Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

thử nghiệm nuôi luân trùng nước ngọt (brachionus calyciflorus) bằng tảo chlorella

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (691.22 KB, 43 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ

KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG




LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ SỐ: 304

THỬ NGHIỆM
NUÔI LUÂN TRÙNG NƯỚC NGỌT (Brachionus
calyciflorus) BẰNG TẢO CHLORELLA











Cần Thơ, 2011
Sinh viên thực hiện

NGUYỄN NGỌC BÍCH
MSSV: 0753040006


LỚP: NTTS K2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ

KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG




LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ SỐ: 304

THỬ NGHIỆM
NUÔI LUÂN TRÙNG NƯỚC NGỌT (Brachionus
calyciflorus) BẰNG TẢO CHLORELLA




Cán bộ hướng dẫn Sinh viên thực hiện

ThS. NGUYỄN HỮU LỘC NGUYỄN NGỌC BÍCH
MSSV: 0753040006
Lớp: NTTS K2











Cần Thơ, 2011
3


LỜI CẢM TẠ

Qua quá trình học tập tại trường Đại học Tây Đô, tôi xin chân thành cám ơn Ban
Giám Hiệu Trường cùng quý Thầy Cô đã tạo điều kiện cho tôi được học tập, rèn luyện
tại Trường trong suốt những năm qua.

Tôi xin bài tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Thầy Nguyễn Hữu Lộc đã tận tình hướng
dẫn cho tôi trong suốt thời gian làm đề tài.

Tôi xin chân thành cám ơn quý Thầy Cô - Khoa Sinh Học Ứng Dụng - Trường Đại
Học Tây Đô đã truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báo trong những năm học vừa
qua.

Cuối cùng tôi xin gửi lời cám ơn chân thành đến Thầy cố vấn học tập Tạ Văn Phương
và các bạn lớp Nuôi trồng thủy sản K2 đã động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học
tập, cũng như thực hiện đề tài.

Chân thành cám ơn!





Nguyễn Ngọc Bích




















4




TÓM TẮT
Nghiên cứu nhằm xác định tỉ lệ tảo Chlorella thích hợp cho sự phát triển của quần thể
luân trùng nước ngọt, đồng thời tìm ra mối tương quan giữa mật độ tảo Chlorella và
khối lượng cá rô phi. Đề tài dựa trên 2 thí nghiệm: Thí nghiệm 1 theo dõi mật độ tảo

phát triển trong các bể, thực hiện thả cá rô phi (kích thước 35 – 50g) với các khối
lượng cá rô phi khác nhau: 0,5 kg/m
3
; 1 kg/m
3
; 1,5 kg/m
3
; 2 kg/m
3
; 2,5 kg/m
3
; 3 kg/m
3
.
Thí nghiệm 2 nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ tảo đến sự phát triển của quần thể
luân trùng được thực hiện gồm 4 nghiệm thức: NT
20
; NT
50
; NT
80
và NT
110
tương ứng
với các mật độ tảo 20.000; 50.000; 80.000; 110.000 tế bào tảo/luân trùng/ngày. Kết
quả thí nghiệm 1 cho thấy giữa mật độ tảo Chlorella và khối lượng cá rô phi trong các
bể cá – tảo có mối tương quan với nhau. Trong điều kiện nhiệt độ từ 27,7 – 31,2
o
C và
pH từ 7,5 – 7,9 thì trong các bể có khối lượng cá càng cao thì mật độ tảo càng cao

nhưng khi khối lượng cá rô phi tăng cao ở một giới hạn nhất định (0,5 – 2 kg) thì mật
độ tảo giảm. Thí nghiệm 2 ở nhiệt độ từ 26,9 – 31,2
o
C và pH từ 8 – 8,2 thì nghiệm
thức có mật độ tảo Chlorella 80.000 tế bào tảo/luân trùng/ngày thích hợp nhất cho sự
phát triển của luân trùng. Sự phát triển của quần thể luân trùng kéo dài được 7 ngày và
mật độ luân trùng đạt cực đại là 814 cá thể/ml.
Từ khóa: Luân trùng nước ngọt, tảo Chlorella, cá rô phi













5






LỜI CAM KẾT
Tôi xin cam kết luận văn này được hoàn thành dựa trên các kết quả nghiên cứu của tôi

và các kết quả của nghiên cứu này chưa được dùng cho bất cứ luận văn cùng cấp nào
khác.

Ký tên


Nguyễn Ngọc Bích

























6




MỤC LỤC
Lời cảm tạ i
Tóm tắt ii
Lời cam kết iii
Mục lục iv
Danh sách bảng v
Danh sách hình vi
CHƯƠNG 1: ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1.1 Giới thiệu 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu 1
1.3 Nội dung nghiên cứu 2
CHƯƠNG 2: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 3
2.1 Sinh học luân trùng 3
2.1.1 Đặc điểm phân loại và hình thái 3
2.1.2 Đặc điểm sinh sản và chu kỳ sống 5
2.2 Kỹ thuật nuôi luân trùng 6
2.2.1 Các yếu tố môi trường nuôi luân trùng 6
2.2.2 Các hình thức nuôi luân trùng 7
2.2.3 Các loại thức ăn nuôi luân trùng và cách cho ăn 9
2.3 Tảo Chlorella 12
2.3.1 Hệ thống phân loại và hình thái 12
2.3.2 Đặc điểm dinh dưỡng 12
2.3.3 Đặc điểm sinh sản và vòng đời 12
2.4 Cá rô phi 12

2.4.1 Hệ thống phân loại 12
2.4.2 Cơ sở sinh thái học của hệ thống cá rô phi – tảo chlorella 13
2.5 Lịch sử phát triển và tình hình nghiên cứu luân trùng 13
7

CHƯƠNG 3: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 15
3.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu 15
3.2 Vật liệu nghiên cứu 15
3.3 Phương pháp nghiên cứu 15
3.3.1 Thí nghiệm 1: Ảnh hưởng của khối lượng cá rô phi đến sự phát triển của
tảo Chlorella 15
3.3.2 Thí nghiệm 2: Ảnh hưởng mật độ tảo lên sự phát triển của quần thể luân
trùng 16
3.4 Các chỉ tiêu theo dõi 17
3.5 Phương pháp xử lý số liệu 18
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 19
4.1 Thí nghiệm 1: Ảnh hưởng của khối lượng cá rô phi đến sự phát triển của tảo
Chlorella 19
4.1.1 Các yếu tố môi trường nuôi tảo 19
4.1.2 Sự phát triển của tảo 20
4.2 Thí nghiệm 2: Ảnh hưởng mật độ tảo lên sự phát triển của quần thể luân trùng 22
4.2.1 Các yếu tố môi trường nuôi luân trùng 22
4.2.2 Sự phát triển của luân trùng 25
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 31
TÀI LIỆU THAM KHẢO 32
PHỤ LỤC A












