Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

tìm hiểu khả năng tăng trưởng bù của cá trê vàng (clarias macrocephalus)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.74 MB, 39 trang )

i
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG
TÌM HIỂU KHẢ NĂNG TĂNG TRƯỞNG BÙ
CỦA CÁ TRÊ VÀNG
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ SỐ: 304
Cán bộ hướng dẫn Sinh viên thực hiện
Ts. NGUYỄN VĂN KIỂM LÊ HẠNH NHÂN
MSSV: 06803027
ThS. NGUYỄN THÀNH TÂM LỚP: NTTS K1

ii
LỜI CẢM TẠ
Sau 2 tháng thực tập từ tháng 4 năm 2010 đến tháng 6 năm 2010 tại nhà thầy Kiểm Quận
Cái Răng – TP. Cần Thơ, áp dụng những kiến thức đã học kết hợp với kinh nghiệm thực
tế, nay luận văn đã được chỉnh sửa và hoàn thành.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy Nguyễn Văn Kiểm – Khoa Thủy Sản –
Trường Đại Học Cần Thơ đã tận tình chỉ dạy cho em trong suốt thời giai làm đề tài.
Em xin chân thành cảm ơn quý Thầy Cô – Khoa Sinh Học Ứng Dụng – Trường Đại Học
Tây Đô đã tận tình dạy bảo, truyền đạt cho em những kiến thức quý báu trong những năm
học vừa qua, tạo dựng hành trang để em bước vào cuộc sống sau này.
Xin cảm ơn tất cả các bạn trong nhà Thầy Kiểm đã tận tình giúp đỡ và đóng góp ý kiến
bổ ích để được hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Với sự hiểu biết còn hạn hẹp và thu thập tài liệu còn hạn chế nên báo cáo tốt nghiệp
không tránh khỏi những sai sót. Kính mong sự đóng góp ý kiến của quý Thầy Cô và các
bạn.



Em xin chân thành cám ơn và ghi nhớ!



LÊ HẠNH NHÂN
iii
TÓM TẮT
Thí nghiệm tìm hiểu khả năng tăng trưởng bù của cá trê vàng (Clarias macrocephalus),
được tiến hành trong thời gian 5 tuần. Cá trê vàng sau 10 ngày tuổi cá khối lượng và
chiều dài trung bình là (0,009 g/con và 0,75 cm/con). Thí nghiệm được bố trí ngẫu nhiên
gồm 3 nghiệm thức và 1 đối chứng mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần với mật độ 20
con/bể. Nghiệm thức đối chứng (ĐC) cá được cho ăn thỏa mãn liên tục hằng ngày trong
suốt quá trình thí nghiệm, các nghiệm thức còn lại cho ăn thỏa mãn 1 ngày và bỏ đói 1
ngày (NT1), cho ăn thỏa mãn 2 ngày và bỏ đói 2 ngày (NT2), cho ăn thỏa mãn 3 ngày và
bỏ đói 3 ngày (NT3), thức ăn được sử dụng trong thí nghiệm là trùn chỉ (turbifex). Những
chỉ tiêu về khối lượng, chiều dài, tốc độ tăng trưởng tuyệt đối, tỷ lệ sống đều được ghi
nhận trong thời gian tiến hành thí nghiệm. Kết thúc nhận thấy: cá ở nghiệm thức ĐC có
khối lượng và chiều dài cao nhất, các nghiệm thức bỏ đói 1, 2 ngày thì có khối lượng và
chiều dài tương đương nhau còn cá ở NT3 bỏ đói 3 ngày có khối lượng và chiều dài thấp
nhất.
iv
MỤC LỤC
LỜI CẢM TẠ i
TÓM TẮT ii
MỤC LỤC iii
DANH SÁCH CÁC BẢNG v
DANH SÁCH CÁC HÌNH vi
CHƯƠNG 1 1
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1.1 Giới thiệu 1

1.2 Mục tiêu của đề tài 1
1.3 Nội dung thực hiện 1
CHƯƠNG 2 2
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 2
2.1 Đặc điểm sinh học cá trê vàng 2
2.1.1 Hệ thống phân loại và đặc điểm hình thái 2
2.1.2 Một vài đặc điểm sinh học cá trê vàng 4
2.2 Tình hình nghiên cứu ương nuôi cá trê trong và ngoài nước 5
2.3 Một số nghiên cứu về tăng trưởng bù, phương pháp cho ăn và tăng trưởng của cá
6
CHƯƠNG 3 10
PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 10
3.1 Vật liệu nghiên cứu 10
3.1.1 Thời gian và địa điểm 10
3.1.2 Đối tượng nghiên cứu 10
3.1.3 Nguồn cá 10
3.1.4 Dụng cụ và trang thiết bị 10
3.2 Phương pháp nghiên cứu 10
3.2.1 Bố trí thí nghiệm 10
3.2.2 Các chỉ tiêu theo dõi 11
v
3.3 Theo dõi các yếu tố môi trường 12
3.4 Phương pháp xử lý số liệu 12
CHƯƠNG 4 13
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 13
4.1 Các yếu tố môi trường 13
4.1.1 Nhiệt độ 13
4.1.2 Oxy hòa tan 14
4.1.3 pH 14
4.1.4 Nitrite (NO

2
-
) 15
4.1.5 TAN (NH
3
/NH
4
+
) 16
4.2 Ảnh hưởng của thời gian bỏ đói đến sự tăng trưởng bù của cá trê vàng từ 10
ngày tuổi đến 45 ngày tuổi. 17
4.2.1 Tăng trưởng về chiều dài và khối lượng trung bình của cá 17
4.2.2 Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối của cá trên ngày 22
4.3 Tỷ lệ sống 26
PHẦN 5 27
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 27
5.1 Kết luận 27
5.2 Đề xuất 27
TÀI LIỆU THAM KHẢO 28
PHỤ LỤC A A
PHỤ LỤC B H
PHỤ LỤC C M






