Sông núi nước Nam
A. Sơ đồ tư duy Sông núi nước Nam
B. Tìm hiểu Sơng núi nước Nam
I. Tác gia
Cho đến nay vẫn chưa xác định được chính xác tác giả bài thơ Sông núi nước
Nam là ai nhưng theo nhiều tài liệu để lại cho rằng Lí Thường Kiệt - một danh
tướng nhà Lí có cơng trong cuộc chiến thắng chống qn Tống xâm lược ở phịng
tuyến sơng Như Nguyệt là tác giả của bài thơ này.
II. Tìm hiểu chung tác phẩm
1. Thể loại: Thơ thất ngơn tứ tuyệt
2. Hồn cảnh sáng tác
Bài thơ chưa rõ tác giả là ai và có nhiều lời kể về sự ra đời của bài thơ, trong đó
có truyền thuyết: Năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta.
Vua Lí Nhân Tơng sai Lí Thường Kiệt đem qn chặn giặc ở phịng tuyến sơng
Như Nguyệt, bỗng một đêm, qn sĩ nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương
Hống và Trương Hát có tiếng ngâm bài thơ này.
3. Bố cục: 2 phần
- Phần 1: (Hai câu thơ đầu): Lời khẳng định chủ quyền của đất nước.
- Phần 2: (Hai câu còn lại): Quyết tâm bảo vệ chủ quyền, độc lập của dân tộc.
4. Giá trị nội dung
“Sông núi nước Nam” là bản Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên của dân tộc, khẳng
định chủ quyền về lãnh thổ của đất nước và nêu cao ý chí bảo vệ chủ quyền đó
trước mọi kẻ thù xâm lược.
5. Giá trị nghệ thuật
- Thể thơ thất ngơn tứ tuyệt ngắn gọn, súc tích.
- Ngơn ngữ dõng dạc, giọng thơ mạnh mẽ, đanh thép, hùng hồn.
III. Dàn ý bài phân tích
1. Hai câu thơ đầu: Lời khẳng định chủ quyền của đất nước
- “Nam đế”: hoàng đế nước Nam – ngang hàng với hồng đế các nước phương
Bắc, qua đó thể hiện lòng tự hào dân tộc.
- “Thiên thư”: sách trời. Giới phận lãnh thổ của người Nam được quy định ở sách
trời, điều này trở thành chân lý không thể chối cãi và khơng bất cứ ai có thể thay
đổi được điều đó (với người Việt và người Trung tơn thờ thế giới tâm linh, thì trời
chính là chân lý).
→ Khẳng định niềm tin, ý chí, tinh thần tự lập, tự chủ, tự cường của dân tộc.
2. Hai câu còn lại: Quyết tâm bao vệ nền độc lập, chủ quyền của dân tộc
- Kết cấu câu hỏi nhằm mục đích khẳng định nền độc lập dân tộc, khẳng định
niềm tin chiến thắng của dân tộc ta.
- Tác giả chỉ rõ, những kẻ xâm lược là trái đạo trời, đạo làm người - “nghịch lỗ”.
- Cảnh cáo bọn giặc sẽ thất bại khơng chỉ vì trái đạo trời mà cịn vì dân tộc ta sẽ
quyết tâm đánh đuổi, bảo vệ chủ quyền đất nước đến cùng.
III. Bài phân tích
Chủ quyền dân tộc ln là một vấn đề nóng bỏng khơng chỉ của thời điểm
hiện tại mà ngay cả trong những ngày q khứ xa xưa. Sơng núi nước Nam có thể
coi là một bản tuyên ngôn về độc lập, chủ quyền đầu tiên của dân tộc ta. Bài thơ
thể hiện ý chí kiên cường và quyết tâm bảo về chủ quyền lãnh thổ của ông cha.
Cuối năm 1076, quân Tống kéo sang xâm lược nước ta. Dưới quyền thống
lĩnh của Thái uý Lí Thường Kiệt, quân Nam chặn giặc tại phịng tuyến sơng Cầu,
đến tháng 3 năm 1077, đánh tan quân giặc. Truyền thuyết kể rằng, để khích lệ ý
chí chiến đấu của quân ta và làm tan rã tinh thần quân giặc, Lí Thường Kiệt cho
đọc bài thơ sau đây giữa đêm khuya trên bờ sông Cầu.
