Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê
A. Sơ đồ tư duy Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê
B. Tìm hiểu bài Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê
I. Tác giả
- Hạ Tri Chương (659 - 744) tên tự Quý Chân, hiệu Tứ Minh cuồng khách, quê ở
Vĩnh Hưng, Việt Châu (nay thuộc huyện Tiêu Sơn, tỉnh Chiết Giang, Trung
Quốc).
- Cuộc đời:
+ Ông đỗ tiến sĩ năm 695.
+ Sau đó ơng rời q hương đến sinh sống, học tập và làm quan trên 50 năm ở
kinh đô Trường An, rất được Đường Huyền Tông vị nể.
+ Đến khi về già, ông xin từ quan về quê làm đạo sĩ - lúc ơng rời đi vua có làm
thơ ban tặng, các quan lại và hoàng tử đều đến đưa tiễn.
- Con người:
+ Ông là bạn vong niên của thi hào Lí Bạch, thường gọi Lí Bạch là “trích tiên”
(tiên bị đày).
+ Ơng thích uống rượu, tính tình hào phóng, được mọi người u q, kính trọng.
- Sự nghiệp văn chương:
+ Ơng có sở thích làm thơ.
+ Ơng để lại cho đời 20 bài thơ, trong đó bài thơ Hồi hương ngẫu thư là nổi tiếng
nhất.
II. Tìm hiểu chung tác phẩm
1. Thể loại
- Bản gốc do Hạ Tri Chương sáng tác được viết bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt
Đường luật.
- Bản dịch thơ của Phạm Sĩ Vĩ và Trần Trọng San đều được viết bằng thể thơ lục
bát.
2. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác
- Sau hơn 50 năm sống và cống hiến cho đất nước ở kinh đô Trường An, Hạ Tri
Chương quyết định từ quan trở về quê nhà. Năm 744, ông về đến quê nhà khi đã
86 tuổi. Vô cùng xúc động, nhà thơ đã sáng tác nên bài thơ nổi tiếng Hồi hương
ngẫu thư.
- Hồi hương ngẫu thư là tên chung của những bài thơ được Hạ Tri Chương sáng
tác lúc trở về quê nhà. Bài thơ được in trong sách giáo khoa là bài Hồi hương
ngẫu thư số 1.
3. Bố cục: 2 phần
- Phần 1: (hai câu thơ đầu): Tình yêu quê hương của tác giả.
- Phần 2: (hai câu còn lại): Tâm trạng của tác giả khi về thăm quê.
4. Giá trị nội dung
Bài thơ thể hiện một cách chân thực mà sâu sắc, hóm hỉnh mà ngậm ngùi tình u
q hương thắm thiết của một người sống xa quê lâu ngày, trong khoảnh khắc vừa
mới đặt chân trở về quê cũ.
5. Giá trị nghệ thuật
- Giọng thơ hóm hỉnh, ngậm ngùi.
- Phép đối.
- Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tự sự và biểu cảm.
III. Dàn ý phân tích tác phẩm
1. Hai câu thơ đầu: Hồn cảnh và tình u q hương của tác giả
- Câu thơ 1: Nhà thơ sử dụng các hình ảnh đối:
+ Tiểu (nhỏ, trẻ) - lão - (lớn, già)
+ li (rời đi, rời xa) - hồi (trở về, trở lại)
→ Cặp từ đối đã tạo nên sự đăng đối, nhịp nhàng trong câu thơ. Đồng thời, kể ra
được tình huống cảm động của nhà thơ: rời đi quê hương để xây nghiệp lớn từ khi
còn rất trẻ, đến khi trở về quê được thì đã rất già rồi.
→ Khoảng thời gian tác giả phải xa quê hương mình là rất lâu, nó dài gần bằng cả
một đời người. Chính vì thế, giây phút được đặt chân lại trên mảnh đất quê hương
trở nên thiêng liêng, cảm động hơn bao giờ hết.
- Câu thơ 2: Bức chân dung tự họa về mình của nhà thơ:
+ Hương âm vơ cải - giọng nói q hương vẫn thế, khơng có gì thay đổi.
+ Mấn mao tồi - tóc mai đã rụng rồi.
