Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Nhận thức về mục tiêu đẩy mạnh CNH, hđh gắn với phát triển kinh tế tri thức của ĐCSVN qua các kỳ đại hội, ý nghĩa của vấn đề

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.19 KB, 16 trang )

Câu 20: Nhận thức về mục tiêu đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế
tri thức của ĐCSVN qua các kỳ Đại hội? Ý nghĩa của vấn đề?
Trả lời:
Trong hơn hai thập kỷ qua, thế giới đã và đang có những chuyển biến to lớn trong
lĩnh vực kinh tế - xã hội. Một trong những yếu tố đóng vai trị quyết định đối với sự
chuyển biến đó chính là sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại,
đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới... đã thúc
đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, tạo cơ sở cho bước chuyển từ kinh tế tài
nguyên sang kinh tế tri thức.
Kinh tế tri thức là thuật ngữ dùng để chỉ một giai đoạn phát triển mới của nền
kinh tế thế giới. Đó là một giai đoạn mà tri thức, thông tin trở thành yếu tố quyết định
nhất đối với sự phát triển của sản xuất; khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp và đóng vai trị quyết định hàng đầu. Từ nền kinh tế công nghiệp sang nền
kinh tế tri thức là một quá trình chuyển biến từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào tài nguyên,
vốn... sang nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri thức của con người. Đây là thời kỳ mà tri
thức và khả năng sáng tạo của con người trở thành yếu tố quyết định sự phát triển của
lực lượng sản xuất cũng như của xã hội lồi người. Có thể nói, với sự ra đời của kinh tế
tri thức, những tiên đoán thiên tài của C.Mác về “khoa học trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp”, về “giá trị của lao động cơ bắp trong sản phẩm làm ra sẽ giảm còn cực nhỏ”,
vai trò của “lực lượng sản xuất tinh thần” cũng như “sự xuất hiện của cơng nhân khoa
học”... đang có những cơ sở thực tiễn để trở thành hiện thực.
Nhận thức được xu hướng phát triển tất yếu của thời đại, Đảng ta đã đưa ra định
hướng phát triển kinh tế tri thức trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa qua các
văn kiện Đại hội Đảng. Trước năm 2000, Đảng bắt đầu đề ra đường lối cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước; đề cao vai trị của khoa học - cơng nghệ, coi đó là nền tảng
1


của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng chưa nói đến vấn đề cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức. Mặc dù đã đề ra đường lối
phát triển đất nước theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa như vậy, nhưng cho đến


năm 2000, nước ta vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ khoa học kỹ thuật tụt
hậu rất xa so với thế giới, nguồn lao động dồi dào nhưng phần nhiều chưa được đào tạo,
trình độ chuyên môn kỹ thuật rất hạn chế.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại
trên thế giới trong những thập niên cuối của thế kỷ XX và xuất phát từ nhu cầu rút
ngắn q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đại hội lần thứ IX (năm 2001)
của Đảng đã lần đầu tiên đề cập đến vấn đề phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Trong
Báo cáo tại Đại hội IX, Đảng ta khẳng định: “Kinh tế tri thức đang có vai trị ngày càng
nổi bật trong q trình phát triển của lực lượng sản xuất”(1). Điều này chứng tỏ Đảng
đã nhận thức được sự phát triển tất yếu của kinh tế tri thức và vai trò to lớn của nó đối
với sự phát triển của lực lượng sản xuất nói riêng và với nền kinh tế - xã hội nói chung.
Trên cơ sở đó, Đảng ta đã xác định cách thức phát triển của Việt Nam là kết hợp hai
bước phát triển tuần tự và nhảy vọt: “Con đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của
nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước
nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt được trình
độ cơng nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ
ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới
về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức”(2). Như vậy, tuy lần
đầu tiên thuật ngữ “phát triển kinh tế tri thức” được đưa vào đường lối, chiến lược phát
triển đất nước, nhưng Đảng đã coi phát triển kinh tế tri thức là cách thức để rút
ngắn q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để tạo ra những bước nhảy vọt.
Kế thừa tinh thần đó, tại Đại hội X (năm 2006), Đảng ta đã xác định rằng, để thực
hiện được mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
2


