1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ SỐ: 304
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH SỬ DỤNG THUỐC VÀ
HÓA CHẤT TRONG NUÔI TÔM SÚ THÂM
CANH Ở THÀNH PHỐ BẠC LIÊU
Sinh viên thực hiện
LÊ KIỀU LAM
MSSV: 0753040046
LỚP: NTTS K2
Cần Thơ, 2011
2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ SỐ: 304
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH SỬ DỤNG THUỐC VÀ
HÓA CHẤT TRONG NUÔI TÔM SÚ THÂM
CANH Ở THÀNH PHỐ BẠC LIÊU
Cán bộ hướng dẫn Sinh viên thực hiện
Th.S TẠ VĂN PHƯƠNG LÊ KIỀU LAM
MSSV: 0753040046
LỚP: NTTS K2
Cần Thơ, 2011
3
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian thực tập, áp dụng những kiến thức đã học kết hợp với kinh
nghiệm thực tế, nay luận văn đã được chỉnh sửa và hoàn thành.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Thầy Tạ Văn Phương - Khoa Sinh Học
Ứng Dụng - Trường Đại Học Tây Đô đã tận tình chỉ dạy cho em suốt thời gian làm đề
tài.
Em xin chân thành cảm ơn đã tận tình dạy bảo, truyền đạt cho em những kiến thức
quý báu trong những năm học vừa qua, tạo dựng hành trang để em bước vào cuộc
sống sau này.
Xin cảm ơn tất cả các bạn trong tập thể lớp NTTS K2 đã tận tình giúp đỡ và đóng góp
ý kiến bổ ích để hoàn thành thực tập tốt nghiệp.
Cuối cùng em xin chúc quý Thầy Cô - Khoa Sinh Học Ứng Dụng - Trường Đại Học
Tây Đô vui, khỏe, công tác tốt và không ngừng cống hiến cho sự nghiệp giáo dục.
Với sự hiểu biết còn hạn hẹp và thu thập tài liệu còn hạn chế nên báo cáo tốt nghiệp
không tránh khỏi những sai sót. Kính mong được sự đóng góp ý kiến của quý Thầy
Cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn và ghi nhớ!
LÊ KIỀU LAM
4
CAM KẾT KẾT QUẢ
Tôi xin cam kết luận văn này được hoàn thành dựa trên các kết quả nghiên cứu của tôi
và các kết quả nghiên cứu này chưa được dùng cho bất cứ luận văn cùng cấp nào
khác.
LÊ KIỀU LAM
Cần thơ, ngày tháng năm 2011
5
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NTTS Nuôi trồng thủy sản
ĐBSCL Đồng băng sông Cửu Long
FAO Tổ chức Nông Lương Thới Giới
CPSH Chế phẩm sinh học
GESAMP Jiont Group of Experts on the Scientific Aspects of Marine
Enviromental Protection
USD Đô la Mỹ
AL Âm lịch
6
TÓM TẮT
Diện tích nuôi tôm ở Bạc Liêu trong những năm gần đây có xu hướng tăng, làm cho
môi trường ngày càng xấu đi là điều kiện thuận lợi để dịch bệnh lây lan khó kiểm soát,
do đó vấn đề:“ Sử dụng thuốc và hóa chất trong nuôi tôm sú thâm canh ở Thành phố
Bạc Liêu“ đã được thực hiện từ tháng 3 đến tháng 5 năm 2011. Đề tài đã phỏng vấn
trực tiếp 30 hộ nuôi tôm sú thâm canh, theo bảng câu hỏi soạn sẵn với những nội dung
về tình hình sử dụng thuốc và hóa trong nuôi tôm.
Qua kết quả điều tra cho thấy, người dân thả nuôi 2 vụ/năm, 100% số hộ thả nuôi vụ
1, 90% số hộ thả vụ 2. Phần lớn người dân nuôi tôm đều ở độ tuổi trung niên chiếm
76,6%. Kinh nghiệm nuôi trên 9 năm chiếm 40%, kinh nghiệm nuôi 6 - 9 năm và nhỏ
hơn 6 năm chiếm 30%, đa số người dân nuôi theo kinh nghiệm chiếm 87%. Lao động
tham gia sản xuất trong đó lao động gia đình chiếm 60%, lao động thuê chiếm 40%.
Diện tích nuôi tôm sú bình quân 1,4±1,57 ha/hộ, tỷ lệ ao lắng/ao nuôi trung bình là
0,32±0,24 ha/hộ và 67% hộ nuôi có sử dụng ao lắng. Tôm sú giống được hộ dân chọn
nuôi chủ yếu ở PL 15 chiếm 90% và phần lớn con giống được mua ở địa phương
chiếm 60%. Mật độ trung bình trong nuôi tôm là 20,7±3,84 con/m
2
, tỷ lệ sống trung
bình 50±19%, năng suất bình quân 3,33±1,18 tấn/ha. Có 5 loại thức ăn được chọn sử
dụng cho nuôi tôm sú, Laone chiếm cao nhất 56,6%. Nuôi tôm sú thâm canh có tổng
chí phí bình quân 309±81,4 triệu đồng/ha/vụ, lợi nhuận trung bình 235±166 triệu
đồng/ha/vụ, tỷ suất lợi nhuận khoảng 0,75±0,44.
Kết quả điều tra cho thấy, mô hình nuôi tôm sú thâm canh tồn tại các loại bệnh như:
bệnh môi trường (chiếm 33%), bệnh gan (17%), đóng rong (17%), đường ruột (10%)
và một số bệnh khác. Trong các loại hóa chất chuyên dùng cải tạo ao thì thuốc trừ sâu
vẫn được sử dụng nhưng chiếm tỷ lệ thấp 3,3%, có 6 sản phẩm thuộc nhóm diệt
khuẩn, 8 sản phẩm thuộc nhóm phòng trừ dịch bệnh – hai nhóm này chiếm tỷ lệ cao
nhất và 4 sản phẩm thuộc nhóm ổn định môi trường. Trong các sản phẩm thuộc nhóm
CPSH thì nhóm phân hủy mùn bã hữu cơ có 20 sản phẩm thương mại, nhóm TABS
có 15 sản phẩm thương mại, nhóm miễn dịch có một sản phẩm và nhóm gây màu có 3
sản phẩm. Các sản phẩm thuộc thuộc nhóm vitamin C, lipid, khoáng, premix có 17
sản phẩm thương mại.
Từ khóa: Tôm Sú (penaeus monodon), thuốc - hóa chất, bệnh, chế phẩm sinh học.
