Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Phát huy giá trị văn hóa truyền thống trong phát triển bền vững tại Tây Nguyên giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 101 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
==================





PHƢƠNG THỊ NHUNG








PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG
TRONG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TẠI TÂY NGUYÊN
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY



LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học







Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
==================






PHƢƠNG THỊ NHUNG





PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG
TRONG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TẠI TÂY NGUYÊN
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY


LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 03 08



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Phạm Ngọc Thanh


Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được
chỉ rõ nguồn gốc.
Học viên thực hiện Luận văn

Phương Thị Nhung
LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình thực hiện luận văn tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ
và động viên của quý thầy cô, gia đình và bạn bè.
Đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Phạm Ngọc Thanh về những ý
kiến đóng góp và sự chỉ dẫn tận tình của Thầy trong suốt thời gian tôi thực hiện luận văn này.
Xin cùng bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các Thầy giáo, Cô giáo trong khoa Triết học
trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn đã cung cấp cho tôi những tri thức quý báu trong
suốt quá trình học tập cũng như đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, bạn bè, những người đã luôn bên
tôi động viên, khích lệ và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 11 năm 2014
Tác giả luận văn



Phương Thị Nhung







1
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 3
1. Tính cấp thiết của đề tài 3
2. Tình hình nghiên cứu 5
3. Mục đích của luận văn 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 8
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 8
6. Đóng góp của luận văn 9
7. Ý nghĩa của luận văn 9
8. Kết cấu của luận văn 9
PHẦN NỘI DUNG 10
Chƣơng 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA
TRUYỀN THỐNG TRONG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 10
1.1. Giá trị văn hóa truyền thống 10
1.1.1. Văn hóa 10
1.1.2. Giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam 13
1.2. Phát triển bền vững 19
1.2.1. Khái niệm 19
1.2.2. Nội dung phát triển bền vững: 22
1.2.3. Định hướng chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam 24
1.3.Mối quan hệ giữa giá trị văn hóa truyền thống và phát triển bền vững 28

1.3.1. Ảnh hưởng của giá trị văn hóa truyền thống đến phát triển bền vững 28
1.3.2. Tác động của phát triển bền vững đến những giá trị văn hoá truyền
thống 31
Kết luận chƣơng 1: 32
Chƣơng 2. ẢNH HƢỞNG CỦA CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN
THỐNG TRONG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TẠI TÂY NGUYÊN
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI 34
2.1. Tổng quan về Tây Nguyên và các giá trị văn hóa truyền thống của
Tây Nguyên trong thời kỳ đổi mới 34

2
2.1.1. Thực trạng phát triển bền vững ở Việt Nam: Thành tựu và hạn chế 34
2.1.2. Tổng quan chung về Tây Nguyên trong thời kỳ đổi mới 36
2.1.1. Những giá trị văn hóa truyền thống của Tây Nguyên 38
2.2. Ảnh hƣởng của các giá trị văn hóa truyền thống đối với sự phát
triển kinh tế 52
2.3. Ảnh hƣởng của các giá trị văn hóa truyền thống đến phát triển
trong lĩnh vực xã hội, nâng cao chất lƣợng sống cho con ngƣời 57
2.4. Ảnh hƣởng của các giá trị văn hóa truyền thống đến bảo vệ môi trƣờng 60
2.5. Ảnh hƣởng của các giá trị văn hóa truyền thống đến chính trị, an
ninh – quốc phòng 63
Kết luận chƣơng 2: 66
Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA
TRUYỀN THỐNG TRONG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TẠI TÂY
NGUYÊN GIAI ĐOẠN TIẾP THEO 68
3.1. Các quan điểm định hƣớng 68
3.1.1. Chiến lược phát triển bền vững Tây Nguyên đến năm 2020 68
3.1.2. Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020 72
3.1.3. Định hướng phát huy giá trị văn hóa truyền thống trong phát triển
bền vững tại Tây Nguyên đến năm 2020 74

3.2. Một số giải pháp chủ yếu 77
3.2.1. Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách 77
3.2.2. Nhóm giải pháp về công tác cán bộ 79
3.2.3. Nhóm giải pháp về công tác giáo dục, tuyên truyền 82
3.2.4. Nhóm giải pháp về kinh tế và cơ sở hạ tầng 84
3.2.5. Nhóm giải pháp về các vấn đề văn hóa 86
Kết luận chƣơng 3: 90
PHẦN KẾT LUẬN 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 94