vi
DANH SÁCH CÁC BẢNG

Trang

Bảng 2.1 Một số đặc điểm hình thái của cá trê 3
Bảng 4.1 Biến động của nhiệt độ, Oxy và pH trong quá trình thí nghiệm 13
Bảng 4.2 Biến động Nitrite và TAN trong quá trình thí nghiệm 15
Bảng 4.3 Tốc độ tăng trưởng về chiều dài trung bình của cá 18
Bảng 4.4 Tốc độ tăng trưởng về khối lượng trung bình của cá 20
Bảng 4.5 Tốc độ tăng trưởng khối lượng tuyệt đối của cá ở các nghiệm thức 22
Bảng 4.6 Tốc độ tăng trưởng chiều dài tuyệt đối của cá ở các nghiệm thức 24
Bảng 4.7 Tỷ lệ sống của cá trê vàng ở các nghiệm thức 26
vii
DANH SÁCH CÁC HÌNH
Trang
Hình 2.1 Đặc điểm nhận dạng 4 loài cá trê 2
Hình 2.2 Hình dạng ngoài cá trê vàng 4
Hình 3.1 Hệ thống thí nghiệm 11
Hình 3.2 Phương pháp cân trực tiếp 11
Hình 3.3 Phương pháp đo trực tiếp 11
Hình 3.4 Dụng cụ test môi trường 12
Hình 4.1 Biến động của NO
2
-
trong môi trường nước 16
Hình 4.2 Sự biến động hàm lượng TAN trong nước 17
Hình 4.3 Tăng trưởng chiều dài của cá ở các nghiệm thức bỏ đói khác nhau 19
Hình 4.4 Tăng trưởng chiều dài của cá trong suốt thời gian thí nghiệm 21
Hình 4.5Tốc độ tăng trưởng khối lượng tuyệt đối của cá ở các nghiệm thức 23
Hình 4.6 Tốc độ tăng trưởng chiều dài tuyệt đối trên ngày của cá ở các nghiệm thức
25
Hình 4.7 Tỷ lệ sống của cá ở các nghiệm thức 26

viii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
NT: Nghiệm thức
S: Sáng
C: Chiều
ĐC: Đối chứng
TLSTB: Tỷ lệ sống trung bình
ix
CAM KẾT KẾT QUẢ
Tôi xin cam kết luận văn này được hoàn thành dựa trên các kết quả nghiên cứu của tôi và
các kết quả của nghiên cứu này chưa dùng cho bất cứ luận văn cung cấp nào khác.
Ký tên


LÊ HẠNH NHÂN
Ngày tháng năm2010
1
CHƯƠNG 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Giới thiệu
Ngành nuôi trồng thủy sản nước ta phát triển rất nhanh và là một trong những ngành
kinh tế mũi nhọn của đất nước, góp phần lớn trong việc cải thiện đời sống và nâng cao
thu nhập người dân. Trong đó ngành nuôi trồng thủy sản nước ngọt đã có từ lâu đời và
ngày càng phát triển. Bên cạnh những loài cá nuôi phổ biến hiện nay, cá trê là một
trong những loài cá nuôi kinh tế quan trọng ở nước ta. Các loài cá trê đang được nuôi
bao gồm: cá trê vàng (Clarias macrocephalus), cá trê phi (Clarias gariepinus) và cá
trê lai giữa cá trê vàng cái và cá trê phi đực. Tất cả những loài cá này đều có sức chịu
đựng cao, chu kỳ nuôi ngắn, ăn tạp, thịt ngon, giá bán ổn định, phù hợp với điều kiện
nuôi hộ gia đình. Với những ưu điểm như vậy: nên cá trê vàng được nuôi phổ biến ở
vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. Mặc khác, cá trê vàng là đối tượng ăn tạp, thức ăn

dễ tìm, có khi sử dụng được cả phế phẩm của nông nghiệp (Dương Nhựt Long, 2004).
Chính vì những đặc điểm trên nên cá trê vàng đang thu hút được người nuôi hiện nay.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, cá trê vàng ít được người nuôi quan tâm
(người nuôi cá thường tập trung vào nuôi cá trê lai), chính vì vậy mà những thông tin
về kết quả ương nuôi cá trê vàng rất hạn chế. Còn một vấn đề khá mới được đặt ra là
người nuôi chưa được biết các loài cá có khả năng nhịn đói rất tốt và có khả năng tăng
trưởng bù khi bị bỏ đói với thời gian hợp lý. Nếu có kết quả nghiên cứu vấn đề này thì
có thể giảm được chi phí nuôi cá. Vì vậy đề tài “Tìm hiểu khả năng tăng trưởng bù
của cá trê vàng (Clarias macrocephalus)” được thực hiện. Nhằm làm cơ sở cho việc
giảm chi phí thức ăn nuôi cá trê vàng thông qua việc giảm lượng thức ăn sử dụng.
1.2 Mục tiêu của đề tài
Tìm ra được thời gian bỏ đói hợp lý với mức tăng trưởng bù tốt nhất đối với cá trê
vàng.
1.3 Nội dung thực hiện
• So sánh mức tăng trưởng bù và so sánh tỷ lệ sống của cá trê vàng ở thời gian
bỏ đói khác nhau.
2
CHƯƠNG 2
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 Đặc điểm sinh học cá trê vàng
2.1.1 Hệ thống phân loại và đặc điểm hình thái
Theo Trương Thủ Khoa và csv (1993), cá trê vàng thuộc:
Bộ: Siluriformes
Họ: Clariidae
Giống: Clarias
Loài: Clarias macrocephalus Gunther,1864
Tên tiếng anh: Yellow catfish
Tên địa phương: Cá trê vàng
Họ Clariidae đặc trưng bởi cơ quan hô hấp phụ (Trương Thủ Khoa và csv 1993).
Theo Dương Nhựt Long (2004) ở nước ta đang khai thác và nuôi 4 loài cá trê đó là cá

Trê Đen (Clarias fucus), Trê Trắng (Clarias batracus), Trê vàng (Clarias
macrocephalus), Trê phi (Clarias gariepinus) và cá Trê lai (Hybrid catfish) là con lai
giữa cá Trê vàng cái và cá Trê phi đực.
Theo Phạm Thanh Liêm (2006)

có nhiều chỉ tiêu hình thái để phân biêt các loài cá
Trê, tuy nhiên có 5 đặc điểm hình thái dễ nhận biết nhất giúp phân biệt nhanh các loài
cá Trê đó là các đặc điểm về màu sắc cơ thể (1) hình dạng của thóp trán (2), xương
chẩm (3), khoảng cách xương chẩm – vi lưng (4) và sau cùng là gai vi ngực(5).








