Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Nuôi thu sinh khối tảo Nannochloropsis oculata và sử dụng các loại thức ăn khác nhau để nuôi luân trùng Brachionus plicatlis làm thức ăn cho ấu trùng cá biển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.06 KB, 48 trang )

1

M Ở Đ ÀU
Để đáp ứng nhu cầu về thức ăn cho các đối tượng nuôi thuỷ sản phù hợp với giai
đoạn phát triển kinh tế theo phương hướng công nghiệp hố và hiện đại hố, ngồi
việc cải tạo mơi trường nước, bón phân, gây ni thức ăn tự nhiên, việc chế biến
thức ăn tổng hợp, nuôi thức ăn sống để cung cấp cho cá và cảc thuỷ sản khác là một
nhu cầu rất cần thiết hiện nay.
Thức ăn tươi sống là loại thức ăn thích hợp ở giai đoạn ấu trùng của nhiều đối
tượng ni và ít gây ơ nhiễm mơi trường ni. Vì vậy việc nghiên cứu sử dụng thức
ăn tươi sống trong sinh sản nhân tạo sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của q trình
sản xuất.
Vi tảo biển được coi là thức ăn tốt nhất cho các đối tượng ni, ngo thành phần
dinh dưỡng là các vitamin thiết yếu, tảo biển còn chứa một hàm lượng đáng kể các
acid béo không no HUFA n – 3, và những acid béo này có thể dễ dàng trở thành
nguồn dinh dưỡng cho ấu trùng cá biển thông qua luân trùng là loại thức ăn sống
trung gian. Trong số các loài tảo biển hiện đang được áp dụng rộng rãi, tảo
Nannochloropsis oculata có chất lượng khá tốt và được sử dụng nuôi luân trùng ở
nhiều nước trên thế giới.
Nuôi luân trùng là một khâu không thể thiếu của nhiều trại sản xuất giống nhân
tạo các đối tượng hải sản. Đặc biệt ở giai đoạn lấy dinh dưỡng ngoài đầu tiên của ấu
trùng các đối tượng nuôi hải sản như: cá, giáp xác, và động vật thân mếm. Luân
trùng là loại thức ăn tốt nhât cho nhiều loại ấu trùng vì chúng có ưu điêm đặc biệt:
giá trị dinh dưỡng cao, kích thước phù hợp,tốc độ bơi chậm, khả năng ni sinh
khối cao….. Ngồi ra, ln trùng dễ thích nghi với mơi trường, có khả năng chịu
đựng đối với sự biến động lớn của độ mặn.
Ở Việt Nam trong những năm gần đây, sự thành cơng của các quy trình sản xuất
giống cua xanh Scylla serrata, cá chẽm Lates calcarifer, cá mú Epinephelus sp.. đã
đặt ra những yêu cầu cấp bách đối với việc sản xuất thức ăn sống, đặc biệt tại các cơ
sở sản xuất giống đại trà, nhằm cung cấp số lượng con giống lớn cho nhu cầu nuôi
thương phẩm.




2

Xuất phát từ yều cầu thực tế trên, được sự đồng ý của bộ môn Hải Sản – Khoa
nuôi trồng thuỷ sản - trường Đại Học Nha Trang, chúng tôi tiến hành thực hiện đề
tài:
“Nuôi thu sinh khối tảo Nannochloropsis oculata và sử dụng các loại thức ăn
khác nhau để nuôi luân trùng Brachionus plicatlis làm thức ăn cho ấu trùng cá
biển”
Mục đích và ý nghĩa của đè tài:
-

Bước đầu làm quen với phương pháp ngiên cứu khoa học

-

Khả năng sinh khôi của tảo N. oculata

-

Loại thức ăn tốt nhất cho luân trùng Br. Plicatilis

Nội dung nghiên cứu:
-

Kỹ thuật nuôi thu sinh khối tảo N. oculata

-


Xác định mật độ tảo

-

Sử dụng tảo N. oculata nuôi luân trùng

-

Thử nghiệm một số sản phẩm mới để nuôi luân trùng

-

Xác định, so sánh mật độ nuôi luân trùng nuôi.

Mặc dù rất cố gắng nhưng do mới làm quen với phương pháp nghiên cứu khoa
học, vốn kiến thức còn hạn chế và thời gian có hạn nên báo cáo khơng tránh khỏi
nhiều thiếu sót. Kính mong sự thơng cảm và đóng góp của q thầy cô và các bạn
sinh viên để luận văn được hoàn thiện hơn


3

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. Tình hình nghiên cứu và ứng dụng luân trùng trong nước và trên thế giới.
1.1.1. Trên thế giới.
Mặc dầu luân trùng Brachionus plicatilis lúc đầu được xác định là vật gây hại
trong các ao nuôi cá chình ở những năm 50 và 60 của thế kỷ trước. Nhưng cũng
chính thời gian này, các nhà nghiên cứu Nhật Bản đã sớm nhận ra rằng loài luân
trùng này có thể sử dụng làm sinh vật thức ăn sống thích hợp cho các giai đoạn ấu
trùng ban đầu của cá biển. Việc sử dụng thành công luân trùng trong các hoạt động

của trại sản xuất giống cá tráp đỏ Pagrus major thương mại đã khuyến khích việc
nghiên cứu để phát triển các kỹ thuật nuôi hàng loạt luân trùng.
Từ năm 1956, nhiều đặc diểm sinh thái học, biến động quần đàn, sinh học sinh
sản, dinh dưởng cá thể đã được thực hiện trong phịng thí nghiệm và ngồi thực địa.
Sau 25 năm nghiên cứu (1956-1981), luân trùng đã đựơc sử dụng khá phổ biến trên
thế giới và đã được ứng dụng thành công, làm thức ăn cho hơn 60 lồi cá biển và 18
lồi giáp xác (Dhert, 1997 trích bởi Như Văn Cẩn, 1999).
Trên thế giới có nhiều phương pháp ni ln trùng khác nhau. Tuy nhiên có
một số phương pháp phố biến sau:
-

Nuôi theo phương pháp thu hoạch tồn bộ.

-

Ni theo phương pháp thu hoạch bán liên tục.

-

Ni bằng hệ thống tuần hồn.

+ Ni theo phương pháp thu hoạch tồn bộ.
Đây là hình thức ni sinh khối được áp dụng sớm nhất trên thế giới. Luân trùng
được cấy vào mơi trường có tảo đang phát triển ở mật độ cao (khoảng 10-20x10 6 tb/
ml).( Một điều chắc chắn rằng là các vi tảo biển là thức ăn tốt nhất cho luân trùng
và có thể cho năng suất rất cao nếu có sẵn tảo với khối lượng đủ kèm theo việc quản
lý thích hợp). Khi luân trùng sử dụng hết lượng tảo thì thu hoạch tồn bộ và dùng
một phần làm giống cho các đợt nuôi khác.
+ Nuôi theo phương pháp thu hoạch bán liên tục.