3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời kỳ đổi mới, xây dựng kinh tế trở thành nhiệm vụ trung tâm
của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Đảng và nhà nước đã huy động
tổng thể mọi nguồn lực cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Việc xác định nhiệm vụ trung tâm là yêu cầu khách quan của quá trình xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. Trong thời đại hiện nay bên cạnh việc phát triển
kinh tế xã hội, thì việc việc phát triển giá trị văn hóa truyền thống, xây
dựng nền tảng vật chất tinh thần của xã hội trở thành yêu cầu cấp thiết của
cuộc sống. Kinh tế ngày càng phát triển theo thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, các thành phần kinh tế được phát huy, giao lưu và
hội nhập quốc tế ngày càng nhiều. Nền kinh tế của nước ta đang từng bước
khởi sắc thoát khỏi khủng hoảng và đạt được nhiều thành tựu trên nhiều
mặt. Tuy nhiên, mặt trái của nó là không ngừng tác động xấu đến nhiều mặt
của đời sống văn hóa tinh thần, lối sống của con người và làm đảo lộn trật
tự xã hội. Chính vì vậy, phát huy giá trị văn hóa truyền thống là nhiệm vụ
chiến lược nhằm thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển nhanh và bền vững,
đồng thời còn có tác dụng điều tiết những hạn chế của kinh tế thị trường
đem lại sự ổn định cho xã hội.

Đứng trước những thách thức mới của thế giới hiện đại, vấn đề xây
dựng và phát triển đời sống văn hóa tinh thần càng có tầm quan trọng to
lớn. Nhận thức rõ điều này Đảng ta đã nhấn mạnh vai trò của giá trị văn
hóa truyền thống trong sự nghiệp đổi mới đất nước, trước những thời cơ và
thách thức mà dân tộc ta đương đầu. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII),
Hội nghị Trung ương 9 Khóa XI, và Hội nghị tổng kết 15 năm (1998 -
2013) thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 về văn hóa đã quyết tâm xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng

4
tinh thần của xã hội. Với 54 dân tộc anh em cùng chung sống trong một
lãnh thổ chung mỗi dân tộc lại mang một nét đặc sắc văn hóa đặc trưng cho dân
tộc mình góp phần hình thành nên một nền văn hóa Việt Nam rất phong phú, đa
dạng và giàu bản sắc. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
vấn đề văn hóa truyền thống và khai thác các giá trị văn hóa truyền thống phục
vụ sự phát triển đất nước là vấn đề được hầu hết các quốc gia trên thế giới quan
tâm. Việc quan tâm chú trọng đến nhân tố giá trị văn hóa truyền thống sẽ góp
phần vào sự nghiệp phát triển bền vững của đất nước trong thời kỳ hội nhập
quốc tế và mở rộng hợp tác trên tất cả các lĩnh vực.
Cùng với cả nước, Tây Nguyên cũng đang bước vào công cuộc xây
dựng phát triển kinh tế của địa phương. Sự phát triển kinh tế của Tây
Nguyên trong nhiều năm trở lại đây đã góp phần không nhỏ cho sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của cả nước. Nền kinh tế thị trường cùng với
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang tác động mạnh mẽ đến mọi
mặt của đời sống kinh tế xã hội của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên
trong đó có vấn đề giá trị văn hóa truyền thống. Những giá trị văn hóa
truyền thống đang đứng trước những thách thức về nguy cơ mai một dần.
Hiện nay, để tiếp tục xây dựng và phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội ở
Tây Nguyên, ngoài việc nghiên cứu để giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa
truyền thống của Tây Nguyên, cần có giải pháp hạn chế những tác động

tiêu cực của toàn cầu hóa đối với các giá trị văn hóa truyền thống, đảm bảo
cho quá trình phát triển bền vững. Tây Nguyên là một vùng kinh tế chiến
lược của cả nước, có vai trò quan trọng trong quốc phòng an ninh, do đó
mà vấn đề Tây Nguyên được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Do tính
đặc thù của Tây Nguyên, việc giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống có
ý nghĩa lớn trong sự phát triển bền vững của Tây Nguyên nói riêng và của
cả nước nói chung.

