Tư Tưởng Hồ Chí Minh về Phụ Nữ
Trong di sản vô giá tư tưởng Hồ Chí Minh, có một bộ phận quan trọng là tư tưởng của Người về phụ nữ.
Người đã 745 lần Người nhắc đến từ “nữ” trong các tác phẩm của mình, trong đó có 440 lần là “phụ nữ”,
20 lần là “thiếu nữ”, 3 lần là “thanh nữ” và để chỉ “cán bộ phụ nữ”, “vấn đề phụ nữ”, “công tác phụ nữ”…
Có 726 lần Người nhắc đến từ “bà” trong các khái niệm “bà cụ”, “cụ bà”, “bà mẹ”, “bà già, trẻ em”, “Bà
Trưng”, “Bà Triệu” và bà với tư cách là một nhân vật cụ thể. Có 255 lần Người nhắc đến từ “gái” trong
các khái niệm”em gái”, “cháu gái”, “bé gái”, “dân quân gái”, “thanh niên gái”, “ý tá gái”… Người cũng
có 226 nhắc đến từ “mẹ” với các nghĩa “bà mẹ”, “làm mẹ”, “mẹ chiến sĩ”, “người mẹ”, và 169 lần nhắc
đến từ “vợ” với các nghĩa “người vợ”, “làm vợ”, “cưới vợ”, “vợ chồng”, “vợ chiến sĩ”…
Nghĩa là Người đã quan tâm đến phụ nữ ở trên mọi phương diện biểu hiện của khái niệm này. Dù là
phương diện nào thì Người đều thông cảm sâu sắc với nỗi thống khổ của họ, Người đề cao đức hy sinh
của họ, tìm cách thức tỉnh và tạo điều kiện để họ được giải phóng, tham gia cách mạng với tư cách là nửa
quan trọng của thế giới.
Cả cuộc đời phấn đấu hy sinh cho dân tộc, giải phóng phụ nữ luôn là khát vọng cháy bỏng của Người và
Người luôn đi đầu trong cuộc đấu tranh giải phóng phụ nữ ở thế kỷ XX. Nhưng đồng thời Người Người
luôn thức tỉnh phụ nữ muốn được giải phóng, chị em cũng phải đấu tranh, không ngừng học hỏi, đoàn kết,
làm trọn nghĩa vụ, trách nhiệm của mình – đó là những gì Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho phụ nữ.
Từ 1924, trong “Thư từ Trung Quốc”, sau khi nêu gương Cách mạng Tháng Mười Nga, Người chỉ ra sự
khó khăn của công tác vận động phụ nữ ở Trung Quốc đột nhiên thoát khỏi tập quán hàng nghìn năm,
nhưng nữ đồng chí Bôrôđin “đã làm cái đó khéo léo đến thế và ân cần niềm nở đến thế, nếu như tôi có thể
bày tỏ như vậy”, “biết khuyến khích những chị đã hiểu chút ít và làm cho những chị khác còn chưa hiểu
thì hiểu… Tháng trước, tại buổi lễ kỷ niệm Cách mạng Nga, do lời kêu gọi của nữ đồng chí Bôrôđin, hơn
3.000 nữ công nhân và nữ sinh viên Quảng Châu đã đi biểu tình với nam giới và đã dự mít tinh. Sau khi
nghe người đồng chí chúng ta nói trong một giờ mà bài diễn văn bị ngắt quãng bởi những tràng vỗ tay
kéo dài, một chị của chúng tôi đã đọc nghị quyết sau đây:
Hôm nay, chúng tôi ở đây để làm lễ kỷ niệm cuộc Cách mạng vĩ đại nhất mà lịch sử đã chứng kiến: Cuộc
Cách mạng Nga. Chính nhờ cuộc cách mạng này mà cơ sở của quyền tự do chân chính và quyền bình
đẳng thực sự đã được đặt ra cho loài người. Chính nhờ cuộc cách mạng này mà sự giải phóng phụ nữ sẽ
có giá trị và có những ý nghĩa đầy đủ, trọn vẹn.”[1]
Tại Hội nghị cán bộ thảo luận Luật Hôn nhân và gia đình, Người nói: “…Nói phụ nữ là nói phân nửa xã
hội. Nếu không giải phóng phụ nữ là không giải phóng một nửa loài người.
Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa”[2].
Đồng thời Người nhắc nhở chị em phụ nữ: “…Về phần mình, chị em phụ nữ không nên ngồi chờ
Chính phủ, chờ Đảng ra Chỉ thị giải phóng cho mình, mà tự mình phải tự cường, phải đấu tranh”[3].
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài của Đảng ta, nhà tư tưởng lớn của thời đại. Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống những quan điểm toàn diện và sâu sắc về đường lối cách mạng Việt Nam trong thời
đại mới: giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Con người là điểm khởi đầu cũng
là mục đích của sự nghiệp cách mạng của Người. Người luôn xác định phụ nữ là một lực lượng quan
trọng trong cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Bởi thế, giải phóng phụ nữ luôn là một sứ
mệnh của Người.
Trong hành trình tìm đường cứu nước, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam, phụ nữ các dân tộc bị áp bức
luôn là nỗi đau trăn trở đối với Người. Trong hàng loạt bài viết của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn
tìm cách tố cáo, vạch trần tội ác man rợ của chế độ thực dân đối với người phụ nữ trước công luận thế
giới. Người vạch trần tội ác đánh đập tàn nhẫn; hiếp dâm phụ nữ, em gái; mổ bụng, chặt tay, bắt phụ nữ
hiến thân cho chó làm trò tiêu khiển; của thực dân Pháp trong các bài: “Sự quái đản của cuộc khai
hóa”[4] trên Báo Le Libertaire ngày 30/9 và 7/10/1921, “Hãy yêu mến nước Pháp, người bảo hộ
anh”[5] trên Báo Le Libertaire ngày 7/10 và 14/10/1921, “Những kẻ đi khai hóa”[6] đăng trên báo Lơ
Paria (Người cùng khổ) số 4, ngày 1/7/1922, “Phụ nữ An Nam và sự đô hộ Pháp”[7] đăng trên báo Lơ
Paria số 5 ngày 1-8-1922, “Nỗi khổ nhục của người phụ nữ bản xứ”[8], trong tác phẩm “Bản án chế độ
thực dân Pháp” 1925; Ở đó, Người kết án: “Chế độ thực dân, tự bản thân nó đã là một hành động bạo
lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi. Bạo lực đó đem ra đối xử với trẻ em và phụ nữ lại càng bỉ ổi hơn
nữa”; chế độ thực dân là chế độ“ăn cướp và hiếp dân”. Người cảm thông sâu sắc với nỗi thống khổ của
phụ nữ bị áp bức. Với Người, chừng nào phụ nữ chưa được giải phóng, chừng đó nỗi đau nhân loại còn
kéo dài. Người khẳng định, chỉ khi nào đánh đuổi được bọn thực dân cướp nước, giành độc lập dân tộc,
người phụ nữ mới được giải phóng.
Xác định phụ nữ là một lực lượng quan trọng trong đời sống xã hội con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh
không chỉ dừng lại ở sự tố cáo tội ác của chế độ thực dân – phong kiến đối với người phụ nữ mà còn
động viên, tổ chức cho phụ nữ tham gia công cuộc giải phóng dân tộc, cứu nước. Từ 1923, trong bài
“Tình hình ở Trung Quốc” [9], Người viết: “Vấn đề phụ nữ.Bình đẳng về giáo dục chính trị và kinh tế cho
cả nam và nữ. Thi hành hệ thống trường học thống nhất – tức là thành lập các trường học trong đó con
trai và con gái cùng học.
Trả công như nhau cho lao động như nhau.
Quyền nghỉ ngơi và tiền trợ cấp cho trường hợp đau ốm và sản phụ.
Hội ủng hộ tất cả các yêu sách của công nhân”.
Năm 1927, trong tác phẩm: “Đường Kách mệnh”[10], Người viết: “Ông C.Mác nói rằng: “Ai biết lịch
sử thì biết rằng, muốn sửa sang xã hội không có phụ nữ giúp vào thì chắc không làm nổi. Xem tư tưởng
và việc làm của đàn bà con gái thì biết xã hội tiến bộ như thế nào?”[11].