4

Luân trùng được thả với mật độ thấp trong các bể tảo nhưng khi tảo được sử
dụng hết, luân trùng được tiếp tục cho ăn bằng men bánh mì hay nguồn tảo từ bên
ngoài. Khi mật độ luân trùng tương đối cao, thay vì thu hoạch tồn bộ theo phương
pháp trên, người ta chỉ thu hoạch một phần thể tích sau đó bổ sung lượng nước mới
vào. Thể tích thu hoạch hàng ngày khoảng 10-30% thể tích ni tuỳ theo mật độ và
tốc độ tăng trưởng của quần đàn. Sau một vài lần thu hoạch, mật độ luân trùng có
thể bị giảm dần do sự tích tụ chất thải và thức ăn thừa bị phân huỷ, khi đó ta thu
hoạch làm thức ăn cho ấu trùng hay cấy sang bể mới.
+ Ni bằng hệ thống tn hồn.
Ni ln trùng với mật độ cao thường dẫn đến sự ô nhiễm do phân huỷ thức ăn
thừa và tích tụ của chất thải. Năm 1976, Hirata lần đầu tiên đã mô tả một phương
pháp đơn giản cải thiện chất lượng nước bằng cách cho chảy qua một kênh rải sỏi.
Năm 1979, ông cải tiến bằng một hệ thống làm lưu thông nước 20 lần / ngày. Các
chất bẩn được định kỳ thu vào bể có chứa các loại vi khuẩn nhằm phân huỷ thành
các chất vơ cơ và chất khống. Những chất khống này sau đó được dùng để ni
tảo và dùng tảo ni ln trùng. Với hệ thống bể ni 500 lít theo phương pháp này
cần có thêm một bể tạo dịng chảy 150 lít. Luân trùng được thả với mật độ ban đầu
thấp và thu hoạch khi đạt đến mật độ 100-150 cá thể/mL và có thể tiếp tục tăng lên
đến mật độ 500 cá thể/mL. Ở mật độ này lượng luân trùng hàng ngày có thể đạt tới
80.5x106 cá thể ít nhất là 20 ngày (Hirata, 1979 trích bởi Cái Ngọc Bảo Anh, 1999).
1.1.2. Ở Việt Nam.
Tại Việt Nam các vấn đề nghiên cứu về luân trùng đã phổ biến nhiều.
Nguyễn Quyền và ctv (1976-1980) đã nghiên cứu về một số đặc điểm sinh học
luân trùng như mùa vụ xuất hiện trong tự nhiên, ảnh hưởng của nhiệt độ, độ mặn.
thức ăn và đã thử áp dụng hệ thống bể ni tuần hồn trong ni sinh khối ln
trùng.
Nguyễn Thị Nga (1998) đã nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của luân trùng,

ảnh hưởng của các yếu tố môi trường lên sinh truởng và phát triển của luân trùng
làm cơ sở cho nuôi sinh khối và bảo quản chúng.


5

Năm 1999 trong khuôn khổ dự án hợp tác nghiên cứu sản xuất giống cá chẽm
Lates calcarifer do tổ chức NUFU tài trợ, Cái Ngọc Bảo Anh đã nghiên cứu về ảnh
hưởng của các loại thức ăn khác nhau đến ni sinh khối và chất lượng ln trùng
Brachionus plicatilis dịng nhỏ ni trong bể kích thước lớn. Như Văn Cần nghiên
cứu về khả năng thích nghi và đánh giá chất lượng ln trùng Brachionus plicatilis
dịng lớn, ni sinh khối tại Nha Trang bằng một số loại thức ăn khác nhau.
1.2. Đặc điểm sinh học cua ln trùng.

1.2.1.Vị trí phân loại.
Ngành

Nemathelminthes
Lớp

Rotatoria
Bộ

Monogonota
Họ

Brachionidae
Giống

Brachionus

Lồi

B. plicatilis Muller, 1786

1.2.2. Đặc điểm hình thái.
Cơ thể luân trùng được phân biệt thành 3 phần khác nhau: đầu, thân và chân.
-

Phần đầu: mang bộ máy tiêm mao, là cơ quan giúp cho sự vận động và
tạo dòng nước đưa thức ăn vào miệng. Phần trên cùng của đầu là cơ quan
cảm giác.

-

Phần thân: có lớp vỏ cuticul khơng thấm nước, chỉ bị phân huỷ khi luân
trùng chết.

-

Phần chân có dạng vịng, có khả năng co rút, phần tận cùng khơng phân
đốt với hai mấu chân tiết chất dính giúp cơ thể dính vào giá thể (Fukúho,
1981 trích bởi Cái Ngọc Bảo Anh, 1999).

Ln trùng có kích thước cơ thể nhỏ dao động từ 100-360 m , cơ thể có dạng
hình trứng dài và hơi dẹp. Bờ bụng trước của vỏ có 4 gai và có dạng u lồi, giữa có
khe hình chữ V. Bờ lưng trước có 6 gai hình tam giác và đỉnh nhọn . Cơ quan đặc
trưng của luân trùng là mề nghiền, có tác dụng trong việc nghiền các hạt được ăn.
1.2.3. Phân bố và dinh dưỡng của luân trùng