5
Xuất phát từ những điều nói trên, tác giả đã chọn đề tài “Phát huy giá
trị văn hóa truyền thống trong phát triển bền vững tại Tây Nguyên giai
đoạn hiện nay” làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Chủ nghĩa Mác – Lênin khi bàn đến vấn đề văn hóa đã khẳng định văn
hóa là một trong những động lực để thúc đẩy xã hội phát triển. Hiện nay,
giá trị văn hóa truyền thống đang thay đổi cùng sự thay đổi của kinh tế thị
trường vì vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu với những quy mô và cấp
độ khác nhau về văn hóa, giá trị văn hóa truyền thống. Đó là nguồn tư liệu
hết sức quý báu giúp cho em hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Nhóm công trình là sách nghiên cứu về giá trị văn hóa truyền thống Việt
Nam như sách của tác giả Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền
thống của dân tộc Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội. Cuốn
sách đã tập trung làm rõ khái niệm giá trị truyền thống của dân tộc và đưa
ra một số giá trị tiêu biểu của dân tộc, khẳng định vai trò của nó trong lịch
sử dựng nước và giữ nước.
Nhóm công trình nghiên cứu cấp nhà nước theo hướng đề tài về giá trị
văn hóa truyền thống như chương trình KX07 – 02/1994 của GS Phan Huy
Lê, TSKH Vũ Minh Giang “Các giá trị truyền thống của con người Việt
Nam”. Công trình nghiên cứu của GS Nguyễn Trọng Chuẩn, TS Phạm Văn
Đức, TS Hồ Sĩ Quý về “Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống trong quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” xuất phát từ quan điểm biện chứng
của lịch sử và quan điểm triết học văn hóa đã làm rõ mối quan hệ giữa giá
trị truyền thống với phát triển, nhấn mạnh vị thế chủ thể của văn hóa nội
sinh trong hội nhập, khẳng định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước nhất định thắng lợi khi khai thác và phát huy được vai trò của các
giá trị truyền thống.

6
Tài liệu liên quan đến vấn đề văn hóa Tây Nguyên và các gía trị văn
hóa truyền thống của Tây Nguyên có thể kể đến như luận án tiến sĩ Văn
hóa và con người Tây Nguyên trong văn xuôi nghệ thuật 1945 – 2000 của
tác giả Đặng Văn Vũ. Luận án đã làm nổi bật vẻ đẹp cũng như sự phong
phú của các giá trị văn hóa Tây Nguyên được thể hiện một cách độc đáo
trong các tác phẩm văn xuôi. Luận án cũng đã phân tích những yếu tố tiêu
cực của các sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của người Tây Nguyên. Luận án
nêu lên thực trạng biến đổi văn hóa ở Tây Nguyên theo hướng tích cực lẫn
tiêu cực đồng thời Luận án cũng đã làm hiện lên hình ảnh người Tây
Nguyên với những phẩm chất tốt đẹp của họ trong chiến đấu cũng như
trong cuộc sống thường nhật. Luận án cũng đã phân tích sự thay đổi về
phẩm chất con người Tây Nguyên trong thời buổi hòa nhập với các dân tộc
khác. Đó như là một sự cảnh tỉnh về hiện trạng đang mất dần đi vẻ đẹp đó
trong hiện tại và tương lai.
Nhóm tài liệu liên quan trực triếp đến vấn đề Tây Nguyên và phát triển
bền vững Tây Nguyên có thể kể đến các tài liệu như: cuốn sách của TS Bùi
Minh Đạo (2011), Một số vấn đề cơ bản của xã hội Tây Nguyên trong phát
triển bền vững, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội; TS Bùi Minh Đạo (2012),
Thực trạng phát triển Tây Nguyên: một số vấn đề phát triển bền vững, Nhà
xuất bản Khoa học Xã hội; TS Bùi Minh Đạo (2010), Tổ chức và hoạt động
buôn làng Tây Nguyên trong phát triển bền vững, Nhà xuất bản Khoa học
Xã hội; Lê Văn Khoa, Bùi Quang Tú (2014) Hướng tới phát triển bền vững

Tây Nguyên, Nhà xuất bản Tri thức. Những tác phẩm đã đề cập trực tiếp tới
vấn đề phát triển bền vững Tây Nguyên hiện trạng và giải pháp, những tồn
tại hạn chế trong phát triển kinh tế xã hội của Tây Nguyên hôm nay.
Nhóm tài liệu là Kỷ yếu hội thảo khoa học liên quan đến vấn đề Tây
Nguyên gồm có: “Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở Tây

