Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Khảo sát khía cạnh kinh tế - kỹ thuật trong ao nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) thâm canh ở huyện Phụng Hiệp tỉnh Hậu Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (531.53 KB, 64 trang )


1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG










TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ SỐ: 304


KHẢO SÁT KHÍA CẠNH KINH TẾ - KỸ THUẬT
TRONG AO NUÔI CÁ TRA THÂM CANH
Ở PHỤNG HIỆP - HẬU GIANG


Sinh viên thực hiện:
LÊ THỊ HỒNG VẸN
MSSV: 0753040111
Nuôi trồng thủy sản 2






Cần Thơ, 2011

2

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG










TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ SỐ: 304

KHẢO SÁT KHÍA CẠNH KINH TẾ - KỸ THUẬT
TRONG AO NUÔI CÁ TRA THÂM CANH
Ở PHỤNG HIỆP - HẬU GIANG

Cán bộ hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
ThS. TẠ VĂN PHƯƠNG LÊ THỊ HỒNG VẸN
MSSV: 0753040111


Nuôi trồng thủy sản 2





Cần Thơ, 2011

3


XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG BẢO VỆ ĐỀ CƯƠNG
TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


Đề tài: Khảo sát khía cạnh kinh tế - kỹ thuật trong ao nuôi cá tra (Pangasianodon
hypophthalmus) thâm canh ở huyện Phụng Hiệp tỉnh Hậu Giang
Sinh viên thực hiện: Lê Thị Hồng Vẹn
Lớp: Nuôi trồng thủy sản K2.
Đề tài đã được hoàn thành theo yêu cầu của cán bộ hướng dẫn và hội đồng bảo vệ
khóa luận tốt nghiệp, Khoa Sinh Học Ứng Dụng – Đại Học Tây Đô.


Cần Thơ, ngày……tháng…….năm 2011
Cán bộ hướng dẫn Sinh viên thực hiện



ThS. TẠ VĂN PHƯƠNG LÊ THỊ HỒNG VẸN





Chủ tịch hội đồng






4

LỜI CẢM TẠ

Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy Tạ Văn Phương đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cho tôi hoàn thành đề tài tốt nghiệp này.
Xin chân thành biết ơn toàn thể quý Thầy, Cô của Khoa Sinh Học Ứng Dụng - Trường
Đại Học Tây Đô đã tạo điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn thành đề tài và đã truyền đạt
những kinh nghiệm quý báu trong những năm học tập tại trường.
Xin gởi lời biết ơn chân thành đến các anh chị, các cô chú đang công tác tại Phòng
Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn huyện Phụng Hiệp tỉnh Hậu Giang, sự nhiệt
tình của bà con nông dân ở huyện Phụng Hiệp đã cung cấp thông tin và giúp đỡ cho
tôi trong quá trình phỏng vấn và thu thập số liệu.
Sau cùng là xin biết ơn đến các bạn lớp Nuôi Trồng Thủy Sản K2 đã nhiệt tình giúp
đỡ và động viên tôi trong suốt thời gian học tập tại trường và thời gian thực hiện đề
tài.
Cuối cùng em xin chúc quý Thầy Cô - Khoa Sinh Học Ứng Dụng - Trường Đại Học
Tây Đô vui, khỏe, công tác tốt và không ngừng cống hiến cho sự nghiệp giáo dục.
Với sự hiểu biết còn hạn hẹp và thu thập tài liệu còn hạn chế nên báo cáo tốt nghiệp

không tránh khỏi những sai sót. Kính mong được sự đóng góp ý kiến của quý Thầy Cô
và các bạn.













Em xin chân thành cảm ơn và ghi nhớ!






LÊ TH
Ị HỒNG VẸN


5

TÓM TẮT


Với mục đích góp phần bổ sung thêm những cơ sở khoa học cho các nghiên cứu trước
đây và cung cấp thêm các thông tin khoa học cho người dân huyện Phụng Hiệp tỉnh
Hậu Giang về kỹ thuật nuôi cá tra. Từ đó tiến tới phát triển cá tra trở thành đối tượng
nuôi chủ yếu ở huyện Phụng Hiệp nói riêng và ở tỉnh Hậu Giang nói chung, đề tài
“Khảo sát khía cạnh kinh tế - kỹ thuật trong ao nuôi cá tra (Pangasianodon
hypophthalmus) thâm canh ở huyện Phụng Hiệp tỉnh Hậu Giang” được thực hiện từ
tháng 03 đến tháng 05 năm 2011.
Qua kết quả khảo sát ở 30 hộ nuôi cá tra tại huyện Phụng Hiệp cho thấy trình độ
chuyên môn của người nuôi cá tra chủ yếu dựa vào kinh nghiệm chiếm 50% và các
nông hộ có kinh nghiệm nuôi cá tra chủ yếu là từ 3 – 8 năm. Lao động tham gia vào
nuôi cá tra phần lớn là lao động nam chiếm 96,7%.
Ao nuôi cá tra thâm canh ở Phụng Hiệp – Hậu Giang có diện tích chủ yếu dao động từ
0,08 ha đến 0,4 ha chiếm 62,1% và diện tích ao nuôi trung bình khoảng 0,246 ± 0,184
ha, ao có diện tích lớn nhất là 0,8 ha.
Con giống cá tra có kích cỡ chủ yếu từ 1,2 – 1,5 cm và phần lớn con giống có nguồn
gốc từ Đồng Tháp chiếm 46% và An Giang chiếm 36,7%. Mật độ thả giống phổ biến
ở mô hình này dao động từ 41 – 70 con/m
2
, tỷ lệ sống trung bình là 64,5 ± 11,7%,
năng suất bình quân là 290 ± 53,7 tấn/ha. Thức ăn được chọn sử dụng cho cá tra chủ
yếu là thức ăn công nghiệp hiệu Con cò, hệ số thức ăn trung bình của các loại thức ăn
là 1,67 ± 0,05.
Mô hình nuôi cá tra thâm canh có tổng chi phí bình quân là
4.958 ± 1.019
triệu
đồng/ha, lợi nhuận trung bình
1.004 ± 730
triệu đồng/ha, số hộ nuôi cá tra có lời chiếm
93,3% và lỗ vốn là 6,67%. Tỷ suất lợi nhuận bình quân là 19,9 ± 13,8% lần/vụ.
Từ khóa: Cá tra thâm canh, diện tích, con giống.


6

CAM KẾT KẾT QUẢ
Tôi xin cam kết chuyên đề này được hoàn thành dựa trên các kết quả nghiên cứu của
tôi trong khuôn khổ của đề tài “
Khảo sát khía cạnh kinh tế - kỹ thuật trong ao nuôi
cá tra thâm canh ở Phụng Hiệp – Hậu Giang”
và các kết quả của nghiên cứu này
chưa được dùng cho bất cứ chuyên đề cùng cấp nào khác.