7
MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM TẠ i
CAM KẾT KẾT QUẢ ii
CÁC CHỮ VIẾT TẮT iii
TÓM TẮT iv
MỤC LỤC v
DANH SÁCH CÁC BẢNG vii
DANH SÁCH CÁC HÌNH viii
CHƯƠNG I 1
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Mục tiêu nghiên cứu 2
Nội dung nghiên cứu 2
CHƯƠNG II 3
TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
2.1. Tổng quan tình hình phát triển nghề nuôi tôm sú 3
2.1.1. Tình hình nghề nuôi tôm trên thế giới 3
2.1.2. Tình hình nghề nuôi tôm sú ở Việt Nam 4
2.2. Đặc điểm sinh học tôm sú 5
2.2.1. Phân loại và hình thái 5
2.2.2. Phân bố 6
2.2.3. Khả năng thích nghi với môi trường 6
2.2.4. Tính bắt mồi và nhu cầu dinh dưỡng 7
2.2.5. Sinh trưởng 8
2.2.6. Sinh sản 8
2.3. Đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội của thành phố Bạc Liêu 9
2.3.1. Điều kiện tự nhiên 9
2.3.1.1. Vi trí địa lý 9
2.3.1.2. Địa hình 9
2.3.1.3. Khí hậu 9
2.3.2. Tài nguyên thiên nhiên 9
2.3.2.1. Tài nguyên đất 9
2.3.2.2. Tài nguyên rừng 10
2.3.2.3. Tài nguyên biển 10
2.3.2.4. Tình hình nuôi tôm ở tỉnh Bạc liêu 10
2.4. Sơ lược một số vấn đề về thuốc và hóa chất 11
2.4.1. Khái niệm thuốc thú y thủy sản 11
2.4.2. Sơ lược một số loại bệnh và cách phòng trị trên tôm sú 11
2.4.2.1. Các virus gây bệnh gan tụy 12
2.4.2.2. Các virus gây chết cấp tính 13
2.4.2.3. Bệnh do vi khuẩn 14
2.4.2.4. Bệnh do các tác nhân khác 17
2.5. Tình hình sử dụng thuốc và hóa chất trong nuôi tôm ở ĐBSCL 18
2.5.1. Một số loại thuốc và hóa chất thường sử dụng trong NTTS 18
CHƯƠNG III 20
8
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 20
3.1. Thời gian và địa điểm 20
3.2. Vật liệu 20
3.3. Phương pháp nghiên cứu 20
3.3.1. Thu nhập thông tin sơ cấp 20
3.3.2. Thu nhập thông tin thứ cấp 20
3.3.3. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu 22
CHƯƠNG IV 23
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 23
4.1. Khảo sát hiện trạng nuôi tôm công nghiệp ở Bạc Liêu 23
4.1.1. Mùa vụ 24
4.1.2. Độ tuổi 25
4.1.3. Năm kinh nghiệm nuôi và trình độ chuyên môn 25
4.1.4. Lao động tham gia sản xuất 26
4.1.5. Tổng diện tích ao nuôi 27
4.1.6. Ao lắng và diện tích ao lắng 28
4.1.7. Phương pháp và thời gian cải tạo 28
4.1.8. Mật độ và kích cỡ giống thả nuôi 29
4.1.9. Nguồn giống và giá giống 31
4.1.10. Thức ăn và hệ số chuyển hóa thức ăn 32
4.1.11. Thời gian nuôi, tỷ lệ sống và năng suất 34
4.1.12. Chi phí sản xuất trong nuôi tôm công nghiệp tại Thành phố Bạc Liêu 35
4.1.13. Thu nhập và lợi nhuận của mô hình nuôi 36
4.1.14. Các bệnh thường gập ở tôm nuôi 37
4.1.15. Hướng giải quyết của hộ nuôi 38
4.2. Phân tích tình hình sử dụng thuốc và hóa chất trong nuôi tôm 39
4.2.1. Thuốc và hóa chất diệt khuẩn trong cải tạo ao nuôi 39
4.2.2. Nhóm khoáng thiên nhiên 40
4.2.3. Nhóm hóa chất quản lý nước và phòng trừ dịch bệnh 41
4.2.4. Nhóm hóa chất gây màu nước 41
4.2.5. Các loại chất dinh dưỡng bổ sung vào thức ăn 42
4.2.6. Nhóm chế phẩm sinh học (CPSH) 43
CHƯƠNG V 45
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 45
5.1. Kết luận 45
5.2. Đề xuất 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO 46
PHỤ LỤC A A
9
DANH SÁCH BẢNG
Trang
Bảng 2.2 Báo cáo tiến độ sản xuất đến ngày 31/12/2009 (Sở NN&PTNT Bạc Liêu) 10
Bảng 4.1 Diện tích và sản lượng nuôi tôm qua 2 năm và kế hoạch năm 2011 24
Bảng 4.2 Diện tích và sản lượng nuôi tôm ở thành phố Bạc Liêu và kế hoạch năm2011.25
Bảng 4.3 Số vụ nuôi tôm của các hộ thả nuôi trong năm 25
Bảng 4.4 Cơ cấu về độ tuổi của chủ hộ 26
Bảng 4.5 Quy mô diện tích nuôi tôm 28
Bảng 4.6 Ao lắng và diện tích ao lắng 29
Bảng 4.7 Phân nhóm mật độ thả nuôi của tôm sú 31
Bảng 4.8 Phân nhóm thức ăn công nghiệp và giá các loại thức ăn 34
Bảng 4.9 Thời gian nuôi, tỷ lệ sống và năng suất 36
Bảng 4.10 Các chi phí trong nuôi tôm sú 38
Bảng 4.11 Hiệu quả của mô hình nuôi tôm sú thâm canh 39
Bảng 4.12 Thuốc, hóa chất diệt khuẩn trong khâu chuẩn bị ao nuôi 41
Bảng 4.13 Các nhóm khoáng được các hộ sử dụng trong nuôi tôm 42
Bảng 4.14 Hóa chất được sử dụng trong quản lý nước và phòng trừ dịch bệnh 42
Bảng 4.15 Các loại hóa chất gây màu nước trong cải tạo ao 43
Bảng 4.16 Tác dụng một số loài vi sinh vật để phân hủy mùn bã hữu cơ 45
Bảng 4.17 Tác dụng của một số vi sinh vật bổ sung vào thức ăn 45
10
DANH SÁCH HÌNH
Trang
Hình 2.1 Tôm sú 5
Hình 2.2 Vòng đời của P.monodon theo Motoh (19819) 8
Hình 4.1 Năm kinh nghiệm nuôi và trình độ chuyên môn trong nuôi tôm thâm canh 27
Hình 4.2 Lao động tham gia sản xuất 28
Hình 4.3 Thời gian cải tạo trong nuôi tôm sú 30
Hình 4.4 Mật độ và kích cỡ giống thả nuôi 32
Hình 4.5 Tỷ lệ nguồn gốc và giá tôm giống được nông hộ thả nuôi 33
Hình 4.6 Mối liên hệ giữa hệ số thức ăn và độ đạm 35
Hình 4.7 Mối quan hệ, tỷ lệ sống và năng suất của tôm sú 37
Hình 4.8 Các bệnh thường gặp trên tôm nuôi 40
Hình 4.9 Nhóm vitamin, khoáng, premix và lipid sử dụng trong quá trình nuôi tôm 44
Hình 4.10 Nhóm chế phẩm sinh học sử dụng trong mô hình nuôi tôm thâm canh 46
11
CHƯƠNG 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây ngành nuôi trồng thủy sản có những bước phát triển nhảy
vọt và đã được đánh giá là ngành có tiềm năng và triển vọng lớn ở nước ta. Hiện nay,
nuôi trồng thủy sản được xem là ngành kinh tế mũi nhọn trong chiến lược phát triển
kinh tế của đất nước (Nguyễn Quốc Thịnh, 2006).
Các đối tượng nuôi trồng chủ yếu hiện nay là các loài cá nước ngọt và tôm biển. Nghề
nuôi thủy sản nước lợ phát triển rất mạnh mẽ ở Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL).
Tôm sú (Penaeus monodon) là loài tôm nước lợ được nuôi phổ biến ở Kiên Giang,
Tiền Giang, Bến Tre, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau, Đây là loài có giá trị kinh tế
cao, góp phần mang lại nguồn ngoại tệ cho đất nước, nâng cao đời sống người dân
ĐBSCL nói chung và Bạc Liêu nói riêng.
Kể từ năm 2000, chiếm ưu thế trong các sản phẩm thủy sản xuất khẩu của ta trên thị
trường quốc tế là các các đối tượng nuôi đặc biệt là tôm sú. Các sản phẩm thủy sản
xuất khẩu chủ yếu là các loài nước lợ, kể cả về khối lượng và giá trị. Năm 2002, đã
vượt qua con số 2 tỷ đô la, trong đó có đến khoảng 50% sản phẩm là từ tôm sú nuôi.
Năm 2005, diện tích nuôi tôm của cả nước là 540.000 ha đạt sản lượng 330.000 tấn
trong số này thì Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) là 498.233 ha và 259.477 tấn
và giá trị xuất khẩu tôm nuôi vượt qua con số 1 tỷ USD/năm (Bộ thủy sản, 2005).
Năm 2008, Việt Nam đã xuất khẩu tổng số 191.553 tấn tôm, trị giá 1.625 tỉ USD
(VIFEP, 2008) đưa tôm trở thành đối tượng thủy sản xuất khẩu có giá trị nhất của
nước ta. Con số này đã tăng 18,8% về khối lượng và 7,7% về giá trị so với năm 2007
(Vũ Dũng Tiến và Don Griffiths, 2009).
