Tải bản đầy đủ (.pdf) (44 trang)

Tìm hiểu một số chỉ tiêu sinh lý sinh thái cá chép (Cyprinus carpio L.) giai đoạn phôi, cá bột và cá hương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.26 KB, 44 trang )


1



TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ

KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ SỐ: 304

ĐỀ TÀI
TÌM HIỂU MỘT SỐ CHỈ TIÊU
SINH LÝ, SINH THÁI CÁ CHÉP
GIAI ĐOẠN PHÔI, CÁ BỘT VÀ CÁ HƯƠNG



Sinh viên thực hiện
NGUYỄN BÍCH NGỌC ĐAN THANH
MSSV: 0753040082
LỚP: NUÔI TRỒNG THỦY SẢN K2



Cần Thơ, 2011


2

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ SỐ: 304

ĐỀ TÀI
TÌM HIỂU MỘT SỐ CHỈ TIÊU
SINH LÝ, SINH THÁI CÁ CHÉP
GIAI ĐOẠN PHÔI, CÁ BỘT CÁ HƯƠNG



Cán bộ hướng dẫn Sinh viên thực hiện
Ts. Phạm Minh Thành Nguyễn Bích Ngọc Đan
Thanh
MSSV: 0753040082
Lớp: NTTS K2





Cần Thơ, 2011


3


LỜI CẢM TẠ
Trong khoảng thời gian 3 tháng thực hiện đề tài vừa qua, tuy gặp nhiều khó khăn
nhưng với sự giúp đỡ và động viên từ nhiều phía đã giúp tôi hoàn thành tốt đề tài.
Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu trường Đại học Tây Đô đã tạo
điều kiện để tôi được học tập, trao dồi kiến thức và kỹ năng chuyên môn trong thời
gian vừa qua.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến giáo viên hướng dẫn Ts. Phạm
Minh Thành, giảng viên Khoa Thủy Sản trường Đại Học Cần Thơ, đã tận tình quan
tâm, hướng dẫn chỉ bảo, cho tôi những lời khuyên quý báu trong suốt thời gian học tập
cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài tốt
nghiệp và hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn đến tất cả quý Thầy, Cô Khoa Sinh Học Ứng Dụng – Trường
Đại Học Tây Đô đã dạy bảo và truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu trong suốt
thời gian học tập tại trường và động viên tôi trong thời gian thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn đến Cô Trần Ngọc Huyền, cán bộ phòng Thí Nghiệm Khoa
Sinh Học Ứng Dụng trường Đại Học Tây Đô đã hỗ trợ các dụng cụ hóa chất và kỹ
thuật chuyên môn giúp tôi hoàn thành được đề tài.
Cảm ơn các bạn tập thể lớp Nuôi Trồng Thủy Sản khóa 2 đã cùng tôi gắn bó, đoàn
kết, san sẻ vượt qua khó khăn trong suốt chặng đường dài học tập.
Cuối cùng là lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình, những người thân và bạn bè đã giúp
đỡ, động viên về tinh thần và hỗ trợ vật chất tạo điều kiện cho tôi thực hiện được đề
tài để hoàn thành chương trình học này.
Xin chân thành cảm ơn tất cả mọi người đã giúp đỡ và chia sẻ với tôi để có được
thành công hôm nay!








4

TÓM TẮT
Đề tài “Tìm hiểu một số chỉ tiêu sinh lý, sinh thái của cá chép (Cyprinus carpio L.)
giai đoạn phôi, cá bột và cá hương” được tiến hành từ tháng 3/2011 đến tháng 6/2011
tại trại giống Minh Trang và phòng Thí nghiệm Khoa Sinh Học Ứng Dụng. Mục tiêu
thu thập một số dẫn liệu về các chỉ tiêu sinh lý sinh thái của cá chép ở giai đoạn phôi,
cá bột, cá hương. Góp phần làm cơ sở khoa học cho sự phát triển kỹ thuật sản xuất
giống và ương nuôi cá chép đạt hiệu quả cao.
Các phương pháp nghiên cứu được xây dựng dựa theo “Hướng dẫn nghiên cứu cá”
của I.F Pravdin (1973) và “Sinh thái học cá” của Nicolski (1963) và “Methods for fish
biology” của Carl B. Schreck và Peter B. Moyle (1990).
Kết quả nghiên cứu trên đối tượng là cá chép ở các giai đoạn phát triển phôi, cá bột và
cá hương cho thấy:

Nhiệt độ không sinh học của cá chép là 6,73
o
C.

Ngưỡng nhiệt độ trên của phôi tự do, cá bột và cá hương có các giá trị trung bình
tương ứng là 40,67
o
C, 41,33
o
C và 41,5
o
C.


Ngưỡng nhiệt độ dưới của phôi tự do, cá bột và cá hương có các giá trị trung bình
tương ứng là 5
o
C, 4,67
o
C và 4,5
o
C.

Ngưỡng oxy của phôi tự do, cá bột và cá hương có các giá trị trung bình tương ứng
là 1,64 mg/L, 0,94 mg/L và 0,79 mg/L.

Cường độ hô hấp của phôi tự do, cá bột và cá hương có các giá trị trung bình tương
ứng là 0,68 mgO
2
/g/giờ, 0,54 mgO
2
/g.giờ và 0,45 mgO
2
/g/giờ.

Ngưỡng pH trên của phôi tự do, cá bột và cá hương có các giá trị trung bình tương
ứng là 9,41, 9,64 và 10,04.

Ngưỡng pH dưới của phôi tự do, cá bột và cá hương có các giá trị trung bình tương
ứng là 4,97, 4,68 và 4,07.

Ngưỡng độ mặn của phôi tự do, cá bột và cá hương có các giá trị trung bình tương
ứng là 11,17‰, 12,33‰ và 13,17‰.
Từ khóa: Cyprinus carpio L.,cá chép, sinh lý, sinh thái, nhiệt độ, oxy, pH, độ mặn, cường độ hô hấp






5

CAM KẾT KẾT QUẢ
Tôi xin cam kết luận văn này được hoàn thành dựa trên các kết quả nghiên cứu của tôi
và các kết quả của nghiên cứu này chưa được dùng cho bất cứ luận văn cùng cấp nào
khác.
Cần Thơ, ngày 29 tháng 6 năm 2011
Ký tên



Nguyễn Bích Ngọc Đan Thanh

6

MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM TẠ i
TÓM TẮT ii
CAM KẾT KẾT QUẢ iii
MỤC LỤC iv
DANH SÁCH BẢNG vi
DANH SÁCH HÌNH vii
CHƯƠNG I (ĐẶT VẤN ĐỀ) 1
1.1 Giới thiệu 1