Hình 2.1 : Đặc điểm nhận dạng 4 loài cá trê ( Phạm Thanh Liêm, 2006)
Ghi chú : A : Trê Trắng (Clarias batracus) ; B : Trê vàng (Clarias macrocephalus) ; C : Trê lai
(Hybrid catfish) ; D : Trê phi (Clarias gariepinus)
3

Bảng 2.1 Một số đặc điểm hình thái của cá trê (Phạm Thành Liêm, 2006)

Đặc điểm Trê trắng Trê vàng Trê lai Trê Phi
Màu sắc
màu sậm, đồng
nhất, có nhiều đốm
trắng sáng sắp
thành những vạch

ngang trên thân, và
rải rác ở mặt dưới
thân
màu sậm, đồng
nhất, có nhiều
đốm trắng sáng
sắp thành những
vạch ngang trên
thân, và rải rác ở
mặt dưới thân
còn nhỏ thì màu
sắc như cá Trê
vàng, có vài
đốm trắng sáng
trên cơ thể,
nhưng khi lớn
lên lại giống cá
Trê phi, màu
sắc loang lỗ
Không đồng nhất
mà có dạng bông
trắng đen loang lỗ,
không có các đốm
trắng sáng
Thóp trán
ngắn, hình thoi
ngắn có hình tam
giác
không có đặc
điểm riêng, một

số cá thể giống
cá Trê vàng,
trong khi số
khác lại giống
cá Trê phi
dài, có dạng như
trái bầu kéo dài
Xương
chẩm
hình tam giác
(đỉnh xương chẩm
nhọn chứ không
tròn như cá Trê lai)

tròn
hình chữ M,
đỉnh xương
chẩm tròn
hình chữ M
Khoảng
cách xương
chẩm - vi
lưng
dài, 1/4 - 1/5,5
chiều dài đầu
ngắn, 1/5 – 1/7
chiều dài đầu

dài, 1/4 - 1/5 chiều
dài đầu

Gai vi ngực
mặt trong xẻ răng
cưa, sâu (rất dễ kẹt
vào trong lưới khi
đánh bắt)



chỉ xẻ răng cưa ở
mặt ngoài
4

Hình 2.2. Hình dạng ngoài cá trê vàng
(Nguồn Trích dẫn bởi Trần Quang Nhị, 2009)
Theo Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993) thì cá trê vàng cá đầu rộng,
dẹp bằng, da đầu ở sọ não mỏng, xương sọ nổi lên rõ ràng. Miệng cận dưới, không co
duỗi được, rạch miệng thẳng, nằm ngang, răng trên hàm nhỏ, mịn, cứng chắc. Có 4
đôi râu khá phát triển : 1 đôi râu mũi, 1 đôi râu mép và 2 đôi râu cầm dưới, râu mép to
và dài hơn các râu khác. Mắt nhỏ, nằm ở mặt lưng của đầu và gần chót mõm hơn điểm
cuối nắp mang. Phần trán giữa hai mắt rộng. Đầu có hai lỗ thóp, một lỗ nằm phía sau
đường ngang nối hai mắt, còn hai lỗ kia nằm phía trước gốc mấu xương chẫm. Mấu
xương chẫm tròn, chiều rộng mốc mấu xương chẫm tương đương 3 – 5 lần chiều cao
của nó. Lỗ mang hẹp, nằm ở mặt bụng của đầu, xương nắp mang kém phát triển. Thân
dài, phần trước tròn, phần sau mỏng, dẹp bên. Cuống đuôi ngắn. Đường bên hoàn toàn
chạy từ mép trên của lỗ mang và chấm dứt ở điểm giữa gốc vi đuôi, phần trước lệch
xuống mặt bụng và phần sau nằm trên trục giữa của thân. Vi hậu môn rất dài, phần
cuối gần chạm gốc vi đuôi. Cơ gốc vi phát triển, phủ lên gần tới ngọn các tia vi. Gai vi
ngực cứng, nhọn, cả hai đầu đều cớ răng cưa hương xuống gốc, xương vi ngực lộ hẳn
ra ngoài. Vi đuôi tròn không chẻ hai. Mặt lưng của thân và đầu có màu xám đến nâu
đen và nhạt dần xuống bụng. Bụng và mặt dưới của đầu có màu vàng. Trên thân mỗi

bên có khoảng 10 chấm nhỏ màu trắng nằm vắt ngang thân.
2.1.2 Một vài đặc điểm sinh học cá trê vàng
Cá trê vàng (Clarias macrocephalus) hay các loài cá trê khác là loài sống trong môi
trường nước ngọt ở vùng nhiệt đới. Cá được tìm thấy trong các thủy vực như ao, đìa,
đầm lầy, mương vườn và cả trong ruộng lúa ở Thái lan, Campuchia, Lào… và Việt
Nam (Trương Thủ Khoa và csv, 1993). Cá trê là loài ăn tạp, thiên về chất hữu cơ và
xác chết động vật. Khi còn ở giai đoạn cá bột và cá hương, cá trê cũng thể hiện tính dữ
như cá tra (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009). Thức ăn thích hợp của cá
là tôm tép, cá con, phiêu sinh vật, động vật không xương sống, côn trùng và các phụ
phẩm từ các trại chăn nuôi, các phế phẩm từ nhà máy chế biến thủy sản, cá rất thích ăn
mồi là động vật thối rữa. Khả năng sử dụng và tiêu hóa thức ăn chế biến cũng rất cao
(Nguyễn Văn Kiểm, 2004).
5
Cá trê vàng có chất lượng thịt ngon, cá dễ nuôi nhưng tốc độ tăng trưởng của cá trê
vàng ở mức trung bình. Ở giai đoạn cá bột lên cá giống, cá tăng nhanh về chiều dài.
Khi kích thước từ 15cm trở lên thì trọng lượng cá tăng nhanh hơn (Đoàn Khắc Độ,
2008). Ngoài ra cá còn có thể sống được trong môi trường nước hơi phèn và trong
điều kiện nước hơi lợ (độ mặn 5‰). Cá phát triển tốt trong môi trường nước có độ pH
khoảng 5,5 – 8,0 (Bạch Thị Quỳnh Mai, 2004). Khả năng thích nghi với môi trường
sống rất tốt, đặc biệt là cá có thể hô hấp khí trời nhờ cơ quan hô hấp phụ “ hoa khế ”.
Nhờ đó mà cá có thể sống và phát triển trong điều kiện môi trường bất lợi như ao tù,
mương rãnh cả những nơi có hàm lượng ôxy thấp (1 – 2 mg/l) (Đoàn Khắc Độ, 2008).
Cá trê vàng có phạm vi nhiệt độ thích hợp từ 12 – 39
o
C (Vũ Ngọc Út và csv, 1991).
Theo Dương Nhựt Long (2004) mùa vụ sinh sản của cá trê bắt đầu vào mùa mưa từ
tháng 4 – 9 tập trung chủ yếu vào tháng 5 – 7. Trong điều kiện nuôi cá có thể sinh sản
nhiều lần (4 – 6 lần). Nhiệt độ đảm bảo để cá sinh sản từ 25 – 32
o
C. Sau khi sinh sản