Cần Thơ, ngày tháng năm 2011
Ký tên




LÊ THỊ HỒNG VẸN













7

MỤC LỤC

Lời cảm tạ i
Tóm tắt ii
Lời cam kết iii
Mục lục iv
Danh sách bảng vi
Danh sách hình vii
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU 1
1.1 Đặt vấn đề 1
1.2 Mục tiêu của đề tài 2
1.3 Nội dung đề tài 2
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
2.1 Đặc điểm sinh học của cá tra 3
2.1.1 Đặc điểm phân loại 3
2.1.2 Phân bố 3
2.1.3 Đặc điểm hình thái 4
2.1.4 Đặc điểm dinh dưỡng 4
2.1.5 Đặc điểm sinh trưởng 4
2.1.6 Điều kiện môi trường 5
2.1.7 Đặc điểm sinh sản 5
2.2 Kỹ thuật nuôi cá tra trong ao 6
2.2.1 Địa điểm nuôi 6
2.2.2 Thiết kế ao nuôi 6
2.2.3 Chuẩn bị ao nuôi 6
2.2.4 Thả giống 6
2.2.5 Kích cỡ và mật độ thả nuôi 6
2.2.6 Chọn cá giống 7

2.2.7 Vận chuyển và thả giống 7
2.2.8 Thức ăn cho cá nuôi thương phẩm 7
2.2.9 Cho cá ăn 8
2.2.10 Quản lý ao nuôi 8
2.2.11 Thu hoạch 8
2.3 S
ơ lược về tình hình nuôi cá da trơn 8
2.3.1 Tình hình nuôi cá da trơn trên thế giới 8

8

2.3.2 Tình hình nuôi cá da trơn ở Việt Nam 9
2.3.3 Tình hình nuôi cá da trơn ở Đồng Bằng Sông Cửu Long 11
2.3.4 Vài nét về Hậu Giang và ngành thủy sản ở Phụng Hiệp - Hậu Giang 12
CHƯƠNG 3: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 17
3.1 Thời gian và địa điểm 17
3.2 Vật liệu 17
3.3 Phương pháp nghiên cứu 17
3.3.1 Thu nhập thông tin thứ cấp 17
3.3.2 Thu nhập thông tin sơ cấp 17
3.3.3 Phương pháp xử lý số liệu 18
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 19
4.1 Thông tin chung về hộ nuôi cá tra ở huyện Phụng Hiệp – Hậu Giang 19
4.1.1 Độ tuổi, giới tính 19
4.1.2 Trình độ học vấn 19
4.1.3 Kinh nghiệm và trình độ chuyên môn 20
4.1.4 Lao động tham gia sản xuất thủy sản 21
4.2 Thông tin về kỹ thuật nuôi cá tra thâm canh ở Phụng Hiệp – Hậu Giang 22
4.2.1 Diện tích ao nuôi cá tra 22
4.2.2 Công tác sên vét và chuẩn bị ao 22

4.2.3 Nguồn giống và thời điểm thả giống của nông hộ 23
4.2.4 Mật độ và kích cỡ cá giống 25
4.2.5 Thức ăn sử dụng trong nuôi cá tra 26
4.2.6 Tình hình bệnh và thuốc phòng trị trong các ao nuôi cá tra thâm canh 28
4.2.7 Thời gian nuôi, tỷ lệ sống và năng suất nuôi 30
4.3 Phân tích hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi ca tra 32
4.3.1 Chi phí nuôi cá tra trong ao 32
4.3.2 Thu nhập và lợi nhuận của mô hình nuôi 34
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 36
5.1 Kết luận 36
5.2 Đề xuất 36
TÀI LIỆU THAM KHẢO 37
PHỤ LỤC A 40
PHỤ LỤC B 45

9


DANH SÁCH BẢNG

Bảng 2.1: Diễn biến diện tích NTTS tỉnh Hậu Giang giai đoạn 2003 – 2007 13
Bảng 2.2: Diễn biến sản lượng NTTS tỉnh Hậu Giang giai đoạn 2003 -2007 (tấn) 13
Bảng 2.3: Các chỉ tiêu quy hoạch ngành thủy sản đến năm 2020 14
Bảng 2.4: Diện tích và sản lượng nuôi cá tra tỉnh Hậu Giang đến năm 2020 14
Bảng 2.5: Quy hoạch nuôi trồng thủy sản huyện Phụng Hiệp đến năm 2020 15
Bảng 4.1: Cơ cấu lao động tham gia nuôi cá tra trên đơn vị diện tích (ha) 21
Bảng 4.2: Phân nhóm mật độ cá giống thả nuôi 25
Bảng 4.3: Giá cá tra giống bình quân theo từng kích cỡ (đồng/con) 26
Bảng 4.4: Các loại thức ăn công nghiệp và giá trung bình của từng loại (đồng/kg) 27
Bảng 4.5: Tỷ lệ sống bình quân trong ao nuôi cá tra ở Phụng Hiệp – Hậu Giang 30

Bảng 4.6: Các chi phí trong ao nuôi cá tra (triệu đồng/ha/vụ) 33
Bảng 4.7: Hiệu quả của mô hình nuôi cá tra thâm canh 34



10


DANH SÁCH HÌNH

Hình 4.1: Cơ cấu các nhóm tuổi của các hộ nuôi cá tra ở Phụng Hiệp - HG 19
Hình 4.2: Trình độ học vấn của các hộ nuôi cá tra đã được khảo sát 20
Hình 4.3: Trình độ chuyên môn nuôi cá tra 20
Hình 4.4: Kinh nghiệm nuôi cá tra thâm canh trong ao 21
Hình 4.5: Diện tích ao nuôi cá tra ở Phụng Hiệp – Hậu Giang (ha) 22
Hình 4.6: Tần suất sên vét ao của các nông hộ 23
Hình 4.7: Tỷ lệ phần trăm nguồn gốc con giống thả nuôi 24
Hình 4.8: Thời điểm thả giống của các nông hộ 24
Hình 4.9: Các bệnh chủ yếu xuất hiện trên cá tra trong quá trình nuôi 28
Hình 4.10: Một số thuốc chủ yếu để phòng và trị bệnh trên cá tra 29
Hình 4.11: Sự tương quan giữa cỡ giống thả và tỷ lệ sống của cá nuôi 31
Hình 4.12: Sự tương quan giữa mật độ, tỷ lệ sống và CP thuốc/hóa chất 31
Hình 4.13: Tỷ lệ phần trăm các khoản chi phí trong ao nuôi cá tra 32


11

GIỚI THIỆU

1.1 Đặt vấn đề

Ngành thủy sản thế giới và nước ta đang có những bước phát triển nhanh chóng trong
nhiều lĩnh vực như kỹ thuật nuôi trồng thủy sản, kỹ thuật khai thác thủy sản, quản lý
môi trường - nguồn lợi thủy sản, quản lý dịch bệnh thủy sản, công nghệ sinh học ứng
dụng trong thủy sản và chế biến thủy sản. Ngành thủy sản đã và đang trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Việt Nam là một quốc gia có tiềm năng lớn để phát triển thủy sản trong khu vực Châu
Á Thái Bình Dương với sản lượng nuôi trồng thuỷ sản cả năm 2009 đạt 2.569.000 tấn
Riêng sản lượng cá tra cả năm 2009 thu hoạch đạt 1.006.000 tấn.
Bộ NN và PTNN (2010) cho biết, năm 2010 các tỉnh ĐBSCL đã xuất khẩu 600.000
tấn cá tra, trị giá 1,5 tỉ USD, tăng gần 160 triệu USD so với năm 2009. Để hoàn thành
chỉ tiêu trên, ĐBSCL đã đưa 8.600ha mặt nước vào nuôi cá tra, tăng 2.440ha so với
năm 2008, tập trung tại các tỉnh Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Vĩnh Long, Hậu
Giang, Bến Tre và Thành phố Cần Thơ.
Tỉnh Hậu Giang nằm ở trung tâm ĐBSCL, giữa một mạng lưới sông ngòi, kênh rạch
chằng chịt như sông Hậu, sông Cái Tư, kênh Xà No, kênh Phụng Hiệp…là một trong
những trung tâm lúa gạo của miền Tây Nam Bộ, đất đai phì nhiêu, có thế mạnh về cây
lúa và cây ăn quả các loại, và còn có nguồn thủy sản nước ngọt khá phong phú. Năm
2007, toàn tỉnh Hậu Giang có 8.688 ha diện tích nuôi trồng thuỷ sản, trong đó diện
tích nuôi cá 8.317 ha. Về sản lượng, thuỷ sản đạt 31.851 tấn, đạt tốc độ bình quân
37,3%/năm. Do Hậu Giang có những điều kiện tự nhiên thuận lợi nên nguồn lợi cá
nước ngọt ở đây đa dạng và phong phú như cá rô, cá thát lát, cá lóc, cá tra, cá
ngát…trong đó cá tra đang là đối tượng được nhiều người dân ở Hậu Giang đặc biệt
quan tâm.
Cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) thuộc họ cá da trơn với các đặc điểm như sinh
trưởng nhanh, dễ nuôi, có thể tận dụng được nguồn thức ăn tự nhiên và thức ăn sẳn có,
đạt năng suất cao, có giá trị xuất khẩu…
Song song với những mặt thuận lợi của ĐBSCL nói chung và Hậu Giang nói riêng thì
còn có những vấn đề khó khăn cần được quan tâm như về con giống, bệnh tật, quản lý
môi trường nuôi, kỹ thuật nuôi để đạt hiệu quả kinh tế…Với thực tế từ các vấn đề
trên, đề tài “ Khảo sát khía cạnh kinh tế - kỹ thuật trong ao nuôi cá tra

(Pangasianodon hypophthalmus) thâm canh ở huyện Phụng Hiệp tỉnh Hậu
Giang” được thực hiện.