7
Nguyên: Lý luận và thực tiễn” thuộc đề tài TN3/X07 do PGS.TS Phạm
Ngọc Thanh làm chủ nhiệm đề tài, Hà Nội ngày 12 tháng 4 năm 2013. Kỷ
yếu hội thảo: “Quản lý phát triển xã hội bền vững ở Tây Nguyên: thực
trạng và giải pháp” cũng nằm trong đề tài TN3/X07 tổ chức tại Buôn Ma
Thuột, tháng 5/ 2014. Đề tài đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của
vấn đề Tây Nguyên trong phát triển bền vững như phát triển kinh tế xã hội,
y tế, giáo dục, đào tạo hay phát triển nguồn nhân lực cho Tây Nguyên.
Trong các bài tham luận tại hội thảo đó có vấn đề về: “Nhận diện những
giá trị văn hóa truyền thống của Tây Nguyên” của PGS.TS Nguyễn Duy
Thiệu và vấn đề: “Biến đổi giá trị truyền thống tại Tây Nguyên và những
nhân tố tác động tới mô hình quản lý xã hội hiện đại” của Thạc sĩ Hoàng
Thị Hải Yến, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Trong bài
“Nhận diện những thách thức đối với quá trình phát triển bền vững vùng Tây
Nguyên”, PGS.TS Phạm Ngọc Thanh cũng phân tích một số khó khăn, hạn
chế cần phải khắc phục trong quá trình phát triển bền vững vùng Tây Nguyên.
Ngoài các công trình trên còn phải kể đến rất nhiều công trình nghiên
cứu khoa học khác như các luận văn, luận án, khóa luận viết về văn hóa,
giá trị văn hóa truyền thống ở các địa phương. Tuy nhiên, trong phạm vi
hiểu biết của học viên, chưa có một nghiên cứu toàn diện về “Phát huy giá
trị văn hóa truyền thống trong phát triển bền vững tại Tây Nguyên giai
đoạn hiện nay”. Vì vậy tác đã chọn vấn đề trên làm đề tài nghiên cứu cho
luận văn tốt nghiệp của mình.
3. Mục đích của luận văn

3.1. Mục đích của luận văn
Làm sáng tỏ thực trạng và giải pháp của việc phát huy những giá trị
văn hóa truyền thống trong phát triển bền vững tại Tây Nguyên giai đoạn
hiện nay.

8
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Làm rõ cơ sở lý luận của việc phát huy giá trị văn hóa truyền thống
trong phát triển bền vững tại Tây Nguyên.
Làm rõ thực trạng của việc phát huy giá trị văn hóa truyền thống
trong phát triển bền vững tại Tây Nguyên giai đoạn khoảng 10 năm gần đây.
Đề xuất một số giải pháp để có thể phát huy giá trị văn hóa truyền
thống trong phát triển bền vững tại Tây Nguyên giai đoạn tiếp theo.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Văn hóa và giá trị văn hóa truyền thống trong phát triển bền vững tại
Tây Nguyên giai đoạn hiện nay
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tác giả chủ yếu xem xét vấn đề dưới góc độ triết học văn hóa, lý giải
chúng trên cơ sở chủ nghĩa xã hội khoa học, chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận văn thạc
sỹ, tác giả không thể nghiên cứu tất cả những giá trị văn hóa truyền thống
trong phát triển bền vững tại Tây Nguyên giai đoạn hiện nay mà chỉ lựa
chọn một số giá trị tiêu biểu của các dân tộc Tây Nguyên như văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên, sinh kế hay chính là cách kiếm sống truyền thống của
các cư dân khu vực cao nguyên, vai trò của luật tục trong đời sống xã hội,
luật tục trong xã hội cổ truyền, tín ngưỡng dân gian, các giá trị văn hóa
khác…Qua đó chỉ rõ vai trò của giá trị văn hóa truyền thống trong phát
triển bền vững tại Tây Nguyên giai đoạn hiện nay.
Về thời gian nghiên cứu là trong thời kỳ đổi mới, tập trung vào khoảng

10 năm gần đây và hướng tới giai đoạn tiếp sau.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận

9
Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa, truyền
thống văn hóa dân tộc gắn với phát triển bền vững. Tác giả cũng có sử
dụng những thành tựu đã có của các công trình đi trước trong việc phân
tích cơ sở lý luận chung.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học về mối quan hệ của văn
hóa và phát triển xã hội.
Luận văn sử dụng phương pháp: phân tích - tổng hợp, lôgic – lịch sử,
đối chiếu so sánh và các phương pháp khác.
6. Đóng góp của luận văn
Làm rõ cơ sở lý luận về triết học và chủ nghĩa xã hội khoa học của
việc phát huy giá trị văn hóa truyền thống tại Tây Nguyên trong phát triển
bền vững.
Làm rõ thực trạng các giá trị văn hóa truyền thống tại Tây Nguyên
trong phát triển bền vững.
Đề xuất một số giải pháp cho việc phát huy giá trị văn hóa truyền
thống trong phát triển bền vững tại Tây Nguyên giai đoạn tiếp theo.
7. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ việc giảng dạy,
học tập và nghiên cứu các vấn đề như: văn hóa, giá trị văn hóa truyền thống
trong phát triển bền vững.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

gồm 3 chương, 10 tiết.