hiện đại vào năm 2020, cần phải “chủ trương tiếp tục hoàn thiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức”(3). Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội X, Đảng ta đã chỉ rõ: “Chúng ta
tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước

ta để rút ngắn q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan
trọng của nền kinh tế và cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển mạnh các ngành và
sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức” và “kết hợp việc sử
dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân
loại”(4). Như vậy, đến Đại hội X, Đảng ta đã gắn phát triển kinh tế tri thức với q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; coi kinh tế tri thức là một thành tố quan trọng
của nền kinh tế. Theo đó, trong các văn kiện Đảng, Đảng ta không dùng thuật ngữ nền
kinh tế tri thức mà chỉ dùng thuật ngữ kinh tế tri thức, vì kinh tế tri thức ở nước ta chỉ là
một yếu tố quan trọng của nền kinh tế đất nước chứ chưa phải là một nền kinh tế độc
lập. Quan điểm của Đại hội X về phát triển kinh tế tri thức không chỉ tiếp tục thể hiện
đường lối kết hợp hai cách thức phát triển là tuần tự và nhảy vọt đã đề ra ở Đại hội IX,
mà còn gắn phát triển kinh tế tri thức với q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay. Thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức là hai nội dung của một quá trình thống nhất và diễn ra đồng thời.
Trên cơ sở kế thừa những quan điểm của các kỳ đại hội trước về phát triển kinh tế
tri thức, tại Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục đưa ra những quan điểm cụ thể hơn về phương
hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong những năm tới. Trong Báo
cáo chính trịcủa Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội XI, khi dự báo về
tình hình thế giới và trong nước những năm sắp tới, Đảng ta đã khẳng định: “Tồn cầu
hóa và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy q trình hình
thành xã hội thơng tin và kinh tế tri thức”(5). Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta cũng
3


nhận định: “Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh quốc tế có những biến
đổi to lớn và sâu sắc. Cuộc cách mạng khoa học và cơng nghệ, kinh tế tri thức và q
trình tồn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều
nước”(6). Như vậy, khác với các kỳ đại hội trước, ở Đại hội XI, Đảng ta đã gắn quá

trình phát triển kinh tế tri thức với q trình tồn cầu hóa và sự hình thành xã hội thơng
tin.
Nói về thời kỳ q độ ở nước ta, Đảng ta đã đưa ra mục tiêu tổng quát khi kết
thúc thời kỳ quá độ ở Việt Nam là “xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ
nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở
để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”(7).
Đây là một mục tiêu cao cả, thể hiện quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân ta trong việc
hướng đến một xã hội tốt đẹp hơn, văn minh hơn. Để thực hiện được mục tiêu đó, Đảng
ta đã đưa ra 8 phương hướng cơ bản, trong đó phát triển kinh tế tri thức được đặt lên
hàng đầu, trở thành phương hướng đầu tiên: “Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường”(8). Việc đặt
phát triển kinh tế tri thức gắn với đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước lên
hàng đầu là sự phát triển quá trình nhận thức của Đảng ta về kinh tế tri thức, phù hợp
với xu thế khách quan và xuất phát từ chính nhu cầu rút ngắn q trình cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đang ngày càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết.
Ở Đại hội XI, Đảng ta đã đưa ra những phương hướng rất cụ thể để đẩy mạnh
phát triển kinh tế tri thức, coi phát triển giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
và khoa học - công nghệ là cơ sở, là nền tảng quan trọng để phát triển kinh tế tri thức:
“Phát triển kinh tế tri thức trên cơ sở phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ,
xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng khoa học, công nghệ, trước hết là công nghệ thông tin,
truyền thông, công nghệ tự động, nâng cao năng lực nghiên cứu - ứng dụng gắn với