12

1.2 Mục tiêu của đề tài
Đề tài được tiến hành để khảo sát và phân tích các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật nuôi của
mô hình nuôi cá tra nhằm làm cơ sở khoa học giúp tìm ra những mặt ưu điểm và mặt
hạn chế của từng đối tượng nuôi qua đó giúp phát triển nghề nuôi cá tra ở ĐBSCL nói
chung và ở huyện Phụng Hiệp tỉnh Hậu Giang nói riêng một cách hiệu quả và bền
vững.
1.3 Nội dung đề tài
 Đánh giá hiện trạng nghề nuôi cá tra tại Phụng Hiệp – Hậu Giang qua kết quả
thu thập từ các cơ quan liên quan và các hộ nuôi cá tra.
 Phân tích khía cạnh về kinh tế và kỹ thuật của ao nuôi cá tra tại huyện Phụng
Hiệp.
 Đề xuất giải pháp khắc phục các vấn đề tồn tại trong nuôi cá tra taị huyện Phụng
Hiệp phù hợp cho từng đối tượng nuôi.

13

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1 Đặc điểm sinh học của cá tra
2.1.1 Đặc điểm phân loại
Theo hệ thống phân loại của Mai Đình Yên và csv., (1992) cá tra thuộc:
Ngành: Chordata
Lớp: Osteichthyes
Bộ: Siluriformes
Họ: Pangasiidae

Giống: Pangasianodon
Loài cá tra: Pangasianodon hypophthalmus (Sauvage, 1878)


Hình 2.1: Hình dạng ngoài của cá tra
Trước đây cá tra được xếp vào họ Schilbeidae với tên khoa học là Pangasius
micronemus Bleeker, 1847 (Mai Đình Yên và csv., 1992). Theo định danh của
Rainboth (1996) thì cá tra thuộc giống Pangasianodon, loài Pangasianodon
hypophthalmus. Nhìn chung, tên khoa học của cá tra thì có nhiều tài liệu công bố
nhưng có sự khác nhau rõ ràng và chưa có sự thống nhất giữa các tài liệu với nhau.
Tuy nhiên, hiện nay thì tên Pangasianodon hypophthalmus đã được nhiều tác giả sử
dụng rộng rãi trong các báo cáo khoa học và có nhiều tài liệu trên thế giới (Nguyễn
Văn Thường, 2008).
2.1.2 Phân bố
Cá tra phân bố rộng, xuất hiện hầu hết ở các khu vực tự nhiên của hệ thống sông
Mêkông như Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam. Ở Việt Nam cá tra phân bố trên
sông Tiền, sông Hậu; nhiều nhất ở vùng biên giới Việt Nam và Campuchia. Cá tra

14

giống tự nhiên được vớt trên sông Tiền, sông Hậu thường đưa về nuôi ở ao (Mai Đình
Yên và csv., 1992).
2.1.3 Đặc điểm hình thái
Cá tra có kích thước tương đối lớn, là loài cá da trơn không có vẩy, có thân dài, dẹp
ngang, màu xám, hơi xanh ở trên lưng, hai bên hông và bụng nhạt; đầu nhỏ vừa phải,
mắt tương đối to, miệng rộng, có hai đôi râu dài. vây lưng và vây ngực có gai cứng, có
vây mỡ nhỏ. Phần cuối đuôi vây hơi đỏ (Mai Đình Yên và csv., 1992).
2.1.4 Đặc điểm dinh dưỡng
Cá tra là loài ăn tạp, trong tự nhiên cá ăn được mùn bã hữu cơ, rễ cây thủy sinh, rau
quả, tôm tép, cua, côn trùng, ốc và cá (Nguyễn Văn Kiểm, 2004).

Khi tiêu hết noãn hoàng là cá tích cực tìm mồi ăn tảo, luân trùng (rotifer), trứng nước
(moina, daphnia), cá tra bột cũng ăn các loại mồi ăn có kích thước nhỏ và mịn như
bùn bã thực vật, bột bã ngũ cốc (Nguyễn Chung, 2008).
Cá tra bột thích ăn mồi tươi sống, chúng ăn thịt lẫn nhau sau khi mới nở được vài
ngày và chúng vẫn tiếp tục ăn lẫn nhau nếu như không kiếm được mồi ăn (Nguyễn
Chung, 2008). Do đó phải kịp thời thả ra ao ương và tạo được thức ăn tự nhiên trong
ao ương trước khi thả cá bột để khi cá thả xuống là có ngay thức ăn, hạn chế được sự
ăn lẫn nhau của chúng (Trung tâm khuyến ngư quốc gia, Bộ Thủy Sản, 2005).
Những kết quả nghiên cứu và thực nghiệm cho biết sau khi nở 60 - 62 giờ cá tra đã có
răng, có khả năng bắt mồi nên chúng sẽ ăn lẫn nhau nếu giữ lâu trên bồn ấp với mật
độ cao. Tính hung dữ của cá tra giảm dần sau khoảng 10 ngày tuổi thì khả năng sát hại
nhau không đáng kể (Nguyễn Văn Kiểm, 2004).
2.1.5 Đặc điểm sinh trưởng
Cá tra có tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh, cá nhỏ tăng trưởng nhanh về chiều dài,
cá 2 tháng tuổi đã đạt chiều dài 10-12 cm nặng 14-15 g/con. Cá từ khỏang 0,3–0,4
kg/con thì tăng nhanh về chiều dài cũng như trọng lượng, cá từ khoảng 2,5 kg trở đi
mức tăng trọng nhanh hơn so với tăng chiều dài cơ thể và cá trên 10 năm tuổi tăng
trọng rất ít. Cá tra trong tự nhiên có thể sống trên 20 năm. Ðã gặp những con cá có
chiều dài tới 1,8 m nặng 30 kg/con. Tùy thuộc môi trường sống và sự cung cấp thức
ăn cũng như loại thức ăn có hàm lượng đạm nhiều hay ít mà tốc độ tăng trưởng nhanh
hay chậm. Ðộ béo Fulton của cá tăng dần theo trọng lượng và nhanh nhất ở những
năm đầu, cá đực thường có độ béo cao hơn cá cái và độ béo thường giảm đi khi vào
mùa sinh sản (Nguyễn Chung, 2008).

