Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

TƯ TƯỞNG của NGUYỄN dữ QUA HÌNH TƯỢNG NHO sĩ TRONG TRUYỀN kỳ mạn lục NGUYỄN HÙNG vĩ SP NGỮ văn k38

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.49 KB, 12 trang )

TƯ TƯỞNG CỦA NGUYỄN DỮ QUA HÌNH TƯỢNG NHO SĨ TRONG
TRUYỀN KỲ MẠN LỤC
(Nguyễn Hùng Vĩ – Lớp Sư phạm Ngữ văn K38)

Nguyễn Dữ là người thuộc dòng dõi khoa hoạn, từng ơm ấp lý tưởng hành
đạo. Ơng từ đi thi Hương, đậu Hương tiến (cử nhân), sau thi Hội, trúng Tam trường
và có ra làm tri huyện Thanh Tồn (nay là huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc). Được
một năm, sau vì bất mãn với thời cuộc, cáo quan về ẩn cư ở núi rừng Thanh Hóa
lấy lý do phải phụng dưỡng mẹ già cho trịn đạo hiếu, từ đó “trải mấy mươi sương,
chân không bước đến thị thành”. Sống vào một triều đại suy loạn, kỷ cương đổ nát,
phong hóa suy đồi, Nguyễn Dữ đã kịch liệt đả kích những cái xấu, đề cao đạo đức,
công lý, dụng ý của tác giả là răn đe người xấu, khích lệ người tốt. Do đó, hình
tượng nhân vật nho sĩ mang nội dung giáo dục sâu sắc.
1.

Tư tưởng xây dựng một xã hội lý tưởng của Nguyễn Dữ qua hìnhh

tượng nho sĩ là nhân vật chính diện.
Trong “Truyền kỳ mạn lục” nhân vật nho sĩ chính diện khơng mang đặc
điểm của người anh hùng ôm ấp lý tưởng, lưu danh sử sách mà là những con người
đời thường, con người gần gũi. Hình tượng nho sĩ là nhân vật chính diện mang
phẩm chất của nhà nho chính thống, lấy giá trị đạo đức làm thước đo của con
người. Họ không màng vật chất, không ham lợi danh. Họ là những người theo học
sách Thánh hiền có thể ra làm quan hoặc khơng làm quan nhưng đều là những con
người vì dân, vì nước đứng ra đấu tranh từ gian ác, đem lại cuộc sống bình an cho
nhân dân… Ấy là những phẩm chất đẹp đẽ của nhà nho chân chính mà các nhà văn
thế kỷ trước cịn ít miêu tả. Đó cũng là mong muốn, lý tưởng cao đẹp của Nguyễn
Dữ ước mơ một xã hội lý tưởng “vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn”, “vua
sáng tôi hiền” trăm dân hạnh phúc, bình an. Đó cịn là vấn đề nhân văn cao cả đặt