4


phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao”(9). Đây là phương hướng tổng quát, vừa có ý
nghĩa trước mắt, vừa định hướng lâu dài trong mục tiêu phát triển kinh tế tri thức.
Để thực hiện được phương hướng tổng quát đó, Đảng ta đã đưa ra những phương
hướng cụ thể:
Thứ nhất, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh vai trò to lớn của khoa học, công nghệ đối

với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và với sự phát triển của kinh tế tri thức nói
riêng: “Phát triển khoa học, công nghệ nhằm mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình độ tiên tiến trên thế
giới”(10); “Phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức”(11). Như vậy, Đảng ta xác
định phát triển khoa học và công nghệ là một cách thức quan trọng để đẩy mạnh q
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức; đồng thời giúp nước ta
hội nhập về trình độ phát triển khoa học với các nước khác trên thế giới. Để thực hiện
được mục tiêu to lớn đó, Đảng ta đã đưa ra ba nhiệm vụ chủ yếu là: “Nâng cao năng lực
khoa học, công nghệ; đổi mới cơ chế quản lý; đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng”(12).
Ba nhiệm vụ ấy được cụ thể hóa như sau:
- Về phát triển năng lực khoa học, cơng nghệ: Phải phát triển có trọng tâm, trọng
điểm, tập trung cho những ngành, những lĩnh vực then chốt, mũi nhọn, đảm bảo đồng
bộ về cơ sở vật chất và nguồn nhân lực. Đảng ta cũng chỉ ra rằng, để thực sự nâng cao
năng lực khoa học, công nghệ của đất nước cần tăng cường sự đầu tư của Nhà nước,
của các doanh nghiệp cho sự phát triển khoa học, công nghệ.
- Về đổi mới cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động khoa học, công nghệ: Đảng xem
đây là khâu đột phá trong việc thúc đẩy sự phát triển và nâng cao hiệu quả của khoa học
và công nghệ. Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra ba cách thức cơ bản để thực hiện: Một
5


là, chuyển các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm;
phát triển các doanh nghiệp khoa học, công nghệ và không ngừng mở rộng thị trường
khoa học, công nghệ. Hai là, đổi mới cơ chế sử dụng kinh phí nhà nước, xây dựng hệ
thống tiêu chí đánh giá kết quả các chương trình, đề tài khoa học hướng vào mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội. Ba là, thực hiện đồng bộ chính sách đào tạo, thu hút, trọng
dụng, đãi ngộ xứng đáng các nhân tài trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.
- Về đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng: Đảng đã chỉ đạo cần phải phát triển đồng bộ
cả ba lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và khoa học kỹ thuật, công nghệ.

Đảng cũng nhấn mạnh rằng, cần phải “ưu tiên phát triển công nghệ cao, đồng thời sử
dụng hợp lý công nghệ sử dụng nhiều lao động”(13).
Có thể nói, trên đây là ba chiến lược phát triển khoa học và cơng nghệ khá hồn
chỉnh được Đảng ta đưa ra nhằm khắc phục những bất cập trong việc phát triển khoa
học, công nghệ ở nước ta hiện nay; đồng thời, tiếp tục thúc đẩy sự phát triển khoa học,
công nghệ trong thời gian tới để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế tri thức.
Thứ hai, với quan điểm coi “con người là trung tâm của chiến lược phát triển,
đồng thời là chủ thể phát triển”(14), Đảng ta đã xác định, phát triển nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong ba khâu đột phá chiến lược cho sự
phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới: “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố
quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh
tế, chuyển đổi mơ hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm
cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững”(15).
Để phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng được nhu cầu của quá trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, Đảng ta đã đưa ra một số
biện pháp cơ bản sau:
6