15

Cá tra lớn nhanh khi nuôi trong ao, sau 6 tháng cá đạt trọng lượng 1–1,2 kg/con, trong
những năm sau lớn nhanh hơn. Nuôi cá trong ao đất có thể đạt đến 25 kg ở 10 tuổi
(Dương Nhựt Long, 2004).
2.1.6 Điều kiện môi trường

Theo Nguyễn Chung (2008), cá tra sống ở những vùng nước ấm, nhiệt độ thích hợp là
26 – 32
0
C, cá sống ở tầng nước mặt và hoạt động ở cả tầng nước mặt, tầng giữa và
tầng đáy trong ao.
Cá có cơ quan hô hấp phụ, có thể thở bằng bóng khí và da. Cá tiêu hao oxy và ngưỡng
oxy rất thấp nên có thể sống được ở những nơi ao hồ chặt hẹp, thiếu oxy, ở những nơi
môi trường khắc nghiệt nước bị nhiễm bẩn, nhiễm phèn pH = 4 – 5 và ở nơi có độ
mặn cao 7 – 10‰, chịu được nhiệt độ cao, nhưng dễ chết ở nhiệt độ thấp dưới 15
0
C.
2.1.7 Đặc điểm sinh sản
Cá thành thục sinh dục, con đực ở 2 tuổi và con cái ở 3 tuổi. Khi thành thục sinh dục,
cá có tập tính bơi ngược dòng di cư tìm đến các bãi đẻ, nơi có điều kiện sinh thái phù
hợp và có đầy đủ thức ăn tự nhiên cho sự phát triển của tuyến sinh dục và đẻ trứng
(Nguyễn Chung, 2008).
Trong tự nhiên, mùa sinh sản của cá tra bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 7 hàng năm.
Người ta thường vớt cá tra bột trên sông vào khoảng tháng 5 âm lịch (Dương Nhựt
Long, 2004). Cá tra di cư ngược dòng về tập trung ở những khu vực vùng biên giới
của Lào và Campuchia nằm ở khu vực sông Mekong từ địa phận của tỉnh Kratie –
Campuchia, không thấy cá thành thục đẻ tự nhiên ở phần sông của Việt Nam (Nguyễn
Chung, 2008).
Bãi đẻ của cá nằm từ khu vực ngã tư giao tiếp 2 con sông Mekong và Tonlesap, từ thị
xã Kratie trở lên đến thác Khone, nơi giáp biên giới Campuchia và Lào, tập trung từ
Kampi đến hết Koh Rongiev thuộc địa giới 2 tỉnh Kratie và Stung Treng. Tại đây có
thể bắt được những cá tra nặng tới 15 kg với buồng trứng đã thành thục. Cá đẻ trứng
dính vào giá thể thường là rễ của loài cây sống ven sông Gimenila asiatica, sau 24 giờ
thì trứng nở thành cá bột và trôi về hạ nguồn (Nguyễn Chung, 2008).
Năm 1966, Thái Lan đã bắt được cá tra thành thục trên sông trong đầm Bung Borapet
và kích thích sinh sản nhân tạo cá tra với phương pháp nuôi vỗ cá bố mẹ thành thục

trong ao đất. Số lượng trứng đếm được trong buồng trứng, sức sinh sản tuyệt đối của
cá tra từ vài trăm ngàn đến vài triệu trứng. Sức sinh sản tương đối có thể tới 135.000
trứng/kg cá cái. Trứng cá tra tương đối nhỏ và có tính dính, trứng sắp đẻ có đường
kính 1,1–1,3 mm, sau khi đẻ ra và trương nước đường kính trứng có thể tới 1,5–1,6
mm. Cá bột sau khi tiêu hết noãn hoàng có chiều dài 1,3 – 1,6 mm. Hệ số thành thục
của cá đực là 1–3% và ở cá cái có thể đạt tới 20% (Nguyễn Chung, 2008).

16

2.2 Kỹ thuật nuôi cá tra trong ao
2.2.1 Địa điểm nuôi
Ao nuôi cá tra phải được đặt gần nguồn cấp nước tốt (sông, kênh rạch), tránh xa các
nguồn gây ô nhiễm, khu công nghiệp. Ao không bị nhiễm phèn, nhiễm mặn. Độ phèn
(pH) của nước trung tính và dao động từ 7 – 8.5. Ao phải gần nhà để tiện quản lý và
chăm sóc (Dương Nhựt Long, 2004).
2.2.2 Thiết kế ao nuôi
Diện tích ao nuôi tùy vào điều kiện của từng nông hộ, tuy nhiên tốt nhất là ao có diện
tích dao động từ 1.000 – 3.000 m
2
trở lên. Với những vùng thường bị ngập lũ, bờ ao
phải được gia cố chắc chắn, và phải thiết kế lưới bao quanh ao. Tùy theo cơ cấu đất
của vùng nuôi, độ sâu của ao nuôi có thể thiết kế dao động từ 1,8 – 2,4 m. Ao phải có
cống cấp và thoát nước. Ao tốt nhất có dạng hình chữ nhật với chiều dài gấp 3 -4 lần
chiều ngang. Trong ao nuôi cá tra nên thiết kế một hay nhiều nơi cho cá ăn, đó là các
sàn cho cá ăn. Việc này sẽ giúp ích cho việc theo dõi cá ăn và điều chỉnh lượng thức
ăn. Sàn ăn có thể được làm bằng tre, tràm hay các loại gỗ khác (Dương Nhựt Long,
2004).
2.2.3 Chuẩn bị ao nuôi
Theo Dương Nhựt Long (2004) trước khi thả cá vào ao phải được sên, vét hết lớp bùn
đáy ao, kiểm tra kỹ bờ ao, cống bộng, gia cố bờ ao, làm sàn ăn cho cá. Bón vôi bột với

liều lượng 10 -15 kg/100 m
2
. Nếu là ao đã nuôi cá trước vài vụ thì có thể tăng lượng
vôi lên 20 kg /100 m
2
để đảm bảo tẩy trùng cho ao. Nếu có điều kiện phơi ao 3 - 5
ngày, sau đó cấp nước vào ao với mức nước ban đầu là 1.8 – 2.4 m.
2.2.4 Thả giống
Thời vụ thả nuôi thích hợp nhất từ tháng 6 - 7 hàng năm, vì đây là mùa sinh sản của cá
tra nên chất lượng con giống sẽ tốt hơn so với các thời điểm khác trong năm (Dương
Nhựt Long, 2004).
2.2.5 Kích cỡ và mật độ thả nuôi
Theo Dương Nhựt Long (2004) thì cá giống thả nuôi phải đều cỡ, kích cỡ cá thả nuôi
tốt nhất là 10 - 15 cm thường được thả nuôi với mật độ từ 8 - 10 con/m
2
. Trong điều
kiện nguồn nước tốt và thức ăn đầy đủ có thể thả nuôi với mật độ 20 – 30 con/ m
2
.
Còn theo Nguyễn Chung (2008) thì kích cỡ cá tra giống thả nuôi là 10 – 12 cm, nặng
15 – 17 g/con thường được thả nuôi với mật độ 15 -20 con/m
2
đối với ao hồ nhỏ, còn
đối với ao thay nước liên tục thì thả nuôi với mật độ 20 -30 con/m
2
.

