Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Giá trị văn hóa truyền thống trong thơ Nguyễn Khoa Điềm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.54 KB, 22 trang )

Giá trị văn hóa truyền thống trong thơ Nguyễn
Khoa Điềm
Nói đến Nguyễn Khoa Điềm, ai cũng dễ dàng hình dung ra một
phong cách thơ đẫm chất triết luận xuất phát từ vốn tri thức uyên bác
và bề sâu văn hoá trong mối liên tưởng vừa sắc sảo triết lý lại vừa
huyền ảo thấp thống bóng dáng văn hố cổ xưa của hồn dân tộc.
“Thơ ca Nguyễn Khoa Điềm chứa đựng nhiều chất liệu văn học
và văn hoá dân gian. Câu thơ dù ở thể thơ truyền thống hay thơ tự do
bao giờ cũng phảng phất phong vị của ca dao, tục ngữ. Chất hiền minh
của trí tuệ dân gian thấm đẫm trong từng từ” [9,tr.255]. Nguyễn Khoa
Điềm lại được sinh ra và lớn lên giữa lịng chiếc nơi văn hố Huế.
Chính cái chất Huế thâm trầm, hồng thành rêu phong ngả bóng làm
nhuộm tím nước con sơng Hương biếc xanh càng khiến thơ Nguyễn
Khoa Điềm sâu kín và lống thống chút bí ẩn mơ hồ. Nguyễn Xn
Nam đã có một nhận xét khá rõ nét: “Thơ Nguyễn Khoa
Điềm… có sức liên tưởng mạnh. Anh thường dẫn người đọc đi
từ quá khứ đến tương lai, từ khổ đau đến hạnh phúc, từ sách vở đến
đời sống” [7,tr.125]. Vâng, giàu vốn tri thức sách vở Đông Tây, ngồn
ngộn chất liệu đời thực là một thế mạnh tạo nên nhiều khoảnh khắc
loé sáng trong những liên tưởng độc đáo của thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Trong phạm vi bài biết này, chúng tôi xin được đề cập đến những
giá trị văn hoá truyền thống trong thơ anh.
Trong đời sống văn học những năm gần đây đã xuất hiện rất nhiều
những cơng trình nghiên cứu văn học trong mối quan hệ với văn
hoá. Điều này, phần nào mang yếu tố tất nhiên, vì suy cho cùng, văn
học chính là một bộ phận chủ yếu của văn hoá. Văn học bất kỳ một
dân tộc nào cũng mang hồn vía của dân tộc ấy. Tuy nhiên, làm cho
“tư liệu văn hoá” trong thơ sáng bừng lên giá trị thẩm mỹ mang tính
lay động cao khơng phải nhà thơ nào cũng thành công, chưa kể đến
việc những vốn liếng văn hoá ấy phải được đan quyện vào và chung
sống cùng hiện thực thời đại. Trong thơ ca Việt Nam có khơng ít tác




giả đã sử dụng vốn văn hoá làm nền tảng sáng tạo nhằm làm mới vốn
cổ mà ai cũng biết rằng rất quý. Nhưng sử dụng vốn văn hoá cổ đặt
trong trường liên tưởng mạnh mẽ của hiện thực cuộc sống để tạo nên
gương mặt thơ riêng, không phải ai cũng đạt được thành công
như Nguyễn Khoa Điềm. Qua nghiên cứu thơ Nguyễn Khoa Điềm,
chúng tôi xin được rút ra những giá trị văn hoá truyền thống được anh
sử dụng khá nhiều trong các tác phẩm thơ lẻ và trường ca.
1- Lòng tự hào về cội nguồn dân tộc:
Ai cũng biết, vật biểu (vật tổ) của dân tộc Việt Nam khác với các dân
tộc khác chính là yếu tố cặp đơi (hài hồ triết lý Âm Dương), vì thế,
biểu tượng nịi giống Việt Nam khơng phải là một con vật duy nhất
mà là một cặp đôi Âm trước Dương sau (nòi giống Lạc Hồng, nòi
giống Tiên Rồng) gắn liền với huyền thoại về những đàn chim Lạc
thẳng cánh về phương Nam mở nước và truyền thuyết Lạc Long Quân
– Âu Cơ đẻ ra trăm trứng Việt. Chính điều này khiến Nguyễn Khoa
Điềm liên tưởng ngay đến đôi cánh tự do của loài chim tổ (Cần lưu
ý trong triết lý Âm Dương, vật biểu của phương Nam chính là Chim):
“Một