xong ta có thể nuôi vỗ tái phát dục khoảng 30 ngày thì cá có thể tham gia sinh sản trở
lại. Sức sinh sản của cá trê vàng từ 60.000 – 80.000 trứng/kg cá cái, đường kính trứng
1,1 – 1,2 mm, trứng cá có màu nâu nhạt, vàng nâu. Trứng cá trê thuộc loại trứng dính
và cá có tập tính làm tổ đẻ dọc theo các bờ ao, mương nơi có mực nước khoảng
0,3 – 0,5 m. Nhiệt độ thích hợp cho sự sinh sản của cá 28 – 30
o
C (Nguyễn Văn Kiểm,
2004).
Về kỹ thuật ương nuôi các loại cá trê theo Võ Tòng Xuân và Bùi Lai, 1984 (trích bởi
Danh Thanh Tùng, 2006): Cá sau khi nở ba ngày đầu dinh dưỡng bằng noãn hoàng
đến ngày thứ tư cá bắt đầu dinh dưỡng ngoài, thức ăn tốt nhất giai đoạn này là trứng
nước, sau đó là trùn chỉ, cắt ngắn, mật độ thả 100 cá bột/2 lít nước sẽ sang thưa dần
khi cá lớn. Sau đó 10 – 12 cá đạt kích thước 2 – 3 con ương từ hương lên giống mật
độ 5 con/ lít, theo Võ Tòng Xuân và Bùi Lai, 1984 - trích bởi Danh Thanh Tùng,
2006. Thức ăn phù hợp là trùn chỉ, thức ăn hổn hợp giữa bột cám và cá tạp sau 12 – 15
ngày cá có thể đạt tiêu chuẩn cá giống 4 – 6 con. Với cách ương này nếu thực hiện
trên bể xi măng thì tỷ lệ sống đạt 80 – 90% còn ở ao đất 50 – 60%.
2.2 Tình hình nghiên cứu ương nuôi cá trê trong và ngoài nước
Ở một số nước như : Thái Lan, Philippin, Ấn độ, Đài Loan… nghề nuôi cá Trê đã có
từ lâu đời. Đặc biệt là ở Philippin, Thái Lan, nghề nuôi cá đã được phổ cập đến các gia
đình (Theo Dương Nhựt Long, 2004).
Ở nước ta có nhiều công trình nghiên cứu về các loại cá trê như:
Từ năm 1972 – 1979 Phạm Báu (trích bởi Danh Thanh Tùng, 2006) tiến hành cho sinh
sản và ương nuôi cá trê (Clarias fuscus) và nghiên cứu đặc tính sinh học của loài này.
6
Năm 1982 Viện Nghiên cứu thủy sản II, Trường Đại Học Nông Lâm Thành Phố,
Trường Đại Học Cần Thơ đã sản xuất nhân tạo và nuôi thành công cá trê phi (Clarias
gariepinus).
Năm 1988 Trường Đại Học Cần Thơ đã cho lai tao thành công hai loài cá trê vàng
(Clarias macrocephalus) và cá trê phi (Clarias gariepinus) tạo được con lai F

1
, con lai
thể hiện được đặc tính ưu việt của nó là lớn nhanh, phẩm chất thịt thơm ngon, chịu
đựng được điều kiện khắc nghiệt của môi trường và từ đó phong trào nuôi cá trê được
phát triển nhanh ở các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long (trích bởi Danh Thanh Tùng,
2006).
Theo Nguyễn Thị Nga và csv (2000) đã nghiên cứu và ứng dụng hướng tạo tam bội cá
trê vàng bằng phương pháp sốc nhiệt, kết quả cho thấy tăng trưởng của cá sốc nhiệt
cao hơn cá không sốc nhiệt.
Nguyễn Văn Triều và csv (1999) đã thực hiện thí nghiệm so sánh hiệu quả gây chín và
rụng trứng của DOCA, HCG, LHRHa trên cá trê vàng. Kết quả phân tích cho thấy ở 3
loại kích thích tố đều có thể gây chín và rụng trứng tốt trên cá trê vàng, nhưng dùng
DOCA thì đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Phạm Thành Liêm và csv (2008) đã thực hiện nghiên cứu về khả năng kháng bệnh của
cá trê lai (Clarias macrocephalus x C. gariepinnus) thế hệ F
1
và con lai sau F
1
với vi
khuẩn Aeromonas hydrophila, kết quả cá trê phi có sức chịu đựng cao nhất, tiếp theo
là cá trê lai F
1
và thấp nhất là cá trê vàng. Suy giảm số lượng hồng cầu và gia tăng về
số lượng bạch cầu đặc biệt là bạch cầu đơn nhân và bạch cầu trung tính quan được
trên tất cả các kiểu di truyền.
2.3 Một số nghiên cứu về tăng trưởng bù, phương pháp cho ăn và tăng trưởng
của cá
Tăng trưởng bù trên cá là hiện tượng cá tăng trưởng rất nhanh, xuất hiện sau khi cá
được tái cho ăn sau một thời giai đoạn bị bỏ đói. Kèm theo sự tăng trưởng bù là gia
tăng sự thèm ăn bất thường trên cá. Hiện tượng này được ghi nhận trên nhiều loài cá