Mở đầu bài thơ, tác giả Lí Thường Kiệt đã khẳng định chắc chắn, mạnh mẽ
về vấn đề chủ quyền, ranh giới lãnh thổ của Đại Việt, đó là ranh giới đã được trời
định sẵn, là nơi sinh sống của người dân Đại Việt từ bao đời qua:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Lời khẳng định này không chỉ là lời khẳng định riêng của tác giả, mà nó đã được
trời định, là ý trời. Luận chứng sắc sảo của tác giả đó là bởi “sách trời” quy định.
Nghĩa là sự độc lập, chủ quyền về lãnh thổ ấy được viết trong sách trời, từ lâu trời
đất quy định, chứng giám. Đó là một sự thật hiển nhiên mà không bất cứ một ai có
thể chối cãi được. Câu thơ nhấn mạnh một chân lí đơn giản, hiển nhiên nhưng đầy
chiều sâu lịch sử sau mười thế kỉ đấu tranh của dân tộc ta, thể hiện tinh thần độc
lập tự chủ, tinh thần bình đẳng dân tộc:
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Khơng chỉ là có chủ quyền, có lãnh thổ riêng mà dân tộc ấy cịn có một
người đứng đầu, làm chủ các vấn đề, người dân của quốc gia ấy, đó chính là “vua
Nam”. Chủ quyền ấy, lãnh thổ và cương vực ấy không phải do người nước Nam
tự quyết định hay lựa chọn cho mình, người dân nơi ấy đã và đang sinh sống, làm
ăn từ rất lâu đời mà điều này là do sự định phận của “sách trời”, trời là đấng cao
quyết định mọi thứ của nhân loại, vì vậy mọi sự quy định của “trời” đều rất có giá
trị. Hai chữ “Rành rành” là được tác giả sử dụng để chỉ sự hiển hiện, tất yếu ấy mà
ai ai cũng có thể nhận biết, ai ai cũng phân biệt được. “Rành rành định phận ở
sách trời” có nghĩa lãnh thổ và chủ quyền ấy của người Nam đã được sách trời ghi
chép vô cùng rõ ràng, dù có bất cứ luận điểm, lý do nào cũng khơng thể chối cãi,
phủ định.
Như vậy với hai câu thơ đầu tiên, tác giả Lí Thường Kiệt khơng chỉ đưa lời
khẳng định hào sảng, chắc chắn về chủ quyền về vùng lãnh thổ, ranh giới quốc gia
cũng như quyền làm chủ của nhân dân nước Nam với quốc gia, dân tộc của mình
mà ơng cịn rất tỉnh táo và sắc sảo khi đưa ra được những luận cứ đúng đắn và
giàu sức thuyết phục mà tác giả đã nói lên một sự thật mà không bất cứ một kẻ
nào hay một thế lực nào có thể phủ định và bác bỏ được nó. Bằng giọng văn hào
hùng, mạnh mẽ nhưng ẩn chứa được niềm tự hào của Lí Thường Kiệt về chủ
quyền của dân tộc mình.
Từ nhận thức và niềm tin ấy về sơng núi nước Nam, Lí Thường Kiệt lên án
hành động xâm lược đầy tội ác, tham vọng bành trướng phi nghĩa của giặc Tống.