ra cho thời đạo của ông và mai sau nên “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ xứng
đáng đặt ở vị trí áng văn mn đời.
Hồ Tơn Thốc trong “Câu chuyện ở đền Hạng Vương” là một vị quan Thừa
chỉ cuối đời trần phụng lệnh sang Trung Quốc đi sứ. Tác giả miêu tả đảm phí của
một sứ thần Đại Việt trên đất nước người, đi qua đền Hạng Vương làm thơ giễu
cợt. Câu chuyện được miêu tả bằng giấc mộng, nhân vật Hồ Tơn Thốc đã bày tỏ
tính cách thẳng thắn, cứng cỏi phê phán chính sách bạo lực của Hạng Vũ, nhưng
cũng vạch trần thủ đoạn xảo trá của Lưu Bang. “Sở đã đành trái với nhân nghĩa
nhưng Hán chỉ giống với nhân nghĩa. Họ Hạng nước Sở không được là hạng bá
giả mà vua Cao Tổ nhà Hán cũng là tạp nhạp”[1,18-19]. Và “so sở với Hán thì
Hán hơn, nhưng sánh Hán với bậc vương giả thì Hán còn xa lắm”[1,18]… Đánh
giá Lưu Bang và Hạng Vũ như vậy quả là táo bạo, trái hẳn với lời tán tụng sứ giả
Tư Mã Thiên.
Văn Tư Lập trong “Chuyện cái chùa hoang ở Đông Trào” đến tri huyện
Đông Trào thấy cảnh chùa chiềng hoang tàn, đổ nát đã lo lắng “dóng dả dân binh
các xã đánh tranh kên nứa và sửa chữa lại”[1,182]. Thấy dân quanh huyện khổ vì
nạn trộm cắp của bọn gian tà, những bọn đội lốt nhà Phật hồnh hành, Văn Tư Lập
tự thấy đó là trách nhiệm của mình. “Ta ở vào địa vị một viên ấp tể, khơng có cái
minh để xét ra kẻ gian, cái cứng để chế phục kẻ, vì nhân nhu mà hỏng việc, chính
là cái lỗi ở ta”[1,182]. Ơng đã đứng ra cùng nhân dân trừ gian, cắt cử cho các thơn
đêm ngày canh phịng cẩn mật, đi mời thầy phù thủy cao tay, xin bùa yểm chân đốt
hương lễ bái chùa chiền… Cuối cùng vạch ra mặt thật của kẻ gian đứng sau nhà
Phật để cướp bóc nhân dân. Văn Tư Lập là một ơng quan liêm chính vì dân vì
nước, ln có trách nhiệm trước cuộc sống nhân dân, đưa lại quyền sống, hạnh
phúc, bình an cho dân.
Những nhà nho chính nghĩa ln lo lắng đến số phận của cuộc sống nhân
dân. “Chuyện tướng dạ xoa” cho thấy cảnh tượng thê thảm của nhân dân “sống
chẳng gặp thời, chết khơng phải số. Đói khơng có thứ gì cấp dưỡng, lui khơng có



chỗ nào tựa nương. Trong gò xương trắng rầu sĩ cỏ rêu, trên đống cát vàng lạnh
lùng sương gió”[1,271-272]. Cho nên có tình trạng “chết chóc nhiều, những oan
hồn khơng chỗ tựa nương thường họp lại thành từng đàn lũ ”[1,270]. Trước nạn
ma quỷ “hồnh hành ở đồng nội khơng biết kiêng sợ gì cả”[1,270] Văn Dĩ
Thành khơng chịu để ma quỷ mê hoặc. Phàm những hoa yêu nguyệt quái, và
dâm thần lệ quỷ không được liệt vào từ điển, chàng đều coi thường khơng sợ
hãi gì. Văn Dĩ thành là một ơng quan vì dân, ln đặt chính nghĩa lên trên tất
cả. Ơng ln được dân tin u, kính phục, làm quan rất uy nghiêm, đề ra những
việc đúng đắn nghiêm khắc: “...không được coi khinh mệnh lệnh, không được quen
thói dâm ơ, khơng được quấy quắc để làm hại mạng của dân, khơng cướp bóc và
phải cứu nạn cho dân, ban ngày khơng được giả hình, ban đêm khơng được
kết đảng. Nghe lệnh ta thì ta làm tướng các ngời, trái lệnh ta thì ta trị tội các ngời
”[1,273].
Đây là lời răn lũ quỷ cũng là lời răn những kẻ quyền hành,
lộng hành cướp bóc nhân dân. Lời răn cho những quan lại phải
có trách nhiệm với dân với nước. Đó cũng là lời tố cáo với kẻ
cường hào, ác bá quan lại lộng quyền hà hiếp dân lành. Văn Dĩ
Thành ln lấy dân làm gốc đặt chính nghiã nhân nghĩa lên trên
nên làm việc gì cũng thành công và được ủng hộ. Bởi vậy, công
việc của Văn Dĩ Thành ngày càng tốt đẹp, oai vọng lẫy lừng,
được tiến cử vào chức quan lớn là Tướng Dạ Xoa. Qua
hình tượng Văn Dĩ Thành, Nguyễn Dữ muốn nói những ngời
giữ quyền bính đứng trên mn dân nếu chính trực, cơng bằng,
lấy nhân nghĩa, chính nghĩa làm đầu chắc chắn sẽđược lòng dân,
được dân tin tưởng ủng hộ, làm việc gì cũng thành cơng. Xã hội
có nhiều ơng quan lo cho dân cho nước như thế sẽ ln thái bình
thịnh trị. Đó cũng là lý tưởng của Nguyễn Dữ muốn xây dựng