10
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN
THỐNG TRONG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1.1. Giá trị văn hóa truyền thống
1.1.1. Văn hóa
Cho đến tận hôm nay, những định nghĩa văn hóa đang được sử dụng,
trên thực tế, cũng vẫn chỉ là những định nghĩa có tính chất quy ước nhằm đi
tới một khái niệm thỏa thuận để tiện sử dụng, việc định nghĩa văn hóa do
vậy cũng vẫn đang được xem như là một điều thách thức. Những định
nghĩa mới xuất phát từ cách hiểu khác tiếp tục xuất hiện. Theo thống kê
hiện nay đã có hơn 700 định nghĩa về văn hóa.
Các nhà khoa học trên thế giới hiện nay đều đánh giá rằng những giá
trị văn hóa thực sự là một động lực tinh thần quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ
xã hội. Nó là yếu tố nối liền quá khứ với hiện đại, đem lại cơ sở để chúng
ta có thể nhận thức về bản thân mình và thời đại mình.
Nghiên cứu văn hóa Việt Nam không phải là công việc đến hiện nay
mới được tiến hành. Trái lại, với truyền thống của một đất nước ngàn năm
văn hiến, cha ông ta từ lâu đời đã làm công việc sưu tầm, ghi chép và
nghiên cứu văn hóa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định văn hóa là một mặt căn bản của xã
hội. Theo Người, văn hóa là một trong những mục tiêu, nhiệm vụ của sự
nghiệp xây dựng con người mới, xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta luôn luôn chăm lo xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, thể hiện sức sống mãnh liệt và sự trường tồn của
dân tộc Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương

Đảng khóa VIII khẳng định công cuộc đổi mới toàn diện đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện

11
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh đòi hỏi chúng
ta phải xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc… coi đó vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội.

Tại hội nghị quốc tế họp ở Mêhicô do UNESCO chủ trì họp từ 26/7
đến 6/8 năm 1982 người ta chấp nhận một quan niệm về văn hóa như sau:
“Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và
vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hoặc của
một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương,
những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các
giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người
những khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở
thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn
thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý
thức được bản thân, tìm tòi không biết mệt, ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên
những công trình vượt trội lên bản thân”[dẫn theo11, tr.5-6].
Định nghĩa văn hóa của Hồ Chí Minh: “Vì lẽ sinh tồn và phát triển
của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ
cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở, và các phương thức sử dụng. Toàn
bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của
mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản
sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh
tồn” [1. tr, 431].
Như vậy trong định nghĩa văn hóa của Hồ Chí Minh chúng ta thấy

được cái nhìn toàn diện về nguồn gốc, lịch sử của văn hóa, phạm vi rộng

12
lớn của văn hóa trong đời sống và trong toàn bộ hoạt động sinh hoạt của
con người.
Sở dĩ có những quan niệm khác nhau về văn hóa như vậy là do:
Thứ nhất, văn hóa là lĩnh vực có phạm vi bao quát rộng lớn, nó hiện
diện và tác động trong mọi lĩnh vực của đời sống con người, của xã hội, nó
vô cùng phong phú và phức tạp, vì vậy quan niệm về văn hóa cũng đa
nghĩa. Cũng vì vậy trong nghiên cứu văn hóa mỗi người có thể chọn những
góc tiếp cận riêng và hình thành những cách hiểu biết riêng về nó. Đó là
một thực tế không thể không chú ý khi nghiên cứu hiện tượng văn hóa.
Thứ hai, trong nghiên cứu văn hóa chúng ta thường thấy hiện tượng
phổ biến là các nhà nghiên cứu do những mục đích nghiên cứu khác nhau
thường có xu hướng “quy văn hóa vào những lĩnh vực hạn hẹp cụ thể”,
mặc dù việc giới hạn phạm vi nghiên cứu là yêu cầu của người nghiên cứu,
nhưng từ đó chỉ thấy văn hóa trong cái bộ phận, cái cá biệt của nó điều đó
là một hạn chế.
Ngày nay văn hóa không chỉ bó hẹp trong phạm vi cá nhân, gia đình
và cộng đồng mà còn mở rộng ra phạm vi các quốc gia, dân tộc trên thế
giới. Văn hóa hình thành trong quá trình tiếp xúc, giao lưu, sàng lọc, cải
biến văn hóa bản địa với những nền văn hóa khác. Do đó văn hóa bao giờ
cũng thể hiện sự đa dạng, phong phú nhưng luôn mang những nét độc đáo
của dân tộc, đồng thời bao hàm tiềm ẩn những giá trị chung của nhân loại.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa giao lưu văn hóa giữa các quốc
gia khu vực bao gồm cả những nước có chế độ chính trị khác nhau đang
diễn ra trên quy mô rộng lớn và tốc độ nhanh. Sự biến đổi văn hóa của các
quốc gia dân tộc đó cũng diễn ra nhanh chóng. Bên cạnh những thời cơ lớn
việc giữ gìn, bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc chống nguy cơ đồng
hóa về văn hóa là một trong những thách thức lớn đối với các quốc gia.