- Coi trọng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia giỏi, lao
động lành nghề, cán bộ khoa học - công nghệ.
- Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ và sự
phát triển của các lĩnh vực, các ngành nghề.
- Thực hiện sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, cơ sở sử dụng lao động,
cơ sở đào tạo và Nhà nước để phát triển nguồn nhân lực theo yêu cầu của xã hội.
- Thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đối
với các ngành nghề mũi nhọn; đặc biệt coi trọng những nhân tài, đào tạo nguồn nhân
lực cho sự phát triển kinh tế tri thức.
Thứ ba, tại Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh vai trò quan trọng của giáo

dục và đào tạo, xác định: “giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển
nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước”, coi “đầu
tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”(16). Đảng ta cũng tiếp tục khẳng định, cần
phải đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, cụ thể là:
- Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học; cách thức kiểm tra,
thi cử theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
- Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên giỏi về chuyên môn, mẫu mực về phẩm
chất đạo đức, tăng cường nguồn lực giáo viên cho các vùng sâu, vùng xa để nâng cao
dân trí cho phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước.
- Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, tăng cường cơ chế tự chủ đối với các
cơ sở giáo dục; nâng cao tính tự chịu trách nhiệm của các sở, phòng ban giáo dục.

7


- Hồn thiện cơ chế, chính sách xã hội hóa giáo dục, tăng cường công tác thanh
tra, giám sát giáo dục nhằm khắc phục những hạn chế, yếu kém trong lĩnh vực giáo dục
ở Việt Nam hiện nay.
- Nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về giáo dục nhằm thúc đẩy q trình hiện đại
hóa giáo dục.
Những biện pháp cơ bản mà Đảng ta đưa ra nhằm phát triển hơn nữa kinh tế tri
thức ở nước ta hiện nay là phát triển khoa học, công nghệ; đổi mới căn bản và hoàn
thiện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao. Ba giải pháp và cũng là định hướng này không tách rời nhau mà có mối quan hệ
qua lại, tác động lẫn nhau, cùng hướng đến việc đẩy mạnh phát triển kinh tế tri thức, rút
ngắn q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta trong thời gian tới.
Tóm lại, chủ trương đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức mà Đảng ta đưa ra ở Đại hội XI không chỉ là sự tiếp nối đường lối chiến
lược cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được đề ra trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), mà còn là bước phát triển mới

trong nhận thức của Đảng từ Đại hội IX, Đại hội X. Đặc biệt, đường lối của Đảng về
phát triển kinh tế tri thức gắn liền với q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
đã được cụ thể hóa và hồn thiện hơn ở Đại hội XI. Điều đó khơng chỉ phản ánh tư duy
tích cực đổi mới, ngày càng nắm bắt xu thế tất yếu của thời cuộc mà còn cho thấy sự
vận dụng sáng tạo của Đảng ta về phát triển kinh tế tri thức nhằm đưa nước ta trở thành
một nước công nghiệp hiện đạir
Đẩy mạnh CNH-HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức và phát triển bền vững
Vấn đề đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) gắn với phát triển
kinh tế tri thức lần đầu tiên được đề cập trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
8


thứ X của Đảng. Thực chất là quá trình CNH, HĐH “rút ngắn” dựa trên tri thức; đó vừa
là mục tiêu, vừa là phương thức để có thể thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước.
Tuy nhiên việc “rút ngắn” quá trình CNH, HĐH cũng đang đặt ra nhiều vấn đề
cần giải quyết là làm thế nào để vừa có thể đi tắt, đón đầu, vừa giữ được tính bền vững
trong từng bước phát triển. Nhận thức sâu sắc vấn đề đó trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát
triển kinh tế – xã hội 2011-2020 và Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương
khóa X được Ðại hội XI thơng qua đều rút ra bài học trong quá trình đẩy mạnh CNH,
HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức phải bảo đảm mục tiêu phát triển bền vững nền
kinh tế.
Như vậy, Đảng ta đã chú ý nhiều hơn đến tính bền vững trong quá trình thực hiện
CNH, HĐH “rút ngắn” dựa trên tri thức. Đây là một quan điểm mới, thể hiện sự đổi
mới về tư duy lý luận của Đảng trong thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung,
phát triển năm 2011) phương hướng cơ bản để thực hiện các mục tiêu của thời kỳ quá
độ đó là: “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện CNH,HĐH đất nước gắn
với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế

hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp,
dịch vụ…”(1).
Nội hàm phát triển bền vững nền kinh tế ở nước ta, Ðại hội XI xác định: Coi chất
lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là yêu cầu ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát
triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Có sự kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng
kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội, không ngừng nâng
cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội của
9


đất nước phải luôn coi trọng việc bảo vệ và cải thiện môi trường sống. Xuất phát điểm
là một nước nông nghiệp đi lên xây dựng CNXH, trong bối cảnh tồn cầu hố, để phát
triển nền kinh tế tri thức cần tiến hành đồng thời và lồng ghép hai quá trình: chuyển từ
kinh tế nơng nghiệp lên kinh tế cơng nghiệp và chuyển từ kinh tế nông – công nghiệp
lên kinh tế tri thức trong điều kiện chuyển đổi cơ chế từ kế hoạch hoá, tập trung quan
liêu sang cơ chế thị trường định hướng XHCN.
Trong thời đại kinh tế tri thức, Việt Nam có thể bỏ qua các thế hệ công nghệ
trung gian để đi ngay vào công nghệ tiên tiến, cơng nghệ cao. Song, điều đó khơng có
nghĩa cho phép chúng ta có thể chủ quan, nóng vội, đốt cháy giai đoạn mà bỏ qua
những mục tiêu của phát triển bền vững.
Quán triệt quan điểm của Đảng về đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với tri thức và phát
triển bền vững, nhằm đưa Nghị quyết vào cuộc sống đòi hỏi chúng ta cần thực hiện tốt
một số vấn đề cơ bản sau:
Một là, kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân
dân.
Trong vấn đề này cần coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng. Phấn đấu
tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, chất lượng cao và bền vững hơn, gắn với phát
triển con người; từng bước thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng
sống và bảo đảm ngày càng tốt hơn nhu cầu về văn hóa, giáo dục cho con người. Xây

dựng cơ cấu kinh tế hiện đại, hợp lý theo ngành, lĩnh vực và vùng lãnh thổ. Phát triển
mạnh các ngành, các sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức.
Vấn đề quan trọng hàng đầu là, chúng ta phải chủ động phát huy năng lực sáng tạo ở
trong nước, đồng thời phải biết tranh thủ cơ hội tiếp thu tri thức của thế giới.
10


Hai là, cải cách triệt để nền giáo dục, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
phục vụ cho phát triển kinh tế tri thức.
Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011-2020 khẳng định: Phát triển và nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá
chiến lược, là yếu tố quyết định quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mơ hình
tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh dài hạn, bảo đảm phát triển nhanh, hiệu quả, bền
vững… Phát triển nguồn nhân lực cần phải quan tâm cả phát triển con người và hiện đại
hóa hoạt động giáo dục, đào tạo.
Ở đây, phát triển con người là nền tảng, hiện đại hóa giáo dục, đào tạo là trung
tâm. Trong những năm tới, Nhà nước phải đầu tư hơn nữa để phát triển giáo dục. Thực
hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao đối với các ngành, lĩnh
vực chủ yếu, mũi nhọn. Trong đó cần: Từng bước ứng dụng những cơng nghệ mới, hiện
đại vào giảng dạy, không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo. Chú trọng đào
tạo theo hướng tăng cường ứng dụng, thực hành. Huy động mọi nguồn lực cho phát
triển giáo dục – đào tạo. Tiến hành cải tiến công tác quản lý giáo dục – đào tạo. Cải
cách giáo dục phổ thông. Tăng cường giáo dục trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.
Gắn kết quá trình đào tạo ở nhà trường với đào tạo tại các doanh nghiệp. Đổi mới giáo
dục đại học và cao đẳng theo hướng nâng cao chất lượng đào tạo và gắn kết giữa giảng
dạy, nghiên cứu và sản xuất, đáp ứng nhu cầu xã hội. Tăng nhanh đào tạo đội ngũ cán
bộ khoa học – kỹ thuật có trình độ đại học, trên đại học và đội ngũ công nhân lành
nghề, đội ngũ cán bộ quản lý, các doanh nhân. Mở rộng quan hệ hợp tác giáo dục đào
tạo và khoa học cơng nghệ với nước ngồi. Tuyển chọn đưa đi đào tạo ở các nước tiên
tiến số lượng lớn cán bộ khoa học – kỹ thuật thuộc các lĩnh vực ưu tiên chiến lược.