Tuy nhiên, phát triển nuôi tôm công nghiệp sẽ làm tăng lượng chất thải hữu cơ, gây ô
nhiễm cho vùng nước xung quanh. Hơn nữa chất thải hữu cơ tích tụ và phát tán cũng
làm tăng nguy cơ phát sinh bệnh cho tôm nuôi. Vì vậy để khống chế bệnh trong nuôi
tôm công nghiệp thì việc dùng thuốc và hoá chất là rất cần thiết. Nhưng biện pháp này
cũng gây ra nguy cơ ô nhiễm hoá chất trong môi trường, dư lượng thuốc và hóa chất
tồn lưu trong sản phẩm, mất cân bằng sinh thái ao nuôi. Ngoài ra, việc sử dụng thuốc
và hoá chất chưa tốt của người nuôi sẽ làm tăng chi phí sản xuất, không đảm bảo chất
lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, ảnh hưởng đến người tiêu dùng và xuất khẩu cũng
như sức khỏe của người nuôi. Xuất phát từ thực tế trên, đề tài:“ khảo sát tình hình sử
dụng thuốc và hóa chất trong nuôi tôm sú thâm canh ở Thành phố Bạc Liêu” đã
được thực hiện.
12
Mục tiêu đề tài
Mục tiêu chung của đề tài nhằm làm cơ sở khoa học giúp nghề nuôi tôm phát triển
một cách hiệu quả và bền vững trong nuôi tôm Sú theo định hướng bảo vệ môi trường
và sản xuất sản phẩm có chất lượng an toàn.
Nội dung nghiên cứu
Khảo sát tình hình sử dụng thuốc và hóa chất.
Tổng quan về thuốc và hóa chất sử dụng phổ biến trong nuôi tôm sú.
13
CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Tổng quan tình hình phát triển nghề nuôi tôm sú
2.1.1. Tình hình nghề nuôi tôm trên thế giới.
Đối với nghề nuôi tôm thương phẩm, theo nhiều tác giả thì nghề nuôi tôm được hình
thành từ rất sớm ở các nước khu vực Đông Nam Á với hình thức nuôi tôm quảng
canh. Tuy nhiên, nghề nuôi tôm thật sự bắt đầu phát triển mạnh từ những năm đầu
thập niên 1970. Năm 1975, Ecuado trở thành nước dẫn đầu trên thế giới về sản lượng
tôm nuôi ở Tây bán cầu và Đài Loan, Trung Quốc đứng đầu ở Đông bán cầu. Sản
lượng tôm nuôi trên thế giới tăng từ 50.000 tấn vào năm 1975 lên 200.000 tấn vào
năm 1985, trong đó 70% sản lượng tôm nuôi đến từ các quốc gia Châu Á. Năm 1988,
sản lượng tôm nuôi trên thế giới đạt 450.000 tấn. Tuy nhiên nghề nuôi tôm trong
những năm đó đã bắt đầu gặp trở ngại về dịch bệnh. Đài Loan bị thiệt hại nặng nhất
với sản lượng giảm từ 78.000 tấn năm 1987 còn 30.000 tấn năm 1988 và khoảng
10.000 tấn năm 1990. Năm 1992, Thái Lan trở thành nước có sản lượng tôm đứng đầu
trên thế giới và tiếp tục duy trì đến giữa thập niên 90. Năm 1993 – 1994, nghề nuôi
tôm ở Trung Quốc bị sụp đổ do dịch bệnh sản lượng giảm từ 200.000 tấn năm 1992
xuống còn 88.000 tấn năm 1993. Năm 2003, sản lượng tôm ở Trung Quốc đạt 500.000
tấn (Yuan et al, 2006, trích dẫn bởi Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương).
Năm 1995, nghề nuôi tôm trên thế giới tăng trưởng chậm lại do dịch bệnh virus xảy ra
trên toàn cầu. Dù thế, sản lượng vẫn tăng do nhiều công nghệ mới đã được áp dụng.
Theo thống kê của FAO (1998) thì sản lượng tôm nuôi toàn cầu năm 1996 đạt
900.000 tấn. Châu Á là nơi nuôi tôm chủ yếu, chiếm 84% sản lượng nuôi tôm mỗi
năm (Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2009). Theo số liệu thống kê cho
thấy sản lượng nuôi tôm trên thế giới giảm dần từ 733.000 tấn/năm 1994 còn 712.000
tấn/năm 1995, tiếp theo 693.000 tấn/năm 1996 và đến năm 1997 chỉ còn 600.000 tấn
(World shrimp farming,1997; trích dẫn bởi Nguyễn văn Hảo, 1999).
Theo thống kê của FAO (2008) thì sản lượng tôm sú nuôi tăng từ 21.000 tấn năm
1981 đến 200 tấn năm 1988 và đạt 500.000 tấn năm 1993 và khoảng 575.000 tấn năm
1995. Sản lượng tôm biển trên thế giới đã gia tăng rất nhanh, vào năm 1990 sản lượng
tôm biển trên thế giới là 632.400 tấn đến năm 2000 thì sản lượng này tăng lên là
1.087.900 tấn (Lê Xuân Sinh, 2002). Nuôi trồng thủy sản trên thế giới tăng rất nhanh
với tốc độ 7,6%, đạt khoảng 37,5 triệu tấn vào năm 2001, chiếm 29,1% tổng sản
lượng thủy sản. Trong đó, năm 2002 sản lượng giảm chỉ còn khoảng 630.000 tấn do
sự cạnh tranh của tôm thẻ chân trắng từ Thái Lan và Indonesia và tăng nhanh đạt
ngưỡng 740.000 tấn năm 2003. Từ năm 2004 sản lượng tôm sú nuôi giảm dần còn
14
khoảng 670.000 tấn/năm. Theo thống kê của FAO (2009) sản lượng tôm sú trên thế
giới gần như chững lại và có xu hướng giảm dần trong những năm gần đây, đạt dưới
600.000 tấn năm 2007 (Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2009). Trong các
loài tôm nuôi cho thấy, tôm sú là quan trọng và được nuôi rộng rãi nhất, sản lượng
tôm sú chiếm 50% tổng sản lượng thủy sản, tiếp theo là tôm chân trắng với 25% sản
lượng (FAO,1998).
Bên cạnh sự gia tăng nhanh chóng sản lượng tôm nuôi nói chung và phát triển đa dạng
các hình thức nuôi: quảng canh, bán thâm canh, thâm canh và siêu thâm canh có thể
lên đến 300 - 400 con/m
2
(Brigges et al., 2005). Đã dẫn đến nhiều tiêu cực: tác động
xấu đến môi trường làm suy thoái môi trường, dịch bệnh lây lan, mặn hóa đất, cạn kiệt
nguồn nước ngầm, nạn phá rừng ngập mặn, suy giảm sản lượng và tính đa dạng của
nguồn lợi thủy sản, di nhập giống loài lạ ảnh hưởng đến quần thể địa phương
(Primavera, 1998 & Federico, 2001; trích dẫn bởi Nguyễn Thanh Phương và csv.,
2009)
2.1.2. Tình hình nghề nuôi tôm sú ở Việt Nam
Trại nghiên cứu sản xuất giống đầu tiên được thành lập vào năm 1982, tại Qui Nhơn,
do FAO tài trợ. Từ năm 1984 -1985, tôm sú đã được sinh sản nhân tạo thành công ở
Nha Trang và dần trở thành đối tượng chủ yếu trong sản xuất giống và nuôi tôm biển
ở nước ta (Nguyễn Minh Niên và Lin, 1996 ).
