
+ Bác bàn ung dung. (Câu tối nghĩa)
+ Chiếc cặp hình chữ nhật chiều dài 40 m, chiều rộng 25 m. (Sai nghĩa)
- Lỗi dùng từ không hợp nghĩa:

17


Ví dụ:
+ Khóa cặp màu đen sáng lấp lóa.
+ Chiếc bút to như chiếc đũa dài thườn thượt…
- Lỗi lặp từ ngữ:
Ví dụ:
+ Chiếc cặp màu xanh trong chiếc cặp có nhiều ngăn. Chiếc cặp có ba ngăn.
+ Chiếc cặp như người bạn của em. Em sẽ coi cặp như người bạn thân của em.
+ Cái bàn có bốn chân. Cái bàn phẳng phiu có hai ngăn. Cái bàn này để em
đựng sách vở và đồ dùng học tập của mình.
- Lỗi diễn đạt lộn xộn, lủng củng:
Ví dụ:
Chiếc bút dài bằng gang tay. Chiếc bút để viết, nắp bút có màu xanh. Đầu
nắp bút được gài một chiếc khuy trắng. Ngòi bút nhỏ như búp tre, giúp em
viết đẹp hơn. Nổi bật là hàng chữ “ Nét chữ, nết người” trên thân hình thon
thả của chị.
- Sai về lỗi chính tả, dấu câu:
+ Lỗi chính tả: Chủ yếu viết nhầm lẫn các phụ âm đầu: s/x; l/n; r/d/gi; ch/tr.
Ví dụ: Chiếc bút luôn nhắc nhở em phải xiêng lăng học tập.
+ Về dấu câu: Không dùng dấu câu trong từng câu hoặc trong cả đoạn dài
khơng có dấu chấm, dấu phẩy hoặc sử dụng dấu câu sai. Ví dụ: Cái bàn rộng
chừng tám mươi phân. Được đặt giữa dan phịng rộng....
Kết quả đạt được như sau:
Lớp

Sĩ số

Chưa hồn

thành

4A
4B
4C

25
24
24

10
10
9

Tỉ lệ
(%)

40
41.7
37.5

Hồn thành

Tỉ lệ
(%)

Hoàn
thành
tốt


Tỉ lệ
(%)

14
14
13

56
58.3
54.2

1
0
2

4
0
8.3

Sau khi áp dụng các biện pháp đã đề xuất, cuối năm học 2015-2016,
tôi yêu cầu học sinh làm bài tập.
Đề bài: Em hãy tả một cây ăn quả mà em yêu thích.
Qua nhận xét, đánh giá bài làm tơi thấy học sinh có nhiều tiến bộ
trong việc viết văn miêu tả. Chất lượng các bài kiểm tra Tiếng Việt được
nâng lên. Học sinh đã có thói quen quan sát, phát hiện những điều mới mẻ,
thú vị về thế giới xung quanh, biết sử dụng từ ngữ biểu cảm. Kết quả bài làm
của ba lớp với đề bài như nhau, tôi thấy chất lượng của hai lớp được nâng
lên hẳn. Bài làm của nhiều em đã có tiến bộ. Các em đã biết viết đoạn văn,
18



bài văn miêu tả con vật hay, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc đặc biệt nhiều em
đã biết cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật như: so sánh, nhân hóa, dùng
các từ ngữ gợi tả, gợi cảm phù hợp...làm cho bài văn sinh động, cảm xúc
chân thật mang dấu ấn cá nhân học sinh. Tuy vẫn còn một số ít bài viết cịn
khơ cứng, liệt kê các chi tiết của đối tượng miêu tả nhưng khơng cịn hiện
tượng học sinh khơng biết làm bài, trình tự miêu tả lộn xộn, bố cục không rõ
ràng, dùng từ sai, diễn đạt lủng củng. Đặc biệt là các em không bỏ qua
những chi tiết, đặc điểm tiêu biểu của cây mà mình tả. Với chất lượng mà
học sinh đã đạt được tôi thấy rằng các biện pháp tôi đã xây dựng là phù hợp
với trình độ học sinh địa phương và đạt hiệu quả tốt. Nếu tiếp tục thực hiện
rèn luyện cho học sinh thì tơi tin chắc rằng chất lượng viết đoạn văn, bài văn
của các em sẽ ngày một nâng lên, đảm bảo được mục tiêu, yêu cầu môn học
đề ra. Kết quả như sau:
Lớp