8





DANH SÁCH BẢNG


Trang
Bảng 4.1: Biến động giá trị trung bình của pH, nhiệt độ ở thí nghiệm 1 19
Bảng 4.2: Biến động mật độ tảo qua các ngày nuôi (tế bào/mL) 20
Bảng 4.3: Biến động giá trị trung bình của pH, nhiệt độ ở thí nghiệm 2 23
Bảng 4.4: Hàm lượng NO
-

2
qua các đợt thu mẫu (ppm) 24
Bảng 4.5: Hàm lượng TAN qua các đợt thu mẫu (ppm) 24
Bảng 4.6: Hàm lượng NH
3
qua các đợt thu mẫu (ppm) 25
Bảng 4.7: Biến động mật độ luân trùng ở các nghiệm thức (cá thể/mL) 26

Bảng 4.8: Tỉ lệ mang trứng của luân trùng (%) 28
Bảng 4.9: Tốc độ tăng trưởng đặc thù 30

















9






DANH SÁCH HÌNH

Trang
Hình 2.1: Hình thái của luân trùng nước ngọt B.calyciflorus 3

Hình 2.2: Đặc điểm cấu tạo của Brachionus plicatilis (Dhert, 1996) 4
Hình 2.3: Vòng đời của luân trùng (Dhert, 1996) 6
Hình 3.1: Bố trí thí nghiệm 1 16
Hình 3.2: Bố trí thí nghiệm 2 17

Hình 4.1: Biểu đồ thể hiện biến động mật độ tảo 21
Hình 4.2: Tương quan mật độ tảo và khối lượng cá rô phi 22
Hình 4.3: Biểu đồ thể hiện biến động mật độ luân trùng 27
Hình 4.4: Biểu đồ thể hiện tỉ lệ mang trứng của luân trùng 29
Hình 4.5: Biểu đồ thể hiện tốc độ tăng trưởng đặc thù 30



10

CHƯƠNG 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Giới thiệu
Hiện nay trên thế giới cũng như trong nước, ngành nuôi trồng thủy sản đang phát triển
mạnh, nhu cầu con giống ngày càng gia tăng. Một khâu quan trọng trong quá trình sản
xuất giống để đạt tỷ lệ sống và chất lượng con giống cao là việc cung cấp thức ăn phù
hợp trong giai đoạn này. Ở tất cả các loài cá nuôi, trong thời kỳ nhất định sau khi
trứng nở ra đều ăn chung một loại thức ăn đó là động vật phù du – những sinh vật nhỏ
nhưng có giá trị dinh dưỡng cao (Trần Văn Vỹ, 1982).
Bên cạnh các giống loài động, thực vật phiêu sinh làm thức ăn tươi sống như tảo, giáp
xác râu ngành, Artemia thì luân trùng (Rotifer) đặc biệt được xem là thức ăn tự nhiên
quan trọng cho ấu trùng các loài tôm cá có giá trị kinh tế cao như ấu trùng cua (Quách
Kha Ly, 2007), cá bống tượng (Trần Thị Hồng An, 1994)…Theo Trương Sĩ Kỳ
(2004) thì luân trùng là sinh vật có kích thước nhỏ, bơi lội chậm nên chúng là thức ăn
thích hợp của ấu trùng, đặc biệt là trong những ngày tuổi đầu tiên. Cho đến nay người

ta đã thống kê được hơn 60 loài ấu trùng cá và khoảng 18 loài giáp xác được nuôi
bằng loại thức ăn này.
Hiện nay có khoảng 2000 loài luân trùng được biết đến và các loài được nuôi phổ biến
ở môi trường nước lợ là Brachionus plicatilis, B.rotundiformis và môi trường nước
ngọt là B.rubens, B.calyciflorus (Dhert, 1996). Trong đó, Brachionus calyciflorus như
là nguồn thức ăn ban đầu cho hầu hết các loài cá nước ngọt. Loài luân trùng này có
nhiều dòng với kích cỡ khác nhau, vì vậy chúng thích hợp với các ấu trùng có kích
thước khác nhau (Francis O. Arimono, 2006).
Kỹ thuật nuôi luân trùng đã được nghiên cứu trong hơn 40 năm qua với nhiều hình
thức nuôi khác nhau từ nuôi nước tĩnh đến nước chảy, nước tuần hoàn bằng nhiều loại
thức ăn phong phú như tảo, men bánh mì, bột đậu nành, Protein Selco ở dạng khô,
(Fukusho, 1989). Tuy nhiên, tảo là thức ăn tốt nhất có giá trị dinh dưỡng cao đối với
luân trùng, trong đó tảo Chlorella được sử dụng nhiều nhất trong các hệ thống nuôi
nhờ tốc độ sinh trưởng nhanh (Hagiwata et al., 2001).
Một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng sinh sản và phát triển của
luân trùng là mật độ tảo làm thức ăn và mật độ nuôi của quần thể luân trùng. Vì vậy,
đề tài “ Thử nghiệm nuôi luân trùng nước ngọt (Brachionus calyciflorus) bằng tảo
Chlorella” được thực hiện.
1.2 Mục tiêu đề tài
11

Xác định mật độ tảo thích hợp cho sự phát triển của quần thể luân trùng trong mô hình
nuôi luân trùng nước ngọt, ứng dụng trong sản xuất giống các đối tượng thủy sản.
1.3 Nội dung đề tài
1) Theo dõi sự phát triển của mật độ tảo Chlorella với các khối lượng cá rô phi khác
nhau. Xác định mối tương quan giữa mật độ tảo và khối lượng cá rô phi.
2) Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ tảo lên sự phát triển của quần thể luân trùng.