17

2.2.6 Chọn cá giống

Cá không bị dị tật, màu sắc tươi sáng: lưng xanh đen, bụng màu trắng bạc, các sọc dọc
theo thân phải rõ ràng. Cá nhanh nhẹn, bơi lội khoẻ và chạy thành đàn. Cá không bị
xây xát, các vi không bị rách (Dương Nhựt Long, 2004).
2.2.7 Vận chuyển và thả giống
Theo Dương Nhựt Long (2004) thì cá tra có thể vận chuyển hở bằng các dụng cụ như
xô nhựa, chậu trong trường hợp gần hoặc vận chuyển bằng cách đóng trong bao có
oxygen trong trường hợp đi xa. Vận chuyển cá lúc trời mát, tốt nhất là vào sáng sớm
hay chiều tối. Ngâm bao chứa cá trong ao khoảng 15 phút sau đó mới mở bao, cho
nước ao vào bao để cá tự bơi ra. Trường hợp vận chuyển bằng thùng hay xô cũng cho
nước ao vào từ từ tránh thả cá trực tiếp ra ao.
2.2.8 Thức ăn cho cá nuôi thương phẩm
Thức ăn cho cá thay đổi tùy vào giai đoạn phát triển của cá. Thức ăn cho cá nuôi thịt
có hàm lượng đạm (protein) thích hợp dao động từ 18 – 28 %. Có thể phối chế bằng
các nguyên liệu có sẵn tại địa phương (Dương Nhựt Long, 2004). Theo Nguyễn
Chung (2008) nhu cầu dinh dưỡng của cá tra nuôi thịt, trong 2 tháng đầu mới thả là
thức ăn có hàm lượng đạm 28 – 30%, các tháng tiếp theo giảm dần lượng đạm xuống
25 – 26% và 2 tháng cuối cùng thức ăn có lượng đạm 20 – 22%.
Có thể sử dụng thức ăn hỗn hợp tự chế biến và thức ăn công nghiệp với kích cỡ 6 mm,
8 mm, 10 mm và 12 mm cho cá ăn. Thức ăn hỗn hợp tự chế gồm cám gạo, tấm, trộn
chung với bột cá lạt, tỷ lệ bột cá chiếm khoảng 50% còn lại là cám gạo và vitaminC,
premix vitamin và khoáng giúp cá tăng sức đề kháng tốt (Nguyễn Chung, 2008).
Nếu không có điều kiện ép viên thức ăn, có thể trộn và vắt thức ăn thành từng viên
bằng tay để cho cá ăn. Có thể sử dụng bột keo hoặc bột mì (không nên sử dụng bột
gòn vì sẽ làm cho thịt cá có màu vàng) làm chất kết dính để hạn chế sự tan rã của thức
ăn trong nước. Nên bổ sung khoảng 1 - 2 % các loại premix khoáng và Vitamin C (60
– 100 mg/kg thức ăn) vào thức ăn mỗi tuần 2 lần để giúp cá có sức đề kháng tốt với
các loại bệnh. Các loại thức ăn dạng ẩm sử dụng để nuôi cá tra sau khi chế biến phải
được cho cá ăn ngay trong ngày, vì thức ăn ẩm rất dễ bị hư do tác động của các vi sinh
vật. Hạn chế sử dụng các loại nguyên liệu thực vật có nhiều sắc tố (Carotenoid) như
bột bắp vàng, rau muống vì các loại sắc tố này sẽ tích trữ lại trong thịt cá và làm cho

thịt cá Tra có màu vàng. Hiện nay, trên thị trường có nhiều loại thức ăn công nghiệp
dạng viên nổi, đây là một nguồn thức ăn tốt cho việc nuôi cá tra thâm canh trong ao.
Chúng có những ưu điểm như hàm lượng các chất dinh dưỡng đầy đủ và ổn định, dễ
bảo quản và giảm chi phí nhân công. Tuy nhiên, thức ăn viên công nghiệp hiện nay

18

chưa được người nuôi sử dụng nhiều vì giá cao. Thức ăn viên sử dụng cho nuôi thịt cá
tra phải có hàm lượng đạm dao động từ 18 % - 28 % (Dương Nhựt Long, 2004).
2.2.9 Cho cá ăn
Nên tập cho cá ăn tập trung tại các sàn cho cá ăn. Rải thức ăn ít và chậm cho cá ăn hết
thức ăn mới rải tiếp. Khi cá không còn tập trung lại ăn là dấu hiệu cá đã no, thì ngừng
cho ăn. Lượng thức ăn cho 2 tháng đầu của chu kỳ nuôi là 5 - 7 kg/100 kg cá và cho
các tháng sau của chu kỳ nuôi là 3 - 5 kg/100 kg cá. Cho ăn 2 - 4 lần trong ngày
(Dương Nhựt Long, 2004). Mỗi ngày cho cá ăn thức ăn hỗn hợp tự chế biến bằng 5 –
8% trọng lượng của cá, thức ăn viên công nghiệp bằng 2-2,5% trọng lượng cá
(Nguyễn Chung, 2008).
2.2.10 Quản lý ao nuôi
Theo dõi mức độ ăn của cá để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp, điều này rất dễ
quan sát vì cá tra ăn tập trung một chỗ khi đã no chúng sẽ tản ra xa do đó có thể tính
toán được lượng thức ăn cần thiết cho cá. Những biểu hiện không tốt của cá trong ao
nuôi như: cá nổi đầu, bơi lờ đờ, cá bỏ ăn hay cá có biểu hiện bệnh và chết phải được
xử lý với những biện pháp thích hợp. Luôn giữ nguồn nước ao sạch và ổn định. Cần
hạn chế sử dụng các loại thuốc kháng sinh trong nuôi cá tra vì thuốc làm giảm tốc độ
tăng trưởng của cá và làm tăng giá thành sản phẩm (Dương Nhựt Long, 2004).
Dùng vôi rải quanh bờ ao trong mùa mưa để ổn định độ pH. Hàng ngày phải theo dõi
các chỉ tiêu: độ trong, nhiệt độ, pH, oxy hòa tan, định kỳ đo chỉ tiêu COD đồng thời
cũng thường xuyên theo dõi hoạt động bơi lội và bắt mồi của cá để có thể sớm phát
hiện cá bị bệnh (Nguyễn Chung, 2008)
2.2.11 Thu hoạch

Cá tra nuôi trong ao đất sau 6 tháng thì có thể thu hoạch. Phương thức thu hoạch tốt
nhất là đánh bắt bằng lưới và thu hoạch một lần, sau đó tát cạn ao để để bắt hết số cá
còn lại đồng thời chuẩn bị cho vụ nuôi sau. Trong lượng cá tra nuôi lúc bấy giờ có thể
đạt từ 1 - 1,2 kg/con (Dương Nhựt Long, 2004).
2.3 Sơ lược về tình hình nuôi cá da trơn
2.3.1 Tình hình nuôi cá da trơn trên thế giới
Ở Thái Lan và Campuchia thì cá Pangasiuc sutchi được nuôi trong ao và bè. Từ xưa,
nhóm cá Pangasius được nuôi trong những bè nổi bằng tre ở Thái Lan và Campuchia.
Hệ thống nuôi này được áp dụng ở Châu Âu và Mỹ ( Pillay, 1990, trích Trần Minh
Đức (2010)). Trước đây, nhu cầu về sản phẩm cá da trơn đối với người dân Mỹ còn
rất hạn chế, sau khi các chiến dịch tiếp thị của các trại nuôi cá da trơn và doanh nghiệp
chế biến thủy sản thì nhu cầu đối với các sản phẩm chế biến từ cá da trơn tăng lên.

19

Nếu như năm 1970 các nhà nuôi cá ở Mỹ chỉ sản xuất 2.580 tấn thì đến năm 2001 đã
lên tới 271.000 tấn. Các trại nuôi cá da trơn chủ yếu tập trung ở đồng bằng sông
Missisipi, Alabama, Arkansas và Louisiana (Nguyễn Xuân Thành, 2003, trích Trần
Minh Đức (2010)).
Cá tra và cá basa là hai loài cá có giá trị kinh tế cao và được nuôi phổ biến ở hầu hết
các nước Đông Nam Á và là một trong những loài cá nuôi quan trọng nhất trong khu
vực này. Ba nước trong khu vực hạ lưu sông Mekong có nghề nuôi cá tra truyền thống
là Campuchia, Thái Lan và Việt Nam do có nguồn cá tự nhiên phong phú. Một số
nước trong khu vực như Malaysia, Indonesia cũng đã nuôi cá tra có hiệu quả từ thập
niên 70 – 80 của thế kỷ XX (Phân viện kinh tế và qui hoạch thủy sản thành phố Hồ
Chí Minh, 2006, được trích bởi Trần Minh Đức (2010)).
Theo Csavat (1995), ở Campuchia, tỷ lệ cá tra thả nuôi chiếm 98% trong 3 loài họ cá
tra, chỉ có 2% là cá basa và cá vồ đém, sản lượng cá tra nuôi chiếm một nửa tổng sản
lượng các loài cá nuôi và tại Thái Lan, trong số 8 tỉnh nuôi cá nhiều nhất, có 50% số
trại nuôi cá tra. Ở Lào, có 11 loài trong giống cá tra được nuôi và cá tra nuôi cùng với