như cá hồi, cá chép, cá tuyết… Tăng trưởng bù của cá liên quan đến nhiều yếu tố như
chất lượng nước, sự phân đàn, khẩu phần protein và năng lượng trong suốt thời gian
cho ăn bù (Abdel et. al, 2009). Những loài cá khác nhau có những biểu hiện tăng
trưởng bù khác nhau. Phụ thuộc vào khả năng phục hồi của cá, sự tăng trưởng bù có
thể được chia thành 3 loại:
Bù vượt (0ver – compensation), cá sau khi bị bỏ đói và cho ăn lại, có tốc độ tăng
trưởng và trọng lượng cao hơn so với những cá được cho ăn liên tục (Hayward et. al,
1997).
7
Bù hoàn toàn (Complete compensation), sau khi bị bỏ đói và cho ăn bù, cá phục hồi
tốc độ tăng trưởng và đạt cùng trọng lượng so với cá được cho ăn liên tục (Jobing et.
al, 1999 ; Kim et. al, 1995; Nicieza et. al, 1997).
Bù một phần (Partial compensation), sau khi bị bỏ đói và cho ăn bù, cá có những
biểu hiện tăng trưởng nhanh hơn song lại không đạt kích cỡ bằng với những cá được
cho ăn liên tục (Weatherley et. al, 1987; Paul et. al, 1995), (trích bởi Nguyễn Thanh
Tâm và csv, 2009).
Trong đó tăng trưởng bù hoàn toàn đã được ghi nhận trong một vài nghiên cứu gần
đây trên một số loài cá như cá hồi (Rainbow trout, Salmo gairdnieri), gibel carp, Rain
bow trout Oncorhynchus mykiss, Oncor - hynchus nerka, cá chẽm (Lates calcarifer)
(Tian et. al, 2003).
Đối với tăng trưởng bù một phần lại được ghi nhận trên các loài như cá rô phi
Mozambique Oreochromic mosambicus nuôi trong nước ngọt (Christensesn et. al,
1998), cá rô phi lai giữa O. mossambicus X O. nilotocus nuôi nước mặn (Wang et. al,
2005), cá tráp gilthead sea bream (Eroldogan et. al, 2008).
Tuy nhiên thời gian ngừng ăn để mang lại hiệu quả tăng trưởng bù thì khác nhau giữa
các loài cá. Như đối với cá Atlantic cod Gadusmorhua thì thời gian ngừng ăn ít hơn 3
tuần không đủ để khiến tạo bất kỳ hiện tượng tăng trưởng bù nào rõ rệt (Jobling et. al,
1999). Theo Tian và Qin (2003) thì những dấu hiệu tăng trưởng bù rõ rệt trên cá chẽm
(Lates calcarifer) chỉ sau một tuần ngừng cho ăn và sau khi cá được ăn lại nó bắt kịp
trọng lượng cơ thể của những cá không bị bỏ đói nhưng chỉ tăng trưởng bù một phần.

Theo Nguyễn Thanh Tâm và csv (2009) thì mức độ tăng trưởng bù của cá rô phi vằn
(Oreochromis niloticus, Linnaeus, 1785) phụ thuộc vào khoảng thời gian bị bỏ đói. Cá
tăng trưởng bù vượt với thời gian bỏ đói và cho ăn cách nhau một ngày, tăng trưởng
bù hoàn toàn với thời gian bỏ đói trung bình (với 2, 3, 4 ngày) và tăng trưởng bù một
phần với thời gian bỏ đói lâu nhất (5 ngày).
Theo Wootton, 2003 (trích dẫn bởi Lê Thị Tiểu Mi, 2009), khi cho cá ăn gián đoạn thì
tốc độ tăng trưởng của cá sẽ có 4 khả năng xảy ra. Một là tăng trưởng của cá có thể
phục hồi lại đầy đủ như tăng trưởng bình thường. Hai là tăng trưởng của cá có thể tăng
trưởng nhanh hơn tăng trưởng lúc đầu. Ba là tăng trưởng của cá chỉ phục hồi tăng
trưởng một phần so với tăng trưởng lúc đầu. Và cuối cùng là cá không có khả năng
phục hồi tăng trưởng khi cho ăn gián đoạn.
Còn theo Amin et. al (2005) thì trọng lượng mất đi trong khoảng thời gian gián đoạn
đó sẽ tăng cân trở lại hay có khả năng phục hồi tăng trưởng sau khi bị giới hạn nguồn
thức ăn ăn vào.
8
Nghiên cứu về cho cá ăn gián đoạn trên bể được thực hiện bởi Chatakondi et. al
(2001) với cá nheo Mỹ (I. punctatus) giai đoạn giống, cá được cho ăn hằng ngày (đối
chứng) theo nhu cầu và so sánh tăng trưởng với với cá được cho ăn gián đoạn 1, 2 và
3 ngày sau đó cho ăn trở lại thì tiêu thụ thức ăn cao hơn cá được cho ăn hằng ngày.
Sau 10 tuần thí nghiệm, nhịp độ tăng trưởng trung bình của cá ở các nghiệm thức cho
ăn gián đoạn 1, 2 và là 40%, 180% và 191%, cao hơn cá trong nghiệm thức đối chứng.
Hơn nữa khối lượng cuối của cá cho ăn gián đoạn 3 ngày cao hơn so với các nghiệm
thức khác và các nghiệm thức có hiệu quả sử dụng thức ăn cao hơn nghiệm thức đối
chứng. Như vậy, thí nghiệm cho cá ăn gián đoạn trong ao làm gia tăng sản lượng, hiệu
quả sử dụng thức ăn tăng thì người nuôi cá có thể giảm chi phí thức ăn và những vấn
đề về chất lượng nước.
Singh et. al (2005) thí nghiệm trong 8 tuần trên cá chép Ấn Độ (Cirrhinus mrigala) ở
giai đoạn giống, so sánh tăng trưởng và thành phần cơ thể của cá giữa các chế độ cho
ăn: cá được cho ăn hằng ngày (2 lần) và cá cho ăn gián đoạn 1, 2 hoặc 4 tuần sau đó
được cho ăn trở lại theo nhu cầu của cá. Kết quả cho thấy, cá cho ăn gián đoạn 2 tuần

