Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển tại Bảo Việt Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.81 KB, 88 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp - Nguyễn Thị Thu Trang B, lớp Q14H
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm qua nền kinh tế nước ta đã có những bước tăng trưởng
đáng khích lệ. Đóng góp vào thành công chung đó không thể không kể đến
vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu. Với đặc điểm địa lý của nước ta có hơn
3.000 km là bờ biển, lại nằm ở trung tâm của khu vực Đông Nam á. Vì vậy
vận chuyển bằng đường biển là phương thức vận chuyển chủ yếu trong hoạt
động xuất nhập khẩu. Mỗi năm có gần 80% khối lượng hàng hoá xuất nhập
khẩu được vận chuyển theo phương thức này, đóng góp không nhỏ vào sự
phát triển của nền kinh tế nước ta.
Cũng như bất kỳ một phương thức vận tải nào, vận tải bằng đường biển
cũng không thể tránh khỏi các rủi ro bất ngờ ngoài ý muốn của các doanh
nghiệp. Do đó,để đảm bảo tài chính cho các nhà xuất nhập khẩu, bảo hiểm
hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển đã ra đời giúp các
doanh nghiệp ổn định được hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, tránh
phá sản khi có rủi ro xảy ra .
Nhận biết được tầm quan trọng đó, sau một thời gian thực tập ở Công ty
Bảo Việt Hà Nội em đã chọn đề tài:
"Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
vận chuyển bằng đường biển tại Bảo Việt Hà Nội" để làm chuyên đề thực
tập tốt nghiệp. Mục đích nghiên cứu của đề tài này là phân tích đánh giá bảo
hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại công ty Bảo
Việt Hà Nội trong thời gian qua, từ đó rút ra kinh nghiệm để tiếp tục hoàn
thiện nghiệp vụ này trong thời gian tới đáp ứng tốt hơn nhu cầu của các chủ
hàng khi tham gia bảo hiểm và góp phần vào sự phát triển chung của tổng
công ty.
Chuyên đề tốt nghiệp - Nguyễn Thị Thu Trang B, lớp Q14H
Nội dung của chuyên đề ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham
khảo được chia làm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận
chuyển bằng đường biển.


Chương II: Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu vận chuyển bằng đường biển ở công ty Bảo Việt Hà Nội.
Chương III: Giải pháp phát triển nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Bảo Việt Hà Nội
Do thời gian thực tập không nhiều và còn hạn chế trong lý luận cũng như
kinh nghiệm thực tế nên đề tài không tránh khỏi thiếu sót nhất định. Em rất
mong nhận được những đóng góp và ý kiến của các thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chuyên đề tốt nghiệp - Nguyễn Thị Thu Trang B, lớp Q14H
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM HÀNG HOÁ
XUẤT NHẬP KHẨU VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN
1.1. Vai trò của vận tải biển và sự cần thiết của bảo hiểm hàng hoá
xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển.
1.1.1. Vai trò của vận chuyển bằng đường biển.
Việc thông thương buôn bán hàng hoá đóng vai trò quan trọng đối với
mỗi quốc gia. Để vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu người ta sử dụng
nhiều phương thức khác nhau như: đường bộ, đường sắt, đường biển, đường
hàng không… Nhưng đến nay, vận tải đường biển vẫn giữ một vị trí quan
trọng trong các phương thức vận tải hàng hoá. Có được vai trò quan trọng như
vậy là do vận tải biển có những ưu điểm vượt trội như:
- Chi phí cho việc xây dựng, cải tạo, bảo dưỡng các tuyến đường biển
thấp vì hầu hết là những tuyến giao thông tự nhiên (trừ các cảng biển).
- Năng lực chuyên chở của phương tiện vận tải biển thường rất lớn: một
tuyến có thể tổ chức chạy nhiều chuyến tàu trong cùng một thời gian cho cả
hai chiều, đồng thời phương tiện vận tải biển có thể chở được hầu hết các loại
hàng hoá với khối lượng lớn. Vận tải bằng đường biển còn tỏ ra đặc biệt có
ưu thế trong việc vận chuyển nhiều loại hàng hoá khác nhau, đặc biệt là khả
năng sử dụng để vận chuyển các Container chuyên dụng.
- Cước phí vận chuyển thấp hơn so với các phương tiện vận tải khác,ví

dụ: cước phí trung bình vận chuyển cùng một loại hàng hoá bằng đường hàng
không là 7$/kg, trong khi vận chuyển bằng đường biển là 0,7$/kg.
Chuyên đề tốt nghiệp - Nguyễn Thị Thu Trang B, lớp Q14H
- Vận chuyển bằng đường biển góp phần phát triển mối quan hệ kinh tế
với các nước, thực hiện đường lối kinh tế đối ngoại của Nhà nước, góp phần
tăng thu ngoại tệ…
1.1.2. Sự cần thiết của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển
bằng đường biển.
- Vận tải biển chịu tác động của điều kiện thiên nhiên như: mưa, bão, lũ
lụt, sóng thần, vì quãng đường di chuyển dài lại qua nhiều vùng khí hậu rất
khác nhau. Các yếu tố thiên nhiên diễn ra không tuân theo một quy luật nhất
định nào. Vì vậy, mặc dù khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển và có thể dự
báo thời tiết nhưng rủi ro vẫn có thể xảy ra. Đặc biệt trong điều kiện thời tiết
khí hậu hiện nay có nhiều biến đổi bất thường, các hiện tượng thiên nhiên xảy
ra ngày càng nhiều, nhất là các cơn bão nên tổn thất hàng hải cũng dễ xảy ra
hơn.
- Trong quá trình vận chuyển đôi khi rủi ro đâm ra và trục trặc kỹ thuật
do sai sót trong việc thiết kế chế tạo, bảo dưỡng tàu cũng xảy ra. Các tàu biển
hoạt động tương đối độc lập giữa vùng không gian rộng lớn, nếu xảy ra sự cố
thì có thể việc cứu hộ, cứu nạn rất khó khăn. Mặt khác thị trường hàng hải
thường rất lớn và nhất là hiện nay số lượng tàu đưa vào khai thác nhiều, trọng
tải tàu ngày càng lớn và giá trị hàng hoá ngày càng cao,cho nên nếu rủi ro xẩy
ra tổn thất là khôn lường.
- Đường vận tải dài nên các tàu phải dừng chân ở nhiều cảng khác nhau
thuộc các quốc gia khác nhau, do đó bị ảnh hưởng bởi các chính sách pháp
luật của quốc gia đó. Nhất là quốc gia có chiến tranh, đình công quan hệ ngoại
giao không tốt đối với quốc gia sở hữu tàu hoặc hàng hoá chuyên chở trên tàu.
- Người chuyên chở cũng có thể gây ra tổn thất cho hàng hoá do sai sót.
Tuyệt đại bộ phận các công ước về các loại hàng hoá vận chuyển bằng đường
Chuyên đề tốt nghiệp - Nguyễn Thị Thu Trang B, lớp Q14H