cá trê lai nhập từ Việt Nam. Một số nước đã nhập cá tra để thuần hóa như Trung Quốc
nhập từ Thái 1978 về tỉnh Quảng Đông, Đài Loan nhập từ Thái Lan năm 1969,
Philipine năm 1978, nhưng kết quả nuôi còn hạn chế (Hồ Thị Thanh Tuyền, 2008,
được trích bởi Trần Minh Đức (2010)).
2.3.2 Tình hình nuôi cá da trơn ở Việt Nam
Trong thập niên 60 thì nghề nuôi cá da trơn trên bè đã được du nhập vào Việt Nam
nhưng chưa thực sự phát triển, phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn giống tự nhiên, thị
trường tiêu thụ sản phẩm chủ yếu là trong nước. Đây chính là những nguyên nhân làm
hạn chế sự phát triển của nghề nuôi cá da trơn trong thời điểm này (Nguyễn Thanh
Phương và csv., 2004).
Họ Pangasiidae có hơn 20 loài có giá trị kinh tế, trong đó 2 loài phân bố ở sông
Mekong được đặc biệt quan tâm là Pangasius bocourti Sauvage, 1880 và
Pangasianodon hypophthalmus Sauvage, 1878 (Nguyễn Văn Thường, 2008). Ở Việt
Nam, cá tra phân bố rộng, phần lớn ở vùng thượng nguồn sông Tiền, sông Hậu – vùng
tiếp giáp biên giới Việt Nam-Campuchia (Lê Như Xuân và csv., 1994).
Ở Việt Nam trong thập niên 90 cũng như ba năm đầu thế kỷ 21, sản lượng nuôi trồng
thủy sản có tốc độ tăng trưởng rất cao, vượt xa tốc độ tăng trưởng của khai thác thủy
sản. Từ năm 1990 - 2000, Việt Nam đã trở thành một trong 10 nước có sản lượng cá
nuôi lớn nhất thế giới, sau Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Nhật Bản, Thái Lan,
Bangladesh (Bộ Thủy Sản, 2006).

20

Theo Nguyễn Văn Sáng và csv., (2007), trích của Nguyễn Thị Huyền (2008) năm
1995 khi kỹ thuật sinh sản nhân tạo hai loài cá basa và cá tra đã thành công, đặc biệt là
kỹ thuật sinh sản nhân tạo cá tra nhanh chóng được hoàn thiện thì đến đầu năm 2000
nghề nuôi cá tra phát triển ở diện rộng trong bè trên sông, trong ao và đăng quầng ở
ĐBSCL của Việt Nam. Năm 1995 có thể được xem là mốc đánh dấu cho sự phát triển
của nghề nuôi cá da trơn khi lần đầu tiên cá Ba sa (Pangasius bocourti) được cho sinh
sản nhân tạo thành công do một công trình nghiên cứu Philip Cacot và các cán bộ của

Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ. Sau đó, các loài cá khác cũng đã được sinh sản
nhân tạo thành công như: Pangasianodon hypophthalmus, P. conchophilus. Các thành
công về sinh sản nhân tạo các loài cá da trơn có sự đóng góp của các nghiên cứu từ dự
án Cá Trơn Châu Á (Nguyễn Thị Huyền, 2008).
Theo nhận định của VASEP (2004) thì thị trường cho sản phẩm cá tra cũng đang gia
tăng mạnh, thay vì chỉ phụ thuộc chủ yếu vào thị trường Mỹ thì nay thị trường luôn
được mở rộng sang thị trường châu Âu (EU), Nga, các nước Đông Nam Á (ASEAN),
Trung Quốc và các nước khác. Ngay cả thị trường Mỹ đang được phục hồi mạnh mẽ.
Theo Bùi Quang Tề (2006) thì nuôi trồng thủy sản đang trở thành một ngành kinh tế
mũi nhọn trong nền kinh tế của Việt Nam. Sản lượng năm 2005 đạt 1.437.400 tấn,
tăng 19,53% so với năm trước, trong đó tập trung vào một số đối tượng như tôm sú,
tôm thẻ chân trắng, cá tra, cá ba sa, cá rô phi và một số loài đặc sản khác. Năm 2005,
kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt 2,65 tỷ USD, bằng 106% chỉ tiêu kế hoạch do Ðại
hội Ðảng lần thứ IX đề ra, tăng 10,38% so với năm 2004, đưa tổng giá trị kim ngạch
xuất khẩu của cả kỳ kế hoạch năm năm 2001- 2005 lên 11,068 tỷ USD, đạt tốc độ tăng
trưởng bình quân 10,5%/năm.
Theo tổ chức ngư nghiệp toàn cầu (Globefish), năm 2006 sản lượng cá da trơn (gồm
cá tra và cá basa) của Việt Nam tiếp tục tăng mạnh và đạt kỷ lục mới. Giai đoạn 1997
– 2005, sản lượng cá da trơn của Việt Nam đã đạt bước tăng trưởng ấn tượng, nhảy
vọt từ 22.000 tấn năm 1997 lên đạt 376.000 tấn vào năm 2005 (được trích bởi Nguyễn
Ngọc Hiển, 2007)
Theo Trần Minh Phú và Nguyễn Thanh Phương (2007) sản lượng cá tra trong những
năm gần đây tăng lên đáng kể. Từ năm 2004 sản lượng cá tra là 315.000 tấn, năm
2005 là 376.000 tấn, năm 2006 là hơn 800.000 tấn tăng lên hơn 485.000 tấn (tăng
15,4%). Sản lượng năm 2006 tăng gấp 2,54 lần sản lượng năm 2004 (Nguyễn Tử
Cương, 2007).
Theo Bộ Thủy sản (2006) thì sau hai năm 2004 - 2005 diện tích nuôi cá tra tăng lên
34,5% (414.500 ha) tăng gấp 1,35 lần, trong khi đó sản lượng cá tra tăng gấp 2,54 lần.
Điều này chứng tỏ rằng năng suất cá tra nuôi được nâng cao do thâm canh hóa nhanh
hơn so với mở rộng diện tích. Cá tra Việt Nam đã đạt khi kim ngạch xuất khẩu 1 tỷ