→ Cả 2 hình ảnh này đều mang ý nghĩa tượng trưng:
+ Giọng nói tượng trưng cho những hình ảnh, dấu vết, tình cảm cho quê hương
của tác giả - dù nhiều năm như vậy cũng không phai mờ - chỉ nội tâm nhân vật trữ
tình.
+ Tóc mai rụng là hình ảnh tượng trưng cho sự chuyển dời của thời gian, ý chỉ
thời gian đã trôi qua rất lâu rồi, từ một chàng trai trẻ tuổi trở thành một ông lão
rụng cả tóc - gần một đời người đã trơi qua - chỉ ngoại hình nhân vật trữ tình.
→ Hai hình ảnh được đặt cạnh nhau đã bổ trợ ý nghĩa và tôn nhau lên: tuy thời
gian đã qua rất lâu, ngoại hình đã thay đổi rất nhiều so với trước đây, nhưng
những tình cảm dành cho quê hương thì vẫn vẹn nguyên như thế.
→ Câu thơ khẳng định tình cảm yêu thương tha thiết mà nhà thơ dành cho quê
hương của mình.
→ Hai câu thơ đầu như một lời kể, một lời thở dài đầy thỏa mãn, chứa đựng
những tình cảm thầm kín, sâu nặng của người con xa quê nay được trở về.
2. Hai câu còn lại: Tâm trạng của tác giả khi về thăm quê
- Câu thơ diễn tả một tình huống vơ cùng trớ trêu mà nhân vật trữ tình gặp phải
lúc về quê:
+ Nhi đồng: chỉ những đứa trẻ nhỏ tuổi, thế hệ mới của ngôi làng, các em sinh ra
và lớn lên khi nhà thơ đã rời quê hương lên kinh đô Trường An rất lâu rồi.
+ bất tương thức: không nhận ra → Những đứa trẻ đang vui chơi không ai nhận ra
được tác giả là ai, đối với chúng ông là một người xa lạ.
+ Tiếu vấn: cười hỏi → Hành động thể hiện sự ngây thơ, vui vẻ, niềm nở của
những đứa trẻ thơ.
+ Khách tòng hà xứ lai?: Khách từ nơi nào đến chơi - câu hỏi đưa tác giả từ vị thế
một người con về thăm quê trở thành một vị khách đến ghé chơi.
→ Câu hỏi và thái độ của những đứa trẻ rất lễ phép, thân thiện và vui vẻ - đối lập
hoàn toàn với tâm trạng của nhà thơ, bởi trong tình huống éo le như thế, nhà thơ
khó mà vui vẻ được:
+ Mảnh đất xưa vẫn vậy, nhưng mọi người lại không nhận ra ơng.
+ Ơng trở thành một con người xa lạ, một vị khách ghé thăm.
→ Lũ trẻ càng vui sướng, cười tươi bao nhiêu thì tâm hồn nhà thơ lại càng hụt
hẫng, ngậm ngùi, xót xa bấy nhiêu.
→ Tác giả đã sử dụng âm thanh vui tươi, thơ ngây của những đứa trẻ để tạo sự
tương phản, từ đó thể hiện sự đau buồn, chua xót của chính mình.
→ Khẳng định tình yêu quê hương sâu đậm, thiết tha của ông - tuy thời gian đã rất
lâu, người dân đã khơng mấy ai cịn nhớ đến ơng nữa và chính ơng đã trở thành
một người khách - nhưng ơng vẫn yêu thương, trân trọng quê hương mình như
thuở ban đầu.
- Bản dịch thơ của Phạm Sĩ Vĩ đã làm mất đi nét nghĩa hay của 2 câu thơ cuối: khi
bỏ đi chi tiết tiếng cười của trẻ và tạo thành hình ảnh đứa trẻ khơng ngoan (thấy lạ
nên khơng chào) → Bản dịch này không được sát nghĩa như bản dịch của Trần
Trọng San.
IV. Bài phân tích
Tha hương, xa xứ là nỗi bi kịch lớn trong đời của mỗi người, nhất là đối với
các nhà thơ có tâm hồn nhạy cảm, họ càng thấm thía và đau xót hơn về nỗi đau ấy.