Theo thống kê của Bộ Thủy Sản (2003, 2005) diện tích và sản lượng nuôi tôm ở Việt
Nam tăng ngày càng nhanh, năm 1990 ước tính khoảng 185.000 ha, sản lượng đạt
35.000 tấn, năm 1993 khoảng 200.000 ha với năng suất 45.000 tấn. Năm 1994 cả nước
có 230.000 ha sản lượng đạt 56.000 tấn. Năm 2000 sản lượng tôm sú nuôi đạt 571,5
nghìn tấn, chiếm 52,3% tổng sản lượng các loại tôm nuôi (FAO, 2002). Đặc biệt, năm
2001, được sự cho phép của chính phủ về việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất, mở rộng
diện tích nuôi tôm luân canh trong ruộng lúa, diện tích và sản lượng tôm đã gia tăng
rất đáng kể đạt trên 450.000 ha và 170.000 tấn. Năm 2003 diện tích nuôi tôm tăng đến
546.757 ha và đạt sản lượng xấp xỉ 200.000 tấn (Bộ Thủy Sản, 2004). Năm 2004, sản
lượng tôm Sú của Việt Nam là 290.000 tấn, trong đó Đồng Bằng Sông Cửu Long
(ĐBSCL) là 200.000 tấn. Năm 2007 sản lượng tôm nuôi đạt 307.000 tấn. Theo kế
hoạch, đến năm 2010, diện tích nuôi trồng thủy sản cả nước là 1.000.000 ha, đạt sản
lượng 2.000.000 tấn và kim ngạch xuất khẩu đạt 2.500.000 USD, thu hút 2.800.000 lao
động nuôi trồng thủy sản (Bộ Thủy Sản, 2006). Theo thống kê viện nghiên cứu Nuôi
Trồng Thủy Sản II (2006), ở ĐBSCL diện tích nuôi tôm Sú 552.450 ha (88% diện tích
cả nước), sản lượng đạt 276.139 tấn.
Đối với nuôi tôm thịt, nghề nuôi tôm ở nước ta phát triển với nhiều giai đoạn khác
nhau như hình thức quảng canh từ những năm 1970, quảng canh cải tiến từ những năm
15
1980 và bán thâm canh và thâm canh từ những năm 1985 đến nay. Các mô hình nuôi
tôm ở ĐBSCL cũng rất đa dạng gồm nuôi quảng canh cải tiến đơn (trên 300.000 ha),
tôm – lúa luân canh (hơn 100.000 ha), tôm rừng (hơn 29.000 ha mặt nước) và tôm bán
thâm canh phát triển nhanh chóng về diện tích (Nguyễn Minh Niên, 2005). Theo kế
hoạch 2010 cả ĐBSCL sẽ có khoảng 492.067 ha, trong đó các mô hình quảng canh cải
tiến chiếm 375.000 ha, nuôi bán thâm canh chiếm khoảng 65.067 ha và nuôi thâm
canh đạt 52.000 ha (World Bank /Ministry of Fisheries, 2006; trích dẫn bởi Trần Ngọc
Hải và Nguyễn Thanh Phương).
Bên cạnh đó, các mô hình nuôi kết hợp và thân thiện với môi trường như nuôi kết hợp
với rừng ngập mặn, nuôi tôm luân canh trên ruộng lúa, nuôi tôm kết hợp với các đối
tượng thủy sản khác như cá, cua, nhuyễn thể, đang được tiếp tục duy trì và đẩy mạnh
nghiên cứu để cải thiện năng suất và hiệu quả, góp phần phát triển đa dạng mô hình và
đối tượng nuôi, cũng như nghề nuôi tôm phát triển bền vững.
2.2. Đặc điểm sinh học tôm Sú
2.2.1. Phân loại và hình thái
Tôm sú (Penaeus monodon) có 7 - 8 răng trên chủy và 3 - 4 răng dưới chủy, chủy
thẳng nhô lên. Sống gan nghiêng, gai đuôi có rảnh nhưng không có gai bên. Phần đầu
ngực và phần bụng có những băng đen ngang, chân ngực màu đỏ. Đây là loài có kích
thuớc lớn nhất trong họ tôm he và giá trị kinh tế rất cao. (Trần Ngọc Hải và Nguyễn
Thanh Phương, 2009).
Tôm sú
Ngành: Arthropoda
Ngành phụ: Crustacea
Lớp: Malacostraca
Lớp phụ: Eumalacostraca
Tổng bộ: Eucarida
Bộ: Decapoda
Bộ phụ: Dendrobranchiata Bate, 1888
Tổng họ: Penaeoidea
Họ: Penaeidae
Giống: Penaeus
Loài: Penaeus monodon (Fabricus, 1789)
16
2.2.2. Phân bố
Tôm sú phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, phạm vi phân bố của tôm
sú khá rộng, từ Ấn Độ Dương qua hướng Nhật Bản, Đài Loan, phía Đông Tahiti, phía
Nam châu Úc và phía Tây châu Phi (Motoh, 1985). Trong vòng đời của tôm biển (tôm
sú) trải qua một số giai đoạn chủ yếu như: trứng, ấu trùng (có 3 đoạn phụ: nauplii,
Zoea, Mysis), hậu ấu trùng (postlarval), ấu niên (juvenile) và giai đoạn trưởng thành.
Mỗi giai đoạn có đặc tính sống và vùng phân bố khác nhau. Tôm trưởng thành di
chuyển ra vùng biển khơi để sinh sản, trứng nở ra ấu trùng sống phù du và phát triển
qua các giai đoạn trở thành hậu ấu trùng có tập tính di chuyển xuống sống ở tầng đáy
và ăn tạp, chúng di cư ngược vào vùng cửa sông để sinh sống và lớn lên (Đoàn Khắc
Độ, 2008).
2.2.3. Khả năng thích nghi với môi trường
Nhìn chung tôm sú thuộc loài động vật rộng muối. Tuy nhiên, tùy từng giai đoạn phát
triển của cá thể có nhu cầu và khả năng thích ứng khác nhau. Với điều kiện thuần hóa
dần dần, tôm sú có khả năng tồn tại và sinh trưởng ở độ mặn 1,5 - 40 ‰, nhưng thích
hợp từ 10 - 34‰. Tôm sú có khả năng thích ứng với sự thay đổi lớn của nhiệt độ nên
cũng thuộc loại rộng nhiệt. Nhiệt độ thích hợp từ 22 - 32
0
C, dưới 15
0
C và trên 35
0
C,
tôm hoạt động không bình thường và có thể dẫn đến tôm chết hàng loạt. Đối với tôm
sú, chất đáy thích hợp là bùn cát (Nguyễn Văn Chung, 2000).
Tôm Sú thích sống với môi trường có độ pH từ 7,5 – 8,5 độ pH ngoài giới hạn này sẽ
gây bất lợi cho đời sống của tôm (Đoàn Khắc Độ, 2008). Nước có độ pH dưới 4 hay
trên 10 có thể gây chết tôm. Khoảng thích hợp cho tôm là 7 – 9 (Trần Ngọc Hải và
Nguyễn Thanh Phương, 2009).
Độ mặn: Khả năng chịu đựng và thích nghi độ mặn khác nhau tùy theo loài tôm.
Thông thường các loài nuôi có khả năng chịu đựng độ mặn 5 - 10 ‰ hay thấp hơn .Độ
mặn cao 45 - 60‰ có thể gây chết tôm. Hầu hết các loài tôm tăng trưởng tốt ở độ mặn
Hình 2.1: Tôm Sú
17
25 - 30‰ (Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2009). Tôm Sú có khả năng
chịu đựng độ mặn thấp đến 0‰, nếu độ mặn cao trên 40‰ thì khả năng sống của
chúng giảm, đặc biệt đối với ấu trùng. Nhìn chung tôm sinh trưởng ở độ muối từ 15 -
25 ‰ (Chu Thị Thơm và csv, 2005).
Nhiệt độ: Theo Chanratchakool và csv (1994), nhiệt độ cao hơn 32 - 34
0
C hay thấp
hơn 25
0
C khả năng bắt mồi của tôm có thể giảm 20 - 50%. Nhiệt độ thích hợp đối với
sự phát triển của tôm bột và tôm trưởng thành là 25 - 30
0
C nhiệt độ thích hợp từ 28 -
32
0
C. Nhiệt độ nước không phù hợp có thể làm tôm kém ăn, chậm sinh trưởng, chết
dần và dễ mắc bệnh (Chu Thị Thơm và csv., 2005). Nhiệt độ tốt nhất cho tăng trưởng
của tôm dao động trong khoảng 25 - 30
0
C. Một vài loài tôm tăng trưởng ở nhiệt độ
dưới 20
0
C, nhưng nhiệt độ trên 35
0
C có thể gây chết tôm (Trần Ngọc Hải và Nguyễn
Thanh Phương, 2009).