21

USD, với 1 triệu tấn cá nguyên liệu, tương đương gần 400.000 tấn phi lê xuất khẩu
(chỉ tiêu đặt ra cho năm 2010), tăng 34,4% so với năm 2006.
Theo Nguyễn Chính (2005) thì diện tích nuôi loài cá này tăng hơn 7 lần, sản lượng
tăng hơn 44 lần, giá trị xuất khẩu tăng hơn 50 lần. Việt Nam đã trở thành một trong
mười nước xuất khẩu hàng đầu thế giới có giá trị hàng năm trên 2 tỉ USD.
2.3.3 Tình hình nuôi cá da trơn ở Đồng Bằng Sông Cửu Long
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng đất ngập nước rộng lớn ở cuối nguồn
của sông Mekong, có tiềm năng lớn cho sự phát triển của nuôi trồng thủy sản. Trong
năm 2005 vùng này đã đóng góp hơn 68% tổng sản lượng thủy sản của cả nước (Lê
Anh Tuấn, 2007) và ĐBSCL là vùng nuôi cá tra lớn nhất ở Việt Nam cả về diện tích
và sản lượng (NACA, 2008, được trích bởi Nguyễn Thị Huyền, 2008).
Nghề nuôi cá tra đã phát triển từ năm 1940, bắt đầu từ việc nuôi cá tra trong hệ thống
ao hầm nhỏ lẻ. Hàng năm vào đầu mùa lũ ngư dân khai thác cá bột các loài cá tra,
basa về ương trong ao đất đến cỡ cá giống để bán cho người nuôi ở khắp vung nước
ngọt của ĐBSCL (Phạm Văn Khánh, 1996). Trong thập niên 60 nghề nuôi cá da trơn
trong bè đã du nhập vào Việt Nam. Tuy nhiên, lúc này nghề nuôi cá da trơn cũng chưa
thật sự phát triển mà còn phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn giống tự nhiên và thị trường
tiêu thụ sản phẩm chủ yếu là trong nước. Đây chính là những nguyên nhân làm hạn
chế sự phát triển của nghề nuôi cá da trơn trong thời điểm này (Nguyễn Thanh
Phương, 1996, được trích bởi Nguyễn Thị Huyền, 2008).
Theo Simon (2008), được trích bởi Nguyễn Thị Huyền (2008) nhận định rằng nghề
nuôi cá da trơn ở ĐBSCL có trên 50 năm, giữa thập niên 1980 đã xuất khẩu dạng fillet
sang thị trường Úc, đến năm 1990 xuất sang châu Âu và Mỹ và từ năm 2004, nhiều thị
trường khác bắt đầu nhập khẩu cá tra và ba sa của Việt Nam.
Năm 2006, sản lượng nuôi cá tra, basa sạch ở tỉnh An Giang đạt hơn 100.000 tấn, ở
Cần Thơ khoảng 45.000 tấn và Đồng tháp 50.000 tấn, gấp khoảng 2,5 lần so với năm
2005 (Hiệp hội nghề cá tỉnh An Giang, 2006, được trích bởi Trần Minh Đức (2010)).

Năng suất nuôi tăng vọt do sự thâm canh hóa và sản lượng có thể đạt đến 166 kg/m
3

nuôi bè, 345 tấn/ha nuôi đăng quầng và 212 tấn/ha nuôi ao (Nguyễn Thanh Phương và
csv., 2004). Hiện nay, theo NACA (2008), được trích bởi Nguyễn Thị Huyền (2008)
cho rằng diện tích và sản lượng cá ba sa và cá tra phát triển nhanh, mật độ nuôi cũng
được nâng lên thời gian nuôi là 6 tháng và năng suất trung bình đạt 300-400 tấn/ha/vụ,
có hộ đạt năng suất 700 tấn/ha/vụ.
Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu từ mặt hàng cá tra của Việt Nam đạt 1,453 tỷ USD,
chiếm gần 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản. Thị trường xuất khẩu cá tra cũng

22

tăng lên từ hơn 100 nước (năm 2007) lên gần 130 nước (năm 2009) (Trí Quang,
2010).
Theo thông tin thống kê hàng tháng của tổng cục thống kê năm 2010 cho biết tình
hình nuôi cá tra trong năm 2010 nhìn chung vẫn gặp nhiều khó khăn do giá cá nguyên
liệu và thị trường tiêu thụ không ổn định. Diện tích thả nuôi cá tra năm 2010 giảm 5%
so với năm 2009. Một số địa phương có diện tích thả nuôi cá tra giảm nhiều là: Cần
Thơ giảm 13,6%; An Giang giảm 9%; Bến Tre giảm 8,1%. Sản lượng cá tra thu hoạch
năm 2010 đạt khoảng 1 triệu tấn, giảm 1,8% so với năm 2009. Các địa phương có sản
lượng cá tra giảm nhiều là: Hậu Giang giảm 47,8% so với năm 2009; Cần Thơ giảm
11,4%; An Giang giảm 5,6%.
Bộ NN-PTNT (2010) cho biết năm 2010 các tỉnh ĐBSCL sẽ xuất khẩu 600.000 tấn cá
tra, trị giá 1,5 tỉ USD, tăng gần 160 triệu USD so với năm 2009, diện tích nuôi cá tra
năm 2010 khoảng 5.420 ha đạt 90,3% kế hoạch năm, dù diện tích giảm nhưng nhờ áp
dụng các biện pháp kỹ thuật để nâng cao năng suất nên sản lượng cá thu hoạch đạt
1.141.000 tấn, bằng 104,6% so năm 2009. Mục tiêu trong năm 2011, tổng sản lượng
cá giống sản xuất toàn vùng ĐBSCL đạt sản lượng từ 2,5 đến 2,6 tỷ con giống các
loại, diện tích nuôi đạt 6.300 ha, sản lượng ước đạt từ 1,2 đến 1,3 triệu tấn, kim ngạch

xuất khẩu đạt từ 1,45 đến 1,55 tỷ USD, 60% cơ sở nuôi cá tra được đánh số, đăng ký
nuôi cá tra có điều kiện và thực hiện truy xuất nguồn gốc sản phẩm (Huỳnh Phước
Lợi, 2011).
Theo quy hoạch phát triển chung cho toàn vùng ĐBSCL vừa được Bộ NN và PTNT
phê duyệt thì tốc độ tăng trưởng diện tích trong vùng trong các năm tới trung bình
tăng khoảng 4,2 %/năm. Cụ thể, năm 2010 diện tích nuôi cá tra của vùng đạt 5.420 ha,
tập trung chủ yếu ở các tỉnh Đồng Tháp, An Giang. Đến năm 2015, diện tích nuôi cá
tra ở vùng đạt 11.000 ha và đến năm 2020 là 13.000 ha (Bộ NN và PTNT, 2008, trích
bởi Lê Lệ Hiền (2008)).
2.3.4 Vài nét về Hậu Giang và ngành thủy sản ở Phụng Hiệp - Hậu Giang
Tỉnh Hậu Giang nằm ở trung tâm ĐBSCL, giữa một mạng lưới sông ngòi, kênh rạch
chằng chịt như sông Hậu, sông Cái Tư, kênh Xà No, kênh Phụng Hiệp… và Hậu
Giang cũng là một trong những trung tâm lúa gạo của miền Tây Nam Bộ, đất đai phì
nhiêu, có thế mạnh về cây lúa và cây ăn quả các loại, và còn có nguồn thủy sản khá
phong phú với tổng diện tích có khả năng nuôi trồng thủy sản gần 54.000 ha, ngoài ra
còn có hơn 15.000 ha mặt nước sông rạch có khả năng để phát triển nuôi cá lồng bè
(báo cáo tóm tắt, 2009).
Tỉnh Hậu Giang có một hệ thống sông ngòi kênh rạch chằng chịt, nối liền nhau với
tổng chiều dài khoảng 2.300 km.

23

Từ Bảng 2.1 cho thấy diện tích NTTS tỉnh Hậu Giang có xu hướng tăng dần trong giai
đoạn 2003 – 2007, từ 7.234 ha vào năm 2003 tăng lên 8.371,5 ha vào năm 2007, trong
đó xu hướng chủ yếu là sự tăng trưởng của diện tích nuôi cá và xu hướng giảm dần
diện tích nuôi tôm. Tổng diện tích nuôi cá năm 2003 là 7.066 ha, tăng lên 8.171,5 ha
năm 2007.Trong đó diện tích nuôi cá tra cũng tăng mạnh từ 20 ha năm 2003 lên 126
ha năm 2007. Còn tổng diện tích nuôi tôm năm 2003 là 168 ha đến năm 2007 giảm
xuống còn 55 ha.
Bảng 2.1: Diễn biến diện tích NTTS tỉnh Hậu Giang giai đoạn 2003 – 2007

Danh mục Đvt 2003 2004 2005 2006 2007
Tổng diện tích NTTS ha 7.234

8.305

8.880

7.385,5

8.371,5

Nuôi cá - 7.066

8.154

8.750

7.334

8.316,5

Nuôi tôm - 168

151

130

51,5

55


Cá tra - 20

27

40

42

126



(Nguồn: Báo cáo tóm tắt tỉnh Hậu Giang, 2010)
Theo đó, sản lượng thủy sản cũng tăng liên tục từ 10.989 tấn năm 2003, tăng lên
31.851 tấn năm 2007, đạt tốc độ tăng bình quân là 37,3%/năm. Sản lượng từ nuôi cá
đóng góp phần lớn trong tổng sản lượng NTTS (99%), nuôi tôm và các đối tượng khác
chiếm sản lượng không đáng kể. Trong đó sản lượng về cá tra cũng không ngừng tăng
từ 2.400 tấn năm 2003, tăng lên 14.025 tấn năm 2007.
Bảng 2.2: Diễn biến sản lượng NTTS tỉnh Hậu Giang giai đoạn 2003 -2007 (tấn)
Danh mục 2003