13
1.1.2. Giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam
Giá trị (Value) là một khái niệm của nhiều bộ môn khoa học khác nhau,
toán học, xã hội học, triết học, nghệ thuật, văn hoá học , do vậy trong mỗi
bộ môn khoa học, khái niệm này mang những hàm nghĩa khác nhau. Giá trị
cũng như tập quán, chuẩn mực, tri thức đều là sản phẩm của quá trình tư
duy, sản xuất tinh thần của con người, nó là yếu tố cốt lõi nhất của văn hoá.
Giá trị, giá trị văn hoá là một hình thái của đời sống tinh thần, nó phản ánh
và kết tinh đời sống văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần của con người.
Cho nên, quan điểm cho rằng văn hoá hay giá trị văn hoá chỉ là lĩnh vực
đời sống tinh thần thôi thì chưa thật thoả đáng.
Giá trị, trước nhất là hệ thống những đánh giá mang tính chủ quan
của con người về tự nhiên, xã hội và tư duy theo hướng những cái gì là cần,
là tốt, là hay, là đẹp, nói cách khác đó chính là những cái được con người
cho là chân, thiện, mỹ, giúp khẳng định và nâng cao bản chất người. Do
vậy, giá trị văn hoá nói ở đây là giá trị xã hội, nó gắn bó mật thiết với hoạt
động sống của con người, sự tồn tại và phát triển của mỗi xã hội.
Thực chất của giá trị là những quan hệ xã hội tốt đẹp đánh dấu sự phát
triển về mặt chân, thiện, mỹ mà xã hội đã đạt được nhằm phát triển và
hoàn thiện đời sống xã hội. Về điều này GS. Nguyễn Tài Thư nhận xét:
Nói đến giá trị là nói đến cái có ích, có lợi cho nhân dân, cho dân tộc, cho
sự phát triển xã hội, nói đến những gì có thể thỏa mãn được nhu cầu và lợi
ích của con người trong lịch sử. Đối với mỗi dân tộc trong những hoàn
cảnh lịch sử và xã hội cụ thể đều tồn tại hệ giá trị tổng quát và những hệ giá
trị bộ phận. Hệ giá trị tổng quát bao gồm những giá trị chung nhất, mang
tính phổ quát, có vai trò định hướng đối với tư duy và hành động của cả
cộng đồng. Ví dụ, GS. Trần Văn Giầu đã nêu 7 giá trị mang tính tổng quát
nhất của dân tộc Việt Nam, đó là: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc


14
quan, thương người, vì nghĩa. Nghị quyết TW 5 nêu những đức tính nổi bật
của bản sắc Việt Nam, cũng có thể hiểu đó là các giá trị của con người Việt
Nam: “Lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết,
ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - tổ quốc, lòng khoan
dung, trọng nghĩa tình đạo lý, tính cần cù sáng tạo trong lao động, sự tinh tế
trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống”. Những thập niên vừa qua người
ta còn nêu hệ giá trị chung của Châu Á: Hiếu học, cộng đồng, cần cù, huyết
thống. Bên cạnh những giá trị tổng quát như vậy, trong từng lĩnh vực của
đời sống, hoạt động của con người thì người ta lại đúc rút nên các giá trị, có
vai trò định hướng trong từng lĩnh vực riêng lẻ ấy.
Trong từ điển Bách khoa Xô Viết định nghĩa: “Truyền thống là
những yếu tố văn hóa, xã hội truyền từ đời này sang đời khác và được lưu
giữ trong các xã hội, giai cấp và nhóm xã hội trong một quá trình lâu dài.
Truyền thống được thể hiện trong chế định xã hội, chuẩn mực của hành vi,
các giá trị tư tưởng, phong tục, tập quán và lối sống… Truyền thống tác
động khống chế đến mọi xã hội và tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”
[Dẫn theo 16, tr. 11].
Giáo sư Phan Huy Lê cho rằng: “Truyền thống là tập hợp những tư
tưởng, tình cảm, những thói quen trong tư duy, lối sống, ứng xử của một
cồng đồng nhất định, được hình thành trong lịch sử và đã trở nên ổn định,
được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác” [24, tr. 03]. Theo TS. Trần
Nguyên Việt thì có thể coi truyền thống là một bộ phận tương đối ổn định
của ý thức xã hội, được lặp đi lặp lại trong suốt tiến trình hình thành và
phát triển của các nền văn hóa tinh thần và vật chất, là một giá trị nhất định
đối với từng nhóm người, từng giai cấp, cộng đồng và xã hội nói chung.
Truyền thống dù được tiếp cận theo góc độ nào cũng đều được hiểu
theo nghĩa là những hiện tượng văn hóa xã hội (bao gồm các giá trị, các