Hạ Tri Chương là người từng trải qua nỗi sầu xa xứ, ông phải rời quê từ thuở trẻ
để lên kinh đô lập nghiệp. Ở nơi đất khách quê người nỗi nhớ cố hương ln
thường trực canh cánh trong lịng ơng, chính vì thế được trở về q hương lịng
người trào dâng bao cảm xúc khôn tả. Bài thơ “Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về
quê”, Hạ Tri Chương đã thể hiện sâu sắc khoảnh khắc vừa chân thực vừa xúc
động nghẹn ngào của một người con xa quê lâu ngày trở về.
Cũng như Lý Bạch, Hạ Tri Chương xa quê từ lúc còn thơ bé. Quê hương
với bao kỉ niệm thân thương, gần gũi với tuổi thơ ấu của mỗi người. Có lẽ chẳng
mấy ai muốn xa quê, nơi đã gắn bó thành máu, thành hồn. Mở đầu bài thơ bằng
thủ pháp tiểu đối đã nêu lên một cảnh ngộ: tác giả phải từ biệt gia đình từ lúc ấu
thơ, từ nhỏ không được sống ở quê. Nơi đất khách quê người gợi bao buồn khổ.
Rồi đến khi tóc đã pha sương mới có dịp được trở về:
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi
(Khi đi trẻ, lúc về già)
Xa quê từ ngày còn thơ bé, khi trở lại đã già rồi. Thời gian cách biệt không phải là
3 năm, 15 năm mà hơn nửa thế kỉ, gần một đời người sao lại không thương nhớ?
Cảnh ngộ ấy là bi kịch của vị quan đời Đường trên con đường công danh. Cuộc
đời đầy sóng gió, con người ta với một lần sinh ra và một lần vĩnh viễn ra đi vào
cõi vĩnh hằng. Do vậy cuộc sống của họ luôn cố gắng phấn đấu cho được một chút
công danh. Với Hạ Tri Chương công danh đã thành đạt nhưng phải li gia, xa q
nhà u dấu của mình. Có thể nói rằng đây chính là khối sầu, là một nỗi đau của
bất cứ ai lâm vào cảnh ngộ này:
Hương âm vơ cải, mấn mao tồi
(Giọng q vẫn thế, tóc đà khác bao)
Ở đây tác giả dùng phép tiểu đối để khẳng định tình cảm của tác giả với quê
nhà. Quê hương trở thành máu thịt, tâm hồn đối với mỗi con người. Nó trở thành
một phần cuộc đời của mỗi con người. Do vậy suốt một đời xa quê, mái tóc đã
điểm sương, nhuốm màu của thời gian, gió sương cát bụi phong trần,
nhưng hương âm (giọng quê) vẫn không thay đổi. Giọng q chính là hơi thở,
tiếng nói của quê hương. Trong giọng nói ấy mang hơi thở của đất mẹ, của quê
cha đất tổ mà dẫu ở phương trời nào cũng không thay đổi. Chi tiết này cho thấy
tình cảm của tác giả ln gắn bó với q hương, nơi dịng sữa ngọt ngào, tiếng ru,
tình thương của mẹ hiền... Trong cái biến đổi sương pha mái đầu và cái không đổi
“giọng quê vẫn thế” thể hiện tấm lịng chung thuỷ, sắt son với nơi chơn nhau cắt
rốn của mình. Tình cảm ấy thật đẹp, thật đáng tự hào với Hạ Tri Chương. Hơn nửa
thế kỉ làm quan phục vụ triều đình tại Kinh đơ Tràng An, đứng trên đỉnh cao danh
vọng, sống trong nhung lụa vàng son thế mà tình cố hương trong ơng vẫn khơng
thay đổi. Đó là điều đáng kính phục.
Trở về nơi mà gần cả cuộc đời xa nó, ắt hẳn sẽ gặp ít nhiều nghịch lí:
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức
Tiếu vấn: khách tòng hà xứ lai?