Năm 1941, trên báo Việt Nam độc lập, Người sáng tác bài thơ đề cao vai trò phụ nữ và khích lệ, động
viên phụ nữ Việt Nam tham gia cách mạng:
“PHỤ NỮ
Việt Nam phụ nữ đời đời
Nhiều người vì nước, vì nòi hy sinh.
Ngàn thu rạng tiếng bà Trưng,
Ra tay cứu nước, cứu dân đến cùng.
Bà Triệu ẩu thật anh hùng,
Cưỡi voi đánh giặc, vẫy vùng bốn phương.
Mấy năm cách mệnh khẩn trương,
Chị em phụ nữ thường thường tham gia.
Mấy phen tranh đấu xông pha,
Lòng vàng gan sắt nào đà kém ai?
Kìa như chị Nguyễn Minh Khai
Bị làm án tử đến hai ba lần.
Bây giờ cơ hội đã gần,
Đánh Tây, đánh Nhật, cứu dân nước nhà.
Chị em cả trẻ đến già
Cùng nhau đoàn kết đặng mà đấu tranh.
Đua nhau vào hội Việt Minh
Trước giúp nước, sau giúp mình mới nên.
Làm cho thiên hạ biết tên
Làm cho rõ mặt cháu Tiên, con Rồng”
[12]
.
Cũng trên báo Việt Nam độc lập, số 113, ngày 21-12-1941, Người kêu gọi “Phụ nữ vào “Phụ nữ Cứu
quốc hội”… do Việt Nam độc lập đồng minh lãnh đạo. Người có tiền giúp tiền, kẻ có sức giúp sức. Đồng
tâm hợp lực. Muôn người một lòng. Nhân cơ hội này mà khôi phục lại Tổ quốc, mà làm cho Việt Nam
hoàn toàn độc lập.
Hỡi đồng bào! Cơ hội giải phóng đến rồi, mau mau đoàn kết lại!!!”
[13]
.
Trên báo Tiếng gọi phụ nữ, số Xuân Bính Tuất, năm 1946, Người lại có “Thư gửi Phụ nữ Việt Nam nhân
dịp Xuân Bính Tuất ” rằng:
“Năm mới Bính Tuất
Phụ nữ đồng bào
Phải gắng làm sao
Gây “Đời sống mới”
Việc thành là bởi
Chúng ta siêng mần
Vậy nên chữ cần
Ta thực hành trước
Lại phải kiệm ước
Bỏ thói xa hoa
Tiền của dư ra
Đem làm việc nghĩa
Thấy của bất nghĩa
Ta chớ tham thàn
Thế tức là liêm
Đã liêm thì khiết
Giữ mình làm việc
Quảng đại công bình
Vì nước quên mình
Thế tức là chính
Cần, kiệm, liêm, chính
Giữ được vẹn mười
Tức là những người
Sống “Đời sống mới”.
HỒ CHÍ MINH”
[14]
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng coi trọng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ phụ nữ. Trong “Bài
nói chuyện tại Hội nghị Phụ nữ lao động tiến tiến và Chiến sỹ thi đua toàn thành phố Hà Nội lần thứ
hai”[15] năm 1960, sau khi tuyên dương những tiến bộ và những đóng góp của phụ nữ cho cách mạng
Người viết: “Hiện nay trong các ngành, số phụ nữ tham gia còn ít. Đảng và Chính phủ rất hoan nghênh,
sẵn sàng cất nhắc và giao cho phụ nữ những chức trách quan trọng. Muốn vậy, bản thân phụ nữ phải:
- Gắng học tập chính trị, học tập văn hoá, kỹ thuật.
- Nâng cao tinh thần yêu nước và giác ngộ xã hội chủ nghĩa.
- Hăng hái thi đua thực hiện “cần kiệm xây dựng Tổ quốc, cần kiệm xây dựng gia đình”.