12

CHƯƠNG 2
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 Sinh học Luân Trùng
2.1.1 Đặc điểm phân loại và hình thái
Theo Pechenik (2000), hệ thống phân loại của luân trùng như sau:
Ngành: Rotifera
Lớp: Monogononta
Bộ: Ploima
Họ: Brachionidae

Loài : Brachionus calyciflorus Pallas
Luân trùng còn gọi là trùng bánh xe (Rotifera) thuộc nhóm động vật đa bào có kích
thước nhỏ. Chiều dài cơ thể của chúng nhỏ hơn 2 mm, thường có kích thước từ 100-
340µm (Dhert, 1996) có dạng hình trứng dài, hơi dẹp theo hướng lưng bụng. Bờ bụng
trước có 4 gai dạng u lồi giữa có khe hình chữ V. Luân trùng có cấu tạo gồm 3 phần:
đầu, thân và chân

Hình 2.1 : Hình thái của luân trùng nước ngọt B.calyciflorus
Ðầu mang vòng tiêm mao có chức năng bơi lội và thu gom thức ăn.
Thân luân trùng chứa nhiều dịch cơ thể và các cơ quan sau:
Hệ tiêu hoá: Luân trùng lấy thức ăn nhờ vòng tiêm mao sau đó vào trong miệng
và đến hàm nghiền. Hàm nghiền này sẽ nghiền các hạt thức ăn bằng nhiều con
đường khác nhau (cắt, nghiền ) rồi đi vào thực quản, dạ dày, ruột và hậu môn
(Nogrady, 1993).
Hệ bài tiết: Luân trùng bài tiết chủ yếu là chất thải có nguồn gốc đạm (phần lớn
là ammonia). Sự chuyển động của tiêm mao ở các tế bào ngọn lửa (flame cells)
13

tạo nên dòng chảy nhỏ các chất lỏng bài tiết vào trong các túi và chảy vào bàng
quang sau đó được bài tiết ra ngoài thường xuyên và đều đặn (Nogrady, 1993).
Hệ sinh dục: Cơ quan sinh dục của con cái bao gồm 3 phần: buồng trứng, chất
noãn hoàng và lớp nang. Ngay từ khi mới sinh ra, số lượng trứng đã có sẵn
trong buồng trứng.
Chân: Chân luân trùng có cấu tạo hình nhẩn không có sự phân đốt, có thể co rút và
cuối cùng là 1 hoặc 4 ngón chân (Dhert, 1996)
Sự chuyển tiếp giữa chân và thân là hậu môn. Đây là điểm nằm ở vị trí bên ngoài mặt
lưng là nơi thải ra của ruột, bàng quang và vòi trứng


Hình 2.2: Đặc điểm cấu tạo của Brachionus plicatilis (Dhert, 1996)

Theo James và Abu-Rezeq (1989), trọng lượng khô của luân trùng dòng S là 0,22 µg
và luân trùng dòng L là 0,33 µg.
Luân trùng dòng S và L sinh trưởng với tốc độ khác nhau, có khả năng chịu đựng
nhiệt độ khác nhau và có nhiệt độ sinh trưởng tối ưu khác nhau (Fushuko, 1989).
Dòng S sinh trưởng tối ưu ở nhiệt độ từ 28-35
o
C. Dòng L đạt sinh trưởng tối ưu ở
nhiệt độ từ 18-25
o
C.
Ngoài ra sự biến đổi về hình thái giữa các loài có thể xảy ra phụ thuộc vào độ mặn
hoặc chế độ cho ăn. Hiện tượng này có thể dẫn đến sự khác nhau tối đa là 15%
14

(Fukusho và Iwamoto, 1981). Những luân trùng cho ăn bằng men bánh mì thường lớn
hơn những luân trùng được cho ăn bằng tảo tươi (Dhert, 1996).
2.1.2 Đặc điểm sinh sản và chu kì sống
Tuổi đời luân trùng từ 3,4 - 4,4 ngày. Ở nhiệt độ 25
o
C sau 0,5 – 1,5 ngày ấu trùng bắt
đầu trở thành cơ thể trưởng thành và sau đó con cái đẻ liên tục khoảng 4 giờ lại đẻ
trứng 1 lần. Các con cái có thể sinh sản 10 thế hệ con con trước khi chết. Hoạt động
sinh sản của luân trùng phụ thuộc vào nhiệt độ của môi trường (Dhert, 1996).
Con đực có kích thước nhỏ hơn con cái và không có cơ quan tiêu hóa. Cơ quan giao
cấu của con đực chứa đầy tinh dịch. Con cái cũng có 2 dạng là con cái đơn tính và con
cái hữu tính (Dhert, 1996).
Vòng đời của luân trùng có sự luân phiên giữa 2 hình thức sinh sản (hình 2.3)
Sinh sản đơn tính: con cái vô tính sẽ sinh ra trứng lưỡng bội (2n) và sẽ phát triển thành
con cái vô tính. Con cái này sinh sản với tốc độ nhanh, nhịp sinh sản khoảng 4 giờ
dưới điều kiện thuận lợi. Tốc độ sinh sản phụ thuộc vào điều kiện nuôi và tuổi của

luân trùng. Đây là hình thức sinh sản nhanh nhất để tăng quần thể luân trùng và là
hình thức quan trọng trong hệ thống nuôi luân trùng.
Sinh sản hữu tính: Trong vòng đời của luân trùng, khi có sự biến động đột ngột của
điều kiện môi trường như nhiệt độ, nồng độ muối, … luân trùng sẽ chuyển sang hình
thức sinh sản hữu tính. Trong quá trình này xuất hiện cả con cái vô tính và con cái hữu
tính, chúng đều có hình thái giống nhau, khó phân biệt tuy nhiên con cái hữu tính sẽ
sinh ra trứng đơn bội (1n). Con cái hữu tính có 3 kiểu sinh sản:
Con non sinh ra từ những trứng đơn bội không thụ tinh sẽ phát triển thành con đực.
Con đực có kích thước bằng 1/3 kích thước con cái. Chúng không có ống tiêu hoá
và bàng quang nhưng có tinh hoàn đơn với nhiều tinh trùng thành thục.
Trứng nghỉ: là trứng đơn bội đã thụ tinh. Trứng nghỉ có vách tế bào dày giúp nó
chịu đựng qua điều kiện khắc nghiệt và khi gặp điều kiện thuận lợi sẽ nở thành con
cái vô tính.
Con cái vô tính.