Oxy hòa tan: Oxy hòa tan thấp (0,0 - 1,5mg/l có thể gây chết tôm. Hàm lượng oxy hòa
tan tốt nhất cho tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm nên trong khoảng giữa 3,5mg/l đến
bão hòa (Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2009). Hàm lượng oxy hòa tan
phù hợp với tôm từ 5mg/l trở lên theo (Chu Thị Thơm và ctv, 2005). Hàm lượng oxy
hoà tan cho phép trong ao nuôi tôm sú là 3 - 12 mg O
2
/l, tốt nhất là 4 - 7 mgO
2
/l.
Trong ao nuôi bán thâm canh hay thâm canh, còn có máy quạt nước để khi nồng độ
oxy thấp hơn 3mg/l thì phải chạy máy quạt nước đặc biệt là khi thời tiết âm u, vào
cuối vụ nuôi hay vào lúc gần sáng (Phát triển nuôi trồng thủy sản ven biển, 2004).
H
2
S: Hàm lượng H
2
S trong nước từ 0,01mg/lít cũng đủ gây độc cho tôm, do đó cần
hạn chế đến mức tối đa. Thay nước hoặc bón vôi để làm giảm khí H
2
S trong nước
(Đoàn Khắc Độ, 2008). Khí H
2
S rất độc đối với tôm, khí này ở bất kì nồng độ nào nếu
có cũng ảnh hưởng bất lợi đối với tôm (Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương,
2009).
Ammonia: Ở dạng khí NH
3
rất độc, hàm lượng khí nếu lớn hơn 1mg/l có thể gây chết
tôm nhưng hàm lượng trên 0,1% mg/l cũng gây ảnh hưởng bất lợi ở pH bằng 9 và độ
mặn 20‰. Nitrite: Thông thường hàm lượng nitrite trong ao nuôi không cao đến mức
gây chết tôm nhưng nồng độ cao 4 - 5 mg/l có thể ảnh hưởng bất lợi đến tôm (Trần
Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2009). Hàm lượng NH
4
trên 0,1mg/lít là có thể
gây độc cho tôm. Để giảm lượng NH
4
, có thể thay nước hoặc sục khí (Đoàn Khắc Độ,
2008).
2.2.4. Tính bắt mồi và nhu cầu dinh dưỡng
Tôm sú thuộc loài ăn tạp, thức ăn ưa thích là côn trùng, giáp xác, thực vật, giun nhiều
tơ, mảnh vụn hữu cơ, qua kiểm tra thành phần thức ăn trong dạ dày cho thấy tôm sú
thích các động vật sống hơn là giáp xác thối rữa hay mảnh vụn hữu cơ. Khi nuôi trong
18
ao, loại thức ăn tốt nhất cho tôm sú là thức ăn viên công nghiệp, thức ăn tươi sống
hoặc thức ăn tự chế biến (Đoàn Khắc Độ, 2008).
2.2.5. Sinh trưởng
Vòng đời của tôm sú qua các giai đoạn:
Hình 2.2: Vòng đời của P.monodon theo Motoh (1981)
Giai đoạn phôi: Ở nhiệt độ 25 - 30
0
C, phôi sẽ phát triển tốt và trứng sẽ nở thành ấu
trùng (nauplius) sau 12 - 15 giờ. Giai đoạn ấu trùng: có 4 giai đoạn ấu trùng là
Nauplius, Zoae, Mysis và Postlarvae (hậu ấu trùng). Giai đoạn tôm giống: đến giai
đoạn này, chân ngực và chân bụng của tôm đã hoàn thiện, chúng có thể bơi và bò như
tôm trưởng thành. Giai đoạn tôm tiền trưởng thành: Ở giai đoạn này các bộ phận của
tôm dần dần phát triển nhưng chưa hoàn toàn thành thục. Giai đoạn tôm trưởng thành:
đến giai đoạn này thì tôm đã hoàn toàn thành sinh dục và bước vào thời kì sinh sản.
Trong quá trình sinh trưởng, tôm trải qua nhiều lần lột xác và mỗi lần lột xác là một
lần tăng trưởng chiều dài và trọng lượng. Tuổi thọ của tôm sú được khoảng 1,5 năm,
của con cái khoảng 2 năm (Đoàn Khắc Độ, 2008).
2.2.6. Sinh sản
Tôm sú sinh sản quanh năm, nhưng mùa vụ chính tập trung từ tháng 3 đến tháng 4 và
từ tháng 7 đến tháng 10. Tuổi thành thục: tôm sú thành thục sinh dục và bước vào thời
kì sinh sản khi đạt từ 8 tháng tuổi trở lên. Dấu hiệu nhận biết tôm cái thành thục là có
túi tinh ở cơ quan sinh dục phụ, còn với tôm đực là tinh trùng ở cuối ống dẫn tinh.
19
Giao phối: Tôm cái thành thục và có trứng chín thì xảy ra hiện tượng lột xác, sau đó
con đực và con cái sẽ giai phối. Đẻ trứng: Tôm sú đẻ trứng vào ban đêm, thường đẻ
vào khoảng 22 giờ đến 2 giờ. Tôm thường đẻ trứng ở phần đầu ngực và 3 đốt đầu tiên
của thân, số lượng trứng tùy thuộc vào chất lượng của buồng trứng và kích cỡ tôm mẹ
(tôm càng lớn thì trứng càng nhiều). Bình thường mỗi cá thể đẻ trung bình từ 500.000
- 1.000.000 trứng. Nếu tôm được cắt mắt và nuôi vỗ trong bể xi măng thì cho lượng
trứng 200.000 - 600.000 trứng /1 tôm cái. Trứng nở thành ấu trùng: ở nhiệt độ 27 -
28
0
C trứng sẽ nở thành ấu trùng (Nauplius) sau khoảng 14 - 15 giờ đẻ. Từ ấu trùng
đến tôm trưởng thành trải qua các giai đoạn: Nauplius, zoae, mysis, postlarvae, tiền
trưởng thành rồi đến trưởng thành (Đoàn Khắc Độ, 2008).
2.3. Đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội của Thành phố Bạc Liêu
2.3.1. Điều kiện tự nhiên
2.3.1.1. Vị trí địa lý
Bạc Liêu là tỉnh thuộc Khu vực ĐBSCL nằm phía Đông Bắc của bán đảo Cà Mau.
Phía Bắc giáp tỉnh Hậu Giang và Kiên Giang. Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Sóc Trăng.
Tây và Tây Nam giáp tỉnh Cà Mau. Đông và Đông Nam giáp biển đông.
2.3.1.2. Ðịa hình
Bạc Liêu có địa hình tương đối bằng phẳng, chủ yếu nằm ở độ cao trên dưới 1,2m so
với mặt biển, còn lại là những giồng cát và một số khu vực trũng ngập nước quanh
năm. Địa hình có xu hướng dốc từ bờ biển vào nội đồng, từ Đông Bắc xuống Tây
Nam. Trên địa bàn tỉnh có nhiều kênh rạch lớn như kênh Quản Lộ - Phụng Hiệp, Cạnh
Đền, Phó Sinh, Giá Rai (http:// điều kiện tự nhiên của Bạc Liêu.com.vn, 2010).