1.2 Mục tiêu nghiên cứu 2
1.3 Nội dung nghiên cứu 2
CHƯƠNG II (LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU) 3
2.1 Đặc điểm sinh học của cá chép 3
2.1.1 Đặc điểm phân bố 3
2.1.2 Vị trí phân loại 3
2.1.3 Đặc điểm hình thái 4
2.1.4 Đặc điểm dinh dưỡng 5
2.1.5 Đặc điểm sinh trưởng 6
2.1.6 Đặc điểm sinh sản 7
2.2 Khả năng thích ứng môi trường của cá chép 8
2.2.1 Nhiệt độ 9
2.2.2 Oxy 10
2.2.3 pH 11
2.2.4 Độ mặn 11
CHƯƠNG III (VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU) 13
3.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu 13
3.2 Vật liệu nghiên cứu 13
3.2.1 Dụng cụ nghiên cứu 13
3.2.2 Đối tượng nghiên cứu 13
3.2.3 Thức ăn thí nghiệm 13
3.2.4 Nguồn nước cho thí nghiệm 14
3.3 Phương pháp xác định một số chỉ tiêu sinh học cá 14
3.3.1 Xác định nhiệt độ không sinh học 14
3.3.2 Xác định ngưỡng nhiệt độ 15
3.3.3 Xác định ngưỡng oxy 15
3.3.4 Xác định cường độ hô hấp 16
3.3.5 Xác định ngưỡng pH 17
3.3.6 Xác định ngưỡng độ mặn 19
3.4 Phương pháp tính toán, xử lý số liệu và đánh giá kết quả 21

CHƯƠNG IV (KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN) 22
4.1 Xác định nhiệt độ không sinh học của cá chép (T
0
) 22
4.1.1 Điều kiện môi trường thí nghiệm 22

7

4.1.2 Kết quả xác định nhiệt độ không sinh học 22
4.2 Ngưỡng nhiệt độ của cá chép 23
4.2.1 Điều kiện môi trường thí nghiệm 23
4.2.2 Kết quả xác định ngưỡng nhiệt độ 24
4.3 Ngưỡng oxy của cá chép 25
4.3.1 Điều kiện môi trường thí nghiệm 25
4.3.2 Kết quả xác định ngưỡng oxy 26
4.4 Cường độ hô hấp của cá chép 26
4.4.1 Điều kiện môi trường thí nghiệm 26
4.4.2 Kết quả xác định cường độ hô hấp 27
4.5 Ngưỡng pH của cá chép 28
4.5.1 Điều kiện môi trường thí nghiệm 28
4.5.2 Kết quả xác định ngưỡng pH 28
4.6 Ngưỡng độ mặn của cá chép 30
4.6.1 Điều kiện môi trường thí nghiệm 30
4.6.2 Kết quả xác định ngưỡng độ mặn 30
CHƯƠNG V (KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT) 32
5.1 Kết luận 32
5.2 Đề xuất 33
TÀI LIỆU THAM KHẢO 34
PHỤ LỤC A


8

DANH SÁCH BẢNG

Trang
Bảng 2.1: Mối quan hệ giữa chiều dài cơ thể và ngày tuổi của cá chép 7
Bảng 2.2: Mối quan hệ giữa số lượng trứng cá đẻ và khối lượng trứng 8
Bảng 4.1: Điều kiện môi trường thí nghiệm độ không sinh học 22
Bảng 4.2: Thời gian phát triển phôi của cá chép 23
Bảng 4.3: Nhiệt độ không sinh học của cá chép 23
Bảng 4.4: Điều kiện môi trường thí nghiệm ngưỡng nhiệt độ 23
Bảng 4.5: Kết quả xác định ngưỡng nhiệt độ của cá chép 24
Bảng 4.6: Điều kiện môi trường thí nghiệm ngưỡng oxy 25
Bảng 4.7: Kết quả xác định ngưỡng oxy của cá chép 26
Bảng 4.8: Điều kiện môi trường thí nghiệm cường độ hô hấp 27
Bảng 4.9: Kết quả xác định cường độ hô hấp 27
Bảng 4.10: Điều kiện môi trường thí nghiệm ngưỡng pH 28
Bảng 4.11: Kết quả xác định ngưỡng pH của cá chép 28
Bảng 4.12: Điều kiện môi trường thí nghiệm ngưỡng độ mặn 30
Bảng 4.13: Kết quả xác định ngưỡng độ mặn của cá chép 31



9

DANH SÁCH HÌNH

Trang
Hình 2.1: Hình thái cá chép Cyprinus carpio L ở Đồng Bằng Sông Cửu Long 4
Hình 2.2: Ảnh hưởng của hàm lượng oxy hòa tan lên sức khỏe cá 10

Hình 2.3: Ảnh hưởng của pH đến đời sống của cá 11
Hình 3.1: Sơ đồ bố trí thí nghiệm xác định ngưỡng pH 18
Hình 3.2: Sơ đồ bố trí thí nghiệm xác định ngưỡng độ mặn 20
Hình 4.1: Ngưỡng pH trên và dưới của cá chép 29


10

CHƯƠNG I

ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Giới thiệu
Ở Việt Nam, nuôi trồng thủy sản đóng một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển
kinh tế và đảm bảo an ninh thực phẩm cho những hộ nuôi quy mô nhỏ và đóng góp tới
35% lượng tiêu thụ protein của người Việt Nam. Sản lượng nuôi trồng thuỷ sản hàng
năm tăng trưởng 10% và góp phần đáng kể cho thu nhập từ nguồn xuất khẩu của cả
nước (Bộ Thuỷ sản, 2007).
Việt Nam nói chung và Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) nói riêng, thủy sản
đang phát triển với tốc độ cao và là thế mạnh trong phát triển kinh tế xã hội. Vùng
ĐBSCL với điều kiện giao thoa mặn, lợ, ngọt đã tạo nên một vùng sinh thái đặc trưng,
hiếm thấy trên thế giới, rất thuận lợi cho phát triển sản xuất thủy sản, với đặc trưng là
vùng châu thổ được hình thành từ hệ thống sông Mekong đã tạo cho vùng ĐBSCL
tiềm năng lớn cho phát triển nuôi trồng thủy sản ở nhiều loại hình khác nhau (Nguyễn
Thanh Tùng, 2005). Trong đó nuôi thủy sản nước ngọt đang có nhu cầu và tiềm năng
phát triển rất lớn. Tuy nhiên, hiện nay ĐBSCL đứng trước nguy cơ cạn kiệt nguồn tài
nguyên thủy sản nghiêm trọng, môi trường sống của các đối tượng thủy sản dần bị thu
hẹp do nhiều nguyên nhân: ô nhiễm môi trường nước, tình trạng khai thác tràn lan,
biến đổi khí hậu… Do đó các loài cá có khả năng thích ứng môi trường và khả năng
chịu đựng môi trường khắc nghiệt ngày càng được quan tâm.
Cá chép Cyprinus carpio L là một trong những loài cá dễ nuôi và được nuôi phổ biến,