- Đoàn kết chặt chẽ, ra sức tham gia sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh thống
nhất nước nhà và giữ gìn hoà bình thế giới”. Người yêu cầu như vậy là vì Người kỳ vọng “chị em phụ nữ
cố gắng học tập, tiến bộ nhiều, tiến bộ mãi để xứng đáng làm chủ nước nhà”.
Trong “Bài nói chuyện với đồng bào tỉnh Tuyên Quang”
[16]
năm 1961, Người yêu cầu: “phải đẩy mạnh
tuyên truyền giáo dục lôi cuốn nhiều phụ nữ vào tổ chức hơn nữa”.
Trong “Bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ Liên hiệp Phụ nữ toàn quốc về vấn đề phát động quần chúng
nông dân” năm 1953, Người yêu cầu đối với công tác phụ nữ vận: “Cán bộ phụ nữ đi vận động, có cô vận
động khéo, đến đâu dân làm gì, mình làm nấy, thân thiết như người nhà, thì có thành tích. Cô nào không
hoà lẫn được với nhân dân, vẫn giữ thói quen thành phố, thì vận động không thành công.
Phát động quần chúng thành công thì nông dân được ruộng đất, được ấm no và phụ nữ được giải phóng.
Phát động quần chúng thì bồi dưỡng được nông dân, đẩy mạnh mọi mặt công tác kháng chiến kiến quốc.
Các cô cần học tập, rèn luyện trong công tác phát động quần chúng, kết hợp nó với phong trào phụ nữ và
chỉnh đốn tổ chức phụ nữ ở nông thôn”[17].
Trong “Bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ phụ nữ miền núi”[18] năm 1964, sau khi biểu dương các thành
tích của phụ nữ miền núi cả trên cương vị cá nhân và tập thể, Người chỉ thị: “Đảng uỷ các cấp ở miền núi
cần phải ra sức phát triển đảng viên và đoàn viên phụ nữ, cần phải đào tạo và giúp đỡ cán bộ phụ nữ các
dân tộc. Đó là nhiệm vụ mà Trung ương và Bác giao cho các đồng chí phải làm cho tốt”.
Trong “Bài nói chuyện với đồng bào tỉnh Thái Nguyên và công nhân Khu gang thép”năm 1964, Người
viết: “PHỤ NỮ LÀ MỘT LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG RẤT QUAN TRỌNG. CÁC CẤP LÃNH ĐẠO
PHẢI QUAN TÂM HƠN NỮA VỀ CÔNG TÁC PHỤ NỮ VÀ CHÚ Ý HƠN NỮA ĐÀO TẠO CÁN
BỘ, PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN VÀ ĐOÀN VIÊN PHỤ NỮ”.
Trong “Bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ cao cấp nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị lần thứ 12 Ban chấp
hành Trung ương Đảng” khóa III năm 1966, Người chỉ thị: “PHẢI KIỆN TOÀN SỰ LÃNH ĐẠO CỦA
CÁC CẤP, CÁC NGÀNH;… PHẢI CHÚ Ý KẾT NẠP VÀO ĐẢNG, VÀO ĐOÀN NHỮNG NGƯỜI
XUẤT SẮC TRONG SẢN XUẤT VÀ CHIẾN ĐẤU. PHẢI LÀM CHO ĐẢNG VÀ ĐOÀN LỚN
MẠNH ĐỂ HOÀN THÀNH TỐT MỌI MẶT CÔNG TÁC, ĐẶC BIỆT PHẢI CHÚ Ý CẤT NHẮC CÁN
BỘ PHỤ NỮ VÀO CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO, NHẤT LÀ CÁC NGÀNH HOẠT ĐỘNG THÍCH
HỢP VỚI PHỤ NỮ”
[19]
.
Trong cuộc đời hoạt động và lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Người, đã có biết bao phụ nữ được
Người dìu dắt, họ đã vượt qua nhiều thử thách và trở thành những cán bộ lãnh đạo xuất sắc của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Để ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia và cáng đáng công việc xã hội, Người khởi xướng và quy định
bằng Hiến pháp, Pháp luật việc thực hiện nam nữ bình đẳng. Theo Người, nam nữ bình đẳng “Nhiều
người lầm tưởng đó là một việc dễ, chỉ: hôm nay anh nấu cơm, rửa bát, quét nhà, hôm sau em quét nhà,
nấu cơm, rửa bát thế là bình đẳng bình quyền. Lầm to!