có trọng lượng cơ thể cao hơn và FCR thấp hơn cá được cho ăn hằng ngày. Các thành
phần chất đạm, chất béo, tro, độ ẩm sau khi kết thúc thí nghiệm không có sự khác
nhau giữa các chế độ cho ăn (trừ thành phần chất đạm trong cá cho ăn gián đoạn 4
tuần thì thấp hơn).
Kim et. al (1995), khi nghiên cứu trên cá nheo Mỹ (I. punctatus) thì khi không cho cá
ăn 0, 3, 6, 9 tuần sau đó tiếp tục cho cá ăn trở lại hằng ngày theo nhu cầu thì sau 18
tuần thí nghiệm, cá ở nghiệm thức không cho ăn 3 tuần cho kết quả khối lượng như cá
ở nghiệm thức được cho ăn hằng ngày và tăng trưởng cao hơn các nghiệm thức còn
lại.
Thí nghiệm của Amin et. al (2005) kéo dài 18 tuần được thực hiện trên cá tra
(pangasius hypophthalmus). So sánh tăng trưởng, nhu cầu thức ăn hằng ngày, hệ số
thức ăn của cá được cho ăn hằng ngày theo nhu cầu với nhóm cá được cho ăn gián
đoạn theo chu kì: 1 ngày cho ăn : 1 ngày không cho ăn, 2 ngày cho ăn : 2 ngày không
cho ăn, 5 ngày cho ăn : 5 ngày không cho ăn. Kết quả cho thấy trọng lượng cơ thể, tốc
độ tăng trưởng của cá cho ăn ở chế độ cho ăn 1 ngày cho ăn : 1 ngày không cho ăn
không có khác biệt so với cá được cho ăn hằng ngày và lớn hơn các chế độ cho ăn còn
lại trong thí nghiệm. Hơn nữa cá được cho ăn hằng ngày có FCR lớn nhất. Từ kết quả
thí nghiệm cho thấy nuôi cá tra có thể giảm được chi phí thức ăn với chế độ cho ăn 1
ngày cho : 1 ngày không cho ăn nhưng vẫn đảm bảo tăng trưởng, hạn chế ô nhiễm môi
trường.
Ali et. al (2006) thí nghiệm trên cá (Labeo rohita) giống trong thời gian 90 ngày với
chế độ cho ăn như sau: cho ăn hằng ngày (1 lần/1 ngày, với 3% trong lượng thân); 5
9
ngày cho ăn : 5 ngày không cho ăn; 10 ngày cho ăn : 10 ngày không cho ăn . Kết quả
cho thấy không có sự khác biệt về thành phần hóa học của cơ thể cá giữa các chế độ
cho ăn khác nhau. Nghiên cứu này khẳng định có sự phục hồi tăng trưởng ở cá Labeo
rohita.







10
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Vật liệu nghiên cứu
3.1.1 Thời gian và địa điểm
Đề tài được thực hiện từ tháng 04/2010 đến tháng 06/2010, tại nhà thầy Kiểm.
3.1.2 Đối tượng nghiên cứu
Cá trê vàng (Clarias macrocephalus)
3.1.3 Nguồn cá
Cá bố mẹ được mua từ chợ và tự cho cá sinh sản nhân tạo.
3.1.4 Dụng cụ và trang thiết bị
Hệ thống bể ương.
12 bể ương (thùng xốp) để ương cá bột lên cá giống, diện tích (35 cm X 24 cm)/bể
(V = 20 lít nước)
Trang thiết bị khác.
Nhiệt kế dùng để đo nhiệt độ hàng ngày.
Dùng bộ test môi trường để kiểm tra môi trường ương nuôi.
Dùng cân kỹ thuật, thước kẻ để kiểm tra trọng lượng và chiều dài cá.
Vợt thu cá.
3.2 Phương pháp nghiên cứu
3.2.1 Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được tiến hành trong bể với thời gian là 45 ngày tuổi. Trước khi bố trí thí
nghiệm cá được bỏ đói một ngày. Tiến hành lựa chọn 240 con cá từ 1000 con cá đang
ương được 10 ngày tuổi, đồng cỡ, không bị dị tật, không có dấu hiệu bệnh, thí nghiệm
được bố trí ngẫu nhiên với 4 nghiệm thức và 3 lần lập lại. Mật độ 20 con cá/bể. Khối
lượng và chiều dài trung bình lần lượt là 0,009 g/con và 0,75 cm/con.
11


Hình 3.1 Hệ thống thí nghiệm.
Nghiệm thức1 : Bỏ đói 1 ngày và cho ăn thỏa mãn 1 ngày bằng thức ăn hoàn toàn là
trùn chỉ (Turbifex) 2 lần/ngày, lúc 7h và 16h.
Nghiệm thức 2: Bỏ đói 2 ngày và cho ăn thỏa mãn 2 ngày bằng thức ăn hoàn toàn là
trùn chỉ (Turbifex) 2 lần/ngày, lúc 7h và 16h.
Nghiệm thức 3: Bỏ đói 3 ngày và cho ăn thỏa mãn 3 ngày bằng thức ăn hoàn toàn là
trùn chỉ (Turbifex) 2 lần/ngày, lúc 7h và 16h.
Đối chứng (ĐC) : Cá được cho ăn mỗi ngày thức ăn hoàn toàn là trùn chỉ (Turbifex)
2 lần/ngày, lúc 7h và 16h.
3.2.2 Các chỉ tiêu theo dõi.
Kiểm tra tăng trưởng về chiều dài và trọng lượng.
Định kỳ 10 ngày/lần bất ngẫu nhiên 5 con/bể để kiểm tra tăng trưởng chiều dài và
trọng lượng bằng cách cân đo trực tiếp bằng cân kỹ thuật và thước kẻ, sau đó thả trở
lại.
Hình 3.2 Phương pháp cân trực tiếp

Hình 3.3 Phương pháp đo trực tiếp

12
Các biểu thức toán học theo Phạm Thành Liêm và Trần Đắc Định (2004)
DWG (g/ngày)
1
2
12
T
T
YY



=
(3.1)
Trong đó: Y1 và Y2 là kích thước (chiều dài hoặc trọng lượng) đo đạt tại các thời
điểm T1

và T2
DWG : Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối (g/ngày)
Tỷ lệ sống (SR)
SR (%) = (số cá sống sót/số cá bột thả) x 100 (3.2)
3.3 Theo dõi các yếu tố môi trường
Nhiệt độ : Đo bằng nhiệt kế (đo 2 lần/ngày, vào buổi sáng và buổi chiều).
pH : đo bằng bộ test pH (đo 2 lần/ngày, vào buổi sáng và buổi chiều).
Oxy :đo bằng bộ test oxy (đo 2 lần/ngày, vào buổi sáng và buổi chiều).
TAN: đo bằng bộ test TAN (đo trước khi thay nước định kỳ 2 ngày/lần).
NO
2
-
: đo bằng bộ test NO
2
-
(đo trước khi thay nước định kỳ 2 ngày/lần).