sử dụng được nhiều loại thức ăn, có giá trị thương phẩm và được nuôi ghép trong các
mô hình nuôi thủy sản kết hợp ở ĐBSCL. Theo điều tra gần đây, cá Chép là loài nuôi
chiếm ưu thế có 30,1% số lượng cá trong những ao nuôi ghép (Austin et al., 2007). Vì
vậy, việc ương nuôi từ giai đoạn cá bột, tạo ra nguồn giống đảm bảo chất lượng và số
lượng là điều cần thiết hiện nay. Trong quá trình sản xuất giống và ương nuôi, đặc biệt
từ giai đoạn trứng lên cá bột là giai đoạn biến đổi phức tạp về sinh lý sinh thái, phụ
thuộc chủ yếu vào các yếu tố môi trường: nhiệt độ, oxy, pH…, chúng quyết định đến
tỷ lệ sống, tỷ lệ nở, tỷ lệ dị hình của cá bột. Tuy nhiên cho đến nay chưa có nhiều
nghiên cứu về khả năng thích ứng của cá chép với điều kiện môi trường.
Xuất phát từ những vấn đề trên nên đề tài “Tìm hiểu một số chỉ tiêu sinh lý sinh thái
cá chép (Cyprinus carpio L.) giai đoạn phôi, cá bột và cá hương” được thực hiện.

11

1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Thu thập một số dẫn liệu về chỉ tiêu sinh thái sinh lý cá chép giai đoạn phôi cá bột và
cá hương; góp phần làm cơ sở khoa học cho sự phát triển kỹ thuật sản xuất giống và
ương nuôi cá chép đang được áp dụng hiện nay ở ĐBSCL đạt hiệu quả cao hơn.
1.3 Nội dung nghiên cứu

Xác định nhiệt độ không sinh học của cá chép.

Xác định các ngưỡng sinh lý sinh thái: nhiệt độ, oxy, pH, độ mặn và cường độ hô
hấp cá chép giai đoạn phôi, cá bột và cá hương.

12

CHƯƠNG II

LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU

2.1 Đặc điểm sinh học của cá chép
2.1.1 Đặc điểm phân bố
Trên thế giới, Linnaeus là người đầu tiên mô tả về cá chép, loài cá chép ở châu Âu có
nguồn gốc hoang dã ở vùng Danubian và có tên khoa học Cyprinus carpio.
Cá chép phân bố rộng trên nhiều vùng địa lý, từ vùng cận nhiệt đới đến nhiệt đới. Cá
sống chủ yếu trong nước ngọt nhưng cũng sống được ở nước lợ có nồng độ muối thấp.
Chúng có thể sống được ở độ cao 1.500m so với mặt nước biển.
Riêng ở Việt Nam, cá chép phân bố ở phía Bắc đến Bắc Trung Bộ với những quần đàn
tự nhiên khá lớn. Tuy nhiên, các tỉnh phía Nam nước ta không có cá chép phân bố. Cá
chép hiện đang được nuôi ở Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) có xuất xứ từ
Indonesia và từ miền Bắc đưa vào (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009).
Hiện nay ở nước ta, bên cạnh cá chép nhập nội từ Trung Quốc, đã nhập thêm nhiều
dòng cá chép chất lượng cao ở Châu Âu, đặc biệt là các dòng cá đã được lai tạo và
chọn lọc từ Hungary, góp phần làm phong phú thêm các giống loài cá thả nuôi trong
các lọai hình thủy vực (Lan Anh, 2009).
Các thủy vực có độ sâu trên 1m, người ta chia độ sâu làm 3 tầng: tầng mặt, tầng giữa
và tầng đáy. Trong các thủy vực nước ngọt, cá chép thường phân bố ở tầng đáy và bơi
lội thành đàn. Tuy nhiên, cá chép có thể lên sống ở tầng mặt khi điều kiện sống ở tầng
đáy bất lợi cho cá. Trong đó, yếu tố nổi bật là hàm lượng oxy hòa tan thấp và đáy có
nhiều chất hữu cơ đang phân hủy tạo khí độc NH
3
, H
2
S.
2.1.2 Vị trí phân loại
Theo tài liệu Định loại cá nước ngọt các tỉnh phía Bắc của Mai Đình Yên (1978), cá
chép có hệ thống phân loại như sau:
Bộ: Cypriniformes
Họ: Cyprinidae
Giống: Cyprinus

Loài: Cyprinus carpio Linnaeus, 1758

13

2.1.3 Đặc điểm hình thái
Một số đặc điểm hình thái chung của cá chép được nuôi ở Đồng Bằng Sông Cửu Long
được thể hiện qua hình 2.1

Hình 2.1: Hình thái cá chép Cyprinus carpio L ở Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Theo Trần Đình Trọng (1983), cá chép Việt Nam có tên khoa học là Cyprinus carpio
L. có sự phân bố rộng và có nhiều biến dị rất phong phú về hình thái lẫn màu sắc. Tùy
theo khu vực địa lý phân bố mà các loại hình cá chép có một số đặc điểm hình thái
khác biệt nhau. Tuy nhiên, chúng có vài đặc điểm chung như sau:
Số tia vây lưng D.III – IV.18 – 21
Số tia vây hậu môn A. II. 4 – 5
Số tia vây ngực P.I. 13 – 16
Số tia vây bụng V.I. 6 – 9
Số tia vây đuôi C. 21 – 23
Vẩy đường bên 36 – 39
Số lược mang trên cung mang thứ nhất 22 – 28
Công thức răng hầu 1.1.3 – 3.1.1
Số đốt sống toàn thân trung bình 38
Cá chép có thân dẹp bên, đầu cá thuôn, cân đối. Cá có 2 đôi râu. Miệng khá rộng,
hướng ra phía trước. Cá có màu thẫm trên lưng, bụng trắng, cạnh các vây có màu đỏ
(Mai Đình Yên, 1978).
Tùy theo khu vực địa lý phân bố mà cá chép sẽ có một số đặc điểm hình thái khác
nhau. Tuy nhiên, sự khác nhau giữa các cá thể vẫn nằm trong giới hạn đặc tính hình
thái của loài.
Những nghiên cứu đầu tiên của Trần Đình Trọng 1983 thì cá chép Việt Nam có 6
dạng hình: cá chép đỏ, cá chép trắng, cá chép kính, cá chép cẩm, cá chép gù, cá chép


14

Bắc Cạn. Riêng cá chép trắng được nuôi phổ biến và giữa các loại hình cá chép này có
những đặc trưng hình thái riêng và vùng phân bố đặc trưng:

Cá chép trắng: vẩy phủ kín thân, màu trắng bạc, thân thon dài, lưng hơi thẫm.
Mút vây ngực, vây bụng, vây hậu môn và vây đuôi pha màu hồng. Cá thích hợp với
điều kiện môi trường nước ta, có sức sống khá cao và mang nhiều đặc điểm hoang dã
(Duy Quốc Tuấn, 2002).

