Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số biện pháp dạy học sinh lớp 4 viết bài văn miêu tả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.03 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY HỌC SINH LỚP 4 VIẾT BÀI
VĂN MIÊU TẢ

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thu Phương
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường TH Tân Sơn
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Tiếng Việt
MỤC LỤC

THANH HOÁ NĂM 2019

0


MỤC LỤC
ĐỀ MỤC

TRANG

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4 Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm


2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.3. Các SKKN hoặc các giải pháp đã sử dụng đề giải quyết vấn đề
2.3.1. Biện pháp 1: Hướng dẫn học sinh quan sát, tìm ý cho bài văn miêu tả

2
2
2
2
2
3
3
4
6
6

2.3.2. Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh xây dựng nội dung bài văn miêu tả

9

2.3.3. Biện pháp 3: Hướng dẫn HS cách diễn đạt bài văn miêu tả có nghệ

10

thuật

12

2.3.4.Biện pháp 4: Hướng dẫn hình thành kỹ năng bộc lộ cảm xúc trong bài


13

văn miêu tả
2.3.5 Biện pháp 5: Hướng dẫn hình thành kỹ năng tích lũy vốn từ ngữ thông

14

qua các phân môn khác
2.3.6 Biện pháp 6: Hướng dẫn hình thành kỹ năng tự kiểm tra đánh giá khả

17

năng của mình và của bạn
2.4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng

18

nghiệp và nhà trường
3. Kết luận và kiến nghị
1. Kết luận
2. Kiến nghị

19
19
19

1. Mở đầu
1.1 Lí do chọn đề tài.
Tập làm văn là một phân môn quan trọng trong chương trình dạy học Tiểu
học, nó không chỉ giúp học sinh hình thành các kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết mà

còn rèn cho học sinh khả năng giao tiếp, quan sát, phân tích tổng hợp và đặc biệt
1


còn hình thành cho học sinh những phẩm chất tốt đẹp của con người mới hiện đại
và năng động.
Bài văn miêu tả giúp các em thể hiện tình cảm và tổng hợp các kiến thức đã
học ở các phân môn như: Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Kể chuyện, … đồng
thời tạo cơ sở để các em học tốt các thể loại văn khác như văn kể chuyện, tả cảnh
sinh hoạt, … góp phần cùng các môn học khác giúp phát triển ngôn ngữ, mở rộng
vốn sống, rèn luyện tư duy cho học sinh. Các em có thể “ vẽ” lại sự vật, hiện tượng
trong thực tế một cách sinh động thông qua ngôn ngữ của mình giúp người nghe,
người đọc hình dung được các sự vật, hiện tượng ấy. Bằng cách miêu tả các em
trau dồi ngôn ngữ nói và viết cho mình từ đó mà phát triển tư duy, bồi dưỡng tâm
hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học sinh.
Vì vậy dạy - học văn miêu tả nói chung và dạy - học văn miêu tả ở lớp 4 nói
riêng là nội dung quan trọng và cần thiết để các em học tiếp lên lớp trên và phát
triển năng khiếu học văn của mình.
Với mong muốn góp phần giúp học sinh vượt qua những khó khăn, hạn chế
để học tốt phần văn miêu tả, tôi chọn đề tài: “ Một số biện pháp dạy học sinh lớp
4 viết bài văn miêu tả ở Trường Tiểu học Tân Sơn”.
1.2 Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu để tìm ra biện pháp dạy, giúp học sinh lớp 4 viết bài văn miêu tả
có nội dung phong phú, mang tính nghệ thuật và giàu cảm xúc.
1.3 Đối tượng nghiên cứu.
Học sinh lớp 4A Trường Tiểu học Tân Sơn.
1.4 Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp đàm thoại vấn đáp

- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
- Phương pháp xử lý thông tin
- Phương pháp khảo sát, điều tra, thực nghiệm
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Mục tiêu của giáo dục tiểu học là “ Trang bị cho học sinh hệ thống tri thức
cơ bản ban đầu, hình thành ở học sinh những kĩ năng cơ bản nền tảng, phát
2


triển hứng thú học tập ở học sinh, thực hiện các mục tiêu giáo dục toàn diện đối
với học sinh tiểu học”
Để thực hiện mục tiêu giáo dục tiểu học nêu trên, đòi hỏi nội dung giáo
dục tiểu học phải mang tính toàn diện, cân đối giữa các mặt giáo dục: giáo dục tri
thức với giáo dục kĩ năng và giáo dục ý thức thái độ. Đồng thời phải đảm bảo tính
cân đối giữa dạy lý thuyết với dạy thực hành, quan tâm tới phát triển những kỹ
năng có tính chất nền tảng cho học sinh tiểu học, làm cơ sở ban đầu cho sự phát
triển sau này. Để thực hiện mục tiêu giáo dục trên, nhà trường tiểu học có thể tiến
hành bằng nhiều con đường khác nhau, trong đó con đường dạy học là con đường
cơ bản và quan trọng nhất.
Dạy học môn Tiếng Việt là góp phần hình thành và phát triển ở học sinh 4
kỹ năng nghe – nói – đọc – viết. Trong môn Tiếng Việt thì phân môn Tập làm văn
lại chiếm một vị trí khá quan trọng vì nó là sự tích hợp 4 kỹ năng của học sinh.
Văn miêu tả là thể loại văn dùng lời nói có hình ảnh và có cảm xúc làm cho
người nghe, người đọc hình dung một cách rõ nét, cụ thể về người, vật, cảnh vật,
sự việc như nó vốn có trong đời sống. Một bài văn miêu tả hay không những thể
hiện rõ nét, chính xác, sinh động đối tượng miêu tả mà còn thể hiện được trí tưởng
tượng, cảm xúc và đánh giá của người viết đối với đối tượng được miêu tả. Bởi vì
trong thực tế không ai tả để mà tả, mà thường tả để gửi gắm những suy nghĩ, cảm
xúc, những tình cảm yêu ghét cụ thể của mình. Các bài văn miêu tả ở tiểu học chỉ

yêu cầu tả những đối tượng mà các em yêu mến, yêu thích. Vì vậy qua bài làm của
mình, các em phải thể hiện được tình cảm của mình với những gì mà mình miêu tả.
Văn miêu tả ở bậc Tiểu học nói chung và ở lớp 4 nói riêng được Bộ Giáo
dục & Đào tạo quy định nội dung chương trình cụ thể từng tuần, từng kỳ ở sách
giáo khoa Tiếng Việt và được cụ thể hoá trong phân môn Tập làm văn lớp 4 nói
riêng. Ở lớp 4, các bài tập làm văn đều gắn với một chủ điểm. Quá trình thực hiện
các kĩ năng phân tích đề, tìm ý, quan sát, viết đoạn là dịp để học sinh mở rộng vốn
từ, nói lên tâm tư, tình cảm của mình, mở rộng hiểu biết về cuộc sống. Việc phân
tích dàn bài, lập dàn ý, quan sát đối tượng, … giúp khả năng phân tích, tổng hợp,
phân loại của học sinh được rèn luyện qua các thao tác cụ thể, thực hiện sản sinh
ngôn bản. Tư duy hình tượng của trẻ cũng có dịp được rèn luyện nhờ vận dụng các
biện pháp so sánh, nhân hóa, nhờ huy động vốn sống, trí tưởng tượng để xây dựng
bài văn.