6

Luân trùng phân bố rộng nhiều nơi trên thế giới, ở nước ta phân bố ở ao, đầm…
với mật độ cao. Brachionus plicatilis là bọn động vật ăn lọc nên thức ăn chủ yếu là
vi tảo, vi khuẩn, mùn xác hữu cơ, vật thể lơ lửng trong nước.
1.2.4. Sinh trưởng và phát triển
Luân trùng sinh trưởng và phát triển phụ thuộc vào nhiều yếu tố: độ mặn, nhiệt
độ, mật độ nuôi…
Bằng phương pháp nuôi nhân tạo xác định được một số chỉ tiêu sinh trưỏng sau:
-Thời gian phát triển phôi: thường kéo dài tử 11-21h.
-Thời gian thành thục: tính từ lúc còn non đến lúc trưởng thành sinh sản: kéo dài
từ 22-38h .
-Nhịp đẻ: thường dao động từ 6-10h.
-Số trứng mang tại một thời điểm: thường dao động từ 1-4 (8 chiếc).
-Số trứng mang trong vòng đời: dao động từ 11-17 (30 chiếc).
-Tuổi thọ: phụ thuộc chủ yếu vào nhiệt độ. Ở nhiệt độ khoảng 25 0C thời gian
sống của cá thể luân trùng ước tính khoảng 3,4 - 4,4 ngày (Fukusho, 1989 trích bởi
Cái Ngọc Bảo Anh, 1999). Thơng thường cá thể mới nở trưởng thành sau 0.5 - 1,5
ngày và bắt đầu đẻ trứng khoảng 4 h/lần. Một cá thể cái có thể sinh sản khoảng 10
thế hệ trong suốt vòng đời.
1.2.5 Về sinh sản.
Vòng đời của Brachionus plicatilis có thể khép lại bằng hai phương thúc sinh
sản:
Sinh sản đơn tính và hữu tính.
Trong giai đoạn sinh sản đơn tính của con cái, các con cái vơ phối đơn tính sản
sinh ra các trứng đơn tính (thể lưỡng bội 2n), các nhiễm sắc thể phát triển và nở
thành các con cái vơ phối đơn tính.
Trong những điều kiện môi trường đặc thù, con cái chuyển sang sinh sản hữu
tính phức tạp hơn và trở thành con cái vơ phối đơn tính và lưỡng tính. Mặc dầu cả
hai con này khơng thể phân biệt được về hình thái, nhưng các con cái vô phối lưỡng



7

tính sản sinh ra các trứng đơn bội( các nhiễm sắc thể n). Các ấu trùng nở từ các
trứng lưỡng tính khơng thụ tinh này phát triển thành các con đực đơn bội.
Những con đực này có kích thước khoảng 1/4 kích thước con cái, cũng khơng có
ống tiêu hố và bàng quang nhưng lại có một tinh hồn đơn chứa đầy tinh trùng.
Các trứng lưỡng tính có kích thước nhỏ hơn nhiều sẽ nở thành con đực; trong khi
các trứng lưỡng tính thụ tinh thì lớn hơn và có một lớp bên ngồi và hơi có dạng
hạt.
Các trứng này là những trứng nghỉ và chúng chỉ phát triển và nở thành các con
cái vơ phối đơn tính sau khi tiếp xúc với các điều kiện môi trường đặc thù. Điều này
có thể là do kết quả của những thay đổi về điều kiện môi trường, cuối cùng đã tạo
ra những thay đổi về nhiệt độ, độ mặn hoặc các điều kiện thức ăn thay đổi. Cần
nhấn mạnh rằng mật độ luân trùng của quần thể cũng đóng một vai trò quan trọng
trong việc quyết định phương thức sinh sản. Mặc dầu chưa hồn tồn hiểu hết cơ
chế, nhưng nói chung người ta tin rằng việc sản xuất các trứng nghỉ là một chiến
lược của quần thể để sống sót qua các điều kiên môi trường không thuận lợi như
hạn hán hoặc rét.
1.2.6.Giá trị dinh dưỡng và vai trò làm thức ăn của luân trùng.
Giá trị dinh dưỡng của các “vật mồi” được quyết định bởi khả năng thoả mãn
của nhu cầu về dinh dưỡng cho sự sinh trưởng và phát triển của các “đối tượng
đích”. Khơng phải ngẫu nhiên mà hiện nay luân trùng được nuôi rộng rãi để làm
thức ăn cho hầu hết các loài cá biển. Mỗi dối tượng cá biến cần các loại thức ăn
khác nhau, nhưng có thể khẳng định rằng “Luân trùng là thức ăn sống không thể
thiếu cho giai đoạn bắt đầu ăn của ấu trùng cá biển” (Như Văn Cẩn, 1999).
Giá trị của luân trùng trong công nghệ sản xuất giống cá biển được thể hiện ở
các mặt sau:
-Kích thước luân trùng phù hợp với kích cỡ miệng của ấu trùng cá biển mới nở .

-Tốc độ bơi chậm, khả năng phân bố đều trong nước, màu sắc phù hợp nên luân
trùng có tác dụng kích thích tập tính bắt mồi của ấu trùng.
-Luân trùng dễ nuôi do chịu được sự biến động lớn của môi trường.


8

-Tốc độ sinh sản nhanh, vòng đời ngắn, khả năng ni với mật độ cao có thể cho
sinh khối lớn, đáp ứng cho nhu cầu sản xuất.
Và đặc biệt quan trọng là giá trị dinh dưỡng của luân trùng đáp ứng nhu cầu dinh
dưỡng cho các đối tượng nuôi:
Luân trùng là bọn giàu dinh dưỡng, dễ tiêu hoá và hấp thụ. Trong thành phần
axit béo khơng no có chứa EPA, DHA,hai loại này được coi là axit béo thiêt yếu có
tác động đến tỷ lệ sống và sự phát triển của cá biển (Sargent, 1989; Olsen và ctv,
1993; Kanazawa, 1993; Dhert và Sorgeloos, 1995 trích bởi Như Văn Cẩn, 1999).
Mặc dầu, khả năng tổng hợp HUFA n-3 của luân trùng rất kém, nhưng bù lại luân
trùng lại dễ hấp thu và tích luỹ các loại axit này. Điều này rất có ý nghĩa khi ta áp
dụng các biện pháp làm giàu luân trùng trước khi cho ấu trùng cá biển ăn, nhằm
năng cao tỷ lệ sống, sức sinh trưởng của các đối tượng nuôi.
Theo thống kê luân trùng sử dụng làm thức ăn cho 60 loài cá biển, 16 loài giáp
xác.
Ví dụ: sử dụng làm thức ăn cho cá chẽm giai đoạn từ 1 – 15 ngày tuổi
sử dụng làm thức ăn cho cá mú giai đoạn từ 1 – 30 ngày tuổi
sử dụng làm thức ăn cho cá măng,c á bớp giai đoạn từ 5 – 20 ngày tuổi
1.2.7. Ảnh hưởng của một số yếu tố tới sự biến động của quần thể luân trùng.
- Ảnh hưởng của các yếu tố vô sinh.
Trong các yếu tố vô sinh , yếu tố nhiệt độ và độ mặn là quan trọng nhất.
 Nhiệt độ:
Nhiệt độ không chỉ ảnh hưởng tới sự phát triển của quần thể , tỷ lệ trứng, tốc độ
tiêu thụ thức ăn, sự hình thành và tỷ lệ nở của trứng nghỉ, kích thước, thời điểm xuất

hiện luân trùng trong tự nhiên mà còn tác động đến thành phần sinh hoá của luân
trùng.
Theo Olsen và ctv (1993) khi nhiệt độ thấp luân trùng tiêu thụ thức ăn chậm, tốc
độ phát triển quần đàn thấp nhưng lại duy trì được hàm lượng lipit và carbohydrate
trong thời gian dài (Như Văn Cẩn, 1999). Ngược lại, nhiệt độ cao tiêu thụ thức ăn
nhanh, tốc độ tăng sinh khối nhanh (do tăng hoạt động sinh sản) nhưng nuôi luân