Sĩ số

Chưa hoàn
thành

Tỉ lệ
(%)

Hoàn thành

Tỉ lệ
(%)

Hoàn

thành tốt

Tỉ lệ
(%)

4A
4B
4C

25
24
24

3
2
2

12
8,3
8,3

15
16
15

60
66,7
62,5

7

6
7

28
25
29,2

Sau khi áp dụng các biện pháp đã đề xuất vào năm học 2016-2017,
cuối năm học 2016-2017, tôi yêu cầu học sinh làm bài tập.
Đề bài: Hãy tả một cây mà em yêu thích
Khi nhận xét, đánh giá bài làm của học sinh tôi thấy gần như tất cả
học sinh đã viết được bài văn đúng và đủ theo yêu cầu. Các em biết quan
sát, chọn lọc tìm ý, lựa chọn từ ngữ đúng, từ ngữ hay, giàu hình ảnh. Hầu hết
các bài văn đã có sử dụng so sánh và nhân hoá. Một số bài văn biết sử dụng
từ ngữ gợi hình, vận dụng các biện pháp tu từ rất linh hoạt. Hiện tượng sai
lỗi chính tả đã giảm đáng kể. Học sinh tự giác quan sát và ghi chép một cách
chủ động. Tiết học Tập làm văn cũng diễn ra rất nhẹ nhàng nhưng cuốn hút
học sinh. Học sinh đã biết lập dàn ý để tập trung nhiều vào đối tượng chính
trong khi miêu tả. Kết quả như sau:
Lớp

Sĩ số

Chưa hoàn
thành

Tỉ lệ
(%)

Hoàn

thành

Tỉ lệ
(%)

Hoàn
thành tốt

Tỉ lệ
(%)

4A
4B

32
31

0
1

0
3,2

23
22

71,9
70,9

9

8

28,1
25,9

19


Kết quả thực nghiệm cho thấy những biện pháp tôi đề xuất trong đề tài
có tính khả thi.
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Thông qua một số biện pháp rèn kĩ năng làm bài văn miêu tả cho học
sinh lớp 4 ở trường tôi đang công tác giúp các em mở rộng vốn sống, rèn
luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách
cho các em. Với học sinh lớp 4, các em vừa bắt tay vào làm văn khơng thể
đã có được những dòng văn hay mà là kết quả của cả một quá trình rèn
luyện lâu dài, liên tục, bền bỉ. Với tinh thần đó, việc rèn luyện kĩ năng làm
văn cho học sinh vừa để nhằm mục đích nâng cao năng lực viết văn vừa
nhằm nâng cao ý thức tự rèn luyện của các em. Chính vì vậy, rèn luyện kĩ
năng làm bài văn miêu tả cho học sinh lớp 4 nói riêng và phân mơn Tập làm
văn nói chung có vai trị rất quan trọng trong trường tiểu học.
Bài học kinh nghiệm:
Xuất phát từ cơ sở lí luận và thực tiễn, qua q trình nghiên cứu và
ứng dụng, tơi đã có được một số kinh nghiệm trong rèn kĩ năng làm bài văn
miêu tả cho học sinh lớp 4, đó là:
+ Lựa chọn, vận dụng linh hoạt các phương pháp trong từng loại bài
nhằm đạt hiệu quả thiết thực.
+ Rèn luyện kĩ năng quan sát.
+ Rèn các kỹ năng làm văn.

+ Hướng dẫn tích lũy vốn từ miêu tả và rèn luyện cách dùng từ ngữ
biểu cảm, biện pháp tu từ.
+ Bổ sung vốn hiểu biết và kĩ năng sống cho học sinh.
Bên cạnh đó, bản thân người giáo viên cần phải có sự sáng tạo, lịng
nhiệt tình và phải thực hiện đầy đủ, đồng bộ các biện pháp. Cụ thể là:
- Giáo viên phải nắm chắc đặc điểm tâm lí của học sinh.
- Giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ những đặc điểm cơ bản của văn
miêu tả ngay từ tiết học đầu tiên của môn học.
- Tập làm văn là phân môn thực hành, tổng hợp tất cả những phân
mơn thuộc phân mơn Tiếng Việt, vì vậy muốn dạy tốt Tập làm văn cần dạy
tốt các phân môn khác.