Đó là một cuộc cách mạng khá to và khó.
Vì trọng trai khinh gái là một thói quen mấy nghìn năm để lại. Vì nó ăn sâu trong đầu óc của mọi người,
mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội. Vì không thể dùng vũ lực mà tranh đấu…
Vũ lực của cuộc cách mạng này là sự tiến bộ về chính trị, kinh tế, văn hoá, pháp luật. Phải cách mạng
từng người, từng gia đình, đến toàn dân. Dù to và khó nhưng nhất định thành công”[20].
Ngày 23-10-1960, trên báo Nhân dân, số 2409, với bút danh T.L, Người trình bày quan điểm “Phải thật
sự tôn trọng quyền lợi của phụ nữ”: “Phụ nữ chiếm một nửa tổng số nhân dân. Để xây dựng chủ nghĩa xã
hội thì phải thật sự giải phóng phụ nữ và tôn trọng quyền lợi của phụ nữ.Hiến pháp và pháp luật của nước
ta đã quy định rõ điều đó.
Ví dụ:
Hiến pháp điều 24 nói: Phụ nữ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có quyền bình đẳng với nam giới về
các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình.
Luật hôn nhân và gia đình, điều 1 nói: Nhà nước bảo đảm… nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của phụ
nữ…
Điều 12 nói: Trong gia đình, vợ chồng đều bình đẳng về mọi mặt.
Điều 3 nói: Cấm… đánh đập hoặc ngược đãi vợ…
Luật hôn nhân và gia đình đã định rõ: Cấm tảo hôn (điều 3). Con gái từ 18 tuổi trở lên, con trai từ 20 tuổi
trở lên mới được kết hôn (điều 6). Khi hai bên vợ chồng tự nguyện ly hôn, thì toà án nhân dân sẽ công
nhận việc ly hôn ấy (điều 25). Điều 3 cũng nói: Cấm cản trở hôn nhân tự do…
Để thật sự bảo vệ quyền lợi của phụ nữ thì:
- Hội phụ nữ và Đoàn thanh niên phải phụ trách tuyên truyền và giáo dục một cách rộng khắp và bền bỉ
cho mỗi gia đình hiểu rõ pháp luật Nhà nước và thấm nhuần đạo đức xã hội chủ nghĩa về vấn đề ấy.
- Bà con trong làng xóm và trong hàng phố cần phải có trách nhiệm ngăn ngừa, không để những việc
phạm pháp như vậy xảy ra.
- Bản thân chị em phụ nữ phải có chí tự cường tự lập, phải đấu tranh để bảo vệ quyền lợi của mình.
- Đối với những người đã được giáo dục khuyên răn mà vẫn không sửa đổi, thì chính quyền cần phải thi
hành kỷ luật một cách nghiêm chỉnh. Điều 34 trong Luật hôn nhân và gia đình đã quy định: “Những hành
vi trái với luật này sẽ bị xử lý theo pháp luật”. Nói tóm lại, giáo dục phải đi đôi với kỷ luật”[21] .
Người không chỉ quan tâm đến quyền bình đẳng của nữ giới trong mọi quan hệ xã hội mà còn lo cho hạnh
phúc của nữ giới trong quan hệ vợ chồng, khuyên giới nữ ý thức được quyền lợi và trách nhiệm của mình
để tự đấu tranh giải phóng mình khỏi những ràng buộc phi lý kiểu “chồng chúa vợ tôi”. Người phê phán
tình trạng chồng đánh vợ và khẳng định đấy là tệ nạn về mặt đạo đức và vi phạm pháp luật. Người đã
nghiêm khắc phê phán những thành kiến hẹp hòi ở một số cán bộ còn đánh giá không đúng khả năng của
phụ nữ, hay thành kiến, hẹp hòi. “Bác mong rằng các đồng chí hãy thật sự sửa chữa bệnh thành kiến, hẹp
hòi đối với phụ nữ…”[22].