3


Khi viết bài văn miêu tả các em phải huy động tư duy, vận dụng vốn từ ngữ
đã học, bằng hệ thống ngôn ngữ kết hợp với các thao tác quan sát, liên tưởng để
thể hiện tình cảm nhân cách của mình qua bài văn.
Ngôn ngữ (ngôn ngữ nói và viết) và tư duy có quan hệ mật thiết với nhau.
Từ ngôn ngữ mà đánh giá tư duy, ngôn ngữ là công cụ để tư duy. Vì vậy khi các
em viết bài văn có nghĩa bằng tư duy các em sắp xếp, lựa chọn ngôn ngữ sao cho
thể hiện đúng mục đích cần miêu tả. Từ đó mà ta đánh giá được khả năng tư duy
của từng cá nhân học sinh. Biết được kết quả đào tạo học sinh của mình.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.2.1. Thuận lợi:
- Trường Tiểu học Tân Sơn là một trường Tiểu học đạt CQG mức độ 1, có
đủ điều kiện về c¬ së vËt chÊt đáp ứng được yêu cầu dạy và học: 100% các
phòng học đều có máy tính, đèn chiếu, loa, máy trợ giảng; có phòng máy để học

môn Tin học. Đội ngũ CBGV đủ về cơ cấu, số lượng, trình độ đào tạo trên chuẩn
100%; được cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương quan tâm, ủng hộ; phụ huynh
đồng thuận. Đây là những điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện nhiệm vụ của nhà
trường trong năm học.
- Học sinh của nhà trường có số lượng nhiều là con em cán bộ viên chức, lại
ở gần trung tâm thành phố nên ngoài giờ học ở trường thì về nhà các em cũng được
bố mẹ dạy bảo thêm. Các em học tập và ăn bán trú tại trường, tình cảm thầy trò,
bạn bè gần gũi thân thiết, giao tiếp tự tin, ngôn ngữ linh hoạt lễ phép. Những yếu
tố này cũng là cơ sở tốt cho các em trong học tập cũng như trong cuộc sống.
2.2.2. Khó khăn:
Bên cạnh thuận lợi, nhà trường cũng có những khó khăn ảnh hưởng đến việc
thực hiện nhiệm vụ dạy và học trong nhà trường. Điều kiện kinh tế xã hội của địa
phương không đồng đều; một số phụ huynh chưa quan tâm đến việc học tập của
con cái, còn giao phó cho nhà trường; học sinh có xuất thân gia đình cũng đa dạng;
lớp học có cả học sinh hòa nhập cộng đồng; một số học sinh chưa thật sự chăm
chỉ, thành tích học tập chưa tốt, đặc biệt là môn Tiếng Việt.
2.2.3. Thực trạng:
Qua dạy học và trực tiếp giảng dạy khối lớp 4 tại trường Tiểu học Tân Sơn tôi
nhận thấy:
Hầu hết các em được sinh ra và lớn lên tại thành phố, bố mẹ bận đi làm nên
thời gian cho con cái đi chơi còn hạn chế. Ngoài giờ học, các em hầu như chỉ ở nhà
4


vì đi chơi bên ngoài không có người lớn đi cùng thì rất phức tạp, các thông tin báo
chí, tài liệu tham khảo hạn chế. Chính vì thế bài văn của các em còn nghèo nàn về
ý, về cách thể hiện để bài văn sinh động hấp dẫn. Đa số bài viết của các em mang
tính kể lể, liệt kê các chi tiết, đối tượng được miêu tả.
Các em thực sự lúng túng khi viết bài văn miêu tả, hệ thống từ ngữ gợi tả,
gợi cảm trong bài ít được sử dụng. Bài văn khô khan, nhiều em viết còn quá ngắn.

Từ thực tế đó tôi đã suy nghĩ phải làm thế nào để giúp học sinh làm tốt bài
văn miêu tả.Trước hết, tôi mạnh dạn đưa ra một vài cách kiểm tra để tìm nguyên nhân,
hướng giải quyết.
Tôi tiến hành kiểm tra lại kiến thức kĩ năng của các em ngay tại lớp qua
dạng bài văn miêu tả đồ vật mà các em đã được học.
Đề bài : Em hãy tả lại cái cặp của em ( hoặc bạn em) mà em thích.
Với đề bài này tôi đã tiến hành kiểm tra khả năng làm bài văn miêu tả của
học sinh trong lớp 4A. Kết quả đạt được như sau:
Lớp
Số học
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
%
Số bài
%
Số bài
%
sinh được Số bài
4A

kiểm tra
42 em

7

17

29


69

6

14

2.2.4 Nguyên nhân:
Phân môn Tập làm văn là phân môn khó dạy so với các môn học khác, giáo
viên dạy còn thiếu linh hoạt trong vận dụng các phương pháp và chưa sáng tạo
trong việc tổ chức các hoạt động học tập của học sinh. Việc cung cấp vốn sống,
vốn hiểu biết cho các em qua các phân môn của Tiếng Việt và các môn học khác
chưa được chú trọng. Mặt khác, do đặc điểm tâm lý lứa tuổi của học sinh tiểu học
còn ham chơi, khả năng tập trung chú ý nhận thức các sự vật còn hạn chế, năng lực
sử dụng ngôn ngữ chưa thật phát triển, nên việc học tập ở phân môn Tập làm văn
gặp những khó khăn như: thiếu vốn sống, vốn hiểu biết về đối tượng cần miêu tả,
kể chuyện, ... hoặc không biết cách diễn đạt về đối tượng cần kể, cần tả.
- Học sinh đến trường nhưng chưa có động cơ học tập đúng đắn.
- Các em chưa có thói quen đọc sách, đọc truyện để tích lũy vốn từ; ít nghiên
cứu bài trước khi đến lớp, không thực hiện đầy đủ yêu cầu của giáo viên.
- Trong giờ học, các em ít tập trung, không động não để phát biểu xây dựng
bài mà chỉ đợi giáo viên gợi ý.
- Chưa biết tự khám phá ra kiến thức mới vì vậy không hình thành được kỹ
năng, kỹ xảo.
5