Cá chép đỏ: vẩy phủ kín thân, màu đỏ thẫm hoặc đỏ nhạt hay vàng da cam. Số tia
mềm vây lưng ít. Cá chịu đựng được điều kiện môi trường khắc nghiệt nhưng có tốc
độ tăng trưởng chậm (Duy Quốc Tuấn, 2002).

Cá chép cẩm: phân bố ở thượng nguồn các con sông hay các ao, hồ tự nhiên vùng
miền núi. Vẩy phủ kín thân, có màu tím huế.

Cá chép kính: cơ thể ít vẩy, thân cá dẹp bên, miệng hướng về phía trước khá
rộng, vây đuôi có hai thùy bằng nhau.

Cá chép gù: cá thích hợp sống ở nơi thượng nguồn, ở các con sông có mức nước
0,2 – 0,3m (Duy Quốc Tuấn, 2002).

Cá chép Bắc Cạn: thân dài, chiều dài gốc vây lưng ngắn hơn các cá khác, có màu
vàng mỡ gà, được nuôi nhiều ở Bắc Cạn (Nguyễn Thị Trung Truân, 2002).
Ngoài ra, nước ta cũng đã di nhập nhiều giống cá chép ngoại như: cá chép vàng
Indonesia, cá chép Hungary.
2.1.4 Đặc điểm dinh dưỡng
Cá chép thuộc loài cá nuôi phân bố tầng đáy, ăn động vật hoặc ăn tạp thiên về động

vật, thay đổi tùy theo giai đoạn phát triển (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm,
2009). Khi hết noãn hoàng cá ăn động vật phù du, giai đoạn cá hương cá ăn động vật
đáy, giai đoạn trưởng thành cá ăn tạp thiên về động vật.
Cá có phổ thức ăn rất rộng, khi phân tích thành phần thức ăn trong ruột cá chép cho
thấy mùn bã hữu cơ chiếm tới 70%, kế đến là nhuyễn thể và thấp nhất là động vật giáp
xác (Nguyễn Văn Kiểm, 2004).
Tính ăn cá chép có sự thay đổi theo từng giai đoạn phát triển và sự hoàn thiện dần của
hệ thống men tiêu hóa trong cơ thể.
Từ 1 đến 3 ngày tuổi cá dinh dưỡng bằng noãn hoàng.
Từ 3 đến 4 ngày tuổi cá bắt ăn thức ăn bên ngoài, thức ăn chủ yếu của cá là động vật
phù du cỡ siêu nhỏ: luân trùng (Rotifera), giáp xác râu ngành (Cladocera) Ngoài ra,
ở giai đoạn này cá có thể ăn thêm được các loại thức ăn khác như: bột đậu nành, bột
cá, lòng đỏ trứng nghiền mịn

15

Từ 4 đến 6 ngày sau khi nở thì thức ăn của cá chủ yếu là các sinh vật phù du.
Từ 8 đến 10 ngày sau khi nở do cá phân bố nhiều ở tầng đáy nên thức ăn của cá là các
sinh vật lắng ở đáy, sinh vật phù du, ấu trùng côn trùng
Sau khi nở 15 đến 20 ngày cá ăn được động vật đáy cỡ nhỏ do cấu tạo cơ thể cá và cơ
quan tiêu hóa bắt đầu hoàn chỉnh.
Đến giai đoạn cá bột (20 – 28 ngày tuổi) cá phát triển hầu như hoàn chỉnh và thức ăn ở
giai đoạn này là sinh vật đáy, mùn bã hữu cơ và một số động vật phù du như: ấu trùng
muỗi, moina Sau 25 ngày tuổi chuyển sang ăn động vật đáy đặc biệt là giun sống
đáy và trùn chỉ là thức ăn không thể thiếu trong giai đoạn này (Phạm Văn Trang và
Trần Văn Vĩ, 1983). Do cá có tính ăn tạp và chủ yếu sống đáy nên từ giai đoạn cá
giống đến cá trưởng thành, cá ăn nhiều loại thức ăn chủ yếu là các sinh vật đáy như:
nhuyễn thể, giun, ấu trùng côn trùng, mùn bã hữu cơ, mầm non thực vật và thức ăn
chế biến (Nguyễn Văn Kiểm, 1999). Ngoài ra, cá cũng có thể ăn được nhiều loại thức
ăn do người cung cấp như: bột ngũ cốc các loại, bột cá, bột tôm, rau, bèo, phân động

vật, đồ thừa nhà bếp, phụ phẩm lò mổ (Dương Nhựt Long, 2009).
Mặc dù cá chép có phổ thức ăn rộng nhưng trạng thái và thành phần thức ăn cũng ảnh
hưởng rất lớn đến quá trình dinh dưỡng của cá. Nếu thành phần và hàm lượng dinh
dưỡng trong thức ăn không cân đối, không phù hợp với từng giai đoạn phát triển của
cá sẽ làm rối loạn quá trình trao đổi chất, cá chậm lớn, mắc bệnh dẫn đến cá chết.
Không nên cho cá ăn quá lượng thức ăn sẽ làm giảm tốc độ tiêu hóa (Dương Tuấn,
1981). Vì vậy, cho cá ăn đủ chất và lượng thức ăn đồng thời kết hợp nguồn thức ăn tự
nhiên là một yếu tố quyết định thành công trong ương nuôi cá chép.
2.1.5 Đặc điểm sinh trưởng
Ở cá chép, sự tăng trưởng phụ thuộc vào giai đoạn phát triển của cơ thể. Khi còn nhỏ
cá tăng trưởng ưu tiên theo chiều dài đến trưởng thành cá tăng trưởng về trọng lượng
nhanh hơn (Nguyễn Văn Kiểm, 1997).
Khi so sánh về tốc độ tăng trưởng ở giai đoạn cá giống của ba dòng cá chép: cá
Hungary, cá vàng Indonesia, cá trắng Cần Thơ thì dòng cá chép Hungary lớn nhanh
hơn cá chép vàng Indonesia và cá chép trắng Cần Thơ (Nguyễn Văn Kiểm, 1999).
Đối với cá chép khi được nuôi trong ao hồ thì tốc độ tăng trưởng nhanh hơn cá chép
sống ngoài tự nhiên. Khi so sánh tốc độ tăng trưởng giữa cá chép Hungary và cá chép
Việt Nam thì cá chép Hungary có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn (Bộ Thủy Sản, 1996).
Ngoài ra, thức ăn và nhiệt độ là hai nhân tố môi trường quyết định đến mức tăng
trưởng của cá (Dương Tuấn, 1981).