2.3.1.3. Khí hậu
Bạc Liêu nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với 2 mùa rõ rệt. Mùa mưa từ
tháng 5 đến tháng 11. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa trung
bình hàng năm từ 2.000 - 2.300 mm. Nhiệt độ trung bình 26
0
C. Số giờ nắng trong năm
2.500 – 2.600 giờ. Độ ẩm trung bình mùa khô 80%, mùa mưa 85%. Vùng này ít chịu
ảnh hưởng của bão và áp thấp nhiệt đới; không chịu ảnh hưởng trực tiếp của lũ lụt từ
hệ thống sông Cửu Long, nhưng lại chịu tác động mạnh của thủy triều biển Đông và
một phần chế độ nhật triều biển Tây (http:// điều kiện tự nhiên của Bạc Liêu.com.vn,
2010).
2.3.2. Tài nguyên thiên nhiên.
2.3.2.1. Tài nguyên đất
Đất đai của tỉnh được chia thành nhiều nhóm: nhóm đất mặn chiếm 32,6% quỹ đất,
nhóm đất phèn chiếm 59,9%, nhóm đất cát chiếm 0,18%, bãi bồi và đất khác chiếm
20
4,4%, sông rạch chiếm 2,9% quỹ đất. Tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh là 258.247
ha. Trong đó, đất nông nghiệp có 98.309 ha; đất nuôi trồng thủy sản và đất muối có
120.714 ha; đất lâm nghiệp có rừng 4.832 ha; đất chuyên dùng 11.323 ha; đất ở 4.176
ha, còn lại là đất chưa sử dụng. Đất có khả năng trồng rừng, nuôi tôm, làm muối
125.546 ha, chiếm 48,62%. Phần lớn đất đai của Bạc Liêu là đất phù sa bồi đắp lâu
năm và ổn định, thích hợp với việc phát triển nền nông nghiệp toàn diện ((http:// điều
kiện tự nhiên của Bạc Liêu.com.vn, 2010).
2.3.2.2. Tài nguyên rừng
Diện tích rừng và đất rừng chiếm 1,87% diện tích đất tự nhiên, trong đó chủ yếu là
rừng phòng hộ (4.657 ha). Rừng Bạc Liêu là rừng ngập mặn, úng phèn, có năng suất
sinh học cao, có giá trị lớn về phòng hộ và môi trường. Cây trồng chủ yếu là tràm,
đước.
2.3.2.3. Tài nguyên biển
Bờ biển dài 56km, diện tích vùng biển 4 vạn km
2
. Động vật biển bao gồm 661 loài cá,
319 giống thuộc 138 họ, trong đó nhiều loại có trữ lượng và giá trị cao như tôm, cá
hồng, cá gộc, cá sao, cá thu, cá chim, cá đường,… Tôm biển có 33 loài khác nhau, có
thể đánh bắt hơn 10.000 tấn/năm. Trữ lượng cá đáy và cá nổi hơn 100.000 tấn/năm, có
thể trở thành nơi xuất, nhập khẩu trực tiếp.
2.3.2.4. Tình hình nuôi trồng thủy sản ở tỉnh Bạc Liêu
Theo báo cáo của trung tâm khuyến nông - khuyến ngư Bạc Liêu diện tích nuôi trồng
thủy sản toàn tỉnh đến cuối năm 2009 là 124.190 ha, trong đó diện tích hiện đang nuôi
64.542 ha (đang có tôm 64.310 ha, trong đó tôm công nghiệp 1.501 ha, cá và thủy sản
khác 232 ha) bảng 2.1. Diện tích nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp chưa thả
giống 720 ha, diện tích đang thả giống 3.323 ha (trong đó tôm CN và BCN 15 ha), thu
hoạch 13.156 ha, sản lượng 545 tấn (tôm 367 tấn, cá và thủy sản khác 178 tấn).
Tổng diện tích đất tự nhiên trên toàn tỉnh là 258.246,6 ha. Diện tích NTTS liên tục
tăng qua các năm từ 2005 – 2010. Năm 2005 diện tích đất NTTS toàn tỉnh là 118,71
ha đến năm 2010 đã lên đến 126,3 nghìn ha và theo kế hoạch của tỉnh sẽ tiếp tục mở
rộng diên tích NTTS đến 128 nghìn ha (sở NN & PTNT Bạc Liêu).
Tuy gặp nhiều trở ngại về dịch bệnh nhưng sản lượng tôm NTTS vẫn ngày càng tăng
(ngoại trừ năm 2006 sản lượng có giảm đi nhưng lại tiếp tục tăng trở lại vào các năm
tiếp theo. Năm 2009, sản lượng tôm NTTS đã đạt được 67,7 nghìn tấn. Tỉnh dự định
con số này sẽ tăng lên 87,7 nghìn tấn vào năm 2015 (sở NN & PTNT Bạc Liêu).
21
Bảng 2.2 Báo cáo tiến độ sản xuất đến ngày 31/12/2009 (Sở NN & PTNT BL)
Nuôi trồng thủy sản (ha)
DT NTTS DT đang nuôi
Tổng số Tr.đó tôm
CN&BCN
Tổng số Tr.đó tôm
CN &BCN
Toàn tỉnh 124.190 9.288 64.542 1.501
TX. Bạc Liêu 5.933 4.448 1.148 831
Vĩnh lợi 2.968 212 - -
Hòa bình 15.676 3.523 11.845 285
Giá rai 20.295 157 13.953 121
Đông hải 38.398 948 37.596 264
Phước long 18.362 - 0 -
Hồng dân 22.558 - 0 -
2.4. Sơ lược một số vấn đề về thuốc và hóa chất
2.4.1. Khái niệm thuốc thú y thủy sản
Qui chế khảo nghiệm giống thủy sản, thức ăn, thuốc, hóa chất và chế phẩm sinh học
dùng trong nuôi trồng thủy sản (Ban hành kèm theo Quyết định số 18/2002/QĐ-BTS
ngày 3/6/2002 của Bộ trưởng Bộ thủy sản). Trong chương I, điều 3, các từ ngữ thuốc,
hóa chất, chế phẩm sinh học được hiểu như sau:
* Thuốc: Là chế phẩm có nguồn gốc từ động vật, thực vật, khoáng chất, hoá chất, vắc-
xin và các chế phẩm sinh học khác dùng để phòng và trị bệnh; điều chỉnh sinh trưởng,
phát triển và sinh sản của thủy sản; xử lý và cải tạo môi trường nuôi.
* Hóa chất: Là sản phẩm hoá học được dùng để xử lý, cải tạo môi trường, phòng và
trị bệnh cho nuôi trồng thủy sản.
* Chế phẩm sinh học: Là sản phẩm có nguồn gốc sinh vật, kể cả vi sinh vật; các thực
liệu lấy từ nấm, vi trùng, virus và các nguyên sinh; độc tố, nọc độc từ nguồn động vật
hoặc thực vật gây hại cho động vật để chuẩn đoán, phòng bệnh, chữa bệnh cho thủy
sản nuôi trồng và xử lý môi trường nước nuôi trồng thuỷ sản.
2.4.2. Sơ lược một số loại bệnh và cách phòng trị trên tôm Sú
Việc phát triển quy mô thâm canh trong nghề nuôi tôm hiện nay đang đối mặt với
nguy cơ dịch bệnh nguy hiểm và gây ra không ít tổn thất cho người nuôi tôm ở nhiều
quốc gia. Trong đó một số loại bệnh phổ biến và nguy hiểm như đốm trắng (WSSV),
22
bệnh còi (MBV), đầu vàng (YHV), Hội chứng Taura (TSV), phát sáng, vi khuẩn, bệnh
do dinh dưỡng và môi trường.
2.4.2.1. Các virus gây bệnh gan tụy
Bệnh MBV (Monodon baculovirus) ở tôm Sú
Bệnh MBV được phát hiện đầu tiên từ 1980 ở đàn tôm sú (Penaeus monodon) đưa từ
Đài Loan đến Mexico (Lightner, 1983). Tiếp theo là các nhà nghiên cứu phát hiện
bệnh MBV có xuất phát từ Đài Loan, Philippines, Malaysia, Polynesia thuộc Pháp,
Singapore, Indonesia, Thái Lan, Trung Quốc,… Ở Đài Loan bệnh MBV có liên quan
đến thiệt hại nghiêm trọng trong nghề nuôi tôm sú năm 1987 và 1988 (Chen, 1989).