đất nước

Từ buổi đầu tiên
Mang dấu hiệu cặp cánh tự do của bầy chim Lạc
Qua suốt bốn nghìn năm” (Nghĩ về một nhãn hiệu).
Cũng theo văn hoá học, vật biểu của phương Đơng lại là Rồng,
vì thế để khơi mào cho một khái niệm Đất Nước hoàn chỉnh, Nguyễn
Khoa Điềm liên tưởng ngay rằng:
“Đất


là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng” (Mặt đường khát vọng).
Từ những liên tưởng ấy, Nguyễn Khoa Điềm lập tức kéo


quá khứ nối về hiện tại của thời mình đang sống và chiến đấu
(thời đánh Mỹ):
“Chắc

những đứa con của Âu Cơ từng lên rừng và xuống biển

Cũng không nhớ thương nhau nhiều như ta nhỉ?
Anh nhớ em làm mỗi ngọn lửa cũng nhớ em
Lửa cháy trong rừng Trường Sơn bao đêm” (Trên núi sơng).
Và vì thế, cội nguồn dân tộc, gốc gác tổ tiên luôn nhắc nhở mọi
người Việt rằng:
“Hàng

năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ” (Mặt đường khát vọng).
Bái vọng tổ tiên, yêu quê cha đất tổ, chính là những yếu tố góp phần
làm nên truyền thống yêu nước Việt nam.
2-Truyền thống của nền văn hố nơng nghiệp lúa nước
Trong hai loại hình văn hố của thế giới thì Việt Nam là điển hình
của loại hình văn hố gốc nơng nghiệp (loại hình văn hố gốc du

mục điển hình là phương Tây). Chính cái gốc văn hố nơng nghiệp
này đã chi phối rất lớn đến mọi sinh hoạt và đời sống Việt Nam.
Trong thơ Nguyễn Khoa Điềm gốc văn hố nơng nghiệp gắn liền với
nghề trồng lúa nước được thể hiện ở nhiều góc độ.
2.1- Một dân tộc chuyên đắp đê chống lũ
Có một nhà nghiên cứu văn hố đã cho rằng: Có hai yếu tố chi phối
mạnh mẽ đến đời sống văn hoá Việt Nam, đó chính là: ln phải đắp
đê chống lũ và tồn tại bên cạnh một nước lớn luôn muốn thâu tóm
mình. Đúng vậy, một đất nước sinh tồn bằng sản xuất nơng nghiệp thì,
đắp đê ngăn lũ như một mệnh lệnh thiêng liêng để mà tồn tại:
“Đất

Nước

Phải chặt tre, đóng cọc mà giữ lấy!


Đất Nước
Phải đan phên, đổ đất mà giữ lấy!
Đất Nước
Phải phá nhà, chặt cây vườn vác ra mà giữ lấy
Đất Nước
Phải neo người xuống sông, chặn nước mà giữ lấy!
Đất Nước
Đất Nước không thể trôi được!
Máu xương, mồ mả tổ tiên đã trơi đi
Những dịng họ đã trơi đi
Nhưng hơm nay khơng thể nào trơi được!”.
Hơm nay đang tích tụ dồn nén sức mạnh quá khứ bốn nghìn năm
của dân tộc luôn đối đầu với nước lũ và đối mặt với nước lớn để mà

giữ nước:
“Đất

Nước

Đang gầm lên trong sóng gió ngất trờ
Hàng chục triệu thước khối nước đang lao vào mặt đất
Cuộc xáp trận của vật chất muốn đè vật chất
Của thiên nhiên đè xuống con người”.
Và khi nhắc đến truyền thống đắp đê chống lũ, Nguyễn Khoa Điềm
liên tưởng ngay đến nhân vật Sơn Tinh trong cuộc chiến với
Thuỷ Tinh. Quá khứ đang hướng về hiện tại đánh Mỹ của toàn dân
tộc, về chống “cơn lũ dữ” Đế quốc Mỹ, Nguyễn Khoa Điềm, từ hiện
tại còn mở rộng thời gian liên tưởng đến cả tương lai và không gian
toàn nhân loại:


“Sơn

Tinh đang nhìn ta lo lắng đăm đăm

Cả nhân loại đang nhìn ta cổ vũ
Con cháu ta mai sau hối hả lật từng trang sử
Ngợp trước con đê sông Hồng lên cao, lên cao…
Chào 4000 năm! Con đê như một cánh tay cao
Của thế trận những người làm chủ
Làm chủ cuộc đời và lướt từng đỉnh lũ” (Mặt đường khát vọng).
2.2- Văn hố làng, xã nơng thơn
Theo các nhà văn hố thì trong các đơn ngun văn hố Việt Nam,
văn hố làng (xã) chiếm một ví trí vơ cùng quan trọng. Nó được xem

là một đơn ngun điển hình của nền văn hố gốc nơng nghiệp. Hai
đặc trưng cơ bản của văn hố nơng thơn là tính cộng đồng và tính tự
trị. Khi vượt ra khỏi phạm vi Làng để vươn đến phạm vi Nước, tính
cộng đồng của làng (xã) nơng thơn sẽ nâng lên thành tinh thần đồn
kết dân tộc, và tính tự trị của làng (xã) sẽ nâng lên thành ý thức độc
lập dân tộc ở phạm vi Nước. Đối với người Việt các đơn vị trung gian
giữa Làng và Nước đều không quan trọng, họ chỉ biết “sống ở làng,
sang ở nước”. Vì vậy, khi xong nhiệm vụ với Nước, họ trở lại nơi
“chôn nhau cắt rốn” của mình: “Đánh xong giặc trở về ngơi làng lại
cần cù lam lũ với cái cày, con trâu. Nhưng sự vĩ đại của nhân dân
chính là ở đó” [6, tr.276]. Chính những sản phẩm nhỏ nhoi họ làm ra
hàng ngày đã góp phần hình thành Đất Nước:
“Hạt

gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất nước có từ ngày đó”.
Cái dáng cầm cuốc, cầm cày từ đời này nối sang đời khác đã làm
nên cái nền móng văn hố nơng nghiệp nơng thơn Việt Nam:“Có tổ
tiên ta cầm cuốc, cầm cày”. Và mãi mãi muôn đời con cháu về sau
ln ghi khắc trong sâu thẳm lịng mình hình dáng cha ông trên ruộng
đồng làng, trên những cánh đồng làng bạt ngàn màu xanh của lúa:


“Lúa

lên xanh trên những cánh đồng

Cũng có tay cha ơng in vào trong lúa
Sâu thẳm quá cho đến từng mái rạ

Cũng có dáng một ngày cha ơng khăn gói bước ra” (Mặt đường
khát vọng).
Chính vì thế, cái đất làng, cái nền làng, cái đình làng là vơ cùng
quan trọng. Nó gắn chặt với đời sống người dân quê Việt Nam “chân
đất đầu trần”:
“Ôi

cái nền làng ta

Dựng lên cùng thớ đất
Ta quen đi chân trần
Thăm nhau mà thấy mát” (Cái nền căm hờn).
Chính những người dân q ấy, chứ khơng phải ai khác hơn, theo
Nguyễn Khoa Điềm, họ đã làm nên Đất Nước. Đất nước hình thành
qua những sinh hoạt mang đậm nét văn hố làng (xã) truyền thống
Việt Nam:
“Khơng

ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”
(Mặt đường khát vọng).
2.3- Văn hố mơi trường sơng nước



Nền văn minh lúa nước Đông Nam Á được xem là chiếc nơi của
nghề trồng lúa trên tồn thế giới. Chính vì thể, yếu tố sơng nước cũng
là một điển hình của loại hình văn hố gốc nơng nghiệp Việt Nam. Tổ
quốc, Quốc gia đối với nhiều dân tộc có thể là những khái niệm trừu
tượng, nhưng với những người dân nông nghiệp Việt Nam, những
khái niệm ấy là vô cùng đơn giản và gần gũi. Đó chính là hai yếu tố
chính của nền sản xuất nơng nghiệp: Đất và Nước. Nhưng vì là nền
nơng nghiệp lúa nước, sống trong môi trường sông nước nên lúc cần
họ chỉ cần gọi Tổ quốc là “Nước”, cũng là yếu tố đầu tiên trong bốn
yếu tố quan trọng: “Nước, phân, cần, giống” của cư dân nông nghiệp.
Bản thân Nguyễn Khoa Điềm cũng đã lý giải: “Vì khi làm nơng
nghiệp, số phận nhân dân đã gắn chặt với số phận dịng sơng. Vậy thì
văn hố ắt phải mang gương mặt dịng sơng” [6, tr.177]:
“Ơi

những dịng sơng bắt nước từ đâu

Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi” (Mặt đường khát vọng).
Môi trường sông nước đã khiến trong ngơn ngữ Việt Nam có hẳn
một trường từ ngữ sông nước đúc kết từ lâu đời. Ta gọi “Mặt trời
mọc” chính là ngơn ngữ của hạt mầm nơng nghiệp, gọi “Mặt trời
lặn” chính là ngơn ngữ sơng nước. Và vân vân những trường nghĩa
sông nước trong ngôn ngữ Việt Nam: “ngụp lặn giữa dịng đời”,
“chìm trong bể khổ”, “chìm đắm trong suy tư”, “hồ sơ bị ngâm lâu”…
Và có lẽ cũng xuất phát từ nền văn minh sơng nước mà tất cả các
phong tục tập quán cũng vì sự tồn tại với môi trường tự nhiên và từng
bước định hình thành truyền thống:
“Người


dạy ta nghèo ăn cháo ăn rau

Biết ăn ớt để đánh lừa cái lưỡi
Cái cuốc, con dao, đánh lừa cái tuổi
Chén rượu đánh lừa cơn mỏi, cơn đau
Con mộm nan tre đánh lừa cái chết


đánh lừa cái rét là ăn miếng trầu
Đánh lừa thuồng luồng xăm mày xăm mặt” (Mặt đường khát
vọng).
3- Văn hoá dân gian
3.1- Trị chơi dân gian
Đó là những trị chơi truyền thống gắn liền với tuổi thơ của mỗi
con người, mỗi vùng đất. Hẳn cậu bé Nguyễn Khoa Điềm cũng đã
từng gắn chặt tuổi thơ mình cùng những trị chơi nên cái sức mạnh văn
hoá truyền thống ấy đã là hành trang khơng thể thiếu của đời người.
Đó là trị thả diều, một trò chơi dân gian nổi tiếng của xứ Huế mà cho
đến bây giờ “diều Huế” trở thành một thứ “đặc sản” văn hoá rất riêng:
“Biết