- Các em chưa có kỹ năng luyện tập, thực hành, không có hứng thú học tập.
- Tuy đã nắm vững lý thuyết nhưng học sinh chưa biết vận dụng vào thực tế
bài làm vì vậy bài làm của các em vẫn còn tồn tại những điểm yếu. Cụ thể là :
+ Những bài đạt ở mức Hoàn thành tốt: Tuy học sinh đã nắm vững yêu cầu

và nội dung miêu tả, biết lồng cảm xúc của mình khi miêu tả nhưng sử dụng biện
pháp nghệ thuật đặc trưng như so sánh, nhân hoá còn hạn chế.
+ Những bài đạt ở mức Hoàn thành: Các em chưa sử dụng biện pháp nghệ
thuật đặc trưng, chưa lồng được cảm xúc của mình vào bài văn miêu tả, hệ thống
từ gợi tả, gợi cảm còn ít dẫn đến bài văn thiếu sinh động.
+ Những bài văn đạt ở mức Chưa hoàn thành: Các em chưa nắm được
phương pháp quan sát, bố cục chưa rõ ràng, chưa sử dụng biện pháp nghệ thuật đặc
trưng, nội dung sơ sài, …. mang tính kể lể, liệt kê dẫn đến bài văn khô khan thiếu
sinh động.
Từ thực trạng trên, tôi đã mạnh dạn đưa ra một số biện pháp dạy học sinh lớp 4
viết bài văn miêu tả như sau:
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dung để giải quyết
vấn đề.
2.3.1 Biện pháp 1: Hướng dẫn học sinh quan sát, tìm ý cho bài văn miêu tả.
a. Quan sát:
Quan sát là sử dụng các giác quan để xem xét, nhận biết sự vật hiện tượng.
Trong văn miêu tả, khi quan sát đồ vật, cây cối hay con vật thì học sinh được rèn
luyện cách quan sát đối tượng trong quan hệ gần gũi giữa người và vật, giữa người
và thiên nhiên từ đó làm cho tình cảm yêu mến, gắn bó với thiên nhiên, với người
và vật xung quanh của trẻ được nảy nở tâm hồn, tình cảm của trẻ thêm phong phú.
Chính vì thế quan sát có vai trò quan trọng trong bài văn miêu tả, muốn
miêu tả tốt thì phải biết quan sát tốt, đây là điều kiện cơ bản để làm tốt bài văn
miêu tả. Một số học sinh do chưa nắm được phương pháp quan sát dẫn đến bài văn
có nội dung sơ sài, chưa làm nổi bật được đối tượng miêu tả. Đối với những học
sinh này cần hình thành phương pháp và kỹ năng quan sát. Kỹ năng quan sát chủ
yếu được hình thành trên cơ sở luyện tập. Thường trước khi học tiết quan sát tìm ý,
các em học sinh đã sử dụng khả năng này nhiều lần và thường không tự giác,
thường là sơ lược, đơn giản, … chính vì vậy trước mỗi giờ dạy tôi thường hướng
dẫn học sinh cách quan sát. Đó là khi quan sát, các em cần chọn cho mình một vị
trí quan sát thích hợp và không nhất thiết phải là một vị trí cố định. Có thể là từ xa

rồi đến gần, có khi là từ trên nhìn xuống hay từ dưới nhìn lên, … tôi hướng dẫn các
6


em hãy dùng mắt mà quan sát vóc dáng, kích thước, màu sắc. Tay xoa trên thân
cây, trên mặt lá, tai nghe tiếng gió, tiếng chim, tiếng lá thầm thì, mũi xác định
hương thơm của hoa và miệng để rõ vị ngọt của quả, … Hay đối với con vật, khi
quan sát các em phải nhìn nó lúc bình thường, theo dõi nó trong sinh hoạt, nhiều
khi phải tìm hiểu thêm bằng cách hỏi những người am hiểu. Ví dụ: Có con vật ta
vỗ về nó, cho nó ăn; có con ta có thể ôm ấp, vuốt ve và với gà trống, với chim ta
dùng tai để nghe nó gáy, nó hót, …
b. Tìm ý:
Việc tìm ý đi liền với việc quan sát. Vừa quan sát vừa tìm ý và tìm được ý
nào, tôi hướng dẫn các em phải ghi luôn vào vở nháp. Ý đi liền với từ để diễn đạt.
Bước này chưa yêu cầu các em diễn đạt thành lời nói hoặc câu viết nhưng các em
đã phải có ý thức lựa chọn từ ngữ thích hợp để diễn đạt ý. Kết quả cuối cùng của
việc quan sát là học sinh tìm được các ý chi tiết cần thiết chuẩn bị cho bài văn
miêu tả. Để học sinh có được đầy đủ các chi tiết chuẩn bị cho bài văn miêu tả tôi
thường trực tiếp hướng dẫn học sinh quan sát đối tượng sẽ miêu tả.
Chẳng hạn như tả cái bút của em, tôi yêu cầu học sinh quan sát kĩ cái bút của
mình. Có thể quan sát theo một trình tự nhất định:
- Nhìn bao quát cái bút.
- Quan sát từng bộ phận: Quan sát từ ngoài vào trong, từ trên xuống dưới,
từng bộ phận theo cấu tạo của bút.
- Kết hợp quan sát bằng nhiều giác quan như: Mắt, tay, tai, … và quan trọng
nhất là phải cố gắng tìm ra những đặc điểm riêng biệt của cái bút mà em định tả.
Qua hệ thống câu hỏi gợi mở để học sinh nêu cho được các đặc điểm:
- Về hình dáng: Hình trụ tròn hay hình lăng trụ?
- Về màu sắc: Có màu gì?
- Về kích thước: Dài hay ngắn? Dọc theo thân bút có in những dòng chữ gì?

Hay như tả cây bàng tôi hướng dẫn học sinh trực tiếp quan sát cây bàng ở
sân trường. Để học sinh quan sát có hiệu quả tôi đặt một số câu hỏi gợi ý. Loại câu
hỏi này là chỗ dựa để học sinh quan sát, không dùng những câu hỏi mang tính áp
đặt các nhận xét do giáo viên chuẩn bị.
Khi quan sát, tôi cho học sinh tự do chọn vị trí quan sát. Có thể là quan sát
từ xa đến gần, có khi là từ trên nhìn xuống hay từ dưới nhìn lên. Các em cũng có
thể trao đổi nhỏ với nhau, có thể nhìn, sờ, ngắm, … rồi ghi chép lại.
Đối với những học sinh còn bỡ ngỡ lúng túng trong việc quan sát tôi hướng
dẫn quan sát cụ thể, tỉ mỉ, hướng dẫn các em tập vận dụng từng giác quan như:
7


Dùng mắt để quan sát hình dáng, các bộ phận (thân, cành, lá, …) của cây bàng.
Dùng tay để sờ vào thân cây, dùng tai để lắng nghe tiếng chuyển động của lá khi có
gió thổi, … gợi ý cho học sinh từ ngữ cần dùng để ghi chép các nhận xét.
Đối với những học sinh có năng khiếu cần đi vào trọng tâm của đối tượng
được miêu tả nhằm rèn luyện sự tinh tế trong quan sát đó là: phát hiện ra những
điểm đặc sắc ít người thấy.
Ví dụ: Nhìn chiếc lá bàng rơi có học sinh nhận ra cái dáng " lìa cành chênh
chếch bay nghiêng".
Qua những tiết học như thế học sinh có ý thức quan sát tốt. Dẫn đến hình
thành phương pháp và kỹ năng quan sát ở học sinh. Học sinh không những có đủ
tư liệu để làm bài văn đó mà còn biết quan sát tốt những đối tượng miêu tả khác.
Hay khi miêu tả con mèo tôi hướng dẫn các em quan sát trực tiếp con mèo
của nhà mình (nếu có) hoặc con mèo nhà hàng xóm. Khi quan sát tôi hướng dẫn
các em tập trung vào hai mặt:
- Hình dáng của con mèo với những đặc điểm bao quát và những chi tiết cụ
thể của từng bộ phận ( đầu, thân, chân, đuôi, ….).
- Những hoạt động hàng ngày của nó như ăn, uống, nằm phơi nắng, đùa
nghịch, săn bắt chuột, …