biển và luật hàng hải các quốc gia trên thế giới, kể cả hàng hải Việt Nam, đều
cho phép người chuyên chở giới hạn trách nhiệm bồi thường. Vì vậy, các nhà
xuất nhập khẩu không bù đắp được thiệt hại thực tế xảy ra.
Để kịp thời khắc phục những rủi ro, tổn thất, một mặt người ta ngày càng
hiện đại hoá, nâng cao chất lượng các đội tàu, mặt khác phải tiêu đến một biện
pháp hữu hiệu để giải quyết các thiệt hại bằng bù đắp kinh tế, đó là thông qua
bảo hiểm - hình thức phân tán rủi ro theo nguyên lý cộng đồng.
Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu đã ra đời từ rất sớm, được thừa nhận,
được ủng hộ và phát triển không ngừng. Đến nay, bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển đã có bề dày lâu năm và mặc nhiên
trở thành tập quán thương mại quốc tế trong hoạt động ngoại thương.
1.2. Các loại rủi ro và tổn thất trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu vận chuyển bằng đường biển
1.2.1. Các loại rủi ro
Rủi ro hàng hải là những rủi ro do thiên tai, tai nạn bất ngờ trên biển gây
ra làm hư hỏng hàng hoá và phương tiện chuyên chở.
Trong hoạt động hàng hải có nhiều loại rủi ro khác nhau làm thiệt hại đến
hàng hoá và phương tiện vận chuyển. Người ta có thể phân loại rủi ro dựa trên
các căn cứ khác nhau:
* Căn cứ vào nguyên nhân gây ra tổn thất, rủi ro được chia làm 3 loại:
- Rủi ro do thiên tai gây ra như biển động, bão lốc, sóng thần, thời tiết
quá xấu.
- Rủi ro do tai nạn bất ngờ ngoài biển như: bao gồm rủi ro do mắc cạn,
chìm đắm, mất tích, đâm va với tàu khác…
Chuyên đề tốt nghiệp - Nguyễn Thị Thu Trang B, lớp Q14H
- Rủi ro do con người gây ra: các rủi ro như ăn trộm, ăn cắp, chiến tranh,
đình công, bắt giữ, tịch thu…
* Căn cứ vào nghiệp vụ bảo hiểm, rủi ro được chia làm 3 loại:
Loại 1: Những rủi ro thông thường được bảo hiểm, bao gồm:
- Rủi ro mắc cạn: Tàu bị chạm đáy vào chướng ngại vật nào đó mà không

thể tiếp tục hành trình được nữa.
- Rủi ro chìm đắm: Do nguyên nhân nào đó mà tàu bị chìm xuống biển
hoặc bị đắm do sóng thần, bão tố, không thể tiếp tục hành trình được nữa,
hàng hoá trên tàu bị hư hại.
- Rủi ro đâm va: tàu bị đâm, va phải chướng ngại vật trên biển (đá ngầm,
công trình xây dựng, tàu thuyền khác) dẫn đến hư hỏng, hành trình bị gián
đoạn.
- Rủi ro cháy nổ.
- Rủi ro do thiên tai: là những hiện tượng do thiên nhiên gây ra như biển
động, bão, lốc, sét, thời tiết quá xấu… mà con người không chống lại được.
Cách phân loại này giúp cho các chủ hàng cũng như các công ty bảo
hiểm dễ dàng nhận biết các loại rủi ro để đi đến ký kết hợp đồng bảo hiểm.
Loại 2: Những rủi ro không được bảo hiểm: Loại này thường là rủi ro
xảy ra do hành vi cố ý của thuyền trưởng, thuỷ thủ và những người có liên
quan những hao hụt tự nhiên.
Loại 3: Những rủi ro đặc biệt: chiến tranh, đình công, bạo loạn, cướp
biển thường không được bảo hiểm, nhưng nếu chủ hàng có yêu cầu, sẽ được
nhận bảo hiểm kèm theo rủi ro thông thường được bảo hiểm với điều kiện trả
thêm phụ phí đặc biệt chứ không nhận bảo hiểm riêng cho các rủi ro đặc biệt.
Chuyên đề tốt nghiệp - Nguyễn Thị Thu Trang B, lớp Q14H
Các rủi ro được bảo hiểm phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra tổn thất.
Việc phân biệt nguyên nhân trực tiếp hay nguyên nhân gián tiếp có vai trò rất
quan trọng để xác định được rủi ro gây ra tổn thất có phải là rủi ro được bảo
hiểm hay không. Những tổn thất nào có nguyên nhân trực tiếp là những rủi ro
được bảo hiểm gây ra thì mới được bảo hiểm bồi thường.
1.2.2. Các loại tổn thất:
Tổn thất trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển là những thiệt hại hư hỏng của hàng hoá được bảo hiểm do rủi ro
gây ra.
* Căn cứ vào quy mô và mức độ của tổn thất: người ta chia ra tổn thất bộ