15


Hình 2.3: Vòng đời của luân trùng (Dhert, 1996)

2.2 Kỹ thuật nuôi luân trùng
2.2.1 Các yếu tố môi trường nuôi luân trùng
Nhiệt độ
Luân trùng khá rộng nhiệt, khoảng nhiệt độ thích hợp 15 – 35
o
C. Nhiệt độ dưới 10
o
C
luân trùng sẽ hình thành trứng nghỉ và quần thể tàn lụi (Fushimi, 1989).
Nhiệt độ nuôi luân trùng phụ thuộc vào kiểu hình thái của chúng. Kiểu L được nuôi ở

nhiệt độ (18 – 25
o
C) thấp hơn so với luân trùng kiểu S (28 – 35
o
C). Nói chung khi
tăng nhiệt độ trong pham vi tối ưu thường dẫn đến tăng hoạt động sinh sản. Tuy nhiên
nuôi luân trùng ở nhiệt độ cao sẽ làm tăng chi phí thức ăn. Ở nhiệt độ cao luân trùng
sẽ tiêu thụ rất nhanh nguồn carbonhydrate và chất béo dự trữ (Dhert, 1996). Trong
môi trường nuôi nên duy trì nhiệt độ ở khoảng 20 - 30
o
C là tốt nhất (Hoff và Snell,
2004).
pH
Trong tự nhiên luân trùng có thể sống ở pH từ 5 -10 (Fulks et al., 1991). Theo
Mitchell (1992), luân trùng nước ngọt có pH thích hợp là 6 – 8. Nghiên cứu của
Mitchell và Joubert (1986) cho thấy tại giá trị pH bằng 9,5 thì B.calyciflorus có thời
16

gian sống và sinh sản cao nhất và tại giá trị pH này không có trứng nghỉ. Ngoài ra,
theo Schluter (1981) quan sát sự phát triển của quần thể B.rubens thì mật độ đạt cao
nhất tại pH bằng 6 – 8, còn pH nhỏ hơn 4,5 hoặc lớn hơn 9,5 thì luân trùng không tồn
tại.
Ánh sáng
Cường độ ánh sáng 2000 lux, chu kỳ chiếu sáng 18 giờ sáng: 6 giờ tối mỗi ngày (Hoff,
1989). Fukusho (1989) cho rằng, ảnh hưởng trực tiếp của ánh sáng lên luân trùng thì
chưa rõ. Theo Fulks et al. (1991), ánh sáng kích thích sự phát triển của luân trùng nhờ
vào sự gia tăng phát triển của vi khuẩn quang hợp và tảo trong bể nuôi
Oxy
Các luân trùng có thể sống sót trong nước chứa oxy hòa tan thấp tới 2mg /L. Đặc biệt,
B.calyciflorus có thể chịu đựng đến mức oxy tối thiểu là 1,2 mg/l. Mức oxy hòa tan

trong nước nuôi phụ thuộc vào nhiệt độ, độ mặn, mật độ luân trùng và loại thức ăn
(Dhert, 1996).
NH
3

NH
3
gây độc đối với động vật thủy sinh nhưng với nồng độ 1 mg/l được xem là an
toàn. Hàm lượng N-NH
3
trong hàm lượng tổng cộng N-NH
4
+
(TAN) có phụ thuộc vào
pH và nhiệt độ nước (Dhert, 1996).
Các mức ammonia dạng tự do từ 3 – 5 mg/L sẽ làm ức chế sự sinh sản của luân trùng
và chúng có thể chết khi hàm lượng ammonia tăng lên (Hoff và Snell, 2004).
NO
2
-
Theo Groeneweg et al. (1981), hàm lượng N-NO
2
-
đạt từ 10-20 ppm không gây độc
đối với luân trùng Brachionus rubens. Lubzens (1987) thì cho rằng ở nồng độ 90 - 140
ppm N-NO
2
-
gây độc đối với luân trùng.
2.2.2 Các hình thức nuôi luân trùng

Nuôi theo mẻ
Các bể được đổ nước tảo ngập đến nửa bể với mật độ 13- 14x10
8
tế bào/mL và mật độ
luân trùng là 100 cá thể/mL. Độ mặn 23 ppt và nhiệt độ duy trì ở 30
o
C. Ngày đầu tiên,
mỗi ngày 2 lần cho men bánh mì vào bể với số lượng 0,25g/triệu luân trùng. Ngày
hôm sau các bể được đổ đầy hoàn toàn bằng tảo với cùng một mật độ tảo và một ngày
hai lần cho một lượng men bánh mì là 0,375g/triệu luân trùng vào bể. Ngày kế tiếp
tiến hành thu hoạch và cấy tiếp vào bể mới (chu kỳ nuôi từ 2-3 ngày) (Dhert, 1996).
Đây là phương pháp nuôi quảng canh, cần nhiều bể nuôi để có thể có đủ luân trùng
cho ấu trùng tôm cá ăn hàng ngày vì mỗi bể nuôi phải mất nhiều ngày nuôi trước khi
17

thu hoạch. Khi thu hoạch luân trùng, nước nuôi được loại bỏ, dụng cụ nuôi được tiệt
trùng và sau đó luân trùng được thả lặp lại để tiếp tục một đợt nuôi mới. So với các
phương pháp khác thì đây là phương pháp ít rủi ro, bởi vì kỹ thuật nuôi đơn giản
nhưng không có hiệu quả cao, hao phí nhân công, thời gian, dụng cụ và phương tiện
lao động (Trotta, 1980; Fushimi, 1989).
Yoshimura et al. (1997) đã cải tiến nâng cao mật độ luân trùng đến 1.000-10.000 cá
thể/mL qua việc cung cấp khí oxy, điều chỉnh pH và cung cấp thức ăn đầy đủ bằng
Chlorella cô đặc (trích từ Trần Công Bình và csv., 2005).
Nuôi theo phương pháp bán liên tục
Theo Lubzens (1987) hệ thống nuôi bán liên tục gồm các bể có thể tích nhỏ từ vài
chục lít đến 200m
3
nhưng nuôi với mật độ cao. Vì vậy, nuôi bằng phương pháp này
môi trường rất mau dơ do thức ăn dư thừa và các chất vẩn nên trong hệ thống này cần
lắp đặt các bộ phận lọc nhằm cải thiện chất lượng nước nuôi (Dương Thị Hoàng Oanh,