Hiện nay bệnh phát triển ở nhiều nơi trên thế giới: châu Á, châu Phi, miền Nam châu
Âu, châu Mỹ. Tôm sú thường xuyên bị nhiễm MBV và trên nhiều loài tôm biển khác,
virus nhiễm từ postlarval đến tôm trưởng thành (Bùi Quang Tề, 2003).
Đặc điểm của loại virus gây bệnh này là nhân tố gây tổn thương các tế bào gan tụy
như MBV (Monodon baculovirus), HPV (Hepatopancreas parvovirus) và làm tôm dễ
mẫn cảm trước những bất lợi về môi trường hay các bệnh khác. Ở Việt Nam từ tháng
10 - 11/1994 Bùi Quang Tề lần đầu tiên đã nghiên cứu về mức độ nhiễm bệnh MBV
trên tôm sú ở các tỉnh ven biển phía Nam: tôm sú nuôi nhiễm virus MBV khá cao:
tôm thịt ở Minh Hải 50 - 85,7%, ở Sóc Trăng 92,8%, tôm giống ở Bà Rịa - Vũng Tàu
5,5 - 31,6%, tôm giống Nha Trang 70 - 100%. Bệnh MBV là nguyên nhân làm chết
tôm hàng loạt ở các tỉnh phía Nam năm 1993 - 1994. Tiếp theo là Đỗ Thị Hòa từ
tháng 4/1994 - 7/1995 cũng đã nghiên cứu bệnh MBV trên tôm sú nuôi ở các tỉnh
Nam Trung Bộ, kết quả cho thấy: tỷ lệ nhiễm virus ở ấu trùng tôm sú là 33,8%, tôm
giống là 52,5%, tôm thịt là 66,5%. Năm 1995 sơ bộ điều tra bệnh tôm sú ở các tỉnh
phía bắc: Nghệ An, Thanh Hóa, Hải Phòng, vì những tỉnh này điều lấy tôm từ Nha
Trang ra nuôi (Bùi Quang Tề, 1997). Đến nay kiểm tra tôm post từ miền Bắc ở Quảng
Ninh đến các tỉnh phía Nam ở Cà Mau hầu hết chúng đều nhiễm mầm bệnh MBV, ở
mức độ khác nhau. Bệnh MBV không gây chết tôm hàng loạt, nhưng tôm chậm lớn và
chết rải rác (Bùi Quang Tề, 2003).
Bệnh do virus MBV gây ra, virus này ký sinh ở các tế bào biều mô hình ống ở gan tụy
và trước ruột giữa. Bệnh nhiễm ở tất cả các giai đoạn của tôm, nhưng bệnh biểu hiện
chủ yếu từ giai đoạn tôm giống. Bệnh có thể xuất hiện từ giai đoạn Zoea 2. Ấu trùng
và postlarvae nhiễm bệnh thường giảm ăn, chậm phát triển mang và cơ thể có nhiều
sinh vật bám. Ruột cho thấy một đường trắng dọc cơ thể. Đối với tôm ương nuôi trong
ao nhất là với mật độ cao, mức độ nhiễm bệnh cao và có triệu trứng mãn tính. Tôm có
màu sẫm, mang đỏ hay đen, vỏ có nhiều sinh vật bám. Gan tụy teo lại có màu vàng,
rất tanh. Tôm chết dần 3 – 7 ngày, từ 70 – 100%. Cần đề phòng bằng cách dùng tôm
23
giống khỏe không nhiễm MBV để nuôi thịt. Cần vệ sinh trại, chăm sóc tốt, loại bỏ
tôm bệnh thật kỹ (Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2009).
Đối với bệnh MBV (Monodon baculovirus), phòng bệnh là chính: không dùng tôm
giống có nhiễm bệnh MBV. Tẩy dọn ao bể nuôi như phương pháp phòng chung. Nuôi
tôm đúng mùa vụ, quản lý chăm sóc tốt, cung cấp đầy đủ thức ăn về chất và lượng.
Xử lý nước bằng tầng ozon và các chất sát trùng như BKC trước khi ấp trứng (Bùi
Quang Tề, 2006).
Theo (Từ Thanh Dung và csv., 2005) phòng và trị bệnh MBV bằng cách: chọn tôm
giống không nhiễm bệnh MBV, tránh gây tôm sốc, chú ý cho tôm ăn đầy đủ và quản lí
tốt môi trường, loại bỏ tôm bệnh.
Bệnh nhiễm trùng virus dưới da và hoại tử ( IHHNV): Bệnh IHHNV được phát hiện ở
Mỹ trong đàn tôm chân trắng (Penaeus vannamei), còn gọi là hội trứng dị hình còi cọc
của tôm chân trắng Nam Mỹ. Bệnh xuất hiện từ giại đoạn postlarae đến tôm trưởng
thành. Bệnh xuất hiện cả Singapore, Philippines, Thái Lan, Indonesia và Malaysia. Ở
Việt Nam qua phân tích mô bệnh gan tụy của tôm sú như: Minh Hải, Sóc Trăng xuất
hiện các thể vùi ở nhân tế bào tuyến anten của tôm sú (Bùi Quang Tề, 1994) nhưng tỷ
lệ nhiễm virus thấp. Tôm sú và tôm chân trắng nuôi ở Quảng Ninh chuẩn đoán bắng
test PCR cho thấy tôm đã nhiễm bệnh IHHNV, tôm nuôi chậm lớn và không đều, tỷ lệ
tôm còi 20 – 50% (Bùi Quang Tề, 2004). Bệnh IHHNV lan truyền cả chiều đứng và
chiều ngang, virus có thể truyền từ bố mẹ sang ấu trùng hoặc lây nhiễm sang giai đoạn
sớm của ấu trùng. Phòng bệnh IHHNV tương tự như bệnh MBV, Đầu Vàng (Bùi
Quang Tề, 2006).
2.4.2.2. Các virus gây chết cấp tính
Bệnh đốm trắng(White spot syndrome virus - WSSV):
Bệnh đốm trắng được thông báo đầu tiên ở Trung Quốc trong các đầm nuôi tôm sú tỷ
lệ tôm chết rất cao (Chen,1989). Năm 1992 – 1994 ở Thái Lan, tôm nuôi bị bệnh đầu
vàng và đốm trắng thiệt hại hơn 40 triệu USD. Năm 1994 đã có các báo cáo từ Ấn Độ,
Trung Quốc, Nhật Bản và Thái Lan đã tìm ra nguyên nhân gây nên bệnh đốm trắng.
Hiện tượng tôm bệnh thường xảy ra ở tôm giống đến tôm trưởng thành của khu vực
nuôi thâm canh và quảng canh. Bệnh xảy ra khi môi trường nuôi xấu bệnh dễ xuất
hiện. Bênh đốm trắng xuất hiện ở nhiều động vật giáp xác tự nhiên như các loài tôm
he, tôm nước ngọt, cua, chân chèo và ấu trùng côn trùng do đó bệnh lây lan rất nhanh
chóng trong các đầm nuôi tôm (Bùi Quang Tề, 2006).
Trong những năm gần đây bệnh đốm trắng thường xuyên xuất hiện trong các khu vực
nuôi tôm ven biển ở Việt Nam. Hầu hết các tỉnh khi đã bị nhiễm đốm trắng tôm chết
hàng loạt và gây ra những tổn thất lớn cho nghề nuôi tôm. Mùa xuất hiện bệnh là mùa
24
xuân và đầu mùa hè, khi thời tiết biến đổi nhiều, như biên độ nhiệt độ trong ngày dao
động quá lớn (>5
o
C) gây sốc cho tôm. Bệnh đốm trắng xuất hiện trên tôm sú nuôi
khoảng 1 - 2 tháng và gây chết tôm. Theo Bùi Quang Tề (2003) cho biết các vùng có
đốm trắng xuất hiện mạnh: Quảng Ninh, Hải Phòng, Nam Định, Nghệ An,… bệnh còn
xuất hiện ở tôm, cua tự nhiên.