15

chuẩn mực giao tiếp, các khuôn mẫu văn hóa, các tư tưởng xã hội, các
phong tục, nghi thức xã hội…) được bảo tồn qua năm tháng trong đời sống
vật chất và tinh thần của các cộng đồng xã hội khác nhau và có thể được
chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Truyền thống là một bộ phận đặc biệt của ý thức xã hội, chịu sự quy
định bởi tồn tại xã hội. Truyền thống không phải tự nhiên mà có, nó được
hình thành trong quá trịnh lịch sử, bị quy định bởi điều kiện sinh hoạt xã
hội của mỗi dân tộc, được lưu truyền từ đời này sang đời khác. C. Mác đã
khẳng định: “Cả một kiến trúc thượng tầng những cảm giác, những ảo
tưởng, những lối suy nghĩ và quan niệm sống khác nhau và độc đáo đã mọc
lên trên những hình thức khác nhau, trên các điều kiện sinh hoạt xã hội.
Toàn thể giai cấp tạo ra và hình thành nên tất cả những cái đó trên cơ sở
những điều kiện sinh hoạt vật chất của mình và trên những quan hệ xã hội
tương ứng. Một cá nhân, qua truyền thống hoặc giáo dục mà tiếp thu được
những tình cảm và quan điểm ấy….” [25, tr. 179 – 180].
Truyền thống luôn được bảo vệ trong cộng đồng vì vậy mà dù có
thay đổi như thế nào thì nó vẫn giữ được bản chất cốt lõi của nó. Truyền
thống luôn lưu giữ trong nó tính cách riêng của một dân tộc qua đó người ta
có thể nhận biết bản sắc riêng của mỗi dân tộc thông qua đời sống tinh thần
cũng như thông qua những phong tục tập quán, tín ngưỡng của dân tộc đó.
Truyền thống của mỗi dân tộc luôn biểu hiện tính hai mặt: mặt giá trị và
mặt phản giá trị. Truyền thống vừa chứa đựng trong bản thân nó năng lực
to lớn để tạo ra cái mới, vừa chứa đựng những yếu tố tiêu cực cản trờ hình
thành cái mới. Có những truyền thống tích cực tạo ra được sức mạnh cho
dân tộc, xong cũng có những truyền thống tiêu cực cản trở sự phát triển.
Mác đã viết trong tác phẩm “Ngày 18 tháng sương mù của Luis Bonaparte”
đã viết: “Truyền thống của tất cả các thế hệ đã chết đè nặng như quả núi,

16
lên đầu óc những người đang sống” [25, tr. 145]. GS. Trần Văn Giàu cũng

thừa nhận rằng: “Mỗi dân tộc đều có truyền thống của mình, không dân tộc
nào không có. Truyền thống là những đức tính hay những thói tục kéo dài
nhiều thế hệ, nhiều thời kỳ lịch sử và hiện có nhiều tác dụng, tác dụng cũng
có thể tích cực, cũng có thể tiêu cực” [16, tr. 50]. Điều này có nghĩa là dù là
những truyền thống lâu đời của một dân tộc nhưng trong quá trình phát
triển luôn cần vận dụng linh hoạt các giá trị truyền thống tránh tình trạng tư
duy duy trì trệ cản trở sự phát triển của lịch sử. Vì vậy, việc chắt lọc lấy
những gì tinh túy nhất của truyền thống, loại bỏ những gì là cản trở, níu
kéo sự phát triển cần được thực hiện một cách cần thực hiện một cách cẩn
trọng và khoa học.
Quan niệm về giá trị văn hóa truyền thống: như đã nói ở trên văn hóa
là nét đặc sắc của mỗi dân tộc, còn truyền thống là những gì được lưu giữ
hàng ngàn năm cùng với văn hóa làm nên sức sống của mỗi dân tộc. Giá trị
truyền thống rất đa dạng và phong phú, có giá trị vật chất, giá trị tinh thần,
giá trị đạo đức, giá trị thẩm mỹ… song được hiểu là sự tổng hòa tất cả các
mảng giá trị truyền thống về tâm lý, ý thức, tình cảm, tư tưởng quan điểm
về văn hóa, đạo đức thẩm mỹ với tư cách là hạt nhân, sức sống tiềm tàng
bên trong mỗi dân tộc.
Theo như GS. Trần Văn Giàu, đã viết: “Truyền thống thì có cái tốt,
cái xấu, nhưng khi chúng ta nói “giá trị truyền thống” thì ở đây chỉ có cái
tốt mà thôi, bởi vì chỉ có những gì tốt đẹp đều được gọi là giá trị, mà phải
là những cái tốt, phổ biến, cơ bản, có nhiều tác dụng tích cực cho đạo đức
luân lý, có cả tác dụng hướng dẫn sự nhận định và hướng dẫn sự hành
động, thì mới được mang danh là giá trị truyền thống” [16, tr. 50].
Giá trị văn hóa truyền thống là những nét đẹp văn hóa được lưu
truyền từ ngàn đời nay, là nơi hội tụ toàn bộ tâm hồn, khí phách, phẩm chất