20


Những bài học trên đây có thể chưa đầy đủ song nếu tiếp tục nghiên
cứu, vận dụng sáng tạo, linh hoạt vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể sẽ mang
lại hiệu quả thiết thực cho việc nâng cao chất lượng dạy và học trong các
trường tiểu học.
2. Kiến nghị
a, Đối với nhà trường:
- Cần tổ chức những tiết ngoại khoá cho học sinh quan sát cảnh vật
xung quanh, giúp các em có óc quan sát tinh tế và cảm xúc chân thực khi
viết văn.
- Sắp xếp chuyên môn phù hợp, tổ chức cho giáo viên được dự giờ
thăm lớp đồng nghiệp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.
- Cần thường xuyên tổ chức các cuộc thi báo tường vào dịp kỉ niệm
các ngày lễ lớn để tạo điều kiện cho các em tham gia sáng tác.
b, Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo:
- Quan tâm bổ sung đồ dùng dạy học và các phương tiện dạy học cho

phân môn Tập làm văn.
- Tổ chức nhiều cuộc thi sáng tác văn học cho học sinh để các em có
điều kiện tham gia sáng tác.
- Tăng cường bồi dưỡng cho giáo viên về chuyên môn nghiệp vụ. Phổ
biến những kinh nghiệm hay trong giảng dạy nói chung và phân mơn Tập
làm văn nói riêng, đặc biệt là xây dựng hệ thống bài tập rèn luyện các kĩ
năng làm văn để giáo viên học tập và vận dụng.
Trên đây là những ý kiến, giải pháp, biện pháp thực hiện và thực tế
trong nhà trường nhằm giúp học sinh lớp 4 học tốt văn miêu tả được rút ra từ
thực tiễn của bản thân tôi. Với nội dung của vấn đề trên, tôi mong muốn được
học hỏi nhiều sáng kiến của nhiều đồng nghiệp của các đơn vị khác và các nhà
quản lý khác cũng như lãnh đạo của các đơn vị, lãnh đạo ngành để tơi có nhiều
kinh nghiệm hơn trong công tác tại Trường Tiểu học Thanh Phong trong thời kỳ
mới. Bên cạnh đó cịn những điều chưa nghĩ hết, chưa làm được tơi rất mong
được góp ý để tơi có thêm kinh nghiệm làm tốt cơng tác của mình.
Thanh Phong, ngày

tháng

năm 2018

Người trình bày

21


Lê Thị Hằng
Xác nhận của Ban Lãnh đạo nhà trường
...............................................................................
...............................................................................

...............................................................................

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Phương Nga, Nguyễn Trí- Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu
học, NXB Giáo dục
2. Vũ Khắc Tuân. Luyện viết văn miêu tả ở Tiểu học, NXB Giáo dục.
3. Phan Phương Dung, Đặng Kim Nga- Giáo trình Tiếng Việt 3, NXB Đại
học Sư phạm
4. Hồng Hịa Bình- Dạy văn cho học sinh Tiểu học- NXB Giáo dục
5. Phan Thiều- Rèn luyện ngôn ngữ (Tập 1), NXB Giáo dục, 1998
6. Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 4 - NXB Giáo dục
7. Phương pháp dạy các môn học ở lớp 4 - NXB Giáo dục
8. Thư viện trực tuyến Violet.

23


MỤC LỤC
Trang
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

1

1.1. Lý do chọn đề tài

1


1.2. Mục đích nghiên cứu

2

1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu

2

1.5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu

2

II. NỘI DUNG

3

1. Cơ sở lý luận

3

2. Cơ sở thực tiễn

4

3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề

6

4. Hiệu quả của việc áp dụng sáng kiến vào thực tiễn


17

III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

20

1. Kết luận

20

2. Kiến nghị

21

24


25


×