2005). Bể nuôi luân trùng khi đạt mật độ cao thì được thu hoạch một phần sau đó
thêm tảo và thức ăn vào để nuôi tiếp. Khi mật độ luân trùng cao thì thu hoạch tiếp và
cứ thế tiếp tục.
Đối với phương pháp này luân trùng được giữ trong bể trong thời gian 5 ngày. Hai
ngày đầu tiên mỗi ngày tăng gấp đôi thể tích nước nuôi để làm loãng mật độ luân
trùng xuống một nửa. Trong những ngày tiếp theo, tiến hành thu hoạch 1/2 số lượng
luân trùng trong bể, sau đó lại đổ nước mới vào bể để làm giảm mật độ luân trùng
xuống còn một nửa. Ngày thứ năm tiến hành thu hoạch và tiến hành lặp lại trình tự
như trên (hệ thống nuôi bán liên tục trong 5 ngày) (Dhert, 1996).
Nuôi theo phương pháp liên tục
Nuôi sinh khối luân trùng theo phương pháp liên tục thì qui mô nhỏ hơn phương pháp
nuôi mẻ nhưng hiệu quả thâm canh hơn. Đây là phương pháp có hiệu quả để sản xuất
ra luân trùng chất lượng cao. Mô hình này luôn khép kín chỉ áp dụng trong phòng nên
hạn chế ở qui mô nhỏ và đòi hỏi điều kiện thiết bị máy móc nên chi phí cao.
Mô hình nuôi liên tục tiến bộ nhất là mô hình kết hợp với chemostat (James và Abu-
Rezeq, 1989). Chemostat hoạt động trên nguyên tắc giới hạn hàm lượng thức ăn và tỉ
lệ cho ăn. Hàm lượng thức ăn cho vào và lượng luân trùng thu hoạch sẽ được tính toán
trước và duy trì ổn định. Một lượng cố định luân trùng sẽ được đem ra và bù vào bằng
một lượng cố định thức ăn cần thiết. Như vậy, chemostat duy trì tốc độ sinh trưởng
của luân trùng ổn định (bằng cách cung cấp đều đặn thức ăn) chứ không duy trì mật
độ cá thể (Droop, 1975; trích từ Trần Công Bình và csv., 2005).
Nuôi luân trùng với mật độ cao
18

Tuy nuôi luân trùng với mật độ cao sẽ làm tăng nguy cơ ô nhiễm môi trường nuôi làm
giảm tốc độ sinh trưởng do bắt đầu sự sinh sản hữu tính nhưng phương pháp này đã
thu được kết quả hứa hẹn trong điều kiện nuôi có kiểm soát.
Kỹ thuật nuôi cũng giống như kỹ thuật áp dụng để nuôi hàng loạt bằng thức ăn
Culture Selco nhưng sau mỗi chu kỳ 4 ngày mật độ luân trùng không phải điều chỉnh
lại. Thức ăn được điều chỉnh 0,25- 0,3g/ triệu luân trùng cho các mật độ giữa 500 và

1500 luân trùng/mL và ở mức 0,2g cho các mật độ trên 1500 luân trùng/mL. Nuôi
luân trùng mật độ cao ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ trứng. Tỷ lệ trứng giảm từ mức độ
trung bình 30% ở mật độ 150 luân trùng/mL xuống còn 10% ở mật độ 2000 luân
trùng/mL và dưới 5% ở mật độ 5000 luân trùng/mL. Vì vậy hệ thống này chỉ được sử
dụng trong các điều kiện được kiểm soát tốt (Lavens et al., 1996).
Nuôi luân trùng trong hệ thống tuần hoàn kết hợp với tảo và cá rô phi
Nghiên cứu thiết lập hệ thống nuôi luân trùng tuần hoàn kết hợp với tảo và cá rô phi
bước đầu đã thực hiện tại Khoa Thuỷ sản, Trường Đại học Cần Thơ. Hệ thống nuôi
được thiết lập trên cơ sở kết hợp hệ thống nuôi luân trùng (Brachionus plicatilis) tuần
hoàn và kỹ thuật sản xuất nước xanh từ cá rô phi. Thử nghiệm bước đầu của Hàn
Thanh Phong (2002), cho thấy luân trùng có thể phát triển tốt trong hệ thống tuần
hoàn kết hợp với bể nước xanh (tảo Chlorella và cá rô phi) mà không cần cho luân
trùng ăn (chỉ sống nhờ tảo Chlorella từ bể nước xanh), với tỉ lệ thể tích bể nước
xanh/bể nuôi luân trùng là 15:1, mật độ luân trùng cao nhất đạt đến 1.478 ± 96 ct/ml
vào ngày nuôi thứ 7 (Trần Công Bình và csv., 2005).
Theo Trần Công Bình và csv. (2005) trong điều kiện thời tiết như ở nước ta, tảo
Chlorella phát triển tốt nhất trong bể cá-tảo có mật độ cá thả là 2 kg/m
3
ở cỡ cá 30-50
g/con với tỉ lệ cho ăn là 3% trọng lượng thân.
2.2.3 Các loại thức ăn nuôi luân trùng và cách cho ăn

Luân trùng thuộc nhóm ăn lọc không chọn lọc nên việc có thể sử dụng nhiều loại thức
ăn để nuôi chúng. Tuy nhiên, giá trị dinh dưỡng của thức ăn sẽ quyết định giá trị dinh
dưỡng cũng như năng suất nuôi luân trùng. Do đó, việc chọn lựa nguồn thức ăn thích
hợp để nuôi luân trùng sẽ quyết định đến năng suất và giá trị của luân trùng. Thức ăn
sử dụng cho nuôi luân trùng chủ yếu là tảo, men bánh mì (yeast) và thức ăn nhân tạo
(Trần Công Bình và csv., 2005).
Tảo
Các loại tảo có thể làm thức ăn cho luân trùng là Chlorella, Dunadiella, Tetrselmis,

Nanochloropsis, (Trần Ngọc Hải và Trần Thị Thanh Hiền, 2000).
Theo Nagata và Whyte (1992) khi nghiên cứu về ảnh hưởng của các loại thức ăn khác
nhau đến sự phát triển của luân trùng, tác giả nhận thấy luân trùng khi sử dụng
19