phận và tổn thất toàn bộ.
o Tổn thất bộ phận: Là sự mất mát hoặc giảm giá trị và giá trị sử
dụng của hàng hoá nhưng chưa ở mức độ mất hoặc giảm hoàn
toàn. Tổn thất bộ phận được chia ra 4 trường hợp sau:
- Giảm về số lượng: Hàng hoá bị thiếu bao thiếu kiện.
- Giảm về trọng lượng: Hàng hoá còn nguyên bao nhưng bị mốc rách.
- Giảm về giá trị: Số lượng, trọng lượng của hàng hoá có thể còn nguyên
nhưng giá trị thì không còn được như lúc đầu, ví dụ như trường hợp lương
thực thực phẩm bị ngấm nước dẫn đến mốc, ẩm…
Có hai loại tổn thất toàn bộ là tổn thất toàn bộ thực tế và tổn thất toàn bộ
ước tính.
- Tổn thất toàn bộ thực tế: là toàn bộ đối tượng bảo hiểm theo một hợp
đồng bảo hiểm bị hư hỏng, mất mát, thiệt hại hoặc bị biến chất, biến dạng
không còn như lúc mới được bảo hiểm hay bị mất đi, bị tước đoạt không lấy
lại được nữa. Chỉ có tổn thất toàn bộ thực tế trong 4 trường hợp sau đây:
Chuyên đề tốt nghiệp - Nguyễn Thị Thu Trang B, lớp Q14H
+ Hàng hoá bị huỷ hoại hoàn toàn.
+ Hàng hoá bị tước đoạt không lấy lại được.
+ Hàng hoá không còn là vật thể bảo hiểm.
+ Hàng hoá ở trên tàu được tuyên bố là mất tích.
- Tổn thất toàn bộ ước tính: là trường hợp đối tượng bảo hiểm bị thiệt
hại, mất mát chưa tới mức độ toàn bộ thực tế, nhưng không thể tránh khỏi tổn
thất toàn bộ thực tế, hoặc nếu bỏ thêm chi phí cứu chữa thì chi phí cứu chữa
có thể bằng hoặc lớn hơn giá trị bảo hiểm. Khi gặp trường hợp này tốt nhất
chủ hàng sẽ thông báo từ bỏ lô hàng và bảo hiểm phải bồi thường tổn thất cho
các bên và quyền sở hữu lô hàng này thuộc về bảo hiểm.
* Căn cứ vào quyền lợi bảo hiểm: Tổn thất được chia làm 2 loại:
o Tổn thất riêng: là loại tổn thất chỉ gây ra thiệt hại cho một hoặc
một số quyền lợi của các chủ hàng và chủ tàu trên một con tàu.
Như vậy, tổn thất riêng, ngoài thiệt hại vật chất còn phát sinh các

chi phí liên quan đến tổn thất riêng nhằm hạn chế những hư hại khi
tổn thất xảy ra. Những chi phí đó gọi là tổn thất chi phí riêng.
Nếu tổn thất riêng thuộc phạm vi bảo hiểm, người bảo hiểm có trách
nhiệm phải bồi thường thiệt hại cho những tổn thất riêng này, đồng thời cũng
phải chi trả những chi phí có liên quan đến tổn thất riêng. Những chi phí này
bao gồm: chi phí xếp dỡ hàng, gửi hàng, phân loại hàng hoá, thay thế bao bì
đối với những lô hàng bị tổn thất. Những chi phí tổn thất riêng này nhằm hạn
chế và giảm bớt tổn thất riêng.
o Tổn thất chung: là những hy sinh hay chi phí đặc biệt được tiến
hành một cách cố ý và hợp lý nhằm mục đích cứu tàu và hàng hoá
chở tàu thoát khỏi một sự nguy hiểm chung đối với chúng. Nói
Chuyên đề tốt nghiệp - Nguyễn Thị Thu Trang B, lớp Q14H
một cách khác, tổn thất chung là loại tổn thất liên quan đến tất cả
các quyền lợi trên một con tàu và vì vậy nó phải được phân bổ một
cách chính xác cho tất cả các quyền lợi trên con tàu đó. Để phân
bổ được phải xác định chính xác giá trị tổn thất chung. Giá trị tổn
thất chung bao gồm 2 bộ phận: giá trị hy sinh tổn thất chung và chi
phí tổn thất chung.
- Hy sinh tổn thất chung: là sự hy sinh một phần tài sản để cứu những tài
sản còn lại. Hy sinh tổn thất chung phải thoả mãn đồng thời 3 điều kiện sau:
+ Tài sản hy sinh tổn thất chung phải mang tính cố ý (cố ý gây ra tổn thất
nhưng vẫn được bảo hiểm).
+ Hậu quả phải vì sự an toàn chung của các quyền lợi trên tàu.
+ Hy sinh tổn thất chung phải trong trạng thái cấp bách.
- Chi phí tổn thất chung: là những chi phí phải trả cho người thứ ba trong
việc cứu tàu và hàng hoá thoát nạn hoặc chi phí làm cho tàu tiếp tục hành
trình. Chi phí tổn thất chung bao gồm: chi phí cứu nạn, chi phí làm nổi tàu khi
bị mắc cạn, chi phí thuê kéo, lai, dắt tàu khi bị nạn.
1.3. Nội dung cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu vận chuyển bằng đường biển

1.3.1. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm
a. Đối tượng bảo hiểm
Cũng như các nghiệp vụ khác, việc xác định đúng đối tượng bảo hiểm sẽ
cho phép giải quyết bồi thường một cách thuận lợi, nhanh chóng. Trong hoạt
động xuất nhập khẩu thì hàng hoá có nhiều khả năng gặp rủi ro cho nên các
thương gia phải mua bảo hiểm cho hàng hoá vận chuyển bằng đường biển.
Chuyên đề tốt nghiệp - Nguyễn Thị Thu Trang B, lớp Q14H
Như vậy, đối tượng của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển là các hàng hoá xuất nhập khẩu.
ở Việt Nam,căn cứ vào Quyết định số 254/TCCDBN ngày 25/5/1990 của
Bộ Tài chính, hàng hoá xuất nhập khẩu hoạt động trong vòng nội thuỷ và
hàng hải Việt Nam không phân biệt thành phần kinh tế đều có thể tham gia
bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm được Bộ Tài chính cấp giấy phép hoạt
động.
b. Phạm vi bảo hiểm
Phạm vi bảo hiểm là giới hạn rủi ro được bảo hiểm và cũng là giới hạn
trách nhiệm của công ty bảo hiểm. Hàng hoá được bảo hiểm theo điều kiện
nào thì chỉ những rủi ro tổn thất quy định trong điều kiện đó mới được bồi
thường. Phạm vi trách nhiệm càng rộng thì những rủi ro được bảo hiểm càng
nhiều và kéo theo mức phí lớn.
Căn cứ vào các điều khoản bảo hiểm ICC (Institule Casgo Claude)
1/1/1982, để phù hợp với tình hình thực tế tại Việt Nam đối với quá trình bốc
dỡ vận chuyển hàng hoá ở các cảng Việt Nam, Bộ Tài chính đã ban hành Quy
tắc chung về bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển gọi tắt là QTC
1990. Quy tắc này được xây dựng trên cơ sở điều khoản ICC 1/1/1982. Đối
với hàng hoá nhập khẩu từ các cảng nước ngoài về Việt Nam thường được
bảo hiểm theo QTC 1990.
Để phù hợp với tập quán quốc tế, khi bán bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu, Công ty Bảo Việt thường áp dụng ICC 1/1/1982. Khi hàng hoá có tổn
thất, người nhận hàng dễ dàng nhận biết ngay được hàng hoá bị tổn thất đó có