ơn những cánh sẻ nâu đã bay đến cánh đồng

Rút những cọng rơm vàng về kết tổ
Đã dạy ta với cánh diều tuổi nhỏ
Biết kéo về cả một sắc trời xanh”.
Đó cịn là chuyền nẻ kết hợp nhuần nhuyễn giữa động tác và lời
đồng dao đi cùng động tác:
“Biết


ơn trò chơi tuổi nhỏ mê ly

“Chuyền

chuyền một…” miệng, tay buông bắt

Ngôn ngữ lung linh quả chuyền thoăn thoắt
Nên một đời tiếng Việt mãi ngân nga” (Mặt đường khát vọng).
Từ một trò chơi tưởng chừng con trẻ vô bổ ấy, khi đã trở thành
giá trị văn hố truyền thống thì nó chứa một sức mạnh vơ song: một
tình u tiếng nói dân tộc đến nặng lòng. Và trò chơi “đánh trận giả”
thuở ấu thơ lại cũng hiện về làm nền tảng sức mạnh trên bước đường
ta ra trận thật – trận đọ sức mất còn cùng siêu cường quốc Mỹ:
“Lối

đường làng ta chọc chú ve xưa


Nay là lối em ta đào hầm đặt bẫy
Những trận giả trẻ con ta từng chơi, buổi ấy” (Gửi anh Tường).
3.2- Văn học dân gian
Văn học dân gian vốn là một biểu hiện cụ thể của văn hóa dân
gian. Đó là nền văn chương truyền miệng tự xa xưa còn lưu mãi đến
ngày nay mà không cần chữ viết. Văn học dân gian Việt Nam cũng đa
dạng, phong phú không kém bất kỳ một nền văn học dân gian lâu đời
nào trên thế giới. Đó là những thần thoại, truyền thuyết, những ca dao,
tục ngữ:
“Đất


Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại

Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
Và: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” (Mặt đường
khát vọng) để rồi vận vào tục ngữ, ca dao hình thành nên tính cách của
con người Việt Nam hiện đại: “O phó bí thư mười bảy tuổi/ “ăn chưa
no, lo chưa tới” mẹ ơi” (Người con gái chằm nón bài thơ). Đó cịn là
Đất nước của hàng ngàn pho chuyện cổ tích có tự thời “ngày xửa ngày
xưa”: “Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ
thường hay kể” (Mặt đường khát vọng) và:
“Em

ta nay là máu, lửa căm thù

Không kịp nghe Thạch Sanh và tròn tiếng mẹ ru” (Gửi anh
Tường)
Hay: “Em nghe không trái thị đã rơi xuống tay Người…
Khi trái thị chạm tay Người và Người ấp ủ
Thì lừng hương và cô Tấm bước ra


Đi trả thù và sống Tự do”(Mặt đường khát vọng).
Trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước được phô bày với tất
cả vẻ đẹp lung linh của truyền thống văn hóa vừa gần gũi, cụ thể lại
vừa thiêng liêng, huyền ảo.
4- Văn hoá phong tục, tập quán:
Phong tục, tập quán cũng là một thành tố quan trọng trong văn hóa

tổ chức đời sống cá nhân của người Việt. Đó là những phong tục, tập
quán được truyền nối từ thế hệ này sang thế hệ khác. Theo nguời
Việt, khi một sinh linh được sự tác hợp Âm Dương của Cha
và Mẹ vừa mới hình thành như một hạt máu, bản thân nó đã có
sự sống riêng trong lịng người mẹ. Người mẹ lúc này khơng chỉ sống
cho riêng mình mà sống cả vì sự sống của thai nhi trong bụng. Vì thế,
cái phong tục tính “tuổi mụ” trở thành một phong tục thiêng liêng
trong quan niệm tín ngưỡng về mười hai bà mụ:
“Biết

ơn mẹ vẫn tính cho con thêm một tuổi sinh thành

“Tuổi

của mụ” con nằm trong bụng mẹ

Để con quý yêu tháng ngày tuổi trẻ
Buổi mở mắt chào đời, phút nhắm mắt ra đi”.
Đó là tập quán “miếng trầu là đầu câu chuyện” có từ thuở các vua
Hùng dựng nước bằng câu chuyện “Trầu cau” ăm ắp nghĩa tình vừa
mang yếu tố truyền thuyết lại vừa đậm yếu tố đời thường của cổ
tích: “Đất nước bắt đầu với miếng trầu bà ăn”. Đó là tập quán thể
hiện quan niệm “cái răng cái tóc là góc con người” của người Việt cổ
xưa: “Tóc mẹ thì bới sau đầu” (Mặt đường khát vọng). Đó cịn là tín
ngưỡng sùng bái con người thể hiện qua một thứ “tôn giáo” đặc sắc
Việt Nam: Đạo thờ cúng tổ tiên. Người Việt Nam quan niệm, khi chết
đi chỉ có phần vật chất (thể xác) là tiêu tan cịn tinh thần (linh hồn) thì
tồn tại vĩnh viễn và thường xuyên đi về trần gian thăm nom, phù trì
con cháu. Vì thế, bái vọng tổ tiên là điều khơng thể thiếu thể hiện sự
tôn trọng đầy thiêng liêng của người sống đối với người đã khuất:

“Con

lại về thăm ảnh cha xưa


Người chiến sĩ đánh Tây
Mười lăm năm, mới có mặt trên bàn thờ
Bạn con đến thắp nén nhang thơm ngát
Mắt cha vui phấp phới bóng trăm cờ” (Đất ngoại ơ).
Hồn thiêng cha ông vẫn cùng đi về cùng cháu con trong đời thực:
“Nơi

ta và tổ tiên

Vẫn đi về trước cửa
Nơi mùa màng vất vả
Vẫn thơm lừng mái phên” (Cái nền căm hờn).
Cái sâu bền của thơ Nguyễn Khoa Điềm chính là ở đó. Vừa linh
thiêng, quyến rũ vừa căng đầy sức mạnh của hiện thực cuộc đời.
5- Truyền thống lịch sử dân tộc:
Lịch sử và văn hóa là hai phạm trù vừa độc lập lại vừa rất thống
nhất. Tất cả mọi giá trị văn hóa vật chất và tinh thần đều phải
có bề dài lịch sử. Và từng thời kỳ, giai đoạn lịch sử dân tộc chỉ có ý
nghĩa khi gắn liền với những giá trị văn hóa từ quá khứ đến thời
kỳ lịch sử ấy. Truyền thống lịch sử dân tộc trong thơ Nguyễn Khoa
Điềm được thể hiện ở nhiều góc độ khác nhau.
5.1- Là một dân tộc mà lịch sử hình thành gắn liền với cơng
cuộc mở cõi về phương Nam
Lịch sử Việt Nam đã trải qua không ít những giai đoạn bị cắt chia
đất nước bởi nhiều lý do, song lịch sử một giai đoạn thường bị chi

phối bởi thế lực chính trị của giai đoạn lịch sử ấy mà thơi, cịn văn hóa
sử thì lại tồn tại vượt thời gian, vì thế nó trở thành sợi dây nối thiêng
liêng, dù vơ hình, làm nên sự thống nhất của dân tộc:
“Chúng

ta là người miền Nam

Nhưng tôi biết anh gốc gác họ Hoàng Kinh Bắc


Cịn tơi họ Nguyễn tỉnh Đơng
Huyết thống ta trơi trên bán đảo âm thầm
Hôm nay bỗng réo sôi từng hồi từng trận” (Mặt đường khát vọng).
Chính vì lẽ đó mà người Việt dù vơ cùng gắn bó với q cha đất tổ,
nhưng khi vì lợi quyền mở mang và thống nhất giang san, họ sẵn
sàng vui vẻ rời quê làm kẻ lưu đày, lao ra chiến trận: “Cầm giáo, cầm
khiên và cất tiếng hát lưu đày” (Mặt đường khát vọng). Lưu đày mà
cầm giáo, cầm khiên; lưu đày mà ra đi trong vang ca tiếng hát thì quả
là một cuộc lưu đày đầy thi vị và lạc quan. Đây cũng chính là nét văn
hóa truyền thống q báu của người dân Việt
5.2. Là truyền thống đánh giặc giữ nước
Đây là truyền thống nổi bật làm nên phẩm giá Việt Nam: “Đất
nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre và đánh giặc”. Lịch sử dân
tộc gắn liền với lịch sử đánh giặc giữ nước và vì thế:
“Hãy

nhìn rất xa

Vào bốn ngàn năm Đất nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về ni cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Có nhiều người đã trở thành anh hùng”,
trong đó có khơng ít những người mẹ anh hùng trực tiếp tham gia
đánh giặc:
“Mẹ

của con ơi hẳn mẹ sẽ yêu hơn


Thịt da mẹ vng trịn là thế đó
Chúng con xin đón mẹ vào đội ngũ
Hiếu thảo gia đình, chung thuỷ nước non”.
Đó là truyền thống của thần tích Phù Đổng Thiên Vương và cuộc
chiến thắng quân Nguyên Mông của quân dân thời Trần ngày trước:
“Đất

nước muôn năm

Nhưng ngựa đá lại xuống đường
Những bà mẹ đo chân vào thần tích
Để hồi thai triệu triệu những anh hùng”
Và: “Trong lặng im ai đó trả lời:
- Người Mỹ đừng quên đây là xứ sở
Của những Yết Kiêu bất tử!” (Mặt đường khát vọng).
Rồi cùng tiếp nối với ngọn cờ lau tập trận của Đinh Bộ Lĩnh thống
nhất giang sơn:

“Kỷ

niệm tuổi thơ phơ phất bóng lau qua

Lớp trẻ đi những triền đồi bãi sóng
Trên vai bạn cờ lau tập trận
Lịch sử ngàn năm là ước mơ nay
Xe đi trong rừng lau gió bay” (Lau).
Đánh thức truyền thống cha ông để kéo tuổi trẻ lầm lạc của miền
Nam trở về nguồn cội:
“-Sao

các anh đến Hoa Lư

Không đem theo mỗi người một cành lau
Để làm cờ và tập trận


Như Đinh Bộ Lĩnh ngày xưa từng ni chí lớn”.
Thế hệ này nối tiếp thế hệ kia, máu hòa trong máu làm nên sợi
chỉ đỏ vơ hình xun suốt chiều dài lịch sử:
“Máu

thấm sâu xuống mỗi mặt đường

Trần Hưng Đạo, Phan Bội Châu, Lê Lợi
Trên trăm lối những anh hùng để lại
Máu cháu con hồ với máu cha ơng” (Mặt đường khát vọng).
Đó cịn là truyền thống gần của những ngày đầu đánh Pháp bằng
“chiến thuật trái mù u” thô sơ nhưng không kém thông minh khiến kẻ

thù bao phen khiếp vía:
“Ơi

trái mù u động dưới chân Người

Cịn muốn theo người ra cản giặc” (Nơi Bác từng qua),
“Cho

tôi làm một trái mù u

Lăn theo chân các anh, các chị” (Con chim thời gian).
Chính truyền thống đã lưu truyền vào xương thịt một cách tự nhiên
làm nên sức mạnh:
“Cho

xương con có dáng trăm cọc bêu đầu

Cho mắt con có màu gươm của mắt nghìn người bị chém
Cho tay con có mười chiếc đinh của nghìn tay bị đóng” (Mặt
đường khát vọng).
5.3. Là quan niệm mang tính truyền thống dân chủ: Đất nước
của nhân dân
Chính nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã tự mình thú nhận khi được
hỏi về quan niệm Đất Nước trong trường ca “Mặt đường khát vọng”,
ông bảo: “ý tưởng xuyên suốt của tôi trong chương này là thể hiện
một Đất nước của nhân dân, do đó, từ ngữ, hình ảnh, chất liệu


thơ được sử dụng đều nhằm làm rõ ý tưởng này” [6, tr. 274]. Tác
giả đã khái quát về nhân dân, đó là những người:

“Có

ngoại xâm thì chống ngoại xâm

Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất nước của Nhân dân”.
Chính Nhân dân đã sáng tạo lịch sử và sáng tạo văn học, vì thế, đã
là “Đất Nước của Nhân dân” thì nhất định phải là “Đất Nước của ca
dao, thần thoại”. Nhân Dân trong thơ Nguyễn Khoa Điềm vừa khái
quát lại vừa cụ thể. Nhưng dẫu có thế nào họ vẫn là nhân vật trung
tâm làm nên Đất Nước:
“Những

người vợ nhớ chồng cịn góp cho Đất Nước những núi

Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hịn Trống Mái
Gót ngựa Thánh Gióng đi qua cịn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dịng sơng xanh thẳm
Người học trị nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiêng
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng
cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ơng Đốc, Ơng Trang, Bà Đen,
Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ơng cha
Ơi Đất Nước bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hố núi sơng ta” (Mặt đường khát vọng).
Và có lẽ, tập trung nhất, tiêu biểu nhất cho sự nối kết truyền thống



văn hoá - lịch sử để làm nên sức mạnh tổng hợp của tồn dân tộc,
chính là danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh. Vì sao? Vì:
“Có

Người, chúng tơi có lại Hùng Vương

Có lại dáng búp sen nghìn năm của chùa Một Cột
Và những búp sen miền Nam tận bùn lầy Đồng Tháp
Có Người cũng đã thành thơ
Có Người, mũi tên đồng Cổ Loa
Không chịu vùi dưới đất
Không nằm yên trong viện bảo tàng
Chúng bay lên xé gió thời gian
Mở hết đường bay qua thăng trầm lịch sử
Để cắm vào đầu giặc Mỹ”.
Người gọi dậy cả những giá trị văn hóa tưởng chừng như đã mất:
“Có

Người, pho Bồ Tát nghìn tay nghìn mắt

Biết toả hào quang từ hàng chục cánh tay
Có Người, pho Bồ Tát triều Lý chỉ cịn đầu
Vẫn ngun vẹn trong lịng chúng tơi nhờ búi tóc thời vua Hùng để
lại
Và pho Kim Cương trên đôi chân vững chãi
Dẫu mất đầu vẫn giữ một dáng đứng Việt Nam
Đấy, Đất Nước chúng tôi đổ vỡ biết bao lần
(cả những pho từ bi cũng khơng ngồi hoạn nạn

nhưng có Người, cái mất đi phải trả về hình dáng)