một xã hội lý tưởng, vua sáng tôi hiền, vua Nghiêu Thuấn dân

Nghiêu Thuấn. Đó là vấn đề mang tính thời đại, mang giá trị
nhân văn cao cả.
Đến “Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên” phẩm chất người nho sĩ chính
diện Ngơ Tử Văn được Nguyễn Dữ giới thiệu là khảng khái, cương phương “thấy
sự gian tà thì khơng thể chịu được ”[1,115]. Tức giận vì hồn ma của một tướng
giặc ẩn náu trong toà đền làm yêu làm quái đánh đuổi một vị Thổ thần để chiếm
phần hương lửa, rồi bức hại cả dân lành. Tử Văn đã dũng cảm châm lửa đốt đền,
bất chấp cả cái chết có thể đến với mình để chống lại tà gian trị tên ác quỷ ấy. Đây
là một chi tiết tiêu biểu, độc đáo, điển hình, thể hiện phẩm chất nổi bật khí tiết,
cứng cỏi, thẳng thắn, tự tin, ngoan cường khơng biết sợ hãi gì trớc thần quyền gian
ác trái ngang. Tính cách ấy cịn thể hiện ở việc dưới âm phủ chàng kiên quyết
chống chọi với yêu quỷ làm sao cho chính nghĩa phải thắng gian tà, người tốt được
đền bù xứng đáng, kẻ xấu bị trừng trị đích đáng. Sau đó chàng cùng Thổ thần vạch
được mặt giả mạo đội lốt đền chùa mà hại dân lành của tên tướng giặc bại trận Bắc
triều cho Diêm Vương trị tội, trả lại miếu cho Thổ thần và Tử Văn không bệnh mà
chết được lĩnh chức Phán sự đền Tản Viên. Qua “Chuyện chức Phán sự đền Tản
Viên” Nguyễn Dữ đã ca ngợi phẩm chất đẹp đẽ của Ngơ Tử Văn.
Đó là nét tính cách cương trực, lịng nghĩa khí, khí phách táo bạo,
tựtin, khơng sợ gian tà, bằng sự chính nghĩa mà đem lại quyền lợi cho dân. Nguyễn
Dữ khẳng định chính nghĩa thắng gian tà, thiện thắng ác. Ngơ TửVăn đại diện cho
cơng lý đó là mong muốn của dân cũng là lý tưởng thẩm mỹ và tư tưởng nhân đạo
sâu sắc của Nguyễn Dữ.
Đứng trước tình hình xã hội phong kiến thế kỷ XVI đang đi
vào rạn nứt bắt đầu suy thối nhân dân lâm vào cảnh đói khổ,
lầm than, xã hội đầy rẫy những sự bất công nên qua những nhân
vật chính diện trên Nguyễn Dữ mong muốn có những ơng quan


thanh liêm, chính trực vì dân vì nước đểđứng ra bảo vệ cuộc sống
cho nhân dân và lo cho vận mệnh đất nước. Trong bước suy thoái