Ba là, phát triển mạnh về khoa học công nghệ, tăng cường năng lực khoa học
công nghệ quốc gia.
11


Cương lĩnh của Đảng nêu rõ: Phát triển mạnh khoa học, cơng nghệ làm động lực
đẩy nhanh q trình CNH, HĐH, phát triển kinh tế tri thức; góp phần tăng nhanh năng
suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững
của đất nước. Trong đó cần tập trung: Phát triển và ứng dụng rộng rãi công nghệ thông
tin, chuyển hướng phát triển các lĩnh vực trọng yếu sang chủ yếu dựa vào tri thức. Phát
triển nhanh có chọn lọc các ngành kinh tế dựa vào tri thức và công nghệ cao. Tập trung
ưu tiên đầu tư phát triển mạnh một số khu cơng nghệ cao đã và đang hình thành ở nước
ta như: Cơng viên phần mềm Sài Gịn, Quang Trung, Khu cơng nghệ cao Láng – Hồ
Lạc, trung tâm phần mềm Hải Phịng, cơng viên phần mềm Đà Nẵng, Trung tâm phần
mềm Huế… coi đây là những hình mẫu, đầu tàu của khoa học công nghệ – công nghiệp
quốc gia.
Cần đầu tư cao vào những ngành mũi nhọn của quốc gia như: công nghệ thông
tin, nhất là công nghệ phần mềm; cơng nghệ số hố, cơng nghệ năng lượng mới, vật liệu
mới, cơng nghệ sinh học… Thu hút các tập đồn xun quốc gia, có tiềm lực khoa họccơng nghệ và tài chính mạnh đầu tư vào Việt Nam, khuyến khích xây dựng các trung
tâm nghiên cứu-phát triển, tạo sự lan toả ra toàn bộ nền kinh tế.
Bốn là, phát triển kinh tế – xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện mơi
trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.
Trong điều kiện khan hiếm các nguồn tài nguyên hiện nay, CNH, HĐH tác động
không thuận đến mơi trường tự nhiên. Do đó văn kiện Đại hội XI xác định: “Đưa nội
dung bảo vệ môi trường vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực,
vùng và các chương trình, dự án đầu tư… Chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện
với môi trường; từng bước phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng
sạch”(2). Để cụ thể hóa quan điểm đó cần: Tăng cường quản lý tài nguyên đất, nước,
khoáng sản, rừng, bầu trời. Ngăn chặn các hành vi huỷ hoại môi trường, khắc phục sự
12