9

trùng với nhiệt độ cao đi kèm với chi phí nhiều hơn cho thức ăn và thành phần sinh
hoá cũng biến đổi rất nhanh, đặc biệt khi biên động về thức ăn.
Sự thích ứng nhiệt độ cũng phụ thuộc vào từng dịng, dịng nhỏ có nhiệt độ cực
thuận nằm trong khoảng 28-350C, trong khi đó dịng lớn là 18-250C (Fukusho, 1989
trích bởi Cái Ngọc Bảo Anh).
Bảng 1.1. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến hoạt động sinh sản của Brachionus
plicatlis (Theo Ruttner-Kolisko, 1972)
Nhiệt đô (0C)

15 20 25

Thời gian để phát triển phôi (ngày)

1,3 1,3 0,6

Thởi gian đẻ các con cái non đẻ lần đầu (ngày)

3,0 1,9 1,3

Khoảng thời gian giữa hai lần đẻ (giờ)


7,0 5,3 4,0

Tuổi thọ (ngày)

15

10 7

Số trứng do 1 con cái đẻ trong cuộc đời của nó

23

23 20

Độ mặn:
Độ mặn thích hợp ni ln trùng được xác định nằm trong khoảng 4 – 35 ppt
(Lubzens, 1987), tốt nhất là 25 ppt ( Spektorova, 1998 trích Như Văn Cẩn, 1999).
Mặc dù, luân trùng có thể tồn tại ở độ mặn 1 -97 ppt, nhưng nó chỉ phát triển tốt ở
độ mặn tối ưu, sự biến đổi đột ngột về độ mặn có thể làm luân trùng ngừng hoạt
động , gây chết hoặc làm giảm chất lượng luân trùng, điều này có ý nghĩa khi ta sử
dụng luân trùng để làm thức ăn cho ấu trùng động vật biển trước khi cho ấu trùng ăn
ta cần phải làm thuần đến độ mặn thích hợp.
Ngồi hai yếu tố chính là nhiệt độ và độ mặn thì các yếu tố như oxy hồ tan,
NH3 … cũng có những ảnh hưởng theo các mức độ khác nhau. Trong nuôi sinh khối
với mật độ cao cần quan tâm tới việc bổ sung ôxy, nhưng cũng khơng nên sục khí
q mạnh bởi có thể làm tổn thương tới luân trùng. Luân trùng có thể tồn tại trong
nước với hàm lượng ôxy thấp tới 2 mg/L. Trong nuôi sinh khối luân trùng, mức pH
trên 6,6; hàm lượng NH3 dưới 1 mg/L được coi là an toàn.



10

- Ảnh hưởng của các yếu tố hữu sinh.
Vi khuẩn.
Để ni ln trùng được ổn định, thì sự ảnh hưởng của vi khuẩn lên sinh khối
luân trùng cần phải được xem xét một cách kỹ lưỡng cả về số lượng cũng như thành
phần các vi khuẩn trong hệ thống nuôi.
Psedomonas và Acinetobacter là những vi khuẩn cơ hội phổ biến, chúng có thể
là nguồn thức ăn bổ sung quang trọng cho ln trùng. Ví dụ một vài lồi
Psedomonas tổng hợp vitamin B12, mà vitamin này có thể là yếu tố hạn chế trong
các điều kiện nuôi (Yu và ctv, 1998, trích bởi Lavens và Sorgeloos, 1996).
Mặc dù hầu hết các vi khuẩn đều không gây bệnh cho các luân trùng nhưng cần
tránh để chúng sinh sơi nảy nở vì nếu chúng tích tụ lại và truyền qua chuỗi thức ăn
có thể gây ra những ảnh hưởng có hại đến các sinh vật ăn mồi sống.
Để nuôi luân trùng được ổn định, cần xem xét hệ vi khuẩn cũng như điều kiện
sinh lý của các luân trùng. Ví dụ, người ta chứng minh rằng điều kiện thức ăn của
luân trùng Brachionus plicatilis có thể được đo bằng hoạt động sinh lý và phản ứng
của nó đối với dịng vi khuẩn gây bệnh được chọn lựa (Vibrio anguillarum TR27):
dòng vi khuẩn V.anguillarum được xử lý ở nông độ 10 6-107 CFU/mL (đơn vị hình
thành tập đồn) đã ảnh hưởng xấu đến các luân trùng nuôi bằng khẩu phần thức ăn
tối ưu không bị ảnh hưởng bởi dòng vi khuẩn này.
Trùng tiêm mao.
Trong sản xuất, sự có mặt của số lượng ít trùng tiêm mao thì khơng phải là một
vấn đề gì q nghiêm trọng, nhưng với số lượng lớn có thể dẫn đến việc giảm đột
ngột mật độ và khả năng thu sinh khối luân trùng.
Các trùng tiêm mao Halotricha và Hypotricha như Uronema sp và Euplotes sp
là những lồi khơng mong muốn trong ni thâm canh vì chúng cạnh tranh thức ăn
với các luân trùng (Lavens và Sorgeloos, 1996).
Sự suất hiện những trùng tiêm mao này nói chung là do các điều kiện ở mức tối

ưu dẫn đến kết quả làm cho luân trùng hoạt động kém và làm tăng cơ hội cạnh tranh
thức ăn. Các trùng tiêm mao sản sinh ra các chất chuyển hoá làm tăng hàm lượng