của chế độ phong kiến, trước những thăng trầm khôn lờng của
một xã hội hỗn loạn, kinh truyện Nho gia không đủ giúp Nguyễn
Dữgiảiđáp những vấn đề đặt ra trong cuộc sống. Ơng tìm cách
giải đáp những vấnđề đó và một phần đã tìm thấy được ở những
tưtưởng của Đạo giáo, Phật giáo. Dương Thiên Tích trong
“Chuyện gã trà đồng giáng sinh”chất vấn một đạo nhân: “Tôi
nghe đạo trời công minh như cái cân cái gương, có thần minh để
gây dấu vết, có tạo hố để giữ cơng bằng gương tất soi suốt mà
khơng riêng, lới tuy tha thướt mà không lọt. Phép thuật chí
nghiêm mà chí mật, người nên khơng ốn cũng khơng hờn. Cớ
sao những sự khuyên răn lại thấy lắm điều lộn xộn. Làm sự
lợi vật, chưa nghe thấy được phúc, làm sự hại dân, chưa nghe
thấy mắc nàn. Kẻ nghèo có chí cũng thành khơng, người có
muốn gì cũng khơng được nấy. Có ngời chăm học mà suốt đời
khơng đỗ, có nhà xa hoa mà luỹ thế vẫn giàu. Ai bảo rằng trao
quỳnh giả mận, thế mà vẫn trồng dưa được đậu. Đó là những sự
mà tơi rất nghi ngờ không hiểu ”[1,55-56].
Đạo nhân trả lời: “Thiện ác tuy nhỏ cũng rõ rệt, báo ứng dù chậm nhưng lớn
lao. Âm công khi rõ ràng ra, phải đợi quả thiện được tròn trặn, dương
phúc khi tiêu tan mất, phải chờ mầm ác đã cao dài. Có khi sắp duỗi mà tạm co,
có khi muốn đè mà thử nống. Có hạnh mà nghèo, hoặc bởi tội khiên kiếp
trước bất nhân mà khá, hoặc bởi phúc thiện đời xa. Tuy rằng khó biết sâu xa,
nhưng thực khơng sai tơ tóc. Cho nên khơng nên lập luận một bề mà xem trời một
mặt”[1,56]. Đoạn văn đối đáp trên đây đã phản ánh mộtsự thực: để lý giải những
vấn đề của cuộc sống trong lúc trật tự đảo điên, cương thường đổ nát, thì nhà


văn Nguyễn Dữ đã phải mượn đến những quan niệm nghiệp dun quả báo,
hoạ phúc của Phật giáo... Chính vì vậy mà Nguyễn Dữ xây dựng những ơng quan
có phẩm chất đẹp đẽ như Dương Đức Cơng, Dương Thiên Tích là những ơng

quan thanh liêm chính trực, cơng bằng và nhân hậu trong “Chuyện gã trà đồng
giáng sinh”. Dương Đức Cơng làm quan coi việc hình án trấn Tun Quang “Xét
rõ mọi điều oan khuất khiến các vụ án đều được công bằng”[1,47]ưlại là một vị
quan nhân từ phúc hậu nên được mọi người gọi là Đức Cơng. Vì là ông quan liêm
chính, công bằng, nhân nghĩa, tốt bụng nên đợc sống thêm hai kỷ nữa và được
Thượng đế ban cho một ngời con trai tốt là Dương Thiên Tích. Dương Thiên Tích
văn chương thơng thái, sớm hơm lo học hành không hề biếng trễ, về sau trải hai
mươi năm làm đến vị quan lớn. Ông là ngời “thờ vua thì trung, giữ mình thì
liêm, trải thờ hai triều chốn miếu đường lấy làm ỷ trọng ”[1,52]. Về sau người ta
ngờ rằng ơng đắc đạo thành tiên.
Như vậy qua hình tượng nho sĩ là nhân vật chính diện
mang phẩm chất đẹp đẽ của những nhà nho chân chính, nhân
nghĩa xử phạt cơng minh, vì dân vì nước; đó là mong ước của
nhân dân cũng như của tác giả. Quađó ơng đã bộc lộ tâm tư,
khát vọng hoài bão lớn lao về một xã hội lý tưởng và đặt ra
nhiều vấn đề nhân sinh của con ngời và thời đại đó là đa lại
quyền sống quyền làm ngời, thái bình cho đất nớc cho nhân dân.
Và khẳngđịnh lý tưởng “ở hiền gặp lành”,“chính nghĩa thắng
gian tà”, “thiện thắng ác” là mong ước thực tại xã hội, là tiếng
nói của Nguyễn Dữ cất lên thay cho khao khát của nhân dân bấy
giờ.
2.