16

Theo Dương Nhựt Long (2004), sự phát triển của cá chép lúc nhỏ được ghi nhận theo
Bảng 2.1
Bảng 2.1: Mối quan hệ giữa chiều dài cơ thể và ngày tuổi của cá chép
Ngày sau khi nở Chiều dài cơ thể (mm)
3 – 4 6,0 – 7,2
4 – 6 7,2 – 7,5
8 – 10 9,6 – 10,5

15 – 20 14,3 – 19,0
20 – 28 19,0 – 28,0
Khối lượng của cá chép trong ao nuôi thay đổi theo tuổi như sau:

Cá 1 năm tuổi: 0,3 – 0,5 kg

Cá 2 năm tuổi: 0,7 – 1,0 kg

Cá 3 năm tuổi: 1,0 – 1,5 kg
Đồng Bằng Sông Cửu Long cá chép nuôi ở ruộng lúa vào mùa mưa sau 5 – 7 tháng có
thể đạt trọng lượng 0,5 – 0,8 kg/con, có con nặng hơn 1 kg.
2.1.6 Đặc điểm sinh sản
Tuổi thành thục và khả năng sinh sản của cá là một đặc tính dễ bị ảnh hưởng bởi tác
động của môi trường như nhiệt độ, thức ăn, chu kỳ quang Đó là một quá trình sinh
lý phức tạp của cơ thể có mối quan hệ mật thiết với yếu tố môi trường nước, đặc biệt
là nhiệt độ. Tuổi thành thục của cá chép có sự khác nhau khi chúng sống ở những
vùng có nhiệt độ khác nhau. Ví dụ: ở vùng nhiệt đới cá chép có thể tham gia sinh sản
lần đầu khi được 1 năm tuổi, ở vùng lạnh cá chép phải đến 2 – 3 năm mới thành thục
và thường đẻ ít lần trong năm hơn so với cá chép vùng nhiệt đới (Nguyễn Văn Kiểm,
2004). Một ví dụ khác: cá chép sống ở Châu Âu phải mất 3 – 4 năm tuổi mới thành
thục, khi đưa về vùng nhiệt đới ở Việt Nam hay Indonesia thì khoảng 1 – 1,5 tuổi đã
thành thục (Dương Tuấn, 1981). Nhiệt độ thích hợp cho cá chép sinh sản dao động từ
24 – 30
o
C (Nguyễn Văn Kiểm, 1999), và hàm lượng oxy hòa tan là 4 – 6 mg/L.
Ngoài yếu tố nhiệt độ ảnh hưởng sự thành thục cá chép thì yếu tố chất lượng thức ăn
cũng không kém phần quan trọng. Nếu trong quá trình nuôi vỗ, thành phần và chất
lượng thức ăn không cân đối, không phù hợp với từng giai đoạn phát triển sinh dục,
không phù hợp với tính ăn của loài sẽ ảnh hưởng đến quá trình thành thục (Nguyễn
Văn Kiểm, 2004).


17

Cá chép thuộc loại đẻ trứng dính, sau 1 năm tuổi cá có thể tham gia sinh sản lần đầu.
Cá chép đẻ nhiều lần trong năm. Mùa sinh sản của cá thường tập trung vào các tháng
đầu năm (tháng 3 – 5) và vào giữa mùa mưa (tháng 8 – 9) (Dương Nhựt Long, 2004).
Trong sinh sản nhân tạo cá chép sinh sản được quanh năm.
Sự thành thục và sinh sản của cá chép chịu tác động đồng thời của 2 yếu tố: điều kiện
bên ngoài và bên trong. Nếu thiếu một trong hai yếu tố đó, cá chép không thể sinh sản
được (Dương Tuấn, 1981). Khi cá đã thành thục tốt, nhu cầu sinh thái sinh sản cần để
cá chép đẻ trứng, ngoài sự có mặt của giới tính thì giá thể và dòng nước là không thể
thiếu được (Nguyễn Văn Kiểm, 1999). Cá đẻ tự nhiên trong môi trường nếu đủ các
điều kiện sau:

Có cá đực và cá cái thành thục.

Có cây cỏ thủy sinh hay giá thể làm tổ.

Có điều kiện môi trường nước thích hợp.
Sức sinh sản của cá chép cao, cá càng lớn sức sinh sản của cá càng cao (Nguyễn Văn
Kiểm, 2004). Trong tự nhiên, sức sinh sản của cá chép dao động trong khoảng
100.000 – 150.000 trứng/1kg cá cái, đường kính trứng cá đo được sau khi trương nước
từ 1,1 – 1,2 mm (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009).
Theo Dương Nhựt Long (2009), số lượng trứng của cá phụ thuộc vào khối lượng cá
như Bảng 2.2
Bảng 2.2: Mối quan hệ giữa số lượng trứng cá đẻ ra với khối lượng cá
Khối lượng cơ thể (kg) Số lượng trứng
0,3 30.000 – 60.000
0,5 60.000 – 80.000
0,7 80.000 – 90.000

1,0 120.000 – 140.000
1,5 180.000 – 210.000
2,0 250.000 – 300.000
2.5 320.000 – 400.000
2.2 Khả năng thích ứng môi trường của cá chép
Khả năng thích nghi của cá với điều kiện môi trường là một trong những vấn đề quan
trọng nhất, làm cơ sở quyết định việc lựa chọn đối tượng di giống thuần hóa và thả
nuôi (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009).