Sau khi quan sát và tìm ý xong tôi yêu cầu các em phải biết sắp xếp các ý
theo một thứ tự thích hợp để chuẩn bị cho việc diễn đạt bằng lời nói hay câu viết.
Ta gọi đấy là công việc lập dàn bài.
Ví dụ: Dàn ý bài văn tả cái bút.
Mở bài: Chủ nhật vừa qua mẹ mua cho em một cái bút kim để viết bài.
Thân bài:
+Tả bao quát: Cái bút dài bằng một gang tay em, tròn như ngón tay út, bằng
nhựa, màu sắc trang nhã.
+Tả từng bộ phận:
- Nắp bút màu tím, đầu tròn màu trắng phần cài cũng màu trắng.
- Thân bút màu trắng, in hình hai con ong và dòng chữ bee bee nhiều màu,
dưới có dòng chữ nhỏ màu đen: Bút kim PL – 04, dòng ghi hiệu bút Thiên Long
và mã vạch.
- Đầu bút thon dài, có khấc tròn để giữ bút cho chặt.
- Phần cuối bút thon tròn, màu tím.

8


- Ruột bút nhô ra một hình chóp nón màu tím, đầu nhọn, ngòi viết bằng dạ
kim nhỏ xíu nối liền với bầu mực nằm dài trong thân bút.
Kết bài: Ích lợi của cái bút, ý thức giữ gìn bút và tình cảm của em đối với cái
bút.
2.3.2 Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh xây dựng nội dung bài văn miêu tả.
Từ những tư liệu thu thập được qua quá trình quan sát học sinh cần phải lựa
chọn ý, sắp xếp ý để xây dựng bài văn miêu tả. Nội dung đủ và phong phú là yêu
cầu không thể thiếu được của một bài văn miêu tả tốt.
Giải quyết vấn đề này ta cần trải qua các khâu như (quan sát, tìm ý, lập dàn
bài chi tiết).
Mỗi bài văn miêu tả của học sinh cần có đủ ba phần ( mở bài, thân bài, kết

luận), đủ ý, đúng yêu cầu và diễn đạt phong phú.
Khi làm bài văn miêu tả yêu cầu đầu tiên của tôi là học sinh phải tìm hiểu
đề. Khi phân tích đề, học sinh có dịp hướng tới cái chân, cái thiện, cái mĩ được
định hướng trong đề bài. Vì vậy tôi cho học sinh đọc kỹ đề bài nhiều lần rồi trả lời
các câu hỏi về vấn đề chính trong đề.
Ví dụ: Bài văn thuộc thể loại gì? Đối tượng miêu tả? Thời điểm miêu tả ?
Gợi cảm xúc như thế nào? ...
Bám sát yêu cầu của đề bài, huy động vốn thực tế mà học sinh đã chuẩn bị ở
phần quan sát tìm ý, xây dựng dàn bài riêng của từng kiểu bài dựa vào dàn bài
chung của bài văn miêu tả.
Ở phần chính của bài văn, tôi yêu cầu các em phát triển chung bằng nhiều ý
khác nhau. Ví dụ với đề bài: “ Trường em ( hoặc gần nhà em) có một cây tán lá
xum xuê. Những ngày đi học trời nắng to, em thường ngồi dưới gốc cây để nghỉ.
Em hãy tả cây có bóng mát đó”.
Tôi hỏi : Phần thân bài gồm những ý gì?
Học sinh trả lời: Gồm có những ý:
- Tả bao quát cây có bóng mát.
- Tả từng bộ phận của cây.
- Tả cảnh vật có liên quan đến cây.
Khi học sinh nêu được các ý chính này tôi cho học sinh phát triển nội dung
trong mỗi ý.
Tôi hỏi: Tả bao quát hình dáng cây có bóng mát như thế nào?
Học sinh nêu ý rất đa dạng, tôi cho các em phát biểu tự nhiên, gợi ý để các
em nhận xét, bổ sung cho nhau rồi chốt lại các ý.
9


- Nhìn từ xa: Tầm cao, ngọn và lá.
- Đến gần: Mặt đất dưới gốc, gốc cây, cành to, rễ phụ, …
Sau khi xây dựng xong ý tả bao quát tôi hướng dẫn các em tả chi tiết từng bộ

phận của cây có bóng mát. Chú ý đến sự liên kết giữa các bộ phận được miêu tả.
Giáo viên hỏi: Em sẽ tả những bộ phận nào của cây có bóng mát?
Học sinh nêu ý, hỗ trợ bổ sung ý kiến cho nhau.
Sau đó tôi chốt lại :
- Chọn một số bộ phận và tả chi tiết các bộ phận đó như: Gốc, thân, lá, hoa, quả, ....
- Hoặc đối với học sinh có năng khiếu chỉ cần tả lướt qua các bộ phận, mỗi
bộ phận chỉ điểm một hai chi tiết đặc sắc.
Bên cạnh nội dung trên tôi còn lưu ý học sinh tả khung cảnh thiên nhiên nơi
cây mọc, hoạt động của người hay vật có liên quan đến cây.
Như vậy mỗi em mỗi ý, mỗi vẻ khác nhau nhưng vẫn đảm bảo đủ ý chính. Tuy
nhiên nếu chỉ đủ ý chính thì bài văn chưa đạt, một bài văn hay cần phải phong phú về
nội dung. Do đó tôi cho các em tuỳ chọn nội dung viết theo yêu cầu của đề bài.
Ví dụ với đề bài: “ Ở vườn hoa (hoặc công viên) các luống hoa (chậu hoa)
nở bông rất đẹp. Hãy tả một cây hoa mà em thích nhất”. Có học sinh chọn tả cây
hoa Hồng, có học sinh chọn tả cây hoa Cúc, có học sinh chọn tả cây hoa Mẫu đơn,
… Như vậy, nội dung bài của học sinh vừa đủ ý, vừa phong phú về nội dung và
đảm bảo đúng trọng tâm.
2.3.3 Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh cách diễn đạt bài văn miêu tả có nghệ
thuật.
a. Hướng dẫn cách thu nhận các nhận xét do quan sát mang lại:
Xây dựng nội dung bài văn miêu tả ở trên mới là “ Một sườn bài” đủ ý. Để
bài văn sinh động có nghệ thuật các em phải trau dồi qua tiết làm văn luyện tập xây
dựng đoạn.
Khi học sinh trình bày kết quả quan sát, nên hướng dẫn các em trả lời bằng
nhiều chi tiết cụ thể và sử dụng ngôn ngữ chính xác, gợi hình ảnh. Hướng dẫn các
em quan sát bức tranh cùng vui chơi và trả lời câu hỏi “ Hai bạn học sinh chơi cầu
như thế nào ?” ( bạn này làm gì? bạn kia làm gì?). Nếu các em nói “ Hai bạn đang
chơi đá cầu” thì đây là nhận xét sơ lược, kết quả của sự quan sát hời hợt hoặc thiếu
phương pháp. Giáo viên không bằng lòng với câu trả lời này mà cần gợi ý thêm “
Các em quan sát kỹ xem mỗi bạn đang làm gì?”. Nếu học sinh trả lời “ Hai bạn