Tư tởng chính trị xã hội của Nguyễn Dữ qua hình tượng nho sĩ là

nhân vật phản diện
Bên cạnh hình tượng nho sĩ hành đạo là nhân vậtchính


diện thì có những hình tượng kẻ sĩ qn hết mọi nhiệm vụ cao

quý, mọi lời răn dạy củaThánh nhân. Đó là hình tượng nho sĩ
phản diện mang tư tởng hành động ứng xử không xứng đáng với
tư cách nhà nho là bộ phận tiêu cực trong tầng lớp trí thức phong
kiến.
Quan Trụ quốc họ Thân trong “Chuyện nàng Tuý Tiêu” nham hiểm và thâm
độc là “đồ hèn yếu mà làm đến bậc Vệ, Hoắc kêu xin chạy chọt, lúc nào ở cửa cũng
rộn rập những ngời ra vào, vàng bạc châu báu trong nhà, chồng chất đầy rẫy”
[1,198]. Dư Nhuận Chi là thư sinh nổi tiếng hay thơ, người vợ là Túy Tiêu vào hạng
sắc nớc hương trời. Nàng theo chồng vào kinh khảo thí, bị quan Trụ quốc bắt
đem về. Tuý Tiêu căm uất và thương nhớ chồng định tự tử, tên quan háo sắc
buộc lòng phải hứa hẹn sẽ cho nàng về với chồng cũ. Nhưng khi gọi Nhuận Chi đến,
y giữ Chi trong nhà mà chẳng bao giờ cho đôi bên gặp nhau. Về sau nhờ người lão
bộc giúp sức, Tuý Tiêuđược giải thoát, cùng Nhuận Chi bí mật trốn đi nơi khác
sống.Tên quan Trụ quốc này vừa tàn ác, trắng trợn vừa nham hiểm thâm độc, quyết
chia rẽ lứađơi tự nguyện. Vì hắn có “uy thế rất lớn, các toà, các sở đều tránh
kẻ quyền hào, gác bút khơng dám xét xử ”, vì hắn “làm quan đến ngôi thợng công,
quyền cao lộc hậu, việc khoản đãi khách khứa, mỗi ngày tốn phí đến hàng
chng thóc”[1,191]. Nguyễn Dữ đã nhìn thấy sự thật: bọn quan lại trong
thời ơng, nhiều kẻ khơng hề có lý tưởng hành đạo vì dân vì nước, mà lại dùng thủ
đoạn xấu xa cốt đạt danh vọng để vinh thân phì gia, điều đó thật trái với đạo lý,
quay lưng với những lễ sống vốn được rèn đúc theo giáo lý Khổng Mạnh.
Ngoài ra “Chuyện đối tụng ở Long cung” đã kịch liệt tố cáo bọn quyền thần:
“như nhà ngươi trớc có cơng lao, nên ta cho coi giữ một phương, vì dân che chở.
Vậy mà ngươi dở thói dâm ngợc, như thế là trừ tai ngữ hoạn cho dân đấy ”; “Nay
nhà người vốn do luân phiệt, lạm giữ phương ngung, lẽ nên linh hiển, để tỏ đức
rồng, sao đ ợc tà dâm, làm theo nết rắn ”[1,87-88], dã tâm cướp vợ người của


bọn quan lại quyền thế. Viên quan họ Trịnh đời Trầnxuống Thuỷ cung đòi vợ
bị thần Thuồng luồng cướp. Bộ mặt xấu xa của thần Thuồng luồng này gợi đến bộ