Ngày 8-3-1960, trong “Bài nói tại Hội nghị phụ nữ lao động tiên tiến và chiến sỹ thi đua toàn thành phố
Hà Nội lần thứ hai”, Người nêu gương những đóng góp trên mọi lĩnh vực của phụ nữ Việt Nam: “Phong
trào phụ nữ trong 30 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng ta đã đóng góp rất nhiều thành tích lớn cho cách
mạng.
Thời kỳ bí mật, nhiều chị em đã giác ngộ, tham gia hoạt động cách mạng rất dũng cảm, mặc dầu muôn
ngàn nguy hiểm, gian khổ. Rất nhiều chị em khác cũng đã bảo vệ cách mạng rất gan góc. Thời kỳ đó, căn
cứ địa cách mạng của ta ở Việt Bắc, do đó rất nhiều chị em phụ nữ các dân tộc thiểu số không những vượt
gian nguy mà còn gạt cả mê tín để bảo vệ cách mạng và cán bộ hoạt động cách mạng.
Thời kỳ kháng chiến, ngoài những đội du kích rất anh dũng đánh địch còn có các bà mẹ rất hiền từ tổ
chức nhau lại thành hội các bà mẹ chiến sĩ, giúp đỡ bộ đội đánh giặc, giúp đỡ, an ủi thương binh. Trong
các chiến dịch, phụ nữ đi dân công, tải lương thực, đạn dược, làm đường, v.v. rất đông; 2/3 số dân công là
phụ nữ. Mặc dầu bị máy bay địch theo dõi thả bom dữ dội, nhưng chị em vẫn vui vẻ ca hát, động viên
nhau làm tròn nhiệm vụ.
Ngày nay đất nước ta hoà bình. Có hoà bình vì đã có bao nhiêu gương đấu tranh, hy sinh anh dũng của
toàn dân ta, toàn Đảng ta, trong đó có phụ nữ ta.
Bác chỉ nói vài nét về phụ nữ tham gia kiến thiết xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc hiện nay. Ở các nhà máy
hiện nay có rất nhiều cháu gái, có những cháu biết điều khiển những máy tiện, máy khoan, máy dệt tối
tân, v.v. trên các công trường cũng có nhiều nữ thanh niên, có các cháu gái đã biết lái máy xúc, lái xe vận
tải, v.v Gần đây Bác được biết tin ở mỏ than Hòn Gai, chị em làm ở Cọc 6, chỉ trong mấy ngày đã nâng
mức đẩy xe từ 32 xe lên 335 xe một ca.
Trong việc đẩy xe này, một nửa lại là phụ nữ. Ở nông thôn 60% xã viên hợp tác xã là phụ nữ. Có nhiều cô
chủ nhiệm hợp tác xã, cô Hoàn là người đầu tiên đã làm được 3.000 cân phân, rồi phong trào thi đua lên,
nhiều người làm vượt hơn cô Hoàn, có người làm tới 7.000 cân. Cháu Dung mới 13 tuổi còn đi học, cũng
đã làm được 1.000 cân phân. Ngoài sản xuất, phụ nữ còn tham gia dân quân, tự vệ, nhiều đội rất khá. Phụ
nữ trí thức cũng đã góp nhiều công trong phong trào bình dân học vụ, bổ túc văn hoá, trong việc xây dựng
các vườn trẻ, lớp mẫu giáo và trong các ngành nghề khác. Việc tổ chức vườn trẻ, lớp mẫu giáo rất đáng
khen. Trong phong trào cải tạo xã hội chủ nghĩa, chị em buôn bán nhỏ đã tổ chức lại, đi vào con đường
hợp tác và sửa đổi cách làm ăn buôn bán như thực thà, không lấy lãi, khiêm tốn phục vụ khách hàng, rất
đáng khen. Chị em tư sản tự mình tiếp thu và khuyên chồng tiếp thu cải tạo và đi vào con đường công tư
hợp doanh. Phụ nữ ta còn tham gia nhiều việc khác như lao động xây dựng công viên Bảy Mẫu, tham gia
Tết trồng cây, v.v ” [23].