Q khứ được nhìn từ đơi mắt hơm nay
Và Hơm Nay từ đôi mắt Ngày Mai
Chúng tôi sống bằng Tương lai một nửa” ((Mặt đường khát vọng).
Quá khứ - Hôm nay – Ngày mai nối tiếp nhau, toàn dân theo con
đường Người đã chọn làm nên giá trị trường tồn bền vững của truyền
thống văn hóa nước nhà.
6- Văn hố Trị Thiên – Huế:
Sinh ra và trưởng thành trên vùng đất giàu giá trị văn hóa,
thơ Nguyễn Khoa Điềm thấm đẫm hồn Huế, chính vì thấm nhuần nền
văn hóa dân gian nơi chôn nhau cắt rốn nên khi khái quát về Đất
Nước, Nguyễn Khoa Điềm nghĩ ngay đến những câu ca dao bình dân
của xứ sở:
“Đất

là nơi “con chim phượng hồng bay về hịn núi bạc”

Nước là nơi “con cá ngư ơng móng nước biển khơi” (Mặt đường
khát vọng).
Đau thương tủi hờn những ngày Huế còn rên xiết dưới bàn chân
giặc, câu dân ca trữ tình cũng đứt đoạn nỗi niềm đau:
“Trước

bến Văn Lâu

Đau biết mấy lần mẹ hát khúc ca dao”.
Đó cịn là những vần “thơ mụ Đội”, câu chuyện của “cụ Trâu trên
khu phố buồn đau”, rồi:

“Đêm

đêm khơi từng ngọn lửa

Kể tơi nghe chuyện mụ lý, ơng cị…” (Đất ngoại ơ).
Đó cịn là những trị chơi dân gian gắn liền với vùng đất Huế, long
lanh sắc màu giữa chợ Gia Lạc:
“Con

gà đất bảy màu


Sống bằng hơi con trẻ
Hùng dũng gọi mùa xuân
Mặt trời vàng long lanh trên chợ Gia Lạc” (Con gà đất, cây kèn và
khẩu súng); là dòng Hương thơ mộng, bao đời trở thành chứng nhân
lịch sử của vùng đất kinh thành, là dịng sơng tri âm của nhiều danh
nhân tên tuổi:
“Biết

ơn dịng sơng dựng dáng kiếm uy nghi

Trong tâm trí một nhà thơ khởi nghĩa
Cao Bá Quát ngã mình trên chiến địa
Trăm năm rồi sông vẫn sáng màu gươm” (Mặt đường khát vọng).
Và gần hơn là lời Hịch phò vua những ngày cần Vương đánh Pháp:
“Qua

hồng thành cha ơng gọi tên tôi ù ù trong họng súng thần


công
Hịch Cần vương tưởng cịn vang qua chín cửa
Sắc đẹp nghìn xưa thấm từng trang lịch sử” (Đất ngoại ơ).
Đó cịn là vùng đất của những ngày cậu bé Nguyễn Sinh Cung theo
cha vào Huế học:
“Lớp

học nào Người đã đến ngồi đây

Những mùa thu im lìm lá đổ
Như vùi sâu cả bầu trời xứ sở
Xuống lịng sơng nức nở khúc nam ai” (Nơi Bác từng qua).
Đó cịn là những con phố Huế thân quen gắn với tuổi tên những anh
hùng, danh nhân dân tộc. Không đơn giản là những tên đường, tuổi
tên họ đã làm sống dậy truyền thống hào hùng trong những ngày Huế
sục sôi xuống đường tranh đấu:
“Trần

Hưng Đạo gối lên Phan Bội Châu


Phan Bội Châu nối tay Huỳnh Thúc Kháng
Qua cầu là Chi Lăng, Nguyễn Du
Vào đại nội có Mai Thúc Loan, Đoàn Thị Điểm
…Nhà

thơ cầm tay anh hùng” (Mặt đường khát vọng).

Văn hóa Huế một phần gắn chặt với sơng nước Hương giang
vì thế những vạn chài ven sơng trở thành một thứ văn hóa đầy

ám ảnh:
“những

người dân nghèo về đây

như vỏ hến chiều chiều tấp lên các bến” (Đất ngoại ô).
Nhà Nguyễn Khoa Điềm ở vùng Vĩ Dạ, mỗi bận qua lại bến Đập
Đá là mỗi một lần chứng kiến đời sống vạn chài lênh đênh sơng
nước: “Ơi những cuộc đời sụt lở dần theo con nước mỗi năm lùa vơ
Đập Đá”. Và từ cái chuyện văn hóa bến sơng, bãi cồn ấy, tác giả liên
tưởng ngay về mẹ, về lời mẹ dạy con xuất phát từ sự cần thiết của
nước ngọt trên những bãi ngô ven thôn Vĩ Dạ:
“Nước

mặn lên lúa héo ở bên cồn

Mẹ vẫn dặn “đổi nước ngọt” chứ đừng “bán nước” (Đất ngoại ô).
7- Truyền thống văn hóa – lịch sử thế giới:
Với vốn tri thức uyên bác của một người ham đọc và đọc nhiều,
Nguyễn Khoa Điềm nắm bắt được rất nhiều những tư tưởng triết học,
những giá trị văn minh nhân loại. Chính vì thế, trường liên tưởng của
thơ ông thường được tiếp sức bởi những tri thức văn hóa – lịch
sử nhiều lớp, nhiều tầng:
“Những

tội ác con người đã đi qua bỗng hồi sinh trở lại

Như những tầng diệp thạch vỡ làm đôi
Và những con bò sát khổng lồ ùa ra múa vuốt, liếm môi
Rồi những Khan Tác-ta bỗng bước ra từ bão cát



Rùng rùng đi tàn phá nước non này”.
Khi tố cáo tội ác tinh vi của Đế quốc Mỹ, tác giả đã mở rộng không
gian liên tưởng từ những giá trị văn hóa qua cái nhìn đối lập xưa –
nay:
“Những

bạo chúa tự hào lối đánh bánh xe quay?