2004

2005

2006

2007


Tổng sản lượng 10.989

15.804

21.811

25.570

31.851

Nuôi cá 10.954,2

15.757,8

21.775,6

25.544,1

31.824

Nuôi tôm 34,8

46,2

35,4

25,9

27


Cá tra 2.400

3.375

6.000

6.300

14.025



(Nguồn: Báo cáo tóm tắt tỉnh Hậu Giang, 2010)
Ngành thủy sản tỉnh Hậu Giang năm 2010 và định hướng đến năm 2015, 2020: Diện
tích NTTS năm 2010 là 11.000 ha, đến năm 2015 là 16.000 ha và đến năm 2020 đạt
20.000 ha; tương ứng với tốc độ tăng trưởng bình quân về diện tích giai đoạn 2008-

24

2010 là 34,7%/năm, giai đoạn 2011-2015 là 7,8%/năm và giai đoạn 2016-2020 là
4,6%/năm. Sản lượng thủy sản năm 2010 đạt 79.510 tấn, trong đó NTTS đạt 76.630
tấn (chiếm 96%); đến năm 2015 đạt 181.600 tấn, trong đó NTTS đạt 178.720 tấn
(chiếm 98%) và đến năm 2020 tổng sản lượng đạt 290.880 tấn, NTTS đạt 287.470 tấn
(chiếm 99%).
Bảng 2.3: Các chỉ tiêu quy hoạch ngành thủy sản đến năm 2020
Danh mục Đvt

2010

2015


2020

Tổng diện tích NTTS ha

11.000

16.000

20.000

Tổng sản lượng thủy sản tấn

79.510

181.600

290.880

Sản lượng nuôi trồng thủy sản tấn

76.630

178.720

287.470



(Nguồn: Báo cáo tóm tắt tỉnh Hậu Giang, 2010)

Riêng về cá tra, trong giai đoạn đầu năm 2010, diện tích nuôi không phát triển nhanh
do điều kiện thủy lợi chưa đáp ứng kịp thời. Quy hoạch nuôi cá tra thâm canh tập
trung ven các sông lớn và sông nhánh ở các huyện Châu Thành, Phụng Hiệp và
TX.Ngã Bảy.
Bảng 2.4: Diện tích và sản lượng nuôi cá tra tỉnh Hậu Giang đến năm 2020
Danh mục Đvt

2010

2015

2020

Diện tích nuôi cá Tra ha

350

960

1.600

Sản lượng cá Tra tấn

52.500

144.000

240.000




(Nguồn: Báo cáo tóm tắt tỉnh Hậu Giang, 2010)

Từ Bảng 2.4 cho thấy dự kiến đến năm 2015 diện tích nuôi cá tra là 960 ha và sản
lượng là 144.000 tấn, như vậy nếu thả giống với mật độ trung bình là 52 con/m
2
thì
cần phải có khoảng 500 triệu con giống và 240.480 tấn thức ăn cho cá tra và đến năm
2020 ước tính số lượng con giống thả nuôi là 832 triệu con và khoảng 400.800 tấn
thức ăn để đáp ứng cho các hộ nuôi với tổng diện tích nuôi cá tra là 1.600 ha và sản
lượng là 240.000 tấn.
Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện Phụng Hiệp 48.528 ha, chiếm 30% diện tích tự
nhiên của toàn tỉnh. Huyện Phụng Hiệp nằm gần với sông Hậu và có nhiều kênh trục
chạy qua, đồng thời quy mô đất đai và dân số của huyện lớn, có thể xem là tiềm năng
và lợi thế lớn cho phát triển kinh tế xã hội.

25

Tổng diện tích NTTS Huyện Phụng Hiệp tăng liên tục trong giai đoạn 2003 - 2007 từ
3.108 ha năm 2003 tăng lên 3.853 ha vào năm 2007, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân
là 4,5%. Trong đó chủ yếu là sự tăng trưởng của diện tích nuôi cá với tốc độ tăng BQ
1

năm là 6,2%, diện tích nuôi tôm Càng Xanh lại có xu hướng giảm mạnh liên tục với
tốc độ giảm BQ 42,6%. Theo đó, sản lượng NTTS cũng không ngừng tăng từ 3.357
tấn vào năm 2003 đến năm 2007 tăng lên 10.192 tấn. Riêng năm 2007, toàn huyện có
tổng diện tích nuôi cá tra là 25 ha chiếm 19,8% tổng diện tích nuôi cá tra toàn tỉnh
Hậu Giang (Báo cáo tóm tắt tỉnh Hậu Giang, 2009).
Bảng 2.5: Quy hoạch nuôi trồng thủy sản huyện Phụng Hiệp đến năm 2020
Danh mục Đvt


2010

2015

2020

Tổng diện tích NTTS ha

4.590

5.610

6.330

Sản lượng NTTS tấn

21.346

23.222

24.788



(Nguồn: Báo cáo tóm tắt tỉnh Hậu Giang, 2009)
Huyện Phụng Hiệp có diện tích quy hoạch NTTS lớn nhất tỉnh (chiếm 34 – 41%).
Năm 2010 huyện có diện tích nuôi là 4.590 ha, dự kiến đến năm 2015 diện tích nuôi
tăng lên 5.610 ha và đến năm 2020 là 6.330 ha. Tốc độ tăng trưởng bình quân về diện
tích thời kỳ 2010 – 2020 là 33%/năm. Về sản lượng NTTS năm 2010 là 21.346 tấn

tăng lên 23.222 tấn năm 2015 và đến năm 2020 là 24.788 tấn.
Phòng NN&PTNT huyện Phụng Hiệp năm 2010, cho rằng, phong trào nuôi thủy sản
của huyện đang có xu hướng mở rộng. Đây là một hướng đi mới, tạo động lực mạnh
mẽ thúc đẩy kinh tế - xã hội của huyện phát triển. Trong tương lai huyện sẽ chú trọng
tăng diện tích nuôi thủy sản, vì mô hình này sẽ giúp gia tăng thu nhập cho bà con nông
dân. Phong trào nuôi cá ruộng phát triển, không chỉ góp phần bảo vệ môi trường mà
còn cải tạo đất, tăng năng suất lúa, nhẹ chi phí đầu tư khi gieo sạ lại. Huyện luôn
khuyến cáo nông dân trồng 2 vụ lúa - xen 1 vụ cá hoặc 2 vụ lúa - 1 vụ màu để hạn chế
sâu bệnh có điều kiện phát triển và gây hại. Tuy nhiên, để phong trào nuôi thủy sản
luôn phát triển mạnh, các cơ quan chức năng cần quan tâm, hỗ trợ hơn nữa về kỹ
thuật, nhất là xây dựng các mô hình mới để đa dạng các mô hình thủy sản phù hợp với
từng địa phương (Văn Lang, 2010). Theo báo cáo của phòng NN và PTNT huyện
Phụng Hiệp thì năm 2010 toàn huyện có diện tích cá thả nuôi là 3.188,13 ha vượt kế
hoạch (KH) đề ra là 3.100 ha, đạt 102,84% kế hoạch. Sản lượng đạt 3.999 tấn/KH
20.336 tấn, đạt 152,4% KH. Trong đó diện tích thả nuôi cá tra là 90,78 ha, đạt sản

1
BQ là từ viết tắt của từ bình quân

×