11

NO2-N trong nước và làm giảm độ pH. Tuy nhiên chúng có tác dụng tích cực trong
việc loại bỏ vi khuẩn và các chất mùn bã ra khỏi bể nuôi. Việc cho thêm một nồng
độ thấp 20 mg/L foocmalin vào bể nuôi cấy tảo, 24 giờ trước khi cấy luân trùng có
thể làm giảm đáng kể sự nhiễm bẩn các động vật đơn bào. Sàng lọc và làm sạch các
luân trùng bằng các lưới lọc thực vật phù du (<50 m ) để giảm số lượng trùng tiêm
mao hoặc các vật gây bẩn có kích thước nhỏ là cách phịng ngừa có thể thực hiện dễ
dàng khi tiến hành việc nuôi cấy ban đầu.
Theo kết quả nghiên cứu của Như Văn Cẩn (1999), mật độ nhiễm trùng tiêm
mao trong các bể nuôi bằng tảo tươi thấp hơn rất nhiều khi nuôi bằng nấm men.
Virut và nấm.
Virus Rotier Birnavirus (RBV) và nấm thuộc nhóm Lagenidiaceae được quan
tâm nhiều và được xem như một trong những tác nhân nguy hiểm gây ra sự biến
động lớn mật độ và hiện tượng chết đột ngột của quần thể luân trùng.
Theo Võ Khả Tâm ( 1999), luân trùng nuôi sinh khối bằng tảo N. oculata mật độ
12x106 tb/mL cho sinh khối luân trùng cao và hạn chế sự phát triển của nấm.
1.2.8. Các loại thức ăn sử dụng trong nuôi sinh khối luân trùng.
 Nuôi sinh khối luân trùng bằng vi tảo.
Năm 1999, trong nghiên cứu của mình Như Văn Cẩn đã chỉ ra rằng: Ln trùng
được ni bằng tảo có sức sống cao hơn, khả năng chịu được sự biến đổi độ mặn tốt
hơn so với ni bằng men bánh mì.
Tảo biển được coi là thức ăn tốt nhất ni ln trùng vì có giá trị dinh dưỡng
cao, giàu vitamin, phân tán tốt trong nước và đặc biệt không làm ô nhiễm nước.Tuy
nhiên trong thực tế các trại sản xuất khó có khả năng cung cấp đủ tảo cho ni ln
trùng.Bởi vì, ln trùng có sức tiêu thụ thức ăn khá lớn, một con cái có thể tiêu thụ

một lượng tảo tương đương 5-10 lần thể tích cơ thể chúng (Banabe, 1991 trích bởi
Như Văn Cần, 1999). Trong khi đó, việc sản xuất tảo với số lượng lớn lại địi hỏi
phải có sự đầu tư lớn cơ sở vật chất và nhiều nhân công.
Chi phí cao liên quan đến sản xuất tảo, những rủi ro do bị nhiễm bẩn và nhừng
biến đổi theo thời gian trong giá trị thức ăn của tảo vẫn còn là vấn đề tồn tại với bất


12

kỳ trại sản xuất giống cá biển nào. Để hạn chế vấn đề này các nhà nghiên cứu cố
gắng tìm cách thay thế tảo bằng các thức ăn nhân tạo làm thức ăn bổ sung hoặc thay
thế hồn tồn tảo.
Ni sinh khối luân trùng bằng men bánh mì
Năm 1967, Hirata và Mori đã góp phần tạo ra một bước tiến quan trọng trong
công nghệ nuôi thu sinh khối luân trùng bằng việc phát hiện ra loài nấm men
Saccharomyces cerevisiae để thay thế tảo làm thức ăn nuôi luân trùng(Như Văn
Cẩn, 1999). Việc sử dụng nắm men mang tính hiệu quả kinh tế cao, đỡ tốn kém
nhân cơng và mang tính chủ động cao trong sản xuất.
Tuy nhiên, việc chỉ sử dụng nấm men bánh mì làm thức ăn cũng có những vấn
đề cần phải được xem xét một cách thận trọng. Những thử nghiệm đầu tiên để thay
thế hoàn toàn thức ăn tự nhiên của luân trùng bằng men bánh mì được đặc trưng bởi
sự thành cơng thất thường và thất bại đột ngột (Hiramaya, 1987 trích bởi Lavens &
Sorgeloos, 1996). Ngun nhân ở đây có thể dược giải thích do sự thiếu hụt vitamin
B12, cystein và một số acid béo không no HUFA n – 3 trong thành phần của men
bánh mì, mà đây là nhũng chát rất cần thiết cho sự phát triển của luân trùng, cũng
như ấu trùng các sinh vật ăn mồi sống.
 Nuôi sinh khối luân trùng bằng thức ăn tổng hợp (Culture selco).
Thức ăn dạng này được chế biến để thay thế hoàn toàn cho các vi tảo sống và
đồng thời đảm bảo sự hợp nhất ở mức độ cao các axit béo thiêt yếu (EFA) và
vitamin ở luân trùng.Thành phần hoá sinh của thức ăn nhân tạo Culture selco gồm

có 45% protêin, 30% hydratcacbon, 15% lipit (33% thức ăn này là các axit beo
không no HUFA n – 3 ) và 7% tro. Các đặc điểm vật lý thứa ăn này là tối ưu đối với
sự hấp thụ của luân trùng. Tuy nhiên, trong sản xuất khó có trại sản xuất nào có thể
sử dụng loại thức ăn này để nuôi luân trùng. Bởi vì, giá thành của loại thức ăn này
rất cao, nên thường thì chỉ có thể sử dụng trong việc “lam giàu” luân trùng trước khi
đưa vào các bể ương ấu trùng.
 Kết hợp các loại thức ăn để nuôi sinh khối luân trùng.


13

Mỗi loại thức ăn riêng biệt dùng để nuôi luân trùng đều có những nhược điểm
nhất định. Vì vậy, sự kết hợp giữa các loại thức ăn có thể là một giải pháp hữu hiệu
trong việc nuôi sinh khối luân trùng ở các trại sản xuất.
Nhiều công thức phối hợp đã được đưa ra và cũng ít nhiều cho thấy được hiệu
quả. Spektorrora (1981) thí nghiệm phối hợp tảo và men bánh mì ni ln trùng
theo 3 tỷ lệ 1:2; 1:1; và 2:1 cho ăn theo 3 khẩu phần: 5; 50 và 100 g / mL . Kết
luận rút ra là luân trùng phát triển tốt nhất khi nuôi bằng tảo kết hợp với nắm men
theo tỷ lệ tảo : men = 1:2 và khẩu phần tốt nhất là 100 g / mL ( Như Văn Cẩn,
1999).
Năm 1999, kết quả nghiên cứu của Cái Ngọc Bảo Anh cho thấy nấm men bổ
sung 10% dầu mực là một loại thức ăn có thể sử dụng ni sinh khối ln trùng B.
plicatilis dịng nhỏ.
1.3 Tình hình nghiên cứu và ứng dụng vi tảo trong nước và trên thế giới
1.3.1 Đặc điểm sinh học tảo Nannochloropsis oculata.
A. Vị trí phân loại.
Ngành