nằm trong phạm vi bảo hiểm hay không.
1.3.2. Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm.
a. Giá trị bảo hiểm.
Chuyên đề tốt nghiệp - Nguyễn Thị Thu Trang B, lớp Q14H
Giá trị bảo hiểm của hàng hoá là giá trị hàng hoá tại cảng đi "C" cộng với
phí bảo hiểm "I" và cước phí vận chuyển đến cảng "F" tức là bằng giá CIF.
Ngoài ra để thoả mãn nhu cầu của người tham gia bảo hiểm nhằm đảm bảo
quyền lợi của họ, người được bảo hiểm có thể bảo hiểm thêm cả các khoản lãi
dự tính do việc xuất, nhập khẩu mang lại.
Giá trị bảo hiểm lúc đó sẽ là CIF + 10% CIF.
Công thức xác định giá giá trị theo giá CIF
Ta có: I = R.CIF
Trong đó:
- I : là phí bảo hiểm
- R : là tỷ lệ phí
- CIF : giá trị của lô hàng được nhập về.

R
FC
FCIFRCFICCIF

+
=++=++=
1
.
=> Giá trị bảo hiểm (V) = giá CIF =
R
FC

+

1
Trong đó:
C (Cost) : Giá hàng được tính bằng giá FOB ở cảng đi
F (Freight) : Cước phí vận chuyển
Nếu bảo hiểm cả phần lãi dự tính thì:
( ) . (1 )
1
C F a
V
R
+ +
=

Trong đó: a là số % lãi dự tính
b. Số tiền bảo hiểm:
Chuyên đề tốt nghiệp - Nguyễn Thị Thu Trang B, lớp Q14H
Số tiền bảo hiểm là số tiền đăng ký bảo hiểm được ghi trong hợp đồng
bảo hiểm. Giá trị bảo hiểm là cơ sở của số tiền bảo hiểm, người tham gia có
thể mua bảo hiểm bằng giá trị bảo hiểm (bảo hiểm đúng giá trị) nhỏ hơn giá
trị bảo hiểm (bảo hiểm dưới giá trị) hoặc mua bảo hiểm với số tiền bảo hiểm
lớn hơn giá trị bảo hiểm (bảo hiểm trên giá trị).
Về nguyên tắc số tiền bảo hiểm có thể nhỏ hơn hoặc bằng giá trị bảo
hiểm, nếu số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm thì phần lớn hơn thực
chất chỉ là bảo hiểm phần lãi dự kiến. Ngược lại nếu số tiền bảo hiểm nhỏ hơn
giá trị bảo hiểm tức là người được bảo hiểm tự bảo hiểm lấy một phần thì
người bảo hiểm cũng chỉ bồi thường trong phạm vi số tiền bảo hiểm sẽ bồi
thường theo tỉ lệ giữa số tiền bảo hiểm và giá trị bảo hiểm.
Nếu đối tượng bảo hiểm được bảo hiểm trùng nghĩa là cùng một rủi ro
cùng một giá trị bảo hiểm nhưng lại bảo hiểm tại nhiều công ty thì trách
nhiệm của các công ty bảo hiểm cũng chỉ giới hạn trong số tiền bảo hiểm.

Như vậy, số tiền bảo hiểm cùng với điều kiện bảo hiểm sẽ giới hạn trách
nhiệm của các công ty bảo hiểm đối với các hợp đồng bảo hiểm.
c. Phí bảo hiểm:
Phí bảo hiểm là một khoản tiền nhỏ mà người được bảo hiểm phải trả
cho người bảo hiểm để được bồi thường khi có tổn thất do các rủi ro được bảo
hiểm gây ra. Thực chất phí bảo hiểm là giá cả của sản phẩm bảo hiểm.
Phí bảo hiểm thường được tính trên cơ sở xác suất rủi ro gây ra tổn thất
hoặc trên cơ sở thống kê tổn thất nhằm đảm bảo trang trải bồi thường và đảm
bảo có lãi. Căn cứ thứ hai rất quan trọng khi tính phí là giá trị bảo hiểm hoặc
số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm (P) được xác định như sau:
R
R
aFC
P *
1
)1(.)(

++
=
(Nếu bảo hiểm có lãi dự tính)
Chuyên đề tốt nghiệp - Nguyễn Thị Thu Trang B, lớp Q14H
Hay
RCIFR
R
FC
P **
1
=

+

=
(Nếu không bảo hiểm lãi dự tính)
Tỉ lệ phí bảo hiểm được ghi trong hợp đồng bảo hiểm theo thoả thuận
giữa người tham gia bảo hiểm và người bảo hiểm.
1.3.3. Điều kiện bảo hiểm:
Điều kiện bảo hiểm là những điều quy định phạm vi trách nhiệm của
người bảo hiểm đối với tổn thất của hàng hoá. Hàng được bảo hiểm theo điều
kiện bảo hiểm nào, chỉ những rủi ro tổn thất quy định trong điều kiện đó mới
được bồi thường. Sau đây là các điều kiện bảo hiểm của Viện những người
bảo hiểm Luân Đôn (Institute of London Underwriters - ILU).
a. Hệ điều kiện bảo hiểm ra đời năm 1963:
Ngày 01/01/1963, ILU xuất bản ba điều kiện bảo hiểm hàng hoá là FPA,
WA và AR. Các điều kiện bảo hiểm này được áp dụng rộng rãi trong hoạt
động thương mại quốc tế.
* Điều kiện bảo hiểm FPA (Free from Particular Average) - (Điều kiện
bảo hiểm miễn tổn thất riêng).
Trách nhiệm bảo hiểm của FPA bao gồm:
- Tổn thất toàn bộ do thiên tai, tai nạn bất ngờ trên biển hoặc dỡ hàng tại
cảng lánh nạn thuộc tổn thất riêng.
- Tổn thất bộ phận vì thiên tai, tai nạn bất ngờ trên biển hoặc dỡ hàng tại
cảng lánh nạn do rủi ro chính đem lại.
- Mất nguyên kiện hàng trong quá trình xếp dỡ, chuyển tải.
- Bồi thường các chi phí sau:
+ Chi phí đóng góp tổn thất chung.
+ Chi phí cứu nạn.
Chuyên đề tốt nghiệp - Nguyễn Thị Thu Trang B, lớp Q14H
+ Chi phí đề phòng, hạn chế tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm do người thứ
ba không phải là người được bảo hiểm hay người làm công của họ gây nên.
+ Chi phí giám định tổn thất nếu tổn thất này do rủi ro được bảo hiểm
gây ra.