Chlorella sacchrophila có tốc độ sinh sản và đạt mật độ cao nhất, kế đến là Isochrysis,
Tetraselmis suecica, men bánh mì Saccharomyces cereviciae và cuối cùng là
Thalassiosira pseudonana. Điều này cũng phù hợp với nhận định của Liao et al.
(1983) thức ăn tốt nhất cho sự phát triển của luân trùng là Chlorella nước mặn. Ngoài
ra luân trùng nuôi với Chlorella nước mặn có giá trị dinh dưỡng cao do chứa nhiều
HUFA đặc biệt là EPA (Fukusho, 1983). Theo Nyonje và Radull (1991) trong vùng
nhiệt đới, Chlorella nước ngọt đã được sử dụng thành công trong việc nuôi luân trùng
bằng cách thuần hoá trước khi cho ăn.
Một trong những thuận lợi trong việc sử dụng Chlorella làm thức ăn cho luân trùng là
do tảo này phát triển và phân cắt nhanh (chỉ sinh sản vô tính). Chlorella chứa hàm
lượng protein 50%, lipid 20%, Carbohydrate 20%, Vitamin B
1
, B
12
, chất khoáng…
Hơn nữa Chlorella còn sản sinh ra chất kháng sinh Chlorellin kháng lại một số vi
khuẩn do đó hạn chế một số mầm bệnh (Sharma, 1998); trích từ Trần Công Bình và
csv., 2005).
Theo Trần Công Bình và csv. (2005) thì một số tảo có chứa hàm lượng các acid béo
thiết yếu rất cao như acid eicosapentaenoic (EPA 20:5n-3) và docosahexaenoic acid
(DHA 22:6n-3), cho nên chúng được xem là thức ăn tươi sống rất tốt bổ sung hàm
lượng acid béo cho luân trùng. Khi luân trùng ăn tảo, nó sẽ thu nhận các acid béo thiết
yếu này trong vài giờ và sau đó tiến tới cân bằng giữa tỉ lệ DHA/EPA .
Men bánh mì
Men bánh mì là những tế bào nấm men có kích thước 5-7 µm có hàm lượng protein

cao (45-52%) và rẻ tiền được sử dụng làm thức ăn cho luân trùng. Tuy nhiên, nếu chỉ
cho luân trùng ăn hoàn toàn bằng men bánh mì thì năng suất không ổn định và quần
thể luân trùng mau tàn (Hirayama, 1987; Komis, 1992). Nguyên nhân chủ yếu là do
khó quản lý chất lượng nước nuôi, men bánh mì khó tiêu cần trợ giúp thêm vi khuẩn
tiêu hóa. Hơn nữa, bản thân men bánh mì có giá trị dinh dưỡng kém (chỉ giàu protein,
thiếu các thành phần khác). Mặt khác, luân trùng chỉ ăn men bánh mì có tốc độ sinh
trưởng và sinh sản thấp, điều này dẫn đến phải kéo dài chu kỳ nuôi mới đạt được mật
độ mong muốn (Hoff và Snell, 2004).
Luân trùng chỉ được cho ăn bằng men bánh mì có chất lượng kém không thể dùng
nuôi phần lớn ấu trùng cá biển (Watanabe et al., 1983). Vì vậy, luân trùng cho ăn bằng
men bánh mì cần được giàu hóa bằng tảo sống hoặc giàu hóa bằng nhũ tương với acid
béo omega-3 trước khi cho ấu trùng cá ăn.
Bột đậu nành
Bột đậu nành được sử dụng làm thức ăn cho động vật thủy sản hiện nay chủ yếu là bột
đậu nành ly trích dầu có hàm lượng protein khoảng 47- 50%, lipid không quá 3%,
20

giàu muối khoáng và vitamin nhất là các vitamin tan trong chất béo tốt (Trần Thị
Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009). Tuy bột đậu nành giàu Lecithin và acid béo
LNA (Linolenic acid 18:3n-3) một loại tiền chất để tổng hợp nên EPA và DHA nhưng
thiếu Methionine, Cystine. Bột đậu nành có hai loại:
Bột đậu nành đã tách chất béo (còn chất béo không quá 3%), được nghiền mịn từ
khô đậu nành ly trích.
Bột đậu nành chưa tách béo được nghiền từ hạt đậu nành đã qua xử lý nhiệt, có
chất béo cao (17 – 18%) nhưng đạm lại thấp (37- 38%) (Dương Tấn Lộc, 2007).
Thức ăn nhân tạo
Hiện có nhiều loại thức ăn nhân tạo đặc chế cho luân trùng được bán trên thị trường.
Các thức ăn này có thành phần chủ yếu là men bánh bì được bổ sung dinh dưỡng như
các amino acid và các acid béo thiết yếu, các vitamin và khoáng, nhằm cân bằng dinh
dưỡng và nâng cao sinh trưởng của luân trùng. Các thành phần bổ sung trong thức ăn

nhân tạo này đều nhằm mục đích là nâng cao hoạt tính của men (Hoff và Snell, 2004).
Vi khuẩn
Một số vi khuẩn làm thức ăn cho luân trùng như: Pseudomonas, Acinetobacter
nhưng một số loài vi khuẩn gây hại cho luân trùng như Flavobacteria, chúng hạn chế
sự phát triển của luân trùng và Vibrio alginoliticus làm chết luân trùng (Nguyễn Văn
Hạnh, 2007)
Protozoa
Một số loài tiêm mao trùng (ciliate), protozoa,… như: Euplotes và Vorticella. Đây là
hai loài thường xuyên gặp trong nuôi sinh khối luân trùng, chúng cạnh tranh thức ăn
và oxy với luân trùng. Đặc biệt chúng làm giảm chất lượng nước trong môi trường
sống của luân trùng, tạo nhiều hợp chất hữu cơ, làm giảm pH (Nguyễn Văn Hạnh,
2007). Tuy nhiên theo Dhert (1996) chúng có thể làm sạch nước bể nuôi khỏi vi
khuẩn và vật chất hữu cơ.
Cách cho luân trùng ăn
Do luân trùng có đặc tính ăn lọc và liên tục nên khi cho ăn phải cung cấp thức ăn với
lượng vừa phải với khoảng cách giữa các lần cho ăn ngắn nhằm hạn chế tình trạng
trong bể luân trùng thừa thức ăn (làm giảm chất lượng nước) nhưng luân trùng vẫn bị
đói (do không cung cấp thức ăn mới kịp thời). Như vậy, luân trùng phải được cho ăn
thường xuyên với lượng nhỏ nhằm duy trì chất lượng nước và tránh trường hợp cho ăn
thừa hoặc bỏ đói luân trùng. Ngoài ra, nếu luân trùng bị đói trước khi thu hoạch thì giá
trị dinh dưỡng của chúng sẽ rất thấp. Đây cũng là một nguyên nhân làm tăng tỉ lệ hao
hụt của ấu trùng tôm cá khi sử dụng luân trùng làm thức ăn (Dhert, 1996).
21