đang đá cầu. Một bạn đá cầu đi, bạn kia chuẩn bị đón quả cầu”. Câu trả lời chi tiết
hơn nhưng chưa cụ thể. Giáo viên gợi ý thêm “ Em quan sát và nhận xét rõ hơn
10


động tác từng bạn”. Để học sinh có thể trả lời cụ thể hơn “Hai bạn đang đá cầu.
Bạn bên trái hơi khom người đá mạnh chân về phía trước. Quả cầu bay lên vạch
đường đi trong không khí. Bạn bên kia hơi ưỡn người đưa chân về phía sau chuẩn
bị tung ra đón quả cầu khi nó bay tới”.
Ở mức độ cao hơn giáo viên hướng dẫn học sinh đi vào trọng tâm của cảnh
vật, con người…
b. Hướng dẫn học sinh diễn đạt câu văn sinh động, có hình ảnh:
Ngoài việc hướng dẫn học sinh sử dụng ngôn ngữ miêu tả như dạng các
động từ, tính từ, hệ thống các từ láy, từ tượng thanh, từ tượng hình, … như nêu ở
câu trên. Để diễn đạt câu văn sinh động, có hình ảnh tôi hướng dẫn các em lựa
chọn chi tiết, diễn đạt có hình ảnh và sử dụng một số biện pháp tu từ như so sánh,
nhân hoá, … trong khi làm văn miêu tả. Nhờ vận dụng những biện pháp này mà tư
duy, trí tưởng tượng của trẻ cũng được rèn luyện.
Trong các tiết dạy tôi hướng dẫn học sinh thông qua việc trả lời câu hỏi
nhằm mục đích: Học sinh phát hiện những câu văn miêu tả có sử dụng các biện
pháp nghệ thuât.
Ví dụ: Trong bài văn “ Đàn ngan mới nở” của tác giả Tô Hoài tôi hướng dẫn
để học sinh phát hiện những câu văn có sử dụng biện pháp so sánh:
- Chúng có bộ lông vàng óng. Một màu vàng đáng yêu như màu của những
con tơ nõn mới guồng.
- Đôi mắt chỉ bằng hột cườm, đen nhánh hạt huyền, lúc nào cũng long lanh
đưa đi đưa lại như có nước, làm hoạt động hai con ngươi bóng mỡ.
Hoặc phát hiện biện pháp nhân hoá trong đoạn văn miêu tả như trong bài
“Cỏ non” của tác giả Hồ Phương.
“ Cu Tũn dở hơi chốc chốc lại chạy lại ăn tranh mảng cỏ của mẹ. Chị Vàng

lại dịu dàng nhường cho nó và đi kiếm một bụi khác, …”.
Từ đó hướng dẫn học sinh vận dụng các biện pháp nghệ thuật vào khi làm
bài văn miêu tả.
Chẳng hạn: khi " Tả cái trống trường em" tôi hỏi về hình dáng, mặt trống, thân
trống thì học sinh đã biết vận dụng những biện pháp so sánh, nhân hoá để tả như:
- Mình anh bằng gỗ, tròn trùng trục như một cái chum sơn đỏ choé, ngang
lưng quấn hai vòng đai bằng con rắn cạp nong, nom rất hùng dũng.
- Mặt trống nhìn tựa như bề mặt nồi tráng bánh cuốn.

11


Hay như khi “ Tả con mèo của em” tôi hỏi: Hình dáng (đầu, mình, chân, …),
tính nết của con mèo có thể tả bằng những câu văn có sử dụng biện pháp so sánh
(hoặc nhân hóa) như:
- Mình chú to gần bằng cái phích.
- Chú khoác trên mình chiếc áo màu xám.
- Đầu chú tròn và to như quả cam.
- Mắt chú long lanh như ngọc và tròn xoe như hai viên bi.
- Bình thường cô nhõng nhẽo như một cô nàng tiểu thư.
- Khi thấy chuột cô rón rén đến chạn bát, nhanh như một tia chớp, cô lao tới
chộp gọn lấy cổ con chuột nhắt.
Những câu hỏi gợi ý cách diễn đạt tôi thường xem trong khi học sinh làm
miệng, nếu học sinh chưa sử dụng được biện pháp nghệ thuật thì tôi gợi ý để học
sinh khác bổ sung, sửa cho bạn.
Ví dụ: Một học sinh nêu “ Dù tối mèo vẫn nhìn rõ mọi vật nhờ cặp mắt xanh
lè ở giữa hai khe hẹp và nhỏ”.
Tôi hướng dẫn học sinh khác sửa lại: “ Dù tối như bưng, chú mèo vẫn nhìn
rõ mọi vật bằng cặp mắt xanh lè, ở giữa có một khe nhỏ và hẹp”.
Trong bài văn tả cây cối có em nêu: “ Cây bàng này thật chẳng có gì đặc

biệt. Vỏ nó xù xì, lung bung và dày. Tán xoè rộng che mát cả một sân trường”. Tôi
gợi ý: Nội dung được, câu văn ngắn gọn, rõ ý nhưng để sinh động hơn ta có thể
trình bày như thế nào?
Học sinh khác trả lời: Có thể sửa là: “ Cây bàng này thật chẳng có gì đặc
biệt. Vỏ nó xù xì, lung bung và dày như bánh đa nướng. Tán bàng xoè rộng như
một cái ô che mát cả một góc sân trường”.
Hoặc khi tả rễ cây bàng có em viết: “ Qua một trận mưa to đất ở chỗ cây
bàng trôi hết để lại bộ rễ ngoằn ngoèo trên mặt đất”.
Để có câu văn hay hơn tôi hỏi các em :
- Bộ rễ bò ngoằn ngoèo trên mặt đất gợi cho ta đến hình ảnh gì?
Học sinh trả lời: “ Trận mưa hôm trước đã làm cho đất ở gốc cây trôi hết để
lộ bộ rễ ngoằn ngoèo trên mặt đất trông như con rắn hổ mang”.
Với cách dạy như vậy tôi thấy diễn đạt của các em ngày càng hay và sinh
động hơn.
2.3.4 Biện pháp 4: Hướng dẫn hình thành kỹ năng bộc lộ cảm xúc trong bài
văn miêu tả.