+ Chi phí tố tụng khiếu nại.
* Điều kiện bảo hiểm WA (With Particular Average) - (Điều kiện bảo
hiểm tổn thất riêng).
Theo điều kiện bảo hiểm WA, công ty bảo hiểm đề ra mức miễn thường
và giải quyết theo các nguyên tắc sau:
- Không đề cập mức miễn thường tổn thất do rủi ro chính, rủi ro chiến
tranh, đình công và các rủi ro phụ do con người gây ra.
- Không cộng tác chi phí để đạt mức miễn thường, chỉ tính tổn thất thực tế.
- Được tính các tổn thất liên tiếp xảy ra để đạt mức miễn thường.
- Mỗi sà lan được coi là một con tàu để tính mức miễn thường.
-Người được bảo hiểm có quyền chọn cách tính mức miễn thường có lợi
nhất cho mình để được bồi thường nhiều hơn.
* Điều kiện bảo hiểm AR (All Ricks) - (Điều kiện bảo hiểm mọi rủi ro)
Phạm vi bảo hiểm của điều kiện bảo hiểm AR ngoài các rủi ro tổn thất và
chi phí của điều kiện bảo hiểm WA thì còn mở rộng thêm các rủi ro phụ.
Người bảo hiểm không áp dụng mức miễn thường.
b. Hệ điều kiện bảo hiểm ra đời năm 1982.
Ngày 01/01/1982, ILU xuất bản các điều kiện bảo hiểm mới thay thế các
điều kiện bảo hiểm hàng hoá mới bao gồm:
- Institute Cargo Clauses C (ICC-C) - Điều kiện bảo hiểm C.
Chuyên đề tốt nghiệp - Nguyễn Thị Thu Trang B, lớp Q14H
- Institute Cargo Clauses B (ICC-B) - Điều kiện bảo hiểm B.
- Institute Cargo Clauses A (ICC-A) - Điều kiện bảo hiểm A.
- Institute War Clauses C - Điều kiện bảo hiểm chiến tranh.
- Institute Strikes Clauses C (ICC-C) - Điều kiện bảo hiểm đình công.
Nội dung cụ thể của các điều kiện bảo hiểm mới như sau:
* Điều kiện bảo hiểm C (Institute Cargo Clauses C - ICC-C).
-> Rủi ro được bảo hiểm (Ricks covered): trừ các rủi ro loại trừ được quy
định dưới đây, điều kiện này bao gồm:
- Cháy hoặc nổ.

- Tàu bị mắc cạn, chạm đất, bị đắm hoặc lật úp.
- Tàu đâm va nhau hoặc tàu, sà lan, phương tiện vận chuyển đâm va phải
vật thể khác không phải là nước.
- Dỡ hàng tại cảng lánh nạn
- Tổn thất chung.
- Phần trách nhiệm mà người được bảo hiểm phải chịu theo điều khoản
hai tàu đâm va nhau đều có lỗi (Both to Blame Collisim Clause) quy định
trong hợp đồng vận tải.
-> Rủi ro loại trừ (Exclusions).
Trong mọi trường hợp, người bảo hiểm không bồi thường những rủi ro
sau đây:
- Tổn thất hay tổn hại do hành vi xấu, cố ý của người bảo hiểm.
- Rò rỉ, hao hụt thông thường về trọng lượng, khối lượng hoặc hao mòn
tự nhiên của đối tượng bảo hiểm.
- Mất mát, hư hỏng hoặc chi phí do bao bì đầy đủ hoặc không thích hợp.
Chuyên đề tốt nghiệp - Nguyễn Thị Thu Trang B, lớp Q14H
- Mất mát, hư hỏng hoặc hci phí do nội tỷ (Inherent vice) hoặc bản chất
của đối tượng bảo hiểm.
- Mất mát, hư hỏng hoặc chi phí mà nguyên nhân là chậm trễ, cho dù
chậm trễ là do một rủi ro được bảo hiểm gây nên.
- Mất mát, hư hỏng hoặc chi phí do tình trạng không trả được nợ hoặc
thiếu thốn về mặt tài chính của chủ tàu, người quản lý tàu, người thuê tàu
hoặc người khai thác tàu.
- Thiệt hại cố ý hoặc sự phá hoại cố ý đối tượng được bảo hiểm do hành
động phạm pháp của bất kỳ người nào.
- Mất mát, hư hỏng hoặc chi phí do việc sử dụng bất kỳ một vũ khí chiến
tranh nào có dùng đến năng lượng nguyên tử, hạt nhân hoặc các chất phóng xạ.
- Trong mọi trường hợp, bảo hiểm này không bảo hiểm những mất mát,
hư hỏng hoặc hi phí do tàu hoặc xà lan không đủ khả năng đi biển; tàu, xà lan,
các phương tiện vận tải khác, container, toa xe không thích hợp cho việc vận