mặt xấu xa của bọn quan lại gian ác dưới chế độ phong kiến. Với sự giúp đỡ của
Long hầu, chuyện đối tụng ở Long cung giữa người và quỷ thần đã chứng tỏ một
điều: công lý bao giờ cũng thắng. Thần Thuồng luồng dùng sức mạnh thế quan
chiếm vợ người, chia rẽ hạnh phúc vợ chồng người cuối cùng đã phải chịu
lưu đày. Sự đấu tranh quyết liệt của con người bao giờ cũng thắng.
Qua hình tượng nho sĩ, chúng ta thấy rằng Nguyễn Dữ đã khéo léo bày
tỏ lý tưởng của mình. Hình tượng nho sĩ có thể trực tiếp nói lên tư tưởng, quan
niệm của tác giả, nhưng trước hết nó là một sự khái qt hố nghệ thuật. Hơn nữa,
khuynh hướng tư tưởng của tác phẩm không phải chỉ thể hiện thông qua những
tuyên bố của nhân vật chính mà thơng qua của ngơn ngữ, hành động, tình tiết của
câu chuyện trong xu hướng giải quyết những mâu thuẫn mà tác phẩm phản ánh.
Những hình tượng nghệ thuật của Nguyễn Dữ cho chúng ta thấy rằng chính ơng
đang nghi ngờ vai trị của một bộ phận giai cấp thống trị. Trong “Chuyện người
nghĩa phụ ở Khoái Châu” nói đến tình cảnh những bề tơi, những nho sĩ khảng
khái vì: “nói thẳng mà bị người ta ghen ghét khơng để lại nơi khu yếu, bề ngồi vờ
tiến cử đến chỗ hùng phiên, bề trong thực dồn đuổi vào nơi tử địa ”[1,21]. Bản
chất xấu xa của bọn quyền thần được phản ánh trong “Truyền kỳ mạn lục” qua
hình tượng nho sĩ là nhân vật phản diện như một tình trạng phổ biến thời bấy giờ.
“Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên tào” thì lại qua ý kiến trao đổi giữa Tử Hư
và thầy học của mình mà tóm tắt tình trạng thối nát của quan lại nói chung: “ông
mỗ ở ngôi trọng thần mà tham lam không chán, ông mỗ coi lễ mà lễ nhiều
nhiếu thốn, ông mỗ chăn dân mà dân bị tai hại, ông mỗ chấm văn mà lấy
đỗ thiên vị, ông mỗ trị ngục mà buộc tội oan uổng; lại còn những lúc thường bàn
nói thì mồm mép bẻo lẻo, đến lúc trù tính, quyết định kế lớn của quốc gia thì mờ
mịt như ngồi trong đám mây mù, thậm chí khơng noi theo danh không xét thực,


khơng trung với đấng qn thượng lớn thì làm việc bán nước, ...nhỏ thì làm việc
dối vua...”[1,145]. Vua quan thì như thế, cịn sĩ phu thì khơng ít kẻ cũng bị truỵ
lạc, hư hỏng. Dương Trạm nói với học trị: “ngày nay những người mặc áo nhà

nho, đeo dải nhà nho thì khác hẳn. Họ thường đổi họ để đi học, thay thế tên để đi
thi: hễ trượt đỗ thì đổ lỗi mờ quáng cho quan chấm trờng, hơi thành danh thì hợm
hĩnh tài giỏi hơn cả tiền bối, chí khí ngơng ngạo tính tình tráo trở, thấy thầy nghèo
thì lảng tránh, gặp bạn nghèo thì làm ngơ, khơng biết rằng ngày thường dắt dẫn
rèn cặp phần nhiều là cái cơng đức của thầy bạn”[1,144-145]. Tình hình Nho học
suy đồi, cương thờng đạo lý bị đảo lộn, việc học, việc thi trở thành bậc thang công
danh bám đầy bùn nhơ. Kẻ sĩ chỉ chuộng hư văn, bo bo mưu lợi ích cho mình.
Tư tưởng của Nguyễn Dữ trong Truyền kỳ mạn lục trước hết thể hiện ở lý
tưởng chính trị, xã hội của ông. Nguyễn Dữ phủ định triều đại mục nát đương thời
để khẳng định một vương triều lý tưởng trong tương lai, lên án bọn “bá giả” để ca
ngợi “đạo thuần vơng”. Cho rằng sự hưng thịnh của một triều đại không phải do
mệnh trời mà do người, Nguyễn Dữ vạch rõ rằng “bỏ việc ngời mà đi bàn lẽ
trời”, thì “đến táng hại cũng khơng tỉnh ngộ” và ông nêu ra nguyên tắc đối với
kẻ cầm quyền: “phàm xoay cái thế thiên hạ ở trí chứ khơng phải ở sức thu tấm
lòng thiên hạ ở nhân chứ khơng phải ở sức; thu tấm lịng thiên hạ ở nhân chứ
không phải ở bạo ”[1,147]. Rằng kẻ trị dân nếu “chỉ lấy quát thét làm mai,
lấy cơng cờng làm đức”, “đắp nền cho cao bằng những hờn oán của dân,
chứa kho cho đầy bằng những máu mỡ cuả dân” thì sẽ “bỏ mình”, “mất nớc”,
“mất lịng ngời”. Ơng u cầu kẻ làm vua phải “giương cái cung thánh nhân, tuốt
lỡi gươm thiên tử, lấy nhân nghĩa làm yên khấu, lấy nghĩa làm chèo lái, lấy
hào kiệt làm nanh vuốt, lấy trung tín làm giáp trụ”, “mở lới vơ hiền, giăng
chài vét sĩ...”, “khiến trong triều nhiều bậc lương tá...”[1,145-146]. Ơng địi
hỏi kẻ làm quan phải có “tiết cứng như tùng, lòng bền tựa đá”, “đem cái tài vuốt
nanh, giữ cái trách phên giậu”, “sa cơ không chịu sống mà nhục, liều mình giữ