xuống cấp, tích cực phục hồi mơi trường, xử lý phế thải. Từng bước sử dụng công nghệ
sạch, năng lượng sạch. Phủ xanh đất trống, đồi trọc. Hiện đại hóa cơng tác nghiên cứu,
dự báo, chủ động phịng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ. Tăng cường quản lý
nhà nước bằng pháp luật, bảo vệ và cải thiện môi trường tự nhiên.
Như vậy, hướng tới các mục tiêu của phát triển kinh tế bền vững trong quá trình
CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức đã được Đại hội Đảng XI quan tâm một cách đặc
biệt. Đây đã trở thành một phần quan trọng của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên CNXH và Chiến lược phát triển của các ngành, lĩnh vực, bộ phận của
nền kinh tế ở nước ta. Đây chính là kết quả của quá trình đổi mới tư duy của Đảng ta
trong Đại hội XI.
Tại Đại hội XII của Đảng, quan điểm về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa tiếp tục có
sự bổ sung, phát triển cho phù hợp với tình hình mới của đất nước và xu thế hội nhập
quốc tế; trong đó, nổi bật là các khía cạnh chủ yếu sau:
Mục tiêu của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa được điều chỉnh cho sát với thực
tiễn. Đại hội VIII của Đảng (năm 1996), Đảng ta đã đề ra mục tiêu đến năm 2020 nước
ta sẽ trở thành “Một nước cơng nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại”. Tại Đại
hội IX của Đảng (năm 2001), mục tiêu này được diễn đạt “mềm dẻo” hơn là: “Đến năm
2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Đại hội X của
Đảng (năm 2006), một lần nữa xác định: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
phát triển kinh tế tri thức tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”1. Đại hội XI tiếp tục khẳng định “... tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại”2.
Tuy nhiên, như Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã đánh giá: “Một số chỉ tiêu kinh
tế - xã hội chưa đạt kế hoạch; nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu để đến
13



năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt
được.”3. Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ
quan. Khách quan là do tác động của khủng hoảng tài chính và suy thối kinh tế tồn
cầu; thiên tai, dịch bệnh; những diễn biến mới phức tạp của tình hình thế giới và khu
vực, tình hình căng thẳng do tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông; sự chống phá của
các thế lực thù địch, v.v. Nguyên nhân chủ quan là cuối nhiệm kỳ khóa X, kinh tế vẫn
trên đà tăng trưởng, song một số khó khăn, hạn chế và những yếu kém vốn có của nền
kinh tế chưa được đánh giá và dự báo đầy đủ, nên Đại hội XI đề ra một số chỉ tiêu,
nhiệm vụ khá cao. Nhiều hạn chế, yếu kém trong công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành
của cấp ủy, chính quyền các cấp và các bộ, ngành chậm được khắc phục; chưa chú trọng
đúng mức tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp; chưa quyết liệt trong việc tham mưu,
chỉ đạo thực hiện một số chủ trương, quan điểm phát triển đã được nêu trong Nghị
quyết Đại hội XI; năng lực dự báo còn hạn chế, cho nên một số chủ trương, chính sách,
giải pháp đề ra chưa phù hợp, v.v. Các nguyên nhân trên không thể khắc phục trong một
sớm, một chiều, nên vẫn đang là những vấn đề làm ảnh hưởng đến kết quả thực hiện các
mục tiêu kinh tế - xã hội trong nhiệm kỳ tới. Để khắc phục tình trạng đó, phương
hướng, nhiệm vụ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong 5 năm tới (2016 2020) được xác định linh hoạt hơn là: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại.”4.
Định hướng xác định hệ tiêu chí nước cơng nghiệp theo hướng hiện đại. Hiện
nay, ở nước ta chưa có một văn bản chính thống nào về một bộ tiêu chí để đánh giá và
làm thước đo mục tiêu “nước công nghiệp”, “cơ bản trở thành nước công nghiệp” và
đặc biệt là “nước cơng nghiệp theo hướng hiện đại”. Vì thế, xây dựng hệ tiêu chí “nước
cơng nghiệp theo hướng hiện đại” là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng. Bởi lẽ, tiêu
chí là thước đo khoa học để đánh giá kết quả đã đạt được một cách cụ thể, rõ ràng, khắc
phục tình trạng chủ quan, duy ý chí và là cơ sở để xác định mức độ tiếp cận hay hoàn
14