12


Bài văn miêu tả hay không thể thiếu cảm xúc. Nếu thiếu cảm xúc bài văn sẽ
trở nên khô khan thiếu sinh động, cảm xúc không chỉ bộc lộ ở phần kết luận mà
còn thể hiện trong từng câu văn, từng đoạn của bài văn.
Điều này tôi thường gợi ý cho các em một cách cụ thể trong từng bài văn.
Ví dụ: " Hãy nêu cảm nghĩ của em khi phải rời xa trống trường ?".
Học sinh trả lời: Trống trường thực sự là bạn đồng hành của đời học sinh
chúng em. Mai đây chúng em sẽ lớn lên, có thể đi đến bất cứ nơi nào trên Tổ quốc,
song tiếng trống trường mãi mãi vẫn ngân vang trong kỉ niệm, …
Hay “ Đứng dưới gốc Bàng em có cảm nghĩ gì ?”.
Học sinh trả lời: Thấy yêu sao cây bàng đã tô thêm vẻ đẹp của ngôi trường,

góp phần cho Tổ quốc thêm xanh, …
Khi sống với chú mèo em có cảm giác gì?: “ Mèo đã trở thành người bạn
thân của em từ lúc nào không rõ. Em thường để dành cho nó những con tôm, con
cá câu được ở sông, …”.
Tương tự như vậy tôi yêu cầu học sinh đưa ra những suy nghĩ, cảm xúc,
nhận xét trước một sự vật, đối tượng miêu tả. Bài văn miêu tả của học sinh tránh
được những điểm khô khan liệt kê các bộ phận miêu tả. Thấm đượm cảm xúc của
người viết.
Kết hợp các yếu tố: Tìm ý cho bài văn, xây dựng nội dung miêu tả, diễn đạt
bài văn miêu tả có nghệ thuật và bộc lộ cảm xúc sẽ làm cho bài văn miêu tả của
học sinh trở nên sinh động, đạt kết quả cao. Tạo tiền đề để các em học tốt các thể
loại văn khác như kể chuyện, tường thuật, tả cảnh sinh hoạt, …
Tất cả những điều tôi đã trình bày trên đây là những vấn đề khái quát bao
trùm cả quá trình dạy học sinh lớp 4 viết bài văn miêu tả. Để thực hiện vấn đề đó
phải phát huy vai trò chủ đạo của thầy và chủ động của trò trong quá trình dạy học.
Cụ thể là:
- Đối với giáo viên : Khâu chuẩn bị đầu tiên là soạn bài hợp với 3 đối tượng
học sinh, để học sinh cả lớp được làm việc, chiếm lĩnh kiến thức của bài.
- Quá trình lên lớp : Đây là quá trình làm việc sinh động của thầy và trò trên
lớp. Thầy với vai trò chỉ đạo, học sinh với vai trò chủ động, giáo viên nắm vững
năng lực, trình độ của học sinh để thực hiện phương pháp “ Lấy học sinh làm trung
tâm”. Tạo hứng thú cho học sinh trong các tiết học qua những buổi tham quan, quan
sát, thực tế để tìm tư liệu cho bài viết. Hướng dẫn các em sử dụng sách giáo khoa và
vở bài tập một cách khoa học. Luôn trân trọng ý kiến học sinh, quan tâm hơn đến
những học sinh Chưa hoàn thành với những câu hỏi gợi mở xem các em vướng mắc
13


ở chỗ nào để hướng dẫn, sửa chữa kịp thời, với những học sinh Hoàn thành và Hoàn
thành tốt thì cần khuyến khích những nét sáng tạo trong bài làm của em.

Tôi luôn kiểm tra và đánh giá kịp thời sự tiến bộ của học sinh qua từng tiết
học, từng bài viết để uốn nắn bổ sung những điểm còn yếu, phát huy những nét
sáng tạo của học sinh.
Mặt khác trong khi dạy các môn học khác tôi luôn nhắc nhở các em tích luỹ
vốn kiến thức để viết bài văn miêu tả.
2.3.5 Biện pháp 5: Hướng dẫn hình thành kỹ năng tích lũy vốn từ ngữ thông
qua các phân môn khác.
Như chúng ta đã biết mỗi môn học đều có mục tiêu riêng. Song ngoài mục
tiêu chính đó ra, nếu người giáo viên biết khai thác để mở rộng kiến thức cho học
sinh thì ta thấy tất cả các môn học đều bổ sung cho nhau, hỗ trợ lẫn nhau. Nhất là
trong môn Tiếng Việt thì phân môn Tập làm văn lại là sự “ tích hợp” kiến thức của
tất cả phân môn còn lại. Các em học tốt các phân môn như: Tập đọc, Luyện từ và
câu, Chính tả, … thì các em sẽ học tốt phân môn Tập làm văn. Vì thế thông qua
từng phân môn của môn Tiếng Việt tôi đều chú ý giúp các em khai thác tốt nội
dung này.
a. Thông qua phân môn Tập đọc:
Trong văn miêu tả thì vốn từ ngữ miêu tả rất quan trọng. Việc giúp học sinh
tích lũy vốn từ ngữ miêu tả và sử dụng vốn từ ngữ đó một cách chính xác, hợp lý là
vấn đề quan trọng của mọi giáo viên. Trong các bài tập đọc thuộc thể loại văn miêu
tả thì số lượng từ miêu tả rất phong phú, cách sử dụng rất sáng tạo. Sách Tiếng việt
4 theo chương trình mới thì các loại bài tập đọc lại được biên soạn theo tuần, theo
chủ điểm. Thường thì ứng với mỗi chủ điểm là các dạng Tập làm văn mà các em
đang học. Vì vậy thông qua các bài tập đọc tôi giúp các em chỉ ra các từ ngữ miêu
tả hay, đã được chọn lọc, gọt giũa. Cách sử dụng nghệ thuật của tác giả chọn một
vài trường hợp đặc sắc để phân tích kỹ giúp học sinh thấy được sự sáng tạo của các
nhà văn khi dùng chúng.
Ví dụ 1: Khi dạy bài “ Sầu riêng, trong lúc phân tích đoạn 1, tôi giúp các em
hiểu rằng để tả hương vị đặc biệt của quả sầu riêng tác giả đã sử dụng các điệp
từ: “ thơm mùi thơm”, “béo cái béo”, “ ngọt cái vị ngọt”. Đến lúc phân tích đoạn
3 tôi giúp các em nhận thấy tác giả sử dụng hàng loạt các từ ngữ đã được chọn lọc,