được thác là vinh”[1,237]. Lý tưởng chính trị, xã hội của Nguyễn Dữ chỉ là một
chế độ phong kiến có “vua sáng tôi lành” để “ban ân trạch cho dân sinh, đa tẩt cả
cuộc đời vào cõi nhân thọ”. Có điều là, tiếp thu đợc truyền thống của những nhà
chính trị, những nhà văn yêu nước thời trước, lại là người quan tâmđến vận mệnh

đất nước, đến đời sống nhân dân, Nguyễn Dữ thường nhấn mạnh đến cơ sở nhân
nghĩa và nêu cao tác dụng của lòng dân. Trước hiện trạng của chế độ phong kiến
đang suy, Nguyễn Dữ không dám hành độngđể thực hiện lý tưởng “an nguy trị
loạn” song ơng vẫn hy vọng có thể xây dựng lại kỷ cương của chế độ phong
kiến. Lý tưởng chính trị, xã hội của Nguyễn Dữ tất nhiên cha thoát ly ý thức hệ
phong kiến, cha thể vợt ra ngoài cương thường của Nho giáo: “làm chính trị
khơng ngồi cương thường để dựng nước”,“giữ thiên hạ không ở quy mô rộng
lớn mà ở việc đến tế ở Khúc Phụ mở nền nương tựa cho đời sau ”[1,31]. Những tư
tưởng trên đây rõ ràng là của Nho giáo. Nhưng hiện thực mà Nguyễn Dữ đồng tình
hoặc phê phán trong tác phẩm thì lại có phần thích hợp ở đời sống dân tộc, với
nguyện vọng của nhân dân. Tái hiện hiện thực và thể hiện mong ước đó, Nguyễn
Dữđã đưa nhân vật của mình vào những thế giới khác nhau để thoả mãn chí
nguyện. Hiện thực xã hội phong kiến bắt đầu rối ren, suy yếu, cương thườngđạo lý
bị đảo lộn, Nguyễn Dữ đã xây dựng một xã hội lý tưởng ở cõi khácđể đền đáp
cho những nho sĩ có những phẩm chất tốt đẹp mà cuộc sống đương thời khơng có
được. Dương Trạm trong “Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên Tào” lúc ở trần
gian là người tín nghĩa được đền đáp ở chốn Thiên tào, nơi có khung cảnh tươi
đẹp lộng lẫy: “một khu có những bức tường bao quanh, có cửa lớn khảm trai lộng
lẫy, hai bên có những tồ lầu chậu, điện ngọc vằng vặc sáng như ban ngày, sơng
Ngân bến Sao, ơm ấp lấy đằng trước, gió thơm phưng phức, đợm mát quanh
hiên hơi lạnh thấu da, ánh sáng chói mắt, trơng xuống cõi trần thấy mọi vật đều
bé nhỏ tủn mủn. Và ở đó mọi tồ lầu có cuộc sống thần tiên hạnh phúc dành cho
những người đã sống tốt đẹp khi ở trần gian. Cửa Tích Đức dành cho những vị


tiên thuở sống có lịng u thương mọi ngời khơng keo bẩn, khơng hợm
hĩnh. Đó là những người có nhân, được liệt vào hàng thanh phẩm. Cửa
Thuận Hạnh dành cho những vị tiên thuở sống hiếu thuận hoặc trong lưu ly
biết bao bọc lâý nhau, hoặc đem đất cát mà san sẻ cho nhau, mấy đời ở chung
không nỡ chia rẽ. Cửa Nho thần cho những danh thần trong thiên hạ cứ cách