thành, phát hiện những bất cập, hạn chế, từ đó định hướng và đề ra các mục tiêu, giải

pháp thực hiện trong bước đi, giai đoạn kế tiếp. Trong bối cảnh tồn cầu hóa trở thành
xu thế khách quan; khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ đang tác động trực tiếp
đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, thì việc thực hiện cơng
nghiệp hóa ln địi hỏi phải hướng tới trình độ hiện đại, theo yêu cầu của kinh tế tri
thức và phát triển bền vững; đồng thời, phải tăng cường xây dựng nền kinh tế độc lập,
tự chủ. Theo đó, xây dựng các tiêu chí của một nước cơng nghiệp theo hướng hiện đại,
cần nghiên cứu tham khảo tiêu chí của các nền kinh tế công nghiệp mới (NICs), nhưng
phải bảo đảm phù hợp với quan điểm phát triển kinh tế - xã hội, hoàn cảnh và điều kiện
cụ thể của nước ta hiện nay. Báo cáo Chính trị tại Đại hội XII của Đảng đã tiếp cận có
chọn lọc tiêu chí nước cơng nghiệp theo hướng hiện đại của một số nước trên thế giới.
Xác định các giai đoạn của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa là cả một q trình lâu dài, cần được thực hiện thông qua nhiều
bước hay nhiều giai đoạn. Tuy nhiên, ở nước ta, từ trước đến nay, “những tư tưởng,
quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, về cơ bản, mới chỉ mang tính
định hướng chung…, lộ trình, bước đi của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa,
những nhiệm vụ trọng tâm ở từng giai đoạn chưa được xác định rõ” 8. Vì vậy, tại Đại hội
lần này, Đảng ta đã có sự bổ sung về việc phân chia các bước đi của cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa một cách phù hợp. Theo đó, “Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tiến
hành qua ba bước: tạo tiền đề, điều kiện để cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; và nâng cao chất lượng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong 5 năm tới, tiếp tục đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,...” 9. Đây là
sự bổ sung rất cần thiết, có ý nghĩa to lớn trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện đường lối
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay. Bởi vì: (1) Trên thế giới cũng đã có
sự phân chia các giai đoạn của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa để làm cơ sở cho việc xác
định các mục tiêu, nhiệm vụ trong từng giai đoạn. Giáo sư người Mỹ Hollis Chenary
Burnley chia thời kỳ công nghiệp hóa làm 3 giai đoạn: giai đoạn khởi đầu, giai đoạn
15


phát triển và giai đoạn hồn thiện, khơng kể một thời đoạn tiền cơng nghiệp hóa và một

thời đoạn hậu cơng nghiệp hóa. (2) Sự phân chia này giúp cho chúng ta nhận thức rõ
hơn nước ta đang ở giai đoạn nào của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; từ đó,
xác định mục tiêu, các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, nội dung, biện pháp, phương thức cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa phù hợp, khả thi trong từng giai đoạn. (3) Đó cũng là cơ sở để
hoạch định chiến lược phát triển các ngành công nghiệp, nhất là công nghiệp nền tảng,
công nghiệp hỗ trợ; giải quyết mối quan hệ giữa cơng nghiệp hóa và đơ thị hóa, giữa
phát triển nơng nghiệp và cơng nghiệp.
Ngày nay, trước yêu cầu cao hơn của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước,
hội nhập sâu hơn, toàn diện hơn vào đời sống kinh tế quốc tế, cuộc cạnh tranh trên
phạm vi toàn cầu sẽ rất gay gắt, chúng ta cần tập trung nhiều hơn để thực hiện đồng bộ
các giải pháp nhằm bảo đảm cho thành công của sự nghiệp CNH, HĐH gắn với phát
triển kinh tế tri thức, phát triển nhanh và bền vững của nước ta./.

16



×