Lẽ thường, về thăm quê, trở lại nơi chôn rau cắt rốn, nhà thơ phải mừng vui
sung sướng. Song, phải đọc tới hai câu thơ cuối, người đọc mới hiểu được cái
duyên cớ xui khiến thi nhân làm thơ và khiến nhà thơ ngậm ngùi. Sự ngậm ngùi
ấy xuất phát từ những đổi thay của quê hương. Bạn bè người quen chắc chẳng cịn
ai, nếu có cịn thì chắc cũng ai nhận ra tác giả. Đúng như vậy, đón nhà thơ là đàn
em nhỏ vui vẻ cười nói và rất hiếu khách. Trớ trêu thay, khơng phải vẻ ngồi của
tác giả làm các em khơng nhận ra mà là việc trong mắt các em, tác giả trở nên
hồn tồn xa lạ. Một vị khách ngay chính tại quê hương mình, sinh ra và lớn lên ở
quê hương mà không được coi là người con của quê hương. Một câu hỏi hồn
nhiên ngây thơ của nhi đồng để lại trong lòng tác giả nỗi buồn man mác bâng
khuâng.
Ta có thể thấy sự chuyển đổi giọng điệu giữa hai câu đầu và hai câu sau khá
rõ nét. Nếu như hai câu đầu chủ yếu mang giọng khách quan, cái ngậm ngùi chỉ
được thể hiện ngầm ẩn. Dấu ấn thời gian in đậm nét trong các câu thơ, mọi thứ
đều thay đổi duy chỉ có giọng quê là vẫn giữ nguyên. Trong hai câu sau hoàn cảnh
trở nên ngang trái, trớ trêu: nhà thơ trở thành khách trên chính quê hương của
mình. Sự tươi tỉnh, hồn nhiên, cùng câu hỏi của bọn trẻ đã làm rõ hơn sự thay đổi
của con người, của quê hương. Như vậy, ẩn sau giọng điệu bi hài, hóm hỉnh là
cảm giác buồn bã, ngậm ngùi của một người con luôn tha thiết yêu quê hương.
Bài thơ có kết cấu độc đáo, giữa hai phần tự nhiên, hợp lý, gây được bất
ngờ cho người đọc. Tác giả vận dụng nghệ thuật đối tài tình cho thấy sự đổi thay
của nhiều yếu tố song chỉ có tình u q hương của tác giả là khơng đổi. Ngôn
ngữ dồn nén, giàu sức biểu cảm. Với lớp ngôn từ vừa đùa vui, hóm hỉnh vừa ngậm
ngùi, buồn bã đã cho thấy tình yêu quê hương tha thiết, sâu nặng của tác giả. Qua
tác phẩm này ta cũng thấy được tình yêu quê hương là một tình cảm thiêng liêng
và đáng trân trọng.
V. Một số lời bình về tác phẩm
1.
Hạ Tri Chương – người phát hiện “Trích tiên Lí Bạch”
Vào khoảng năm 742, Đường Huyền Tông xuống chiếu vời Lí Bạch vào
cung. Khi thi sĩ họ Lí vừa xuất hiện, nhà vua thân chinh rời ngai vàng bước xuống
đón ông. Mọi người trong nội điện vô cùng kinh ngạc, bởi điều ấy chưa bao giờ
xảy ra nơi cung cấm trừ khi đấng chí tơn đón thái hậu hoặc thái thượng hoàng.
Hạ Tri Chương lúc ấy là thái tử tân khách đang có mặt cạnh Huyền Tơng
cúi đầu bẩm rằng:
– Mn tâu hồng thượng, trong con mắt của hạ thần, người này là vị Trích
tiên giáng trần.
Lời tâu của Hạ Tri Chương càng khiến cho Huyền Tông thêm yêu mến kẻ thần
tử tài hoa họ Lí. Trong lúc hứng khởi, Huyền Tơng nói với Lí Bạch:
– Khanh là một người áo vải mà tiếng tăm được trẫm biết đến, nếu khơng phải là
sẵn chứa đạo nghĩa thì sao được vậy.
Liền đó truyền chỉ ban cho ơng chức Cung phụng ở Hàn lâm viện, chuyên
lo những việc giấy tờ quan trọng.
Ở kinh đơ, Lí Bach kết thân với bảy người bạn. Họ thường cùng nhau tụ tập
uống rượu, ngâm thơ, đàn ca khơng dứt. Đó là Hạ Tri Chương, Nhữ Dương
Vương, Lí Thích Chi, Thơi Tơng Chi, Tơ Tấn, Trương Húc, Tiêu Toại. Tám tửu đồ
tự xưng là “Tửu trung bát tiên” (Tám ông tiên trong làng rượu).
(Theo Nguyễn Văn Mỳ, trong Chân dung các nhà văn thế giới, tập một, NXB
Giáo dục)