năm trăm năm lại cho giáng sinh, cao thì làm đến khanh tướng thấp cũng
được làm sĩ phu, hiệu dỗn ”[1,148-149. Ngơ Tử Văn trong “Chuyện chức Phán
sự đền Tản Viên” và Văn Dĩ Thành trong “Chuyện tướng Dạ Xoa” lại được đền
đáp nơi cõi âm. Cõi âm đợc xem là một thế giới công bằng nghiêm minh: “dưới
Xiêm la tuyển người khơng khác gì tuyển Phật khơng thể đút lót mà đợc hay
cầu mà nên. Giữ mình cương chính tuy hèn mọn cũng được cất lên, ở nết gian
tà tuy hiển vinh cũng không kể đến”[1,274]. Và trong “Chuyện đối tụng ở
Long cung” ông phát biểu qua lời của Bạch long hầu: “Họ dù càn rỡ, đã có
sắc lệnh của triều đình Long Vương... ai dám...dấy động giáp binh để phạm
vào một lỗi lầm không thể tha thứ đợc”[1,84]. Ơng mong muốn duy trì và củng cố
trật tự phong kiến. Mọi cái ác theo ông đều phải bị trừng trị nghiêm khắc,
xứng đáng. Mọi cái thiện phải được đề cao bảo vệ. Nhưng cách đặt vấn đề của
ơng có tính ảo tưởng. Đó chính là ngun nhân dẫn đến tính bi kịch trong
kết thúc của nhiều truyện. Cái ác nhất định bị trừng trị nhưng bị trừng trị như thế
nào là cả một vấn đề. Tên quan Trụ quốc họ Thân trong “Chuyện nàng Tuý Tiêu”
cuối cùng khơng phải bị trừng trị vì chính tội ác mà y gây ra. Rõ ràng Nguyễn Dữ
cũng có lúng túng, dè dặt trong việc giải quyết những vấn đề phức tạp của thời đại.
Thời đại mà Nguyễn Dữ và cả sự nhận thức chủquan của nhà văn chỉ cho phép ông
giải quyết vấn đề đến đấy. Nhưng điềuđáng lên án ở hình tượng nhân vật phản diện
phản ánh thói hư tật xấu của tầng lớp nho sĩ trong xã hội lúc bấy giờ, khi xã hội
phong kiến bắt đầu bước vào thời kỳ rối ren, suy yếu. Tư tởng xây dựng một xã hội
lý tưởng của Nguyễn Dữ yêu cầu cải tạo hiện thực, duy trì củng cố chế độ phong


kiến, nhưng lại đầy xao động, lúng túng thậm chí cả bế tắc nữa. Đó là một hạn chế
lịch sử tuy nhiên qua hình tượng nhi sĩ hành đạo Nguyễn Dữ cũng đã nói lên được
ước mơ khao khát một xã hội lý tưởng, một cuộc sống hạnh phúc của nhân dân
trong đó có những ơng quan thanh liêm chính trực, nghiêm minh, nhân nghĩa vì
dân vì nước như Dương Đức Cơng, Dương Thiên Tích, Văn Dĩ Thành, Văn Tư
Lập, Ngơ Tử Văn...Cịn những tên quan lại xấu xa, tànác, bất nghĩa bấtnhân, coi

thường kỷ cương đạo lý phải bị trừng trị như Thuồng luồng, quan Trụ quốc
họ Thân…
Tài liệu tham khảo chính:
1. Nguyễn Dữ (Trúc Khê, Ngơ Văn Triện dịch) (2002), Truyền kỳ mạn lục,
NXB Văn Nghệ, thành phố Hồ Chí Minh.
2. Đinh Gia Khánh (chủ biên)(2002), Văn học Việt Nam (thế kỷ X – nửa
đầu thế kỷ XVIII), NXB Giáo dục, Hà Nội.
3. Trần Ích Nguyên (2000), Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và
Truyền kỳ mạn lục, NXB Văn học, Hà Nội.
4. Nguyễn Phạm Hùng, Tìm hiểu khuynh hớng sáng tác của Truyền kỳ
mạn lục, Tạp chí Văn học, số 2/1987.

Tác giả: Nguyễn Hùng Vĩ
SĐT: 01647615927
Địa chỉ: Lớp Sư phạm Ngữ văn K38, khoa Ngữ văn, trường Đại học Quy Nhơn



×