Hình 3.4 Dụng cụ test môi trường
3.4 Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu trung bình, độ lệch chuẩn sử dụng phần mềm Excel 2003 và xử lý thống
kê bằng SPSS 13.0.
13
CHƯƠNG 4
KẾT QUẢ THẢO LUẬN
4.1 Các yếu tố thủy hóa trong môi trường nước

Các yếu tố môi trường đóng vai trò quan trọng có thể gây ảnh hưởng đến kết quả thí
nghiệm. Bởi đây là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động sinh lý,
sinh trưởng, dinh dưỡng của tôm cá. Thí nghiệm được bố trí ngoài trời trên có mái che
(lưới che lan), cùng một điều kiện và địa điểm như nhau. Như vậy có thể coi các yếu
tố oxy, nhiệt độ, pH của môi trường nước tác động đồng thời lên các nghiệm thức.
Nhắc đến nước thì ta nghĩ ngay đây là môi trường sống duy nhất của cá, nên mọi sự
biến động thủy lý hóa trong nước đều cá ảnh hưởng đến đời sống của cá. Vì cá là động
vật biến nhiệt nên các quá trình sinh trưởng, sinh sản phát triển đều gắn liền và phụ
thuộc vào môi trường sống của nó. Nếu môi trường sống thuận lợi thì cá sinh trưởng,
phát triển tốt và ngược lại. Kết quả khảo sát các yếu tố môi trường được trình bày ở
bảng 4.1.
Bảng 4.1 Biến động của nhiệt độ, Oxy và pH trong quá trình thí nghiệm
Nhiệt độ (
o
C) Oxy (mg/l) pH
NT
S C S C S C
NT1
26,2 ±1 28,1±5,1 2,4±0,76 2,9±0,8 7,6±0,3 7,6±0,3
NT2
26,2 ±1 28±5 2,4±0,84 2,9±0,8 7,7±0,36 7,7±0,36
NT3
26±0,99 28±5 2,5±0,8 2,9±0,78 7,7±0,34 7,7±0,34
ĐC
26,1±0,86 28,2±5,1 2±0,98 2,6±0,97 7,6±0,38 7,6±0,38
Ghi chú: Tất các số liệu được trình bày dạng số trung bình ± độ lệch chuẩn

4.1.1 Nhiệt độ
Nhiệt độ là yếu tố quan trọng trong môi trường ao nuôi, nhiệt độ trong nước được
cung cấp chủ yếu từ năng lượng ánh sáng mặt trời hoặc do quá trình oxy hóa các hợp

chất hữu cơ, vô cơ trong thủy vực tạo nên. Nhưng do thí nghiệm được bố trí trong
thùng xốp nhỏ (S = 0,08m
2
) nên lượng nhiệt do quá trình oxy hóa các hợp chất hữu
cơ, vô cơ trong thủy vực tạo nên không đáng kể. Vì vậy nhiệt độ cung cấp cho thí
nghiệm chủ yếu là do năng lượng ánh sáng mặt trời.
Từ Bảng 4.1 trên cho thấy nhiệt độ trung bình giữa các nghiệm thức khoảng
26,1±0,86
o
C vào buổi sáng và
28,1±5,1
o
C

vào buổi chiều. Theo Nguyễn văn Bé, 1987
14
– trích dẫn bởi Nguyễn Kim Thùy, 2008, cho rằng nhiệt độ thích hợp cho các loại cá
nuôi dao động khoảng 20 – 30
o
C, nhưng giới hạn cho phép là 10 – 40
o
C
Như vậy với khoảng nhiệt độ trung bình 26,1 – 28,1
o
C vẫn nằm trong khoảng thích
hợp cho sự tăng trưởng của cá.
4.1.2 Ôxy hòa tan
Ôxy là yếu tố quan trọng bậc nhất không thể thiếu được đối với tất cả các loài động
vật nói chung và cá nói riêng. Hàm lượng ôxy hòa tan trong môi trường nước ảnh
hưởng rất lớn đến đời sống của cá. Ôxy cung cấp cho môi trường nước chủ yếu từ sự

khuếch tán từ không khí vào nước và từ quá trình quang hợp của thủy sinh vật trong
môi trường nuôi. Theo Swingle (1969) cho rằng hàm lượng ôxy hòa tan thích hợp cho
ao nuôi cá là 6 – 8 mg/l (trích bởi Trần Bình Tuyên, 2000).
Kết quả nghiên cứu đã ghi nhận rằng hàm lượng ôxy trung bình giữa sáng và chiều
trong khoảng
2,4±0,84 - 2,9±0,8
mg/l thấp hơn khoảng thích hợp đối cá nuôi. Theo
Trương Quốc Phú (2004) thì hàm lượng ôxy tốt nhất cho ao nuôi tôm cá khoảng 3 – 4
mg/l vào buổi sáng sớm.
Tuy nhiên cá trê vàng là loài có cơ quan hô hấp khí trời là “hoa khế” chính vì vậy mà
cá trê có thể sống tốt được ở cả nơi cá hàm lượng ôxy thấp có thể dưới 1 mg/l (Đoàn
Khắc Độ, 2008). Liên hệ với kết quả thí nghiệm thì hàm lượng ôxy cao nhất là 3,5 – 4
mg/l (lúc mới thay nước) và thấp nhất là 0,5 – 1 mg/l (chưa thay nước) với khoảng
trung bình là từ 2,4 – 2,9 mg/l trong ngày thì cá trê vàng vẫn sinh trưởng và phát triển
tốt.
4.1.3 pH
pH là yếu tố môi trường hết sức quan trọng, mọi sự biến động của nó đều gây ảnh
hưởng lớn đến đời sống của thủy sinh vật.
Từ kết quả khảo sát cho thấy pH trung bình trong khoảng 7,6±0,3 vào buổi sáng và
7,7±0,36 vào buổi chiều (Bảng 4.1). Theo Swingle (1960) cho rằng pH thích hợp để
nuôi cá là từ 6 – 9, thích hợp nhất là 7 (trích bởi Trần Bình Tuyên, 2000). Còn theo
Trương Quốc Phú (2000) thì pH trong khoảng 6,5 – 9 là lý tưởng cho tôm, cá phát
triển. Liên hệ với kết quả thí nghiệm cho thấy pH thấp nhất là 7 và cao nhất là 8,8 dao
động trung bình trong ngày là khoảng 7,6 – 7,7 là thích hợp cho sự phát triển của cá.
Ngoài các yếu tố môi trường Oxy, pH, nhiệt độ nước được theo dõi mỗi ngày hai
buổi: sáng, chiều thì Nitrite (NO
2
-
) và Amoni – Amoniac (TAN) được đo và ghi nhận
trước lúc thay nước các nghiệm thức.