chuyển an toàn hàng hoá bảo hiểm mà người được bảo hiểm hoặc người làm
công của họ đã biết tình trạng không đủ đi biển hoặc không thích hợp đó vào
lúc xếp hàng lên các phương tiện và công cụ vận tải nói trên.
- Tổn thất xảy ra do chiến tranh, nội chiến, cách mạng, nổi loạn, khởi nghĩa
hoặc hành động thù địch gây ra bởi hoặc chống lại một thế lực tham chiến.
- Tổn thất do bị chiếm giữ, tịch thu, bị bắt, bị kiềm chế (không kể cướp
biển) và hậu quả của những hành động đó.
- Tổn thất do bom, mìn, ngư lôi hoặc các vũ khí chiến tranh khác còn sót
lại trong các cuộc chiến tranh.
- Tổn thất được gây ra bởi người đình công, công nhân bị cấm xưởng
hoặc những người tham gia gây rối loạn lao động, bạo động hoặc nổi loạn.
Chuyên đề tốt nghiệp - Nguyễn Thị Thu Trang B, lớp Q14H
- Tổn thất xảy ra do bạo động chính trị, động cơ chính trị.
* Điều kiện bảo hiểm B (ICC-B)
Ngoài những rủi ro được bảo hiểm như điều kiện còn bảo hiểm thêm các
rủi ro sau đây: động đất, núi lửa phun, sét đánh, nước cuốn khỏi tàu; nước
biển, sông, hồ xâm nhập vào hầm tàu, xà lan, phương tiện vận tải, container,
toa xe hoặc nơi chứa hàng, tổn thất nguyên kiện hàng do rơi khỏi tàu hoặc
trong quá trình xếp dỡ.
Các điều kiện giống như điều kiện C.
* Điều kiện bảo hiểm A (ICC-A)
- Rủi ro được bảo hiểm: mọi mất mát hoặc hư hỏng của đối tượng bảo
hiểm trừ các rủi ro loại trừ dưới đây.
- Rủi ro loại trừ: cơ bản giống như điều kiện B và C, trừ rủi ro "thiệt hại
cố ý hoặc phá hoại". Rủi ro này vẫn được bồi thường theo điều kiện A.
Các nội dung khác: giống như điều kiện bảo hiểm B và C.
1.3.4. Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển.
a. Khái niệm và tính chất của hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm là một văn bản trong đó người bảo hiểm cam kết bồi

thường cho người được bảo hiểm những mất mát, thiệt hại của đối tượng bảo
hiểm do một rủi ro được bảo hiểm gây nên còn người được bảo hiểm cam kết
trả phí bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm là giấy tờ có giá trị pháp lý cao, nó quy định quyền
lợi và nghĩa vụ của các bên và là cơ sở quan trọng để giải quyết tranh chấp,
khiếu nại sau này.
Chuyên đề tốt nghiệp - Nguyễn Thị Thu Trang B, lớp Q14H
Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển mang tính
chất là một hợp đồng bồi thường (contract of indemnity) và là một hợp đồng
tín nhiệm (contract of good faith). Thể hiện như sau:
- Khi tổn thất xảy ra do các rủi ro được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo
hiểm sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm nhằm khôi phục lại vị thế tài
chính của họ. Đây là tính chất bồi thường của hợp đồng bảo hiểm.
- Tính chất tín nhiệm thể hiện ở chỗ:
+ Phải có lợi ích bảo hiểm (Insurable interest) mới ký kết hợp đồng bảo
hiểm. Lợi ích bảo hiểm không nhất thiết phải ký kết hợp đồng nhưng phải có
khi xảy ra tổn thất.
+ Người được bảo hiểm phải thông báo mọi chi tiết về hàng hoá, mọi
thay đổi làm tăng hoặc giảm rủi ro cho người bảo hiểm biết.
+ Khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, nếu hàng hoá đã bị tổn thất mà người
được bảo hiểm đã biết thì hợp đồng bảo hiểm sẽ vô hiệu lực, ngược lại người
được bảo hiểm chưa biết hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm coi như được ký kết khi người bảo hiểm chấp nhận
văn bản. Văn bản đó là đơn bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm. Chúng
là chứng từ có thể lưu thông được (Negotiable) và có thể chuyển nhượng
được cho người khác bằng cách ký hậu.
b. Các loại hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm được chia làm 2 loại: hợp đồng bảo hiểm chuyến và
hợp đồng bảo hiểm bao.
* Hợp đồng bảo hiểm chuyến (Voyage Policy):

Hợp đồng bảo hiểm chuyến là hợp đồng bảo hiểm cho một chuyến hàng
từ một nơi này đến một nơi khác ghi trên hợp đồng bảo hiểm. Trách nhiệm
Chuyên đề tốt nghiệp - Nguyễn Thị Thu Trang B, lớp Q14H
của người bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm bắt đầu và kết thúc theo điều
khoản "từ kho đến kho". Hợp đồng bảo hiểm chuyến thể hiện bằng đơn bảo
hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm do công ty bảo hiểm cấp. Đơn bảo hiểm
và giấy chứng nhận bảo hiểm đều có giá trị pháp lý như nhau nhưng về hình
thức và cách sử dụng có khác nhau.
Nội dung của đơn bảo hiểm gồm hai mặt:
Mặt 1 ghi các chi tiết về hàng hoá, tàu, hành trình, người bảo hiểm và
người được bảo hiểm, thường gồm các nội dung sau đây:
- Tên, địa chỉ của người bảo hiểm và người được bảo hiểm.
- Tên hàng, số lượng, trọng lượng, số vận tải.
- Tên tàu, ngày khởi hành.
- Cảng đi, cảng đến, cảng chuyển tải.
- Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm.
- Điều kiện bảo hiểm (ghi rõ theo quy tắc nào, của nước nào).
- Tỷ lệ phí bảo hiểm, phí bảo hiểm.
- Nơi và cách thức bồi thường.
- Ngày tháng, chữ ký của công ty bảo hiểm, phương thức và địa điểm trả
tiền bồi thường. Trong trường hợp nơi đến của khách hàng ghi trong đơn bảo
hiểm là một địa điểm nằm sâu trong nội địa, nghĩa là sau khi đến cảng cuối
cùng phải chuyển tiếp bằng phương tiện khác đến địa điểm đã định và đến
đây mới hết trách nhiệm của người bảo hiểm, trong trường hợp này phải tăng
thêm phụ phí bảo hiểm vì ngoài rủi ro trên đoạn đường phụ trong toàn bộ
hành trình được bảo hiểm.
Mặt 2 in sẵn quy tắc, thể lệ bảo hiểm của Công ty bảo hiểm có liên quan.
Giấy chứng nhận bảo hiểm chỉ có nội dung như mặt 1 của đơn bảo hiểm.
Chuyên đề tốt nghiệp - Nguyễn Thị Thu Trang B, lớp Q14H
Để thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ, ngày ghi trên đơn

bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm không được muộn hơn ngày xếp hàng
lên tàu hoặc ngày nhận hàng để chở, loại tiền phải giống loại tiền trong thư tín
dụng trừ khi có quy định khác.
Khi xuất trình để thanh toán, phải xuất trình trọn bộ (Full set) hoặc một
bản gốc duy nhất (A sole original) cho ngân hàng.
* Hợp đồng bảo hiểm bao (còn gọi là hợp đồng bảo hiểm mở) - (Open
policy, Floating policy, Open cover).
Hợp đồng bảo hiểm bao là hợp đồng bảo hiểm nhiều chuyến hàng trong
một thời gian nhất định, thường là một năm. Đối với các chủ hàng có khối
lượng hàng hoá xuất nhập khẩu lớn và ổn định, thông thường họ ký kết với
công ty bảo hiểm một hợp đồng bảo hiểm bao, trong đó người bảo hiểm cam
kết sẽ bảo hiểm tất cả các chuyến hàng xuất nhập khẩu trong năm.
Trong hợp đồng bảo hiểm bao hai bên chỉ thoả thuận với nhau những vấn
đề chung như: tên hàng được bảo hiểm, loại tàu chở hàng, cách tính giá trị
bảo hiểm, số tiền bảo hiểm tối đa cho mỗi chuyến và điều kiện bảo hiểm, cách
thức thanh toán phí bảo hiểm và tiền bồi thường cấp chứng từ bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm bao có lợi ích cho cả người bảo hiểm và người được
bảo hiểm. Người bảo hiểm đảm bảo tu được khoản chi phí bảo hiểm trong
thời hạn bảo hiểm. Người được bảo hiểm vẫn được bồi thường nếu tàu đã bị
tai nạn rồi mà chưa kịp thông báo bảo hiểm, phí bảo hiểm rẻ hơn.
Trong hợp đồng bảo hiểm bao có thể quy định một hạn ngạch của số tiền
bảo hiểm (Floating policy), khi hết số tiền bảo hiểm đó hợp đồng sẽ hết hiệu lực.
Trong hợp đồng bảo hiểm bắt buộc phải có 3 điều kiện cơ bản sau:
Chuyên đề tốt nghiệp - Nguyễn Thị Thu Trang B, lớp Q14H
- Điều kiện xếp hạng tàu được thuê chuyên chở hàng hoá sẽ được bảo
hiểm. Tàu phải có cấp hạng cao và nếu do 10 hãng đăng kiểm nổi tiếng trên
thế giới cấp mới được chấp nhận một cách tuyệt đối. Tàu có khả năng đi biển
bình thường và tuổi tàu thấp hơn 15 năm.
- Điều kiện về giá trị bảo hiểm, người được bảo hiểm phải kê khai giá trị
hàng theo từng chuyến về số kiện, giá CIF hoặc giá FOB, số hợp đồng mua

bán, số thư tín dụng L/C, ngày mở giá trị L/C, số vận đơn B/L.
- Điều kiện về quan hệ tinh thần thiện chí nghĩa là đã mua bảo hiểm bao
của người bảo hiểm nào thì trong thời gian đó không được phép mua bảo
hiểm hàng hoá của người khác.
Trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm bao, mỗi lần vận
chuyển hàng hoá người tham gia vận chuyển phải gửi giấy báo vận chuyển
cho người bảo hiểm. Sau khi cấp đơn bảo hiểm thấy có điều gì cần phải bổ
sung thì thông báo cho công ty bảo hiểm, công ty bảo hiểm sẽ cấp giấy bảo
hiểm bổ sung, giấy này có giá trị bằng đơn bảo hiểm và không thể tách rời
khỏi đơn bảo hiểm.
1.3.5. Công tác giám định – bồi thường tổn thất:
a. Công tác giám định tổn thất
Giám định tổn thất là việc làm của các chuyên viên giám định, của
người bảo hiểm hoặc của các Công ty giám định được người bảo hiểm
uỷ quyền nhằm xác định mức độ và nguyên nhân của tổn thất, làm cơ sở
cho việc bồi thường. Giám định tổn thất được tiến hành khi hàng hoá bị
hư hỏng, đổ vỡ, thiếu hụt, giảm phẩm chất, thối… ở cảng đến hoặc tại
cảng dọc đường và do người được bảo hiểm yêu cầu. Những tổn thất
Chuyên đề tốt nghiệp - Nguyễn Thị Thu Trang B, lớp Q14H
như do tầu đắm, hàng mất, giao thiếu hàng hoặc không giao thì cũng
không cần phải giám định và cũng không thể giám định được.
Mục đích của giám định tổn thất là:
- Xác định loại tổn thất, nguyên nhân gây ra tổn thất cho hàng hoá.
Giám định giúp xác rõ loại tổn thất là do hư hỏng, đổ vỡ, thiếu hụt
hay ẩm mốc… Nguyên nhân tổn thất có nhiều loại, có thể do bốc xếp
cẩu thả, do đâm va, bão lụt, do thông giờ không tốt, do bản thân hàng bị
ẩm ướt…
- Xác định trách nhiệm tổn thất thuộc về ai.
Giám định chính xác, trung thực kết quả nói lên người phải chịu
trách nhiệm và bồi thường tổn thất cho hàng hoá, khiến họ không thể từ