2.3 Tảo Chlorella
2.3.1 Hệ thống phân loại và hình thái
Ngành: Chlorophyta
Lớp: Chlorophyceae
Bộ: Chlorococales
Họ: Chlorellaceae

Giống: Chlorella (Bold và Wynne, 1978)
Chlorella là loài tảo đơn bào, không có tiêm mao, không có khả năng di động chủ
động. Tế bào dạng hình cầu, hình elip, có kích cỡ từ 2 – 12 µm, có chứa hạt diệp lục
tố và hạt tạo tinh bột. Màng tế bào có lớp Celluloze bao bọc (Sharma, 1998).
2.3.2 Đặc điểm dinh dưỡng
Theo Sharma (1998), Chlorella sống tự dưỡng là chủ yếu hay cộng sinh với địa y. Đặc
biệt, Chorella là loài tảo phát triển và phân cắt nhanh dưới điều kiện môi trường biến
động nên hoàn toàn thích hợp để nuôi trong hệ thống tuần hoàn ngoài trời. Tảo
Chlorella có thể sử dụng là muối ammonium, nitrat và urea cho tăng trưởng trong đó
ammonium cho kết quả tốt nhất. Khi môi trường có đồng thời 3 chất Chlorella sẽ sử
dụng ammonium trước còn nitrate và ure sẽ được tảo chuyển hoá thành ammonium
trước khi kết hợp vào thành phần hữu cơ. Như vậy, khi kết hợp tảo Chlorella vào hệ
thống nuôi, tảo sẽ hấp thu bớt TAN trong hệ thống giúp cải thiện chất lượng nước
(Trần Công Bình và csv., 2005).
2.2.3 Đặc điểm sinh sản và vòng đời
Chlorella chỉ có hình thức sinh sản vô tình với sự xuất hiện của bất động bào tử
thường hình thành 2, 4, 8, 16, 32, 64 bào tử. Sau khi kết thúc sự phân chia, bào tử đi ra
ngoài bằng cách phá vỡ màng tế bào mẹ (Sharma, 1998).
Theo Tamiya (1963; Sharma, 1998) thì vòng đời của Chlorella chia làm 4 pha: Giai
đoạn sinh trưởng, giai đoạn chín sớm, giai đoạn chín mùi và giai đoạn phân cắt.
2.4 Cá Rô Phi
2.4.1 Hệ thống phân loại
Bộ: Perciformes
Họ: Cichlidae
Giống: Danahilia, Oreochromis, Sarotherodon và Tilapia (Trewavas, 1982; trích
bởi Lê Như Xuân và csv., 1994).
2.4.2 Cơ sở sinh thái học của hệ thống cá rô phi – tảo Chlorella
22

Trong tự nhiên, cá rô phi là loài ăn tạp, thức ăn bao gồm sinh vật phù du, tảo sợi, rong

có lá, động vật đáy, các loài nhuyễn thể, tôm cá con và cả mùn bã hữu cơ. Tính ăn mồi
động vật của cá rô phi tích cực ở giai đoạn cá con, giai đoạn 1-9 cm cá ăn mồi sống rất
mạnh. Tuy nhiên khi cá lớn, chúng chuyển sang chủ yếu ăn thực vật (rong, tảo) giảm
bắt mồi động vật (Trương Quốc Phú và csv., 2006).
Cá rô phi thường được xem là cá ăn lọc do khả năng lọc tảo trong nước rất hiệu quả.
Theo Popma và Lovshin (1996), mang của cá rô phi tiết ra nhiều chất nhầy để bắt các
hạt lơ lửng tạo thành các cục nhầy dính đầy tảo, động vật phù du, vật chất hữu cơ và
được cá nuốt nào. Cơ chế này có thể giúp cá bắt được những tế bào nhỏ đến 5 µm. Cá
rô phi đen (O.mossambicus) lọc tảo kém hiệu quả hơn các loài cá rô phi vằn (rô phi
Đài Loan) và cá rô phi xanh (O.aureus).
Cá rô phi có thể tiêu hóa hiệu quả các loài tảo, nhờ pH trong dạ dày của cá rất thấp
(nhỏ hơn 2) nên có thể phá vỡ màng tế bào của tảo lam và vi khuẩn. Cá rô phi có thể
tiêu hóa 30 – 60% đạm trong tảo và tảo lam được tiêu hóa tốt hơn tảo lục (Popma và
Lovshin, 1996).
Khi nghiên cứu về khả năng sử dụng Chlorella của cá rô phi giống (O.niloticus),
Kungler et al. (1987) nhận thấy cá rô phi không sử dụng tốt Chlorella.
Nhờ những đặc điểm dinh dưỡng trên mà cá rô phi có thể giúp duy trì quần thể tảo tốt,
đặc biệt là tảo Chlorella.
2.5 Lịch sử phát triển và tình hình nghiên cứu luân trùng
Vào đầu những năm 1950, luân trùng Brachionus plicatilis lần đầu tiên được chú ý ở
Nhật vì sự phát triển sinh khối một cách đột ngột của nó làm suy giảm chất lượng
nước trong các bể nuôi cá chình và gây chết cá hàng loạt. Qua sự kiện này mà B.
plicatilis trở thành một trong các đối tượng nghiên cứu trong nuôi trồng thuỷ sản vào
lúc đó. (Hirata., 1979 và Fukusho, 1989. Trích từ Trần Công Bình và csv., 2005). Hai
mươi lăm năm sau đó lần đầu tiên luân trùng đã được sử dụng để làm thức ăn trong
nuôi ấu trùng tôm cá và có một vài kỹ thuật sản xuất thâm canh luân trùng vẫn đang
được áp dụng trên toàn thế giới (Dhert, 1996).
Ở Việt Nam trong những năm gần đây, luân trùng được nghiên cứu với rất nhiều hình
thức nuôi khác nhau nhằm đem lại kết quả sản xuất luân trùng cao đảm bảo đầy đủ về
lượng và chất với chi phí nuôi thấp:

Trần Công Bình và csv. (2005), trong nghiên cứu hệ thống nuôi luân trùng năng suất
cao và ổn định thích hợp với điều kiện Việt Nam cho thấy, có thể thiết lập một hệ
thống nuôi luân trùng nước lợ thâm canh tuần hoàn với thiết kế và vận hành đơn giản
nhưng cho năng suất cao và ổn định với chi phí sản xuất thấp. Hệ thống nuôi luân
trùng tuần hoàn này chỉ bao gồm 2 thành phần chính là bể cá-tảo và bể luân trùng với
23

tỉ lệ thể tích là 20:1 vì bể cá-tảo có thể thực hiện tốt chức năng xử lý nước trong hệ
thống này. Luân trùng nuôi đạt mức độ thâm canh (2.000 cá thể/mL) với tốc độ tuần
hoàn nước là 500%/ngày có thể sản xuất khoảng 500 cá thể/mL/ngày tương đương với
25% mật độ duy trì và có thể kéo dài trong khoảng 30 ngày trở lên. Cùng hệ thống
nuôi luân trùng bằng tảo Chlorella – cá rô phi trên, Trần Sương Ngọc và Nguyễn Hữu
Lộc (2006), cũng đã nghiên cứu thiết lập hệ thống nuôi luân trùng (B.plicatilis) với bể
nước xanh. Nghiên cứu nhằm xác định ảnh hưởng mật độ tảo đến sự phát triển luân
trùng và khả năng sản xuất sinh khối của luân trùng ở các mật độ nuôi khác nhau. Kết
quả cho thấy khi cho ăn với liều lượng 100.000 tế bào/luân trùng/ngày thì mẻ nuôi đạt
mật độ cao nhất (2.309 luân trùng/mL) sau 5 ngày nuôi, khả năng sản xuất sinh khối
cực đại ở mật độ nuôi 700 cá thể/mL là 76,22 triệu luân trùng/28L trong vòng 6 ngày
nuôi.
Với hướng nghiên cứu khác, Dương Thị Hoàng Oanh và csv. (2006) nghiên cứu nuôi
luân trùng (B.plicatilis) bằng men bánh mì (có bổ sung 3 – 5% tảo Chlorella) thay thế
thức ăn Selco. Tuy năng suất và chất lượng luân trùng thu hoạch được cũng tương
đương với việc cho ăn bằng thức ăn Selco, nhưng cần phải lắp đặt hệ thống lọc sinh
học tuần hoàn kết hợp với bộ tách bọt và ozone tương đối phức tạp.
Hầu hết các nghiên cứu về luân trùng trong nước đều tập trung vào nhóm luân trùng
nước lợ, trong khi ở nước ngọt cũng có nhiều giống luân trùng có tìm năng phát triển
như B.rubens, B.calyciflorus.












24

CHƯƠNG 3
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thời gian: Thời gian thực hiện từ tháng 3 đến tháng 6 năm 2011.
Địa điểm: Thí nghiệm được tiến hành tại Trại Thực Nghiệm, Khoa Sinh Học Ứng
Dụng, Trường Đại Học Tây Đô.
3.2 Vật liệu nghiên cứu
Nguồn nước: Sử dụng nước ngọt được cung cấp từ nhà máy nước Cần Thơ, được xử
lý bằng Chlorine (20ppm) và sục khí liên tục cho đến khi hết Chlorine. Sau đó, dùng
KI để kiểm tra hàm lượng Chlorine còn dư (trung hòa bằng Natri Thiosulfate nếu còn
Chlorine dư), nước được để lắng trong thời gian 24 giờ trước khi sử dụng.
Đối tượng nghiên cứu:
- Luân trùng nước ngọt Brachionus calyciflorus được mua tại phòng thí nghiệm
thức ăn tự nhiên Khoa Thủy Sản, Trường Đại học Cần Thơ.
- Cá rô phi vằn được mua từ trại giống ở thành phố Cần Thơ được tắm trong
formol có nồng độ 20 ppm trong thời gian 30 phút để diệt mầm bệnh ký sinh
trước khi thả nuôi.
- Tảo Chlorella phát triển tự nhiên trong bể cá rô phi.
Thiết bị và dụng cụ nghiên cứu
- Bể composite 20L, 12 cái

- Bể composite 250L, 6 cái
- Nhiệt kế
- Máy đo pH
- Kính hiển vi, kính lúp
- Dụng cụ đếm luân trùng, đếm tảo
- Hệ thống máy sục khí
- …
Hóa chất: formol, lugol, … và một số hóa chất khác.
Thức ăn cho luân trùng: Tảo Chlorella từ hệ thống tảo – cá rô phi.
3.3 Phương pháp nghiên cứu
3.3.1 Thí nghiệm 1: Ảnh hưởng của khối lượng cá rô phi đến sự phát triển của
tảo Chlorella
25

Thí nghiệm 1 nhằm tìm hiểu sự phát triển của tảo trong các bể nuôi cá rô phi để đánh
giá khả năng cung cấp tảo Chlorella của hệ thống nước xanh trong bể nuôi cá rô phi.
Thí nghiệm được bố trí: Cá rô phi có kích thước 35 – 50g được nuôi trong bể
composite 250L với các khối lượng khác nhau: 0,5 kg/m
3
; 1 kg/m
3
; 1,5 kg/m
3
; 2
kg/m
3
; 2,5 kg/m
3
; 3 kg/m
3

. Các bể cá được ký hiệu lần lượt là: Bể 0,5; Bể 1; Bể 1,5;
Bể 2; Bể 2,5; Bể 3, các chỉ số theo sau tương ứng với khối lượng của cá (kg/m
3
).

Hình 3.1: Bố trí thí nghiệm 1
Bể cá được sục khí liên tục và đặt trong nhà có mái che bằng tấm lợp trong suốt bảo
đảm đủ ánh sáng cho tảo phát triển. Cá được cho ăn bằng thức ăn viên 2 lần/ngày (lúc
8 giờ và 14 giờ) với khẩu phần ăn 3% trọng lượng thân. Đếm mật độ tảo hàng ngày,
thí nghiệm kết thúc khi mật độ tảo đạt cực đại và sau đó giảm trong 2 ngày.
3.3.2 Thí nghiệm 2: Ảnh hưởng mật độ tảo lên sự phát triển của quần thể luân
trùng
Phương pháp nuôi theo mẻ: luân trùng được nuôi trong bể composite có thể tích 20L,
mật độ ban đầu 30 cá thể/ml.

×