NO
2
-
, TAN là hai trong số những hợp chất của Nitơ tồn tại trong môi trường nước,
chúng được tạo thành do quá trình trao đổi chất và thừa thức ăn. Đây là hai chất độc
15
đối với thủy sản, mức độc hại của hai hợp chất Nitơ kể trên phát huy ngay cả ở mức
nồng độ thấp. Biến động của NO
2
-
, TAN trong thời gian tiến hành thí nghiệm được
trình bày ở bảng sau.
3.1 Các yếu tốt môi trường
Bảng 4.2 Biến động Nitrite và TAN trong quá trình thí nghiệm.
Ghi chú:Tất các số liệu được trình bày dạng số trung bình ± độ lệch chuẩn

4.1.4 Nitrite (NO
2
-
)
Trong thủy vực Nitrite được hình thành từ quá trình ôxy hóa amonia và amonium nhờ
hoạt động của nhóm vi khuẩn hóa tổng hợp nitrosomonas, quá trình này còn gọi là quá
trình nitrate hóa. Trong thủy vực hàm lượng nitrite cao sẽ gây độc cho cá và gây hiện
tượng máu cá có màu nâu “bệnh máu nâu”. Tuy nhiên độ độc của nó còn phụ thuộc
vào tỷ lệ nitrite/choloride trong môi trường nước (Schowedle et. al, 1980 - trích dẫn
bởi Trần Quang Nhị, 2009). Theo Trương Quốc Phú (2004) khoảng thích hợp của
nitrite trong môi trường nước là 0,1 mg/l. Nhưng theo Tomaso, 1981 hàm lượng NO
2
-


cho phép trong các ao nuôi cá dao động từ 0,01 – 1,7 ppm (trích dẫn bởi Trần Quang
Nhị, 2009). Theo Nguyễn Đình Trung (2004), nitrite là một trong những chất đạm rất
độc đối với tôm cá, tính độc của nitrite khác nhau giữa môi trường nước ngọt nước lợ,
trong môi trường nước ngọt tính độc của nitrite gấp 55 lần so với môi trường nước có
độ mặn 16‰.
Kết quả thí nghiệm thấy hàm lượng nitrite dao động trong khoảng 0,07– 0,2 mg/l.
Nghiệm thức đối chứng cá được cho ăn thỏa mãn bằng trùn chỉ thì hàm lượng nitrite
cao 0,2 mg/l, còn các nghiệm thức bỏ đói 2, 3 ngày thì lượng nitrite thấp 0,07 mg/l.
Riêng nghiệm thức 1 bỏ đói một ngày và cho cá ăn 1 ngày thì hàm lượng nitrite là
0,17 mg/l.
Nghiệm thức bỏ đói 1 ngày và đối chứng có hàm lượng NO
2
-
cao hơn là do lượng chất
thải của cá nhiều hơn so với nghiệm thức bỏ đói dài ngày hơn. Mặc dù hàm lượng
NT NO
2
-
(mg/l) TAN (mg/l)
NT1
0,17±0,24 0,93±1
NT2
0,07±0,18 0,87±0,99
NT3
0,07±0,18 0,8±1
Đối chứng
0,2±0,25 2,3±2
16
NO
2

-
có tồn tại trong nước nhưng cá vẫn phát triển bình thường, điều đó cho thấy hàm
lượng NO
2
-
trong nước không tác động xấu tới cá thí nghiệm.
0
0.05
0.1
0.15
0.2
0.25
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15
Số lần thay nước
NO2- (mg/l)
NT1
NT2
NT3
ĐC

Hình 4.1 Biến động của NO
2
-
trong môi trường nước
4.1.5 TAN (NH
3
/NH
4
+
)

Trong môi trường nước Amomonia được sinh ra từ quá trình phân hủy protein trong
vật chất hữu cơ và chất thải của tôm cá nhờ các vi sinh vật. Amomonia tồn tại hai
dạng, ở dạng khí Amoniac (NH
3
) và dạng tích điện dương Amoni (NH
4
+
). Trong
những ao nuôi thủy sản thâm canh thì Amoni (NH
4
+
) thường có mặt với nồng độ khá
cao gây độc tính đối với tôm cá, tuy nhiên trong môi trường nước thì NH
4
+
lại ít độc
hơn NH
3
.
Theo Trương Quốc Phú (2006), nồng độ gây chết NH
3
là từ 0,5 – 1 mg/l, còn NH
4
+
thì
rất cần thiết cho các sinh vật làm thức ăn tự nhiên, nhưng nếu hàm lượng NH
4
+
quá
cao sẽ làm cho thực vật phù du phát triển quá mức không có lợi cho cá, gây thiếu

oxy vào sáng sớm và pH dao động lớn. Hàm lượng NH
4
+
thích hợp cho ao nuôi thủy
sản là 0,1 – 2 mg/l (Nguyễn Đình Trung, 1990 - Trích dẫn bởi Trần Quang Nhị,
2009). Theo Lê Văn Cát và csv (2006) thì liều lượng gây chết của NH
3
/NH
4
+
(ở 48h –
96h) LC 50 đối với tôm, cá nằm trong khoảng 0,2 – 0,3 mg/l tùy thuộc vào loài, độ
tuổi và trạng thái hoạt động của cá.
Kết quả ở Bảng 4.2 cho thấy hàm lượng TAN rất cao dao động trong khoảng 0,8 – 2,3
mg/l. Ở nghiệm thức đối chứng (cá ăn trùn chỉ), có hàm lượng TAN cao hơn nhiều
nghiệm thức còn lại. Tuy nhiên hàm lượng TAN cao vẫn không ảnh hưởng đến sự
phát triển của cá, đó là do chế độ thay nước thường xuyên (2 lần/ngày).

×