18

Cá chép là loài có phân bố ở tầng đáy các thủy vực nước ngọt nên cá có thể sống được
trong điều kiện khắc nghiệt, nơi có nhiều mùn bã hữu cơ, thức ăn đáy và cỏ nước.
2.2.1 Nhiệt độ
Nhiệt độ là nhân tố môi trường ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến các hoạt động sống như:
sinh trưởng, dinh dưỡng, sinh sản và di cư của thủy sinh vật, đặc biệt đối với cá vì cá
là động vật biến nhiệt (Trương Quốc Phú, 2006). Theo Niconski (1951) nhiệt độ cá
chỉ chênh lệch với nhiệt độ môi trường khoảng 0,5 – 1
o
C (trích bởi Trương Quốc Phú,
2006).
Đối với cá khi nhiệt độ môi trường gia tăng cá sẽ tăng cường trao đổi chất, cường độ
hô hấp, tuyến sinh dục chín nhanh, phôi phát triển nhanh và gây nhiều dị hình. Sự thay
đổi nhiệt độ đột ngột quá cao hoặc quá thấp có thể làm cá chết. Nhiệt độ thấp nhất làm
chết cá gọi là ngưỡng nhiệt độ dưới, nhiệt độ cao nhất làm chết cá gọi là ngưỡng nhiệt
độ trên. Mỗi loài cá có ngưỡng nhiệt độ khác nhau và trong cùng một loài ngưỡng
nhiệt độ của những giai đoạn phát triển khác nhau cũng không giống nhau. Phạm vi
nhiệt độ thích ứng thay đổi tùy theo loài động vật, tuổi và thời gian sinh trưởng. Cá
con có phạm vi nhiệt độ thích ứng cao hơn cá trưởng thành. Thông thường nhiệt độ
thích hợp cho đa số các loài cá nuôi từ 20 – 30

o
C. Giới hạn cho phép là từ 10 – 40
o
C
nếu nhiệt độ cao hơn 40
o
C hay nhỏ hơn 10
o
C ít loài cá nào có khả năng sống sót
(Trương Quốc Phú, 2006).
Khi nhiệt độ tăng cá sẽ tăng cường độ trao đổi chất nên cá sẽ tăng nhu cầu oxy, do đó
giảm oxy trong nước, khi đó sẽ làm giảm khả năng kết hợp hemoglobine và oxy. Để
thỏa mãn nhu cầu oxy cá phải tăng cường đưa nước qua mang được thực hiện bằng
cách tăng tần số hô hấp đồng thời gia tăng lượng máu đến mang và huy động hồng cầu
từ kho dự trữ đến hệ thống tuần hoàn làm gia tăng khả năng vận chuyển oxy trong
máu. Khi nhiệt độ tăng quá cao thì cá sẽ không lấy đủ oxy dẫn đến chết. Ở nhiệt độ
cao 25
o
C số lượng oxy cung cấp cho cơ thể qua da chỉ còn một nữa so với ở nhiệt độ
thấp. Ở 16
o
C lượng oxy cung cấp cho cơ thể được lấy qua da lớn hơn qua mang (Đỗ
Thị Thanh Hương và Trần Thị Thanh Hiền, 2000).
Nhiệt độ là một trong các yếu tố rất nhạy cảm đối với thời kỳ phát triển của phôi. Khi
các yếu tố môi trường có giá trị trong khoảng thích ứng thì sự thay đổi của nhiệt độ có
ảnh hưởng quyết định đến tốc độ phát triển của phôi. Việc thay đổi đột ngột của nhiệt
độ 2
o
C/giờ có ảnh hưởng xấu tới sự phát triển của phôi (Phạm Minh Thành và
Nguyễn Văn Kiểm, 2009).

Cá chép thuộc nhóm rộng nhiệt, có thể chịu đựng được nhiệt độ từ 0 – 40
o
C. Cá sống
được ở lớp nước bên dưới lớp nước đóng băng vào mùa đông ở Châu Âu và nhiệt độ
cao vào mùa hè ở vùng nhiệt đới.

19

Tuy nhiên nhiệt độ thích hợp cho cá chép từ 24 – 28
o
C.
Môi trường có nhiệt độ dưới 12
o
C cá chép chậm lớn, ăn ít và dưới 5
o
C cá ngừng bắt
mồi.
2.2.2 Oxy
Oxy là chất khí quan trọng nhất trong số các chất khí hòa tan trong môi trường nước.
Nó rất cần đối với đời sống sinh vật, đặc biệt đối với thủy sinh vật, vì hệ số khuếch tán
của oxy trong nước nhỏ hơn rất nhiều so với trong không khí. Theo Krogh (1919)
(trích dẫn bởi Boyd, 1990) thì hệ số khuếch tán của oxy trong không khí là 11 còn
trong nước chỉ là 34.10
-6
.
Theo Swingle (1969) thì nồng độ oxy hòa tan trong nước lý tưởng cho tôm, cá là trên
5 ppm. Tuy nhiên, nếu hàm lượng oxy hòa tan vượt quá mức độ bão hòa cá sẽ bị bệnh
bọt khí trong máu, làm tắt nghẽn các mạch máu dẫn đến não và tim đưa đến sự xuất
huyết ở các vây, hậu môn. Do đó việc theo dõi biến động hàm lượng oxy trong ao
nuôi tôm, cá là rất cần thiết (Trương Quốc Phú, 2006).


Hình 2.2: Ảnh hưởng của hàm lượng oxy hòa tan lên sức khỏe cá. Theo Swingle (1969), trích
dẫn bởi Boyd (1990).
Trong quá trình phát triển, phôi và cá bột cần rất nhiều oxy. Trong hầu hết các trường
hợp, hàm lượng oxy hòa tan thấp hơn 2 mg/L thì phôi sẽ chết ngạt; phôi phát triển
bình thường khi hàm lượng oxy từ 3 mg/L trở lên. Nhu cầu oxy của trứng tăng dần
theo quá trình phát triển nhưng sẽ tăng đột ngột từ giai đoạn xuất hiện mầm đuôi, nhất
là trước và sau khi nở. Do đặc trưng cường độ dinh dưỡng cao, tốc độ tăng trưởng
0

1

2

3

4

5

0,3
Cá chỉ sống trong thời gian ngắn
Cá sẽ chết nếu thời gian kéo dài
Cá sống nhưng sinh trưởng chậm
Hàm lượng thích hợp

20

nhanh mà cá con đòi hỏi nhu cầu hàm lượng oxy hòa tan cao. Giai đoạn còn nhỏ, cá
con có ngưỡng oxy cao, cao nhất ở giai đoạn phôi tự do và cá bột. Vì vậy, cá rất dễ bị

chết khi môi trường thiếu oxy (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009).
Cá chép có khả năng chịu đựng hàm lượng oxy khá thấp nên sống được ở ao nước
tĩnh có hàm lượng oxy thấp, hay sông nơi có nước chảy thường xuyên.
2.2.3 pH
pH là một trong những nhân tố môi trường có ảnh hưởng rất lớn trực tiếp và gián tiếp
đối với đời sống thủy sinh vật như: sinh trưởng, tỷ lệ sống, sinh sản và dinh dưỡng.
pH thích hợp cho thủy sinh vật là 6,5 – 9 được thể hiện qua hình 2.3.
pH