chối trách nhiệm của mình. Đó có thể là người mua, người bán, người
vận tải, người bảo hiểm hoặc cơ quan giao nhận cảng.
- Giám định tổn thất là cơ sở tiến hành khiếu nại đòi bồi thường và
giải quyết khiếu nại.
Yêu cầu của công tác giám định tổn thất phải:
- Kịp thời đầy đủ, trung thực và kết quả nhằm xác định chính xác
nguyên nhân tổn thất.
- Bám sát hiện trường để phản ánh được cụ thể tình hình tổn thất
của tài sản bảo hiểm.
- Có ý kiến tham gia với người nhận hàng trong các khâu: cứu
chữa, xử lý hàng hư hỏng, để phòng và giảm nhẹ tổn thất, bốc dỡ giao
nhận, yêu cầu về bao bì hàng hoá khiếu nại người thứ ba có trách nhiệm
đối với hàng hoá tổn thất.
b. Công tác bồi thường tổn thất.
Chuyên đề tốt nghiệp - Nguyễn Thị Thu Trang B, lớp Q14H
Sau khi lập được biên bản giám định, người bảo hiểm tiến hành giám
định bồi thường. Đây là công đoạn rất quan trọng và nhạy cảm vì nó gắn
liền với lợi ích của cả người được bảo hiểm và người bảo hiểm vì vậy việc
giám định bồi thường phải đáp ứng được một số nguyên tắc sau.
- Nhanh chóng, kịp thời: để giúp khách hàng nhanh chóng khôi
phục hoạt động kinh doanh một cách hiệu quả nhất.
- Kết quả chính xác: Phải tuân theo những điều kiện, điều khoản
của hợp đồng bảo hiểm và thực tế thiệt hại.
- Công bằng, trung thực: Phải dựa trên tình huống tai nạn, quan hệ
hợp tác mà giám định bồi thường linh hoạt, thoả mãn những yêu cầu hợp
lý của khách hàng.
Ngoài ra, trong quá trình giám định cần đảm bảo một số yêu cầu sau:
- Tờ trình bồi thường phải thực hiện đầy đủ chi tiết về khiếu nại,
nguyên nhân phạm vi tổn thất, số tiền khiếu nại và số tiền bồi thường
cùng ý kiến nhận xét của cán bộ thường về toàn bộ khiếu nại.

- Trong trường hợp mỗi Công ty tính toán tổn thất đánh giá khiếu
nại thì hai biên bản giám định của Công ty tính toán tổn thất sẽ là cơ sở
cho việc giải quyết bồi thường.
- Nếu số tiền bồi thường vượt quá phân cấp, phải thông báo và xin
ý kiến chỉ đạo của Tổng công ty trước khi giải quyết bồi thường.
Chuyên đề tốt nghiệp - Nguyễn Thị Thu Trang B, lớp Q14H
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM
HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU VẬN CHUYỂN BẰNG
ĐƯỜNG BIỂN TẠI CÔNG TY BẢO VIỆT HÀ NỘI
2.1. Vài nét về Tổng công ty Bảo Việt và Công ty Bảo Việt Hà Nội:
Có thể nói lịch sử phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu ở Việt Nam được gắn liền với sự ra đời và phát triển của ngành bảo
hiểm nước ta. Kể từ khi bảo hiểm Việt Nam ra đời cho đến nay, nghiệp vụ
bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu luôn là một loại hình bảo hiểm chủ yếu và
chiếm tỉ trọng cao trong tổng phí bảo hiểm toàn thị trường. Bảo hiểm hàng
hoá xuất nhập khẩu ở Việt Nam có thể được nhìn nhận theo hai giai đoạn phát
triển.
Thời kỳ bảo hiểm hoạt động theo cơ chế độc quyền Nhà nước. Giai đoạn
này chỉ có một tổ chức bảo hiểm duy nhất là bảo hiểm hoạt động phục vụ bảo
hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu theo nghị định thư. Quy mô và phạm vi bảo
hiểm của thời kỳ này còn rất nhiều hạn chế, hoạt động của thị trường không
có sự cạnh tranh.
Thời kỳ bảo hiểm hoạt động trong nền kinh tế thị trường: Vào những
năm cuối thập niên 80, với chính sách kinh tế mở, cùng với nhịp độ phát triển
của nền kinh tế, ngành bảo hiểm đã có những bước phát triển đáng kể. Đứng
trước yêu cầu đa dạng hoá các loại hình kinh doanh bảo hiểm phục vụ cho
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn
định và nhằm khai thác tốt hơn tiềm năng bảo hiểm trong nước để đầu tư lại
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nghị định 100/CP

ngày 18/12/1993 của Chính phủ về hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã được
Chuyên đề tốt nghiệp - Nguyễn Thị Thu Trang B, lớp Q14H
ban hành. Sau khi Nghị định này ra đời, hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo
hướng thị trường mở trên thị trường bảo hiểm Việt Nam đã bắt đầu phát triển,
nhiều công ty bảo hiểm mới ra đời trên thị trường đã có sự cạnh tranh gay gắt
giữa các công ty bảo hiểm để giành khách hàng và tăng doanh thu phí. Nhiều
vấn đề mới nảy sinh và bất cập trong thời kỳ này đã ảnh hưởng đến hoạt động
của các công ty bảo hiểm. Nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá
nhân và tổ chức tham gia bảo hiểm, đẩy hoạt động kinh doanh bảo hiểm, góp
phần thúc đẩy và duy trì sự phát triển bền vững của nền kinh tế - xã hội, Luật
kinh doanh bảo hiểm đã được Quốc hội thông qua ngày 09/12/2000, có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/4/2001. Sau khi Luật này được ban hành, Chính phủ
và Bộ Tài chính đã ban hành những văn bản thi hành Luật nhằm phát huy tối
đa hiệu quả của Luật kinh doanh bảo hiểm.
Thành lập ngày 15/01/1965, đến nay Bảo Việt đó trở thành tập đoàn tài
chớnh - bảo hiểm hàng đầu Việt Nam. Khụng chỉ cú mạng lưới rộng khắp
trờn toàn quốc, Bảo Việt cũn được biết đến là thương hiệu mạnh, uy tớn số 1
trong lĩnh vực bảo hiểm. Với khả năng tài chớnh mạnh, sự thụng hiểu thị
trường trong nước, Bảo Việt là doanh nghiệp duy nhất tại thị trường Việt
Nam kinh doanh cả 2 loại hỡnh bảo hiểm nhõn thọ và phi nhõn thọ. Bảo Việt
đó được cụng nhận là 1 trong 25 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam.
Bảo hiểm Bảo Việt là doanh nghiệp hạch toán độc lập - thành viên của
Tập đoàn Tài chính – Bảo hiểm Bảo Việt. Với kinh nghiệm hoạt động trên
45 năm (từ 15/01/1965) trong các lĩnh vực: Bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách
nhiệm và bảo hiểm con người; với mạng lưới 66 công ty thành viên tại tất cả
64 tỉnh, thành phố trên toàn quốc, Bảo hiểm Bảo Việt hiện chiếm gần 40%
thị phần và là doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ dẫn đầu thị trường bảo
hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam.

×