nghệ thuật so sánh:“ Thân nó khẳng khiu, cao vút, cành ngang thẳng đuột – Lá nhỏ

14


xanh vàng, hơi khép lại tưởng như lá héo.” Qua đó, tôi giúp học sinh hiểu rằng
người ta có thể mượn hình ảnh này để ca ngợi một hình ảnh khác ( mượn cái không
đẹp của cây sầu riêng để tăng thêm hương vị của trái sầu riêng).
Ví dụ 2: Khi dạy đến bài “Hoa học trò” , trong phần tìm hiểu bài tôi giúp
các em cảm nhận được cái hay, cái độc đáo qua cách dùng từ của Xuân Diệu. Để
giúp người đọc cảm nhận được số lượng hoa phượng ra nhiều và rất đẹp. Tác giả
đã sử dụng một loạt các điệp từ, điệp ngữ để diễn tả điều đó:“Phượng không
phải là một đóa, không phải vài cành. Phượng đây là cả một loạt, cả một vùng, cả
một góc trời đỏ rực. Mỗi hoa chỉ là một phần tử của cái xã hội thắm tươi, người ta
quên đóa hoa, chỉ nghĩ đến cây, đến hàng, đến những tán hoa lớn xòe ra như
muôn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau”.
Để giúp học sinh hiểu khi quan sát cây cối người ta cần phải phối hợp nhiều
giác quan. Tả lá phượng tác giả viết: “Lá xanh um, mát rượi, ngon lành như lá me
non.” Chỉ bằng một câu nhưng tác giả đã sử dụng tới ba giác quan: mắt (xanh um),
xúc giác ( mát rượi), vị giác ( ngon lành). Như vậy các từ ngữ miêu tả trong các bài
tập đọc rất đa dạng và phong phú, chúng được sử dụng rất hay, sinh động, gây ấn
tượng. Cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong các bài Tập đọc cũng rất là sáng
tạo. Bằng cách này tôi đã giúp học sinh tích lũy thêm vốn từ và học cách sử dụng
chúng, đồng thời thông qua các bài tập đọc tôi cũng giúp các em hiểu thêm rằng để
một bài băn miêu tả hay thì cần phải sử dụng các biện pháp nghệ thuật hợp lý.
b. Thông qua phân môn Luyện từ và câu:
Mục tiêu chính của luyện từ và câu là giúp học sinh mở rộng vốn từ; cách sử
dụng từ chính xác, cách viết câu đủ ý. Khi dạy về các nội dung mở rộng vốn từ
theo từng chủ điểm, tôi giúp học sinh hiểu rõ nghĩa các từ ngữ, các thành ngữ, các
tục ngữ thuộc chủ điểm đó. Từ đó sẽ giúp các em sử dụng các từ ngữ đó chính xác,

hợp lý. Để tích lũy vốn từ cho học sinh tôi cho học sinh tìm thêm các từ đồng
nghĩa, từ gần nghĩa, từ trái nghĩa.
Ví dụ: Bên cạnh tính từ “ đỏ” dùng để miêu tả hoa hồng (hoa phượng) còn có
nhiều từ ngữ khác như: đỏ rực, đỏ tươi, đỏ thẫm, đỏ chót, đỏ như son, đỏ như lửa, …
tùy từng sự vật mà học sinh có thể lựa chọn nên dùng từ ngữ nào cho phù hợp.
Trong các tiết Luyện từ và câu có nội dung về ngữ pháp, ngoài việc dạy các
em cách viết câu đúng, tôi luôn tìm cách dạy các em cách viết câu văn có hình ảnh.
Trong tất cả các bài tập dùng từ đặt câu, tôi luôn đặt một câu văn đủ ý bên cạnh
một câu văn khác đủ ý nhưng có hình ảnh để các em so sánh.
Ví dụ: Tả hình dáng của một cây bàng cổ thụ, tôi đưa ra hai câu:
15


- Câu 1: Cây bàng cao lớn.
- Câu 2: Nhìn từ xa, cây bàng cao lớn như một chiếc ô xanh khổng lồ.
Tôi cho học sinh nhận xét xem câu nào hay hơn (100% học sinh trả lời là
câu 2 hay hơn vì nó tạo cho người đọc hình ảnh rất cụ thể nó cao lớn đến chừng
nào. Với biện pháp này, tôi đã rèn cho học sinh kỹ năng viết câu văn có hình ảnh,
đủ ý.
c. Thông qua phân môn Chính tả:
Như ở phần thực trạng tôi đã trình bày, bài văn của các em bị sai lỗi chính tả
rất nhiều, điều đó gây khó chịu cho người đọc. Vì vậy trong tất cả các tiết chính tả,
tôi luôn chú ý rèn cho các em có ý thức viết đúng chính tả (đây cũng là mục tiêu
của phân môn Chính tả). Ngoài ra thông qua giờ chính tả, tôi cũng giúp các em tích
lũy thêm vốn từ ngữ miêu tả và cách sử dụng chúng.
Ví dụ: Khi dạy đến bài chính tả tuần 21,trong phần bài tập có bài tập 2:“ Chọn
những tiếng thích hợp trong ngoặc đơn để hoàn chỉnh bài văn sau:
Cây mai cao trên hai mét,…thanh, thân thẳng như thân trúc. Tán tròn tự
nhiên xòe rộng ở phần gốc, thu…thành một…ở đỉnh ngọn. Gốc lớn bằng bắp
tay, cành vươn đều, nhánh nào cũng…chắc.

Mai tứ quý nở bốn mùa. Cánh hoa vàng…xếp làm ba lớp. Năm cánh dài
đỏ tía như ức gà chọi, đỏ suốt từ đời hoa sang đời kết trái. Trái kết màu chín
đậm, óng ánh như những hạt cườm đính trên tầng áo lá lúc nào cũng …..thịnh
vượng quanh năm.
( dáng/giáng/ráng, giần/dần/rần…) ”
Sau khi cho học sinh thực hiện theo yêu cầu của bài. Tôi gọi học sinh đọc
lại bài văn. Sau đó tôi đưa ra một số câu hỏi mở rộng nhằm mục đích có thể vận
dụng nó vào việc học phân môn Tập làm văn.
- Bài văn thuộc thể loại văn gì? Kiểu bài gì? ( Văn miêu tả, kiểu bài tả cây cối).
- Tác giả đã quan sát cây theo trình tự nào? (Từng bộ phận của cây).
- Trong bài văn này tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nào? Lấy ví dụ
minh họa ( nghệ thuật so sánh, ví dụ như: thân thẳng như thân trúc. Năm cánh dài
đỏ tía như ức gà chọi, trái kết màu chín đậm, óng ánh như những hạt cườm, …).
- Em học tập được gì khi học bài văn này? (học được cách miêu tả, cách
dùng từ, sử dụng các biện pháp nghệ thuật).
Qua tất cả các phân môn này, người giáo viên có thể khéo léo khai thác để
làm giàu vốn từ ngữ cho học sinh ( từ ngữ miêu tả) và giúp học sinh biết cách sử
dụng chúng một cách hợp lý. Song do đặc trưng của môn học, mỗi giờ học chỉ
16


thiên về một mặt nào đó. Nó chỉ hỗ trợ để học sinh học tốt hơn phân môn Tập làm
văn. Vì thế người giáo viên không thể lạm dụng để biến nó thành một giờ dạy Tập
làm văn được.
2.3.6 Biện pháp 6: Hướng dẫn hình thành kỹ năng tự kiểm tra đánh giá khả
năng của mình và của bạn.
Đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học là tư duy trực quan cụ thể. Do đó
trong giảng dạy, giáo viên cần đưa ra những ví dụ cụ thể để học sinh hình dung,
hiểu rõ cách làm. Vì vậy trong các giờ trả bài viết, sau khi nhận xét và hướng dẫn
học sinh chữa lỗi, tôi chọn những bài văn hay, có sáng tạo của học sinh trong lớp