Heterokontophyta Hocck, Mann và Jahns, 1985


Lớp

Eustigmtophyceae Hibberd, 1981
Bộ

Eustigmatales Hibberd, 1981
Họ

Monopsidaceae Hibberd, 1981

Giống

Nanochloropsis Hibberd, 1981
Loài

N. Oculata Hibberd. 1981

B. Đặc điểm sinh học
- Đặc điểm hình thái cấu tạo.
Tảo N. oculata có kích thước nhỏ, tế bào có dạng hình cầu và hình trứng, đường
kính dao động trong khoảng 2 – 4  m. Đây là tảo đơn bào khơng có khả năng di
động (Phạm Thị Lam Hồng, 1999).
-Cấu tạo hiển vi của tế bào.
Năm 1986, Murayama đã nghiên cứu cấu trúc hiển vi của tế bào tảo N. Oculata
dưới kính hiển vi điện tử cho thấy tế bào có một nhân. Thể sắc tố quang hợp chỉ có


14

một thể sắc tố hình trứng. Thể sắc tố được bao bọc bởi hai lớp màng, lớp màng

ngồi dính liền với màng nhân. Trong thể sắc tố có nhiều bản sắc tố, mỗi bản gồm 3
phiến sắc tố xếp song song, khơng có đai nối giữa các sắc tố. Sắc tố quang hợp duy
nhất tìm thấy ở tảo N. Oculata là Chlorophyl a, không thấy sắc tố quang hợp
chlorophyl b và c. Đây có thể coi là một đặc trưng sinh hố chủ yếu để phân loại tảo
Nannochloropsis nói riêng và ngành Eustigmataphyta nói chung. Các carotenoid
bao gồm carotene 11%, violaxathin 51%, vaucherixathin 26% và các carotenoid
khác chiếm 12% (Maruyama, 1986 trích bởi Phạm Thị Lam Hồng, 1999).
-Hình thức sinh sản: N. oculata có hai hình thức sinh sản là sinh sản sinh dưỡng
bằng cách phân đôi và sinh sản bằng tự bào tử.
1.3.2. Giá trị dinh dưỡng của tảo.
Vi tảo là mắt xích thức ăn đầu tiên của chuỗi thức ăn ngồi tự nhiên. Chúng là
thức ăn khơng thể thay thế cho giai đoạn ấu trùng và trong suốt giai đoạn trưởng
thành của động vật thân mềm. Đối với ấu trùng giáp xác và ấu trùng một số loài cá,
tảo cũng là thức ăn bắt buộc ở giai đoạn sớm. Tảo biển với giá trị dinh dưỡng cao và
thoả mãn u cầu về kích thuớc nên có thể nâng cao tỷ lệ sống của ấu trùng, quyết
định thành công trong việc sản xuất giống nhiều loài động vật biển có giá trị kinh tế.
Vi tảo biển có hàm lượng dinh dưỡng cao, hàm lượng protein từ 6 – 34% khối
lượng khô, hàm lượng lipit từ 5 – 23%, hàm lượng carbohydrate từ 5 – 12% khối
lượng khô (Brown và ctv, 1997 trích bởi Phạm Thị Lam Hồng, 1999).
Vi tảo biển là nguồn cung cấp acid béo không no cho các động vật biển. Acid
béo khơng no có vai trị quan trọng đối với ấu trùng động vật thân mềm, cá biển và
các loại động vật phù du. Các acid béo có giá trị dinh dưỡng nhất là EPA 20:5n-3
(Eicosapentaenonic acid), và DHA 22:66n-3 (Docosahexaenoic acid).
Ngoài ra, các vi tảo biển cịn rất giàu vitamin. Mười loại vitamin đã tìm thấy ở vi
tảo, trong đó hàm lượng vitamin C và vitamin B12 cao nhất, tiếp theo là các
Vitamin A, D, E, K... Ngồi vai trị cung cấp thức ăn cho luân trùng và ấu trùng cá,
tảo còn tác dụng làm ổn định mơi trường như cung cấp oxy hồ tan và hấp thụ NH 3
trong bể ương ấu trùng. Tuy nhiên, giá trị dinh dưỡng của những loài tảo khác nhau



15

rõ rệt giữa các lồi, giữa các dịng trong cùng một lồi và đặc biệt phụ thuộc vào
điều kiện mơi trường như độ mặn, ánh sáng, thời điểm thu hoạch...
1.3.3. Ảnh hưởng của một số yếu tố tới sự biến động quần thể vi tảo.
- Sinh trưởng của tảo
Trong các điều kiện thuận lợi của môi trường về dinh dưỡng, ánh sáng, độ mặn
và nhiệt độ, các loài vi tảo sinh sản theo kiểu phân cắt tế bào làm số lượng tế bào
tăng lên một cách nhanh chóng.
Sự sinh trưởng của vi tảo được đặc trưng bởi 5 pha (Lavens & Sorgeloos, 1996):
+ Pha gia tốc dương (I): ở pha này tảo bắt đầu làm quen với môi trường nuôi,
hấp thụ dinh dưỡng và bắt đầu phân chia tế bào nhưng số lượng tế bào tăng chậm.
+ Pha logarit (II): số lượng tế bào ở pha này tăng theo cấp số nhân. Tảo ở giai
đoạn này hấp thụ dinh dưỡng mạnh.
+ Pha gia tốc âm (III): ở pha này môi trường dinh dưõng có chiều hướng giảm
mạnh cùng với mật độ tế bào tảo cao làm tốc độ sinh sản giảm, tuy vậy số lượng tế
bào vẫm còn tăng.
+Pha cân bằng (IV): tảo đạt mật độ cực đại và số lượng ổn định.
+Pha tàn lụi (V): tảo sau khi đạt mật độ cực đại, khả năng sinh sản giảm dần và
số lượng tảo giảm một cách rõ rệt.
Tốc độ tăng trưởng của các lồi tảo khác nhau thì khác nhau, ngồi ra nó cịn
chịu sự chi phối lớn của các điều kiện môi trường.
Số lương tế bào