Hình 2.3: Ảnh hưởng của pH đến đời sống của cá (Trương Quốc Phú, 2006).
Khi pH môi trường quá cao hay quá thấp đều không thuận lợi cho quá trình phát triển
của thủy sinh vật. Tác động chủ yếu của pH khi quá cao hay quá thấp là làm thay đổi
độ thẩm thấu của màng tế bào dẫn đến làm rối loạn quá trình trao đổi muối – nước
giữa cơ thể và môi trường ngoài. Do đó, pH là nhân tố quyết định giới hạn phân bố
của các loài thủy sinh vật.
pH có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của phôi, quá trình dinh dưỡng, sinh trưởng
và sinh sản của cá. Cá sống trong môi trường có pH thấp sẽ chậm phát dục, nếu pH
quá thấp sẽ không đẻ hay đẻ rất ít (Trương Quốc Phú, 2006).
Độ pH thích hợp cho cá chép sinh trưởng và phát triển trong khoảng 7 – 8, nhưng cá
cũng có thể sống được trong điều kiện pH từ 6 – 8,5 (Phạm Minh Thành, 2005).
2.2.4 Độ mặn
Độ mặn được định nghĩa là tổng các chất rắn hòa tan (TDS) trong nước. Độ mặn là
yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến sự phân bố, sinh sản, dinh dưỡng, tỷ lệ
sống và di cư của thủy sinh vật (Trương Quốc Phú, 2006).
Mỗi loài thủy sinh vật nói chung, chỉ sống ở nơi có nồng độ muối thích hợp. Thông
qua các hoạt động sống của cơ thể, nồng độ muối dịch cơ thể luôn luôn có quan hệ
Không sinh sản
11 10 9 6 8 7 5 4
Chết Sinh trưởng chậm Sinh trưởng tốt Chết Sinh trưởng chậm
Không sinh sản


21

chặt chẽ với nồng độ muối môi trường ngoài. Điều hòa muối là quá trình hoạt động
của cơ thể đảm bảo cho dịch cơ thể giữ nguyên được nồng độ và thành phần muối
nhất định của mình chống lại những biến đổi của môi trường ngoài. Tùy theo khả
năng thích ứng với sự biến đổi của nồng độ muối mà thủy sinh vật có thể chia thành 2
nhóm: nhóm thích ứng rộng muối và hẹp muối. Khả năng này tùy thuộc vào thành
phần loài. Khi nồng độ muối môi trường ngoài giảm đi đột ngột, chênh lệch áp suất
thẩm thấu giữa cơ thể thủy sinh vật và môi trường ngoài tăng lên đột ngột, nước sẽ
ngấm vào cơ thể và thủy sinh vật bị trương lên, dễ chết. Trong quá trình điều hòa
muối ở thủy sinh vật, có thể thấy rằng: nồng độ muối của dịch cơ thể thủy sinh vật bao
giờ cũng ở trong khoảng 5 – 8‰, thấp nhất là ở 5‰ điều kiện để bảo đảm cho thủy
sinh vật còn sống được bình thường. Ở thủy sinh vật nước ngọt, sức sống tăng lên khi
nồng độ muối hạ thấp dưới 5 – 8‰. Có thể cho rằng: nồng độ 5 – 8‰ là ngưỡng sinh
lý chung ở thủy sinh vật, cần thiết cho các quá trình sống trong cơ thể có thể tiến hành
được (Đặng Ngọc Thanh, 1974).



22

CHƯƠNG III

VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu

Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 03 năm 2011 đến hết tháng 06 năm 2011.

Địa điểm nghiên cứu: đề tài được thực hiện tại Trại giống Minh Trang, Quốc Lộ

1A, Quận Cái Răng, Thành Phố Cần Thơ và Phòng Thí Nghiệm Khoa Sinh Học Ứng
Dụng, Trường Đại Học Tây Đô.
3.2 Vật liệu nghiên cứu
3.2.1 Dụng cụ thí nghiệm

Máy đo pH, oxy, khúc xạ kế, đĩa secchi, nhiệt kế, heater

Cân điện tử, giấy ôli

Ống đong 50 mL

Chai lọ nút mài 125 mL

Bình kín

Khay ấp trứng

Thau, ca, bocal 1L, 2L, 3L

Cốc 0,5L

Xô nhựa 50L

Cốc thủy tinh

Bình tam giác

Các hóa chất và một số dụng cụ phân tích trong phòng thí nghiệm

Hệ thống máy bơm và sục khí

3.2.2 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là cá chép trắng Cần Thơ (hiện đang nuôi phổ biến ở ĐBSCL)
ở các giai đoạn phát triển khác nhau: giai đoạn phôi tự do (mới nở, dinh dưỡng bằng
noãn hoàng), giai đoạn cá bột và cá hương.
Cá thí nghiệm khỏe mạnh, cơ thể nguyên vẹn không dị tật, dị hình. Mỗi giai đoạn các
cá thể có cùng nhịp độ phát triển, đồng đều kích thước.
3.2.3 Thức ăn thí nghiệm
Trùn chỉ, trứng nước: là thức ăn tươi sống được mua từ các cơ sở kinh doanh cá cảnh.
Trùn chỉ được bắt từ kênh mương, sông rạch.
Trứng nước được nuôi trong ao hoặc vớt từ các kênh rạch, cống rãnh vào buổi sáng
sớm.

23

3.2.4 Nguồn nước cho thí nghiệm
Các thí nghiệm sử dụng nguồn nước ngọt từ sông được qua lắng, lọc kỹ, có độ trong
> 30 cm (đo bằng đĩa secchi) và pH = 7 – 8 (đo bằng máy đo pH).
3.3 Phương pháp xác định một số chỉ tiêu sinh học cá
Các phương pháp xác định một số chỉ tiêu sinh học cá được xây dựng trên cơ sở
“Hướng dẫn nghiên cứu cá” của I.F.Pravdin (1973), “Sinh thái học cá” của Nicolski
(1963) và “Method for fish” của Carl và Peter (1990).
Đối tượng xác định tùy thuộc từng chỉ tiêu sinh học cần nghiên cứu. Cụ thể là:
Nhiệt độ không sinh học: đối tượng xác định là phôi phát triển trong trứng (thời kỳ
phụ trứng).
Các ngưỡng sinh lý sinh thái (nhiệt độ, oxy, pH, cường độ hô hấp, độ mặn): đối tượng
xác định là cá chép 2 ngày tuổi (phôi tự do), 10 ngày tuổi (cá bột) và 30 ngày tuổi (cá
hương).
Khi xác định các chỉ tiêu sinh học cá có sử dụng các thí nghiệm thăm dò trước khi
thực hiện các thí nghiệm chính thức. Tất cả các thí nghiệm đều được lặp lại 3 lần.
3.3.1 Xác định nhiệt độ không sinh học