Phòng bệnh đốm trắng (WSSV) bằng cách: chọn tôm bố mẹ có chất lượng (chiều dài
từ 26 - 30 cm), không nhiễm WSSV. Không vận chuyển tôm giống mật độ cao, thức
ăn tươi sống không hư thối và dùng nhiệt nấu chín. Hàng tháng cho tôm ăn Vitamin C
từ 1 – 2 đợt với liều lượng 2 - 3 g/1kg thức ăn cơ bản, mỗi đợt cho tôm ăn 1 tuần liên
tục. Nguồn nước cấp cho ao nuôi tôm phải lắng lọc và khử trùng. Ngăn chặn không
cho tôm và giáp xác khác vào ao nuôi. Nước ao nuôi tôm bị bệnh đốm trắng phải xử lí
bằng chlorua với nồng độ cao (30 – 50g/m
3
), không được xả ra ngoài. Khi phát hiện
bệnh tốt nhất là thu hoạch ngay (Bùi Quang Tề, 2006).
Bệnh đầu vàng (Yellow head virus – YHV):
Boonyarapalin và csv., (1992) lần đầu tiên mô tả bệnh đầu vàng gây chết tôm sú nuôi
ở miền trung và miền nam Thái Lan, đặc biệt nguy hiểm cho các vùng nuôi tôm thâm
canh qua một số năm. Năm 1987 – 1988 virus đầu vàng gây bệnh trên tôm sú nuôi ở
Đài Loan và gây bệnh ở những nơi khác thuộc Đông Nam Á: Indonesia, Malaisia,
Philippin, gặp ít nhưng nguy hiểm cho tôm nuôi (Lightner, 1996). Ở Việt Nam bệnh
xuất hiện ở các vùng nuôi tôm sú của các tỉnh phía Bắc, miền Trung và Nam Bộ có
tôm bị bệnh đầu vàng gây chết nghiêm trọng 100% trong vòng 3 – 5 ngày sau khi xuất
hiện dấu hiệu bệnh đầu tiên và có thể xảy ra sau khi thả giống từ 20 ngày trở đi. Bệnh
thường xảy ra ở các ao nuôi có điều kiện môi trường xấu và ở những vùng có mật số
trại cao, đặc điểm của bệnh là mang và gan tụy có màu vàng nhạt, tuy nhiên dấu hiệu
cũng xuất hiện ở vài bệnh khác, khi phát triển thành dịch bệnh thì nguyên nhân gây
bộc phát bệnh trong ao nuôi rất dễ nhầm lẫn (Bùi Quang Tề, 2003).
Đối với các virus gây bệnh: Áp dụng phương pháp phòng trị bệnh tổng hợp, tránh vận
chuyển tôm từ nơi có bệnh đến nơi chưa phát bệnh để hạn chế sự lây lan. Những tôm
chết vớt ra khỏi ao tốt nhất là chôn sống trong vôi nung hoặc đốt. Nước từ ao tôm
bệnh không thải ra ngoài xử lý bằng vôi nung hoặc clorua vôi (theo phương pháp tẩy
ao). Thu hoạch thì cần xử lý nước ao trước khi tháo bỏ (Bùi Quang Tề, 2006).
Theo Từ Thanh Dung và csv., (2005) phòng trị bệnh đầu vàng: Chọn tôm giống tốt và
không nhiễm bệnh đầu vàng, loại bỏ tôm bệnh. Tẩy trùng ao ương và kênh cấp nước
thật triệt để trước khi nuôi. Xử lí nước kỹ trước khi nuôi bằng chlorine 25ppm. Hạn
chế thay nước trong khi nuôi và xử lí nước thải bằng chlorine.
2.4.2.3. Bệnh do vi khuẩn
25
Bệnh đốm trắng do vi khuẩn ở tôm (bacterrial white spot syndrome – BWSS): Vi
khuẩn có khả năng là nguyên nhân gây nên bệnh đốm trắng (Wang et al, 2000) trên
tôm sú nuôi ở Malaysia. Vibrio cholerae cũng thường được nuôi cấy từ mẫu bệnh tôm
nuôi (ở Thái Lan) ở các ao có pH và độ kiềm cao và vi khuẩn là nguyên nhân cơ hội
(thứ hai). Ở Việt Nam cũng nuôi cấy được Vibrio spp từ các mẫu ở tôm sú nuôi (Bùi
Quang Tề và csv., 2003). Tôm bệnh có các đốm trắng mờ đục nhìn thấy trên vỏ khắp
cơ thể, các đốm trắng thường chỉ ở phía ngoài của lớp biểu bì và tổ chức liên kết, ít
nguy hiểm với tổ chức phía trong, các đốm trằng có thể mất đi khi tôm lột vỏ. Phòng
và trị bệnh bằng cách: Kiểm soát mật độ vi khuẩn trong nước ao nuôi. Thường xuyên
thay nước ao nuôi. Xác định vi khuẩn Bacillus subtilis trong chế phẩm vi sinh hạn chế
dùng trong ao nuôi tôm. Ao có nhiễm bệnh đốm trắng do vi khuẩn dùng vôi nung
(CaO) bón cho ao liều lượng 25ppm, để không làm tăng độ kiềm trong ao và làm tăng
pH nhanh. Dùng một số khoáng vi lượng kích thích tôm lột vỏ sẽ giảm bớt các đốm
trắng trên thân tôm (Bùi Quang Tề, 2006).
Bệnh do vi khuẩn vibrio: Vibrio spp thường gây bệnh ở động vật thủy sản nước mặn
và nước ngọt: cá, giáp xác, những vi khuẩn này thường là tác nhân cơ hội, khi động
vật thủy sản sốc do môi trường biến đổi xấu hoặc bị nhiễm các bệnh khác như virus,
nấm, ký sinh trùng, Theo nghiên cứu của các tác giả nước ngoài và Việt Nam vibrio
spp tìm thấy phổ biến ở trong nước biển và ven bờ, trong nước bể ương tảo, bể ương
Artemia, trong bể ương ấu trùng (Bùi Quang Tề, 2006).
Bệnh do vi khuẩn vibrio xảy ra ở tất cả các giai đoạn. Cách phòng bệnh bằng cách vệ
sinh tẩy trùng bể và ao nuôi kỹ. Chăm sóc quản lý tốt môi trường nước nuôi, hạn chế
gây sốc, thương tích tôm. Đối với ấu trùng và PL bệnh có thể trị bằng EDTA 10-50
mg/l, formaline 10 - 25mg/l, oxytetracyline 1-10mg/l. Đối với tôm lớn dùng
Oxytetracyline 1.5g/kg thức ăn. Trị liên tiếp trong 14 ngày.
Theo Vũ Thế Trụ (1999), để chữa trị các bệnh do vi khuẩn vibrio gây ra có thể dùng
một số loại thuốc sau đây: Chloromycetin 2 - 10ppm, Doxycycline 0,5 - 1 ppm,
Oxytetracylin 0.52ppm và thay nước mới (30 - 50%). Khi xuất hiện cơ hội tốt cho
chúng (như sốc), bệnh dễ bùng nổ. Một số loại thuốc và hóa chất dùng trị gồm:
EDTA, erythromycine, tetramycine (Bộ Thủy Sản, 2006).
Bệnh phát sáng: Bệnh có thể xuất hiện quanh năm. Các giai đoạn bị bệnh chủ yếu là ở
giai đoạn tôm ương trong trại như trứng, ấu trùng, và hậu ấu trùng. Tôm bị bệnh sẽ bị
yếu và có màu trắng đục. Tôm sắp chết thường nổi lên mặt nước hay ven mé. Tôm
nhiễm bệnh nặng sẽ phát sáng trong tối, bỏ ăn, lắng xuống đáy bể thành một thảm
sáng xanh ở đáy, chết hàng loạt và rất nhanh khoảng 80 – 100%. Bệnh do vi khuẩn
Vibrio đăc biệt V.harveyi gây ra. Bệnh thường xuất hiện khi môi trường nước giàu
dinh dưỡng, nhiều chất hữu cơ, xác bã và có thể xuất hiện quanh năm. Phòng và trị