III
II

IV

V


I
Thời gian
- Ánh sáng


16

Giống như bao loài thực vật khác, vi tảo cùng phải quang hợp, tức là chúng hấp
thụ cacbon vô cơ để chuyển hoá thành các chất hữu cơ. Trong khi đó, ánh sáng
chính là nguồn năng lượng cho q trình quang hợp. Vì vậy, ảnh hưởng của ánh
sáng cần phải được xem xét ở các khía cạnh như: cường độ ánh sáng, phổ ánh sáng,
và thời gian chiếu sáng. Mặc dù, ánh sáng ban ngày đủ cung cấp cho tảo quang hợp.
Nhưng cường độ ánh sáng ban ngày lại phụ thuộc rất lớn vào điều kiện thời tiết, khí
hậu địa phương, những thay đổi đột ngột về cường độ ánh sáng, thời gan chiếu sáng
(do thời tiết thay đổi) có thể làm ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng của tảo, thậm
chí làm cho tảo tàn lụi hàng loạt.Chính vì vậy, những nghiên cứu về ánh sáng nhân
tạo cho việc nuôi tảo cũng được nghiên cứu nhiều. Theo Guillard (1975) tảo chỉ có
thể chịu được ánh sáng mặt trời trực tiếp khi mật độ tảo nuôi đạt được mật độ khá
cao (Phạm Thị Lam Hồng, 1999). Với cường độ ánh sáng q mạnh có thể ức chế
q trình quang hợp (Lavens & Sorgeloos, 1996). Cường độ mạnh và thời gian
chiếu sáng lâu có thể làm tăng nhiệt độ bể ni. Như vây, ánh sáng còn kết hợp với
nhiệt độ ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của tảo.
-Nhiệt độ
Nhiệt độ có ảnh hưởng lớn tới đời sống của tảo, đồng thời ảnh hưởng cả chất
lượng dinh dưỡng cũng như sinh vật gây hại cho tảo.
Hầu hết các loại tảo có thể sống trong khoảng nhiệt độ từ 16-30 0C. Nếu nhiệt độ
cao hơn 350C thì tảo có thể bị chết và nếu thấp hơn 16 0C thì tảo chậm phát triển.
Tảo N. oculata là lồi có khả năng thích nghi với sự biến động nhiệt độ rộng, phát
triển tốt nhất trong khoảng nhiệt đô từ 10-300C.

- Độ mặn
Mỗi lồi tảo khác nhau có khả năng thích nghi với một khoảng dao động độ mặn
khác nhau. Hầu hết các loại tảo dạng monas sinh trưởng trong khoảng độ mặn dao
động 12-40 ppt, nhưng phát triển tốt nhất ở độ mặn 20-24 ppt.
N. oculata là một lồi rộng muối, thích ứng được trong khoảng độ mặn 7-35 ppt.
Theo kết quả nghiên cứu của Phạm Thị Lam Hồng (1999) tảo N. oculata phát triển
tốt nhất ở độ mặn 30-35 ppt nhưng có thể phát triển ở độ mặn 10-35 ppt. Tuy nhiên,


17

theo Vũ Dũng(1998) Tảo N. oculata phát triển tốt ở độ măn 18-26 ppt (Đặng Đình
Kiêm, 2002). Mặc dù có khả năng thích nghi với sự thay đổi độ mặn một cách đột
ngột sẽ làm thay đổi nhanh chóng áp suất thẩm thấu của tế bào, thậm chí sẽ bị chết
hàng loạt.
Sự biến đổi độ mặn chỉ ảnh hưởng nhẹ đến hàm lượng protein, hydratcacbon,
chlorophyl a. nhưng đối với lipit trong khoảng độ mặn từ 10 – 15 ppt, độ măn tăng
hàm lượng lipit tăng, độ mặn thay đổi làm thành phần acid béo thay đổi.
- pH
pH của môi trường quá cao hoặc quá thấp đều làm chậm tốc độ tăng trưởng của
tảo. Sự biến đổi của nhiệt độ, ánh sáng có tác động đến pH thơng qua q trình
quang hợp của tảo. Mức pH tốt nhất cho sự phát triển của tảo là từ 8,2- 8,7. Sự biến
động pH trong môi trường nuôi tảo phụ thuộc vào sự cân bằng sau:
HCO3-

CO2 + OH-

Trong quá trình quang hợp tảo hấp thụ rất mạnh CO2 nên làm cho pH tăng cao.
- Môi trường dinh dưỡng
Trong nuôi sinh khối tảo, mật độ tảo sẽ cao hơn rất nhiều so với ngoài tự nhiên.

Chính vì vậy, sau một thời gian chất dinh dưỡng trong môi trường sẽ bị giảm sút và
ta phải bổ sung dinh dưỡng cho sự phát triển của tảo.
Dinh dưỡng là yếu tố vô cùng quan trọng ảnh hưởng mạnh tới sự sinh trưởng và
phát riển của tảo. Môi trường dinh dưỡng ảnh hưởng cả trên phương diện số lượng
và chất lượng. Mỗi lồi tảo khác nhau có nhu cầu dinh duỡng về thành phần và số
lượng từng chất là khác nhau. Nhu cầu về đạm giảm dần từ tảo Lục, tảo Lam và tảo
Silic có nhu cầu về đạm là thấp nhất, Silic rất cần thiết chi sự phát triển của tảo Silic
vì nó tham gia vào cấu tạo màng tế bào.
Muối nitơ rất cần thiết cho quá trình sinh trưởng và phát triển của tảo. Bởi vì
nitơ là thành phần cơ bản tạo nên các loại prôtêin, trong đó có protêin cấu trúc và
protêin chức năng. Ngồi ra, nitơ còn tham gia vào cấu tạo của nhiều loại vitamin
B1, B2, B6, BP là thành phần quan trọng của hệ men oxy hóa khử và nhiều men
quan trọng khác.


18

Photpho được coi là chìa khố của q trình trao đổi chất. Hàm lượng photpho
không cần thiết phải cao, xong nếu thiếu nó thì tảo khơng phát triển được. Bởi vì
photpho có tác dụng lên hệ keo ở dạng các ion, photpho ở dạng liên kết với các kim
loại tạo nên hệ đệm đảm bảo cho pH của tế bào luôn xê dịch trong một phạm vi nhất
định (6-8) là điều kiện tốt cho các hệ men hoạt động. Photpho tham gia vào cấu trúc
có vai trị quan trọng trong những khâu chuyển hố trung gian và có ý nghĩa then
chốt trong trao đổi năng lượng.
Bên cạnh những nguyên tố đa lượng việc bổ sung những nguyên tố vi lượng
cũng rất cần thiết. Các nguyên tố vi lượng gồm một số các muối kim loại với nồng
độ thấp như: CuSO4, CoCl2, ZnSO4, FeCl3… Vai trò của các nguyên tố vi lượng này
hầu như đều có tác dụng đến q trình trao đổi chất của tảo. Trong đó, sắt là nguyên
tố vi lượng được bổ sung nhiều nhất so với các muối kim loại khác trong môi
trường nuôi. Tuy sắt không phải là chất tham gia vào cấu tạo của diệp lục nhưng nó