Bố trí thí nghiệm
Lấy 100 trứng mới đẻ đã cho thụ tinh cho vào cốc thủy tinh 0,5L đặt trong thau nước
1L, có sục khí nhẹ. Theo dõi thời gian phát triển phôi trong trứng tại 2 điều kiện nhiệt
độ môi trường khác nhau. Cụ thể là ở T
1
nhiệt độ phòng, có giá trị trung bình trong thí
nghiệm là 26
o
C và ở T
2
nhiệt độ nhân tạo (khác T
1
) được điều chỉnh bằng heater hoặc
bằng nước nóng, để tránh gây sốc nhiệt cho trứng nhiệt độ T
2
được điều chỉnh tại thau
đựng cốc chứa trứng, T
2
có giá trị trung bình trong thí nghiệm là 33
o
C. Tăng hoặc
giảm nhiệt độ T
2
tuân thủ nguyên tắc trong 1 giờ nhiệt độ không thay đổi quá 2
o
C.
Thí nghiệm được bố trí song song tại 2 giá trị nhiệt độ T
1
và T
2

. Theo dõi nhiệt độ
nước thường xuyên và loại bỏ kịp thời những trứng không thụ tinh và những phôi chết
trong suốt thời gian thí nghiệm.
Ghi nhận kết quả
Kết quả được ghi nhận tại thời điểm có số phôi nở 50% là thời gian D
1
và D
2
tương
ứng với 2 giá trị nhiệt độ T
1
và T
2
. Thí nghiệm được lặp lại 3 lần.
Tính toán kết quả
Nhiệt độ không sinh học được xác định từ công thức tính tổng nhiệt phát triển (thường
gọi là tổng nhiệt lượng). Tổng nhiệt đó có giá trị không đổi trong các điều kiện nhiệt
độ khác nhau.

24

S = D (T
i
– T
o
) (3.1)
Trong đó:
S: Tổng nhiệt lượng (hằng số) của quá trình phát triển phôi
D: Thời gian phát triển phôi trong trứng
T

i
: Nhiệt độ môi trường thí nghiệm
T
o
: Nhiệt độ không sinh học (hằng số)
Tại T
1
và T
2
sẽ có thời gian tương ứng D
1
và D
2

T
o
được tính bằng công thức đã được Reidisch xác định 1902 (trích dẫn bởi
I.F.Pravdin, 1973).
D
1
T
1
– D
2
T
2

T
o
= (3.2)


D
1
– D
2

3.3.2 Xác định ngưỡng nhiệt độ
Bố trí thí nghiệm
Cho 6 con cá dùng để thí nghiệm vào dụng cụ chứa là cốc thủy tinh 0,5L (đối với phôi
tự do), bocal 1L (đối với cá 10 ngày tuổi), bocal 2L (đối với cá 30 ngày tuổi) trong
điều kiện có sục khí nhẹ.
Dụng cụ chứa cá (cốc và bocal) được đặt trong các thau nước tương ứng là 1L, 2L,
3L. Điều chỉnh nhiệt độ môi trường gián tiếp qua các thau đựng dụng cụ chứa cá bằng
nước nóng (xác định ngưỡng trên) hoặc nước lạnh (xác định ngưỡng dưới), theo
nguyên tắc trong 1 giờ nhiệt độ thay đổi không quá 2
o
C. Trong các dụng cụ chứa cá
có đặt nhiệt kế. Nghiệm thức đối chứng trong thí nghiệm này là nhiệt độ nước tự
nhiên thuận lợi cho cá sống, bố trí trong khoảng thời gian bằng với thời gian thí
nghiệm.
Ghi nhận kết quả
Ngưỡng nhiệt độ được ghi nhận khi có 50% số cá chết trong dụng cụ chứa. Thí
nghiệm được lặp lại 3 lần.
3.3.3 Xác định ngưỡng oxy
Bố trí thí nghiệm
Ngưỡng oxy được xác định theo phương pháp bình kín ở điều kiện nhiệt độ tự nhiên
thích hợp cho cá sống (24 – 28
o
C).
Cho cá vào bình kín 2 vòi, lượng cá và thể tích bình tùy thuộc kích thước cá. Cụ thể là

10 con cá vào bình 250 mL (đối với phôi tự do và cá 10 ngày tuổi), bình 0,5L (đối với

25

cá 30 ngày tuổi). Sau khi thả cá vào bình, 2 vòi được cột chặt (không cho thông khí
với bên ngoài).
Tính toán kết quả
Xác định hàm lượng oxy trong bình khi có 50% cá chết. Hàm lượng oxy được xác
định theo phương pháp Winkler (hoặc máy đo oxy). Thí nghiệm được lặp lại 3 lần.
Tại thời điểm có 50% cá chết tiến hành thu mẫu nước vào lọ nút mài nâu 125 mL
(không để bọt khí xuất hiện trong lọ), cố định mẫu bằng 1 mL MnSO
4
và 1 mL dung
dịch KI – NaOH, đậy nắp lọ, lắc đều. Sau đó, phân tích mẫu theo phương pháp
Winkler tại phòng Thí Nghiệm Khoa Sinh Học Ứng Dụng – trường Đại Học Tây Đô.
V
tb
x N
DO (mg/L) = x 8 x 1000 (3.3)

V
M
Trong đó:
V
tb
: là thể tích trung bình dung dịch Na
2
S
2
O

3
0,01N (mL) trong các lần
chuẩn độ.
N : là nồng độ đương lượng gam của dung dịch Na
2
S
2
O
3
đã sử dụng.
8 : Là đương lượng gam của oxy.
V
M
: là thể tích (mL) mẫu nước đem chuẩn độ.
1000: là hệ số chuyển đổi thành lít.
3.3.4 Xác định cường độ hô hấp
Bố trí thí nghiệm
Cường độ hô hấp được xác định theo phương pháp bình kín. Xác định mức hao hụt
oxy trong điều kiện nhiệt độ tự nhiên thích hợp với cá (24 – 28
o
C).
Bố trí thí nghiệm tương tự như thí nghiệm xác định ngưỡng oxy. Vấn đề khác ở chỗ
xác định hàm lượng oxy trong nước lúc đầu (khi chưa thả cá) và cuối (khi kết thúc thí
nghiệm). Thí nghiệm được kết thúc khi hàm lượng oxy trong bình giảm khoảng 1/2
(thông qua thí nghiệm thăm dò) so với ban đầu. Thí nghiệm được lặp lại 3 lần.
Nghiệm thức đối chứng cho thí nghiệm này được thực hiện tương tự như thí nghiệm
nhưng là bình chứa nước không có cá, có cùng nguồn nước với các bình chứa cá thí
nghiệm, để xác định hàm lượng oxy bị hao hụt do quá trình phân hủy hữu cơ.
Tính toán kết quả
(O


– O
2c
) x (V
b
– V
c
)
CĐHH (mg O
2
/g.giờ) = (3.4)
W x t

×