Âm mưu, hành động xâm lược của chúng đã làm trái ý trời, đã xúc phạm đến dân
tộc ta. Câu hỏi kết tội lũ giặc đã vang lên đanh thép, đầy phẫn nộ:
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Hai câu 3, 4 với giọng thơ đanh thép hùng hồn đã thể hiện tinh thần đoàn kết
chiến đấu của nhân dân ta quyết tâm đánh trả qn Tống xâm lược những địn chí
mạng để bảo vệ sông núi nước Nam. Chiến thắng sông Cầu (sông Như Nguyệt)
năm 1076 là minh chứng hùng hồn cho ý thơ trên. Triệu Tiết, Quách Quỳ cùng
hơn 20 vạn quân Tống đã bị quân dân Đại Việt đánh bại, quét sạch khỏi bờ cõi. Sự
thật hiển nhiên rằng, “Sông núi nước Nam” là do người Nam ở, người Nam làm
chủ. Nhưng lũ giặc không hề màng đến sự quy định mang tính tất yếu ấy, chúng
cố tình xâm phạm Đại Việt cũng là xúc phạm đến sự tôn nghiêm của đạo lí, của
luật trời: “Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm” hành động ngông cuồng, phi nghĩa này
của bọn chúng thật đáng bị phê phán, thậm chí đáng để trừng phạt bằng những
hình thức thích đáng nhất. Và ở trong bài thơ này, tác giả Lí Thường Kiệt cũng đã
đanh thép khẳng định cái kết cục đầy bi đát, ê chề cho lũ cướp nước, coi thường
đạo lí: “Chúng bay sẽ bị đánh cho tơi bời”. Với tất cả sức mạnh cũng như lịng tự
tơn, tính chính nghĩa của dân tộc Đại Việt thì lũ xâm lăng chỉ có một kết cục duy
nhất, một kết quả khơng thể tránh khỏi “bị đánh cho tơi bời”.
Bài thơ sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt hàm súc và cô đọng. Tác phẩm
chỉ có 28 chữ nhưng lại ẩn chứa những tư tưởng và tình cảm lớn: khẳng định độc
lập chủ quyền dân tộc và nêu quyết tâm chiến đấu bảo vệ nền độc lập đó. Nam
quốc sơn hà là bài ca yêu nước chống xâm lăng. Bài thơ đã khẳng định chủ quyền
dân tộc, ca ngợi sức mạnh chiến đấu để bảo vệ đất nước Đại Việt. Với nội dung
ấy, bài thơ mang ý nghĩa lịch sử như một bản Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên của
dân tộc Việt Nam.
V. Một số lời bình về tác phẩm
1. Các tác giả đời Lí đã đưa những truyền thống tốt đẹp của dân tộc vào văn học
viết. Trong các truyền thống ấy thì nổi bật lên là tinh thần quật cường, kiên quyết
bảo vệ nền độc lập đã giành được. Nước Đại Việt độc lập là một hiện tượng mà
vua chúa phương Bắc khơng muốn chấp nhận. Vì vậy, chỉ ít lâu sau khi tạm chấm
dứt được nạn phân tranh ở Trung Quốc và tạm ổn định sự thống trị trong nước thì
năm 981, nhà Tống đã đem quân sang xâm lược nước ta. Ý đồ thơn tính Việt Nam
đã bị Lê Hồn nhanh chóng đập tan. Nhưng thất bại thảm hại ấy đã không làm cho
vua Nhà Tống tỉnh ngộ. Và chỉ mấy chục năm sau, vua nhà Tống và Vương An
Thạch đã tiến hành một kế hoạch xâm lược có quy mơ hịng thơn tính Việt Nam.
Đứng trước nguy cơ ấy, nhà Lí đã chủ động để Lí Thường Kiệt đem qn tiến
cơng tiêu diệt các cứ điểm hậu cần mà nhà Tống đang tích cực chuẩn bị để đánh
phá nước ta. Chiến dich ấy của Lí Thường Kiệt đã phần nào làm nhụt nhuệ khí và
làm giảm sinh lực của quân xâm lược. Nhưng năm 1076 quân Tống vẫn kéo sang
cướp nước ta. Quân dân ta dưới sự chỉ huy của Lí Thường Kiệt đã chặn đánh
chúng từ biên giới, và sau cùng, lập phòng tuyến chống giữ ở sông Như Nguyệt
(tức sông Cầu). Cuộc chiến đấu ở đây diễn ra rất ác liệt. Tương truyền rằng, để
động viên tướng sĩ, Lí thường Kiệt đã làm bài thơ nổi tiếng - Nam quốc sơn hà.
Theo sách Trương tơn thần sự tích thì bài thơ này đã được thần sông Như Nguyệt
đọc lên hai lần để giúp vào việc đánh đuổi giặc ngoại xâm, một lần giúp Lê Hồn
(năm 981) và một lần giúp Lí Thường Kiệt (năm 1076).
(Theo Đinh Gia Khánh, Văn học đời Lí và những truyền thống của dân tộc, Văn
học Việt Nam – Thế kỉ X - Nửa đầu thể kỉ XVIII, NXB Giáo dục, 1998)