để biểu dương, sau đó đọc cho cả lớp cùng nghe. Đọc xong, tôi đặt ra một số câu
hỏi để các em trả lời.
Ví dụ:
- Các em có nhận xét gì về bài làm của bạn?
- Bài làm của bạn hay ở chỗ nào? Sáng tạo ở chỗ nào?
- Em học tập được những gì từ bài làm của bạn?
Trả lời đúng các câu hỏi của giáo viên đặt ra là học sinh đã học tập được
chính bạn của mình. Ngoài ra trong quá trình dạy học, tôi tích lũy được nhiều bài
văn hay của học sinh trong các năm học trước, tôi đọc cho các em nghe rồi cùng
các em phân tích cái hay, cái cần học tập trong từng bài văn. Ngoài các biện pháp
trên, tôi khuyến khích các em lập sổ tay văn học và hướng dẫn các em cách sử
dụng. Sổ tay văn học để ghi những từ ngữ miêu tả, những câu văn hay, giàu hình
ảnh, các câu văn sử dụng các biện pháp nghệ thuật đặc sắc, … mà các em đọc được
trong sách báo, sách tham khảo, trong cuộc sống hàng ngày và trên các phương
tiện thông tin đại chúng. Mỗi ngày, các em tích lũy một từ hay một câu, … cứ như
vậy vốn từ ngữ của các em sẽ ngày càng giàu lên.
Như vậy việc giúp các em tự đánh giá các bài văn của mình của bạn và
không ngừng tích lũy vốn từ sẽ giúp các em học tốt hơn phân môn Tập làm văn nói
chung và kiểu bài văn miêu tả đồ vật, miêu tả cây cối, miêu tả con vật nói riêng.

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.

17


Sau khi áp dụng các biện pháp dạy học trên đối với học sinh lớp 4A do tôi
phụ trách. Tôi đã tiến hành kiểm tra kiến thức và kĩ năng viết văn miêu tả của học
sinh trong toàn khối 4 bằng đề khảo sát chất lượng:
Đề bài: “ Hãy tả lại con vật mà em yêu thích”.

Kết quả đạt được như sau:
Lớp

Chưa hoàn
thành
Tỷ lệ
Tỷ lệ
Tỷ lệ
SL
SL
SL
(%)
(%)
(%)
4A
42
13
30,9
29
69,1
0
0
- Qua thực tế bài làm của học sinh lớp 4A, tôi nhận thấy các em bắt đầu có
hứng thú và đam mê với phân môn Tập làm văn. Giờ học diễn ra nhẹ nhàng và
sinh động, hấp dẫn hơn. Các em đã chủ động, tự giác trong việc hình thành kiến
thức. Vốn từ ngữ miêu tả của các em ngày càng phong phú hơn cả về số lượng lẫn
chất lượng. Cách sử dụng từ của các em chính xác hơn. Trong khi viết văn, các em
đã biết cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, các từ láy,
các điệp từ. Bài viết giàu cảm xúc hơn đồng thời kỹ năng diễn đạt của các em cũng
tốt hơn, các em chú ý hơn khi học các phân môn như:  Luyện từ và câu, Tập đọc,

Chính tả, Kể chuyện, … Chính vì vậy chất lượng môn Tiếng việt cũng được nâng
lên. Các em không còn ngại khi làm bài văn miêu tả mà rất thích làm các đề văn
miêu tả.
- Nhìn vào bảng số liệu trên thì thấy rất rõ, kết quả kiểm tra lần này cao hơn
hẳn so với kết quả khi chưa áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 100% học sinh có kết
quả hoàn thành trở lên, trong đó tỉ lệ học sinh Hoàn thành tốt đạt 30,9%.
Số học
sinh được
kiểm tra

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

3. Kết luận và kiến nghị
18


3.1. Kết luận:
Qua nghiên cứu và thực hiện một số biện pháp về dạy học sinh lớp 4 viết bài
văn miêu tả đạt kết quả tốt bản thân tôi rút ra những kết luận sau:
Để bài văn miêu tả của học sinh lớp 4 đạt kết quả cao cần hướng dẫn học
sinh tìm ý cho bài văn miêu tả bằng cách quan sát đối tượng để tìm tài liệu, chi tiết
cho nội dung bài. Giáo viên không nên dạy các tiết quan sát tìm ý trong phạm vi
bốn bức tường mà cần tạo điểu kiện để hướng dẫn học sinh trực tiếp quan sát.
Hướng dẫn cách quan sát theo từng đối tượng học sinh. Để qua giờ học, học sinh
có được đầy đủ các tư liệu, chi tiết cho bài văn miêu tả.
Từ những tư liệu thu thập được qua quá trình quan sát, dưới sự hướng dẫn
của giáo viên, học sinh chọn lọc, sắp xếp để xây dựng nội dung miêu tả đảm bảo
vừa đủ ý, vừa phong phú về nội dung.

Để bài văn hay, sinh động, giáo viên hướng dẫn học sinh diễn đạt có nghệ
thuật bằng cách cho các em luyện cách mở bài gián tiếp, kết bài mở rộng và tập
vận dụng một số biện pháp nghệ thuật vào việc diễn tả nội dung.
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh bộc lộ cảm xúc trong bài văn miêu tả,
cảm xúc không chỉ bộc lộ ở phần kết luận mà phải được thể hiện trong từng câu,
từng đoạn văn. Có như vậy bài văn miêu tả của học sinh mới tránh được sự khô
khan, liệt kê các bộ phận miêu tả. Thấm đượm cảm xúc của người viết.
Để thực hiện tốt những điểm nêu trên giáo viên cần phải:
+ Nắm vững chương trình của bộ môn toàn cấp và từng lớp. Nắm vững kiến
thức và dạy đúng phương pháp bộ môn, gây hứng thú trong giờ học.
+ Giáo viên cần phải phân loại đối tượng học sinh, thường xuyên kiểm tra,
đánh giá kịp thời.
+ Học sinh phải được làm việc nhiều trên lớp cũng như ở nhà với nhiều hình
thức để nắm vững kiến thức, mở rộng nâng cao tầm hiểu biết và vốn sống.
+ Đọc và nghiên cứu thêm các tài liệu chuyên sâu, các tạp chí, chuyên đề
giáo dục, phương pháp dạy học văn miêu tả, những bài văn mẫu.
3.2. Kiến nghị:
- PGD nên tổ chức các tiết dạy ( phân môn Tập làm văn) thành công qua các
đợt thao giảng giáo viên dạy giỏi cấp thành phố, tỉnh dạy cho giáo viên các nhà
trường được dự giờ, học tập.
- Tiếp tục hội thảo, chuyên đề về dạy học phân môn Tập làm văn để giáo viên
được tham dự, học hỏi một cách cụ thể, sát thực, nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ.
19


Trên đây là những kinh nghiệm mà bản thân đã đúc kết được trong quá
trình công tác tại trường Tiểu học Tân Sơn. Do thời gian và khả năng có hạn,
chắc chắn không thể tránh khỏi những tồn tại, hạn chế. Đề nghị BGH nhà
trường và cấp trên góp ý để tôi tiếp tục hoàn thiện đề tài, góp phần nâng cao

năng lực chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho
học sinh và góp phần thực hiện thành công mục tiêu giáo dục Tiểu học.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Tân Sơn, ngày 15 tháng 4 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Nguyễn Thị Thu Phương

20



×