Ngày 19-10-1966, phát biểu tại Lễ kỷ niệm lần thứ 20 ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc đến truyền thống yêu nước đầy tự hào của người phụ nữ Việt Nam: “Từ
đầu thế kỷ thứ nhất, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, đánh giặc, cứu dân cho đến ngày nay mỗi khi nước
nhà gặp nguy nan, thì phụ nữ ta đều hăng hái đứng lên, góp phần xứng đáng của mình vào sự nghiệp giải
phóng dân tộc. Do đó ta có câu tục ngữ rất hùng hồn: “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”. Nhân dân ta rất
biết ơn các bà mẹ cả hai miền Nam, Bắc đã sinh đẻ và nuôi dạy những thế hệ anh hùng của nước ta”[24].
Người đã biểu dương những đóng góp to lớn của phụ nữ trong công cuộc kháng chiến đánh đuổi giặc
ngoại xâm: “Miền Nam anh hùng có đội quân đấu tranh chính trị gồm hàng vạn chiến sĩ toàn là phụ nữ.
Họ rất mưu trí và dũng cảm làm cho địch phải khiếp sợ và gọi họ là “đội quân tóc dài”. Phó Tổng Tư lệnh
Quân giải phóng là cô Nguyễn Thị Định. Cả thế giới chỉ nước ta có vị tướng quân gái như vậy. Thật vẻ
vang cho miền Nam, cho cả dân tộc ta”[25].
Người cũng đã chỉ ra cho chúng ta thấy, phụ nữ không thua kém nam giới khi được tạo mọi điều kiện
thuận lợi: “Trong hàng ngũ vẻ vang những anh hùng quân đội, anh hùng lao động, chiến sĩ thi đua và lao
động tiên tiến đều có phụ nữ. Phụ nữ ta tham gia ngày càng đông và càng đắc lực trong các ngành kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội. Thế là dưới chế độ tốt đẹp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, phụ nữ đã
thật sự làm chủ Nhà nước”[26].
Đã có rất nhiều phụ nữ nước ta đã được Người khen tặng bởi những thành tích trong học tập, rèn luyện và
đóng góp trong mọi lĩnh vực… Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, hàng vạn phụ nữ đã trở thành cán bộ
chuyên môn các ngành và cán bộ lãnh đạo. Từ xưa đến nay, từ Nam đến Bắc, từ trẻ đến già, phụ nữ
Việt Nam ta đã thật là anh hùng. Trước lúc đi xa, tháng 5/1968, khi xem lại Người đã viết thêm vào
bản Di chúc, biểu dương tinh thần chiến đấu, hy sinh của phụ nữ và căn dặn toàn Đảng, toàn dân ta phải
quan tâm, chăm sóc phụ nữ: “Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, phụ nữ đảm đang ta đã góp phần
xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất, Đảng và Chính phủ phải có kế hoạch thiết thực để bồi
dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày càng nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc lãnh đạo. Bản thân phụ
nữ cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thực sự cho phụ nữ”[27].
Ngày nay, phụ nữ Việt Nam nhận thức được vai trò trách nhiệm của mình, không ngừng học tập, rèn
luyện để nâng cao trình độ chính trị, năng lực chuyên môn để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Họ
là những người mẹ tảo tần, những người vợ đảm đang, những người vun vén dựng xây tổ ấm gia đình. Họ
là người phụ nữ thời hiện đại: Là người nội trợ chính trong gia đình, người lao động kiếm tiền ngang
bằng với nam giới; Là những nhân tố quan trọng góp phần vào sự phát triển của xã hội; Là người gánh
vác trách nhiệm sinh nở, cùng nuôi dạy con cái trưởng thành. Họ không chỉ là người mẹ hiền đảm đang
giữ gìn hạnh phúc gia đình, mà còn là những nhà khoa học, những vị lãnh đạo tài năng có những cương vị
cao trong các cơ quan Đảng và Nhà nước từ cơ sở đến Trung ương, xứng đáng với sự quan tâm và tin
tưởng của Bác Hồ.