là tác nhân bổ trợ hoặc là thành phần tham gia vào cấu trúc của các hệ men và chủ
yếu là các men oxy hoá khử, tham gia tích cực vào dây chuyền sinh tổng hợp của
các chất quan trọng. Sắt đóng vai trị quan trọng vào q trình vận chuyển điện tử
quang phân ly nước và quá trình photphoryl hố quang hợp. Do vậy nhu cầu sắt cho
sự sinh trưởng và phát triển của tảo là rất cần thiết nhưng chỉ ở hàm lượng thấp. Khi
hàm lượng sắt q cao có thể gây độc cho tảo.
Ngồi ra vitamin cũng được sử dụng khá phổ biến để bổ sung vào môi trường
nuôi tảo, dù chỉ với một lượng rất nhỏ nhưng có thể thúc đẩy sự gia tăng sinh khối
của tảo. Vitamin B12 và B1 là hai vitamin rất cần cho tảo, sau đó là biotin.
N. oculata phát triển rất nhanh trong môi trường Walne là môi trường được bổ
sung thêm vitamin B1 (0,1 mg/L) và B12 (0,005 mg/L).
1.3.4 Tình hình nghiên cứu và ứng dụng vi tảo trong nước và trên thế giới
- Trong nước.
Tại Việt Nam, những nghiên cứu về tảo dã được thực hiện từ rất lâu. Nhưng
những nghiên cứu trước đây chủ yếu về phân loại, điều tra thành phần trong các
thuỷ vực nội địa, những nghiên cứu về tảo biển còn rất hạn chế ở thời kỳ trước


19

những năm 80 của thế kỷ trước, và những hiểu biết của chúng ta về tảo thường gắn
liền với những báo cáo của một số ít tác giả.
Trương Ngọc An và ctv (1970 – 1971) đã phát hiện 115 loài thực vật nổi trên
sông Ninh Cơ ở Nam Hà.
Dương Đức Tiến (1982) đã cơng bố 1389 lồi tảo ở các thuỷ vật nội địa Việt
Nam.
Những nghiên cứu ứng dụng tảo trong sản xuất chỉ thực sự phát triển kể từ giữa
thập kỷ 80 của thế kỷ 20, với thành công trong cơng trình của Lê Viện Trí (1980 –
1986) về ứng dụng nuôi tảo Skeletonema costatum làm thức ăn trong các trại sản
xuất tôm giống ở Hạ Long.

Trong những năm gần đây, những thành công của công nghệ sinh sản nhân tạo
giống tôm sú, điệp quạt và đặc biệt việc nghiên cứu cho sinh sản nhiều lồi cá biển
đã góp phần thúc đẩy khoa học nghiên cứu ứng dụng tiến thêm một bước mới với
những nghiên cứu mang tính thực tiễn hơn.
Năm 1995, Hồng Thi Bích Mai đã nghiên cứu ảnh hưởng của độ mặn, nhiệt độ
ánh sáng, hàm lượng muối dinh dưỡng lên sinh trưởng, phát triển và đưa ra quy
trình ni hai lồi tảo Skeletonema costatum và Chaetoceros sp, làm thức ăn cho ấu
trùng tôm sú.
Tại viện nghiên cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản III ứng dụng nuôi tảo N. oculata và
Chaetoceros muelleri làm thức ăn cho ấu trùng điệp quạt và đã thu được nhiều
thành công.
Phạm Thi Lam Hồng (1999), đã nghiên cứu ảnh hưởng của độ mặn, ánh sáng và
tỷ lệ thu hoạch lên một số đặc điểm sinh học, thành phần sinh hố của hai lồi vi tảo
N. oculata và C. muelleri trong điều kiện phòng thí nghiệm, thành cơng của nghiên
cứu đã góp thêm những hiểu biết quan trọng về hai loài tảo và ứng dụng nuôi bán
liên tục để cung cấp tảo cho việc sản xuất động vật phù du, trong quy trình ương các
loại ấu trùng động vật biển.
Năm 1999, Lục Minh Diệp đã có những cơng bố quan trọng khi nghiên cứu ảnh
hưởng của tỷ lệ phân bón, tỷ lệ thu hoạch lên sự phát triển của hỗn hợp tảo tự nhiên


20

và thử nghiệm nuôi tảo N. oculata. Những kết quả từ báo cáo này đã giúp cho chúng
ta hiểu biết đầy đủ hơn về vi tảo và khả năng thay đổi thành phần loài tảo ưu thế của
tảo tự nhiên theo tỷ lệ pha lỗng và tỷ lệ phân bón.
Hồng Thị Kiều Nga (2002), ảnh hưởng chế độ bón phân đến sinh trưởng của
quần thể tảo N. oculata và I. galbana ngoài trời ; Hoàng Thị Ngọc (2003), ảnh
hưởng của hàm lượng phân bón và sự bổ sung CO 2 đến sinh trưởng của các quần
thể tảo ; Mai Thi Thuỳ Linh (2004), ni thu sinh khối hai lồi tảo N. oculata và

I.galbana ở quy mơ túi nylon 50 lít và 2 m 3. Ý nghĩa của những báo cáo này là
không thể phủ nhận nhưng chúng lại được tiến hành tại cùng một địa điểm trong
điều kiện của một trại thực nghiệm, vì vậy mà tính thực tiễn là khơng cao.
Nhìn chung, hiện nay nước ta đã có nhiều cơ quan nghiên cứu, phân lập, nhân
giống, lưu giữ và ni sinh khối tảo và quy trình sản xuất các loài tảo cũng tương
đối hoàn chỉnh. Tuy vậy, những nghiên cứu ứng dụng tại các cơ sở sản xuất còn rất
hạn chế, cần phải được tiến hành nhiều hơn nữa.
- Trên thế giới.
Khoảng 1/3 sinh khối thực vật trên thế giới là sinh khối tảo. Trong tổng số
khoảng 25.000 loài vi tảo hiên nay có khoảng 50 lồi được nghiên cứu tỉ mỉ về mặt
sinh hoá, sinh lý và sinh thái học (Đặng Đình Kim, 2002). Hiện nay, có trên 40 loài
tảo khác nhau được phân lập ở các nên trên thế giới, đang được nuôi để làm các
chủng tảo thuần khiết trong các hệ thống thâm canh (Lavens & SorgelooS, 1996).
Việc nghiên cứu phân lập và nuôi tảo thuần khiết sạch vi khuẩn đã được
Beijerkin tiến hành năm 1980 (Phạm Thị Lam Hồng, 1999).
Năm 1993, Liao và ctv đã sử dụng thành công tảo Skeletonema costatum làm
thức ăn cho ấu trùng tôm sú P. monodon.
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của công nghệ sản xuất giống
nhiều đối tượng hải sản, các nghiên cứu về sản xuất các loài tảo khác nhau cũng
được tiến hành theo nhiều quy mơ và đa dạng hố đối tượng.



×