Giờ đã có trực thăng treo người vào khơng khí”
Và: “Chuồng cọp của lãnh chúa xưa đáng gọi hôi tanh
Nay miệng những thằng ác ôn đã tanh ngòm gan với máu
Xưa “Luật cọ vế” là vinh hoa sáng tạo
Nay thú tính, dâm ơ thành lý thuyết tơn thờ” (Mặt đường khát
vọng).
Khơng chỉ văn hóa truyền thống của dân tộc mới ẩn chứa sức mạnh
và niềm tin, tất cả tinh hoa văn hóa nhân loại đều là gia sản chung của
nhân loại tiến bộ. Hơn ai hết, người Việt Nam u chuộng hịa bình,
cơng lý, tự do; hiểu rất rõ giá trị tinh thần của những nền văn hóa thế
giới, lấy nó làm sức mạnh, dồn vào làm nên cuồng phong đánh tan
giặc Mỹ. Chính “cái kiểu văn minh Mỹ” chứ không ai khác đã hủy
diệt những giá trị văn hóa được tồn nhân loại tôn thờ:
“Chúng

đánh cho ta khắc nghiệt trước cái hôn Ju-li-et – Rô-mê-ô

Không bén mảng những cánh rừng của Ang-đéc-xen, những bãi
biển Ta-go nhìn bầy con trẻ” (Mặt đường khát vọng).
Khơng những đánh mất giá trị văn hóa chung của nhân loại, Đế

quốc Mỹ cịn đánh mất văn hóa của chính cha ơng mình để lại:
“Mà

đến Việt Nam. Và đánh mất ở đây tất cả những giá trị cao quý
con người
Đánh mất Lin-cơn, Giép-phóc-xơn, Hê-ming-… trong những bãi
B.52” (Mặt đường khát vọng).
Trên bình diện văn hóa học, dân tộc Việt Nam luôn sống theo lối


qn bình Âm Dương, chính vì thế người Việt rất linh hoạt và cũng rất
lạc quan, người phương Tây thường gọi chúng ta là một dân tộc sống
“vì tương lai”. Chính vì thế, từ những ngày giữa rừng núi âm u, trong
bối cảnh bom gầm đạn rú, giữa cuộc chiến tranh một mất một còn, con
người bỗng thấy tự tin hơn, u đời hơn khi trải lịng mình vào âm
nhạc:
“Anh

nhớ đêm nào nghe nhạc Bet Tô Ven

Mưa thấm qua hầm dĩ nhờn trên mặt
Bom toạ độ vung xoè năm ngón sắt
Muốn bới tung chỗ kiêu hãnh ta nằm
Trong chương cuối cùng bản giao hưởng số năm
Đó là lúc trái đất vừa toả nắng
Ta reo lên cho nhạc sĩ nghe cùng:
- Thiên tài ơi, trận đánh, Anh cũng tấn công” (Gửi anh Tường).
Cũng bởi chính điều này mà biểu tượng văn hóa Châu Mỹ La tinh
Chê - ghê - va – ra luôn được lớp lớp thế hệ người Việt Nam tơn kính.
Trong biểu tượng tự do, bất khuất của Chê có cái gì đó rất Việt Nam.

Nếu nói như Chê là: “Nhân loại cần nhiều Việt nam cho nhân
loại” thì chúng ta cũng cảm nhận rất rõ rằng: Việt Nam cũng cần rất
nhiều những giá trị, những tinh hoa văn hóa của nhân loại để làm nên
sức mạnh Việt Nam:
“Tơi

hình dung Chê đứng trước cuộc đời

Mười họng súng kẻ thù giương tận ngực
Tỳ tay lên cái chết làm diễn đàn
- “Hãy nhớ lấy lời tôi!” – Chê kêu gọi
“Nhân

loại cần nhiều Việt Nam cho nhân loại”
(Hình dung về Chê Ghêvara).


Đến đây thì ai cũng có thể nhận ra rằng: sức mạnh của văn hóa
truyền thống là vơ cùng quan trọng đối với lịch sử một dân tộc. Và
cũng chính những giá trị văn hóa đó khi được cảm nhận sâu sắc
và đưa vào thơ sẽ tạo nên những khoảng âm vang rất lớn để thơ ca
trường tồn và song hành cùng lịch sử. Khơng cịn nghi ngờ gì nữa,
chính chiều sâu của những giá trị văn hóa đã tạo nên nét phong cách
riêng làm nên gương mặt thơ Nguyễn Khoa Điềm



×