17
của một cộng đồng. Nó được thử thách, cô đúc, tái tạo qua nhiều thế hệ kế
tiếp nhau trong những biến cố của lịch sử, trong sự giao lưu, tiếp xúc với

nền văn hóa của các dân tộc khác. Đặc biệt trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế, xu thế toàn cầu hóa, hợp tác phát triển thì việc giữ gìn, phát huy
giá trị văn hóa truyền thống dân tộc càng trở nên quan trọng và cấp thiết.
Giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc là yếu tố tiềm năng và bền
vững, là sức mạnh vốn có của mỗi dân tộc. Nó vừa là cái giữ thế vững
chắc, vừa là yếu tố chỉ đạo tư tưởng, hành động, củng cố và phát triển ý
chí, bản lĩnh của một dân tộc. Bản chất của các giá trị văn hóa truyền thống
là bất biến nhưng lại có những phần biến động, kế thừa, bổ sung phát triển
do sự chi phối bởi điều kiện lịch sử cụ thể trong mỗi thời kỳ.
Giá trị văn hóa truyền thống không phải là hiện tượng tự nhiên mà là
sản phẩm của con người do con người sáng tạo ra dựa trên những cơ sở
thực tiễn nhất định. Mỗi một thành viên của một dân tộc đều trực tiếp hoặc
gián tiếp tham gia vào sự sáng tạo giá trị văn hóa chung của cộng đồng.
Chính những chủ thể sáng tạo đó là những người hấp thụ giá trị mà họ đã
sáng tạo ra. Vì vậy, có những giá trị văn hóa truyền thống hôm qua còn giá
trị nhưng hôm nay đã bị loại bỏ hoặc có những giá trị văn hóa truyền thống
tuy vẫn giữ được cái hạt nhân của nó, song phải được bổ sung, chuyển hóa
ở mức độ nhất định cho phù hợp với yêu cầu của thời đại.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, trước hết là toàn cầu hóa về kinh tế, đã
làm đảo lộn nhiều giá trị đã từng được xem là chuẩn mực trong đời sống
cộng đồng. Tuy nhiên, nhiều người không ý thức được rằng; các giá trị văn
hóa của mỗi dân tộc đều có sức sống riêng, tạo nên bản sắc, tính đa dạng và
sự khác biệt của chính dân tộc ấy, chính vì vậy mà người ta tiếp thu các tư
tưởng văn hóa ngoại bang một cách ồ ạt, không có chọn lọc, không biết “gạn
đục, khơi trong”. Hậu quả đương nhiên xét ở lĩnh vực văn hóa là dễ tạo ra thói

18
quen quên lãng truyền thống, mất phương hướng trong thưởng thức, cảm thụ
và sáng tạo nghệ thuật, lối sống gấp gáp, không tình không nghĩa, không còn
lý tưởng,… Điều đó trái ngược với truyền thống văn hóa dân tộc.

Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là nền tảng tinh thần của xã hội, là
động lực thức đẩy sự phát triển của xã hội. Văn hóa truyền thống Việt Nam
là nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. GS.TSKH. Trần Ngọc
Thêm cho rằng: “Truyền thống văn hóa là những giá trị tương đối ổn định
(những kinh nghiệm tập thể) thể hiện dưới những khuôn mẫu xã hội được
tích lũy và tái tạo trong cộng đồng người qua không gian và được cố định
hóa dưới dạng những phong tục tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận…” (2,
tr.26). Song cũng có quan điểm cho rằng: “Nền văn hóa được truyền lại
được gọi là truyền thống văn hóa. Như vậy, nó phản ánh được những thành
tựu con người, tích tập được trong quá trình tìm hiểu, thực hiện và truyền
bá ý nghĩa sâu lắng nhất của cuộc sống. Đó chính là truyền thống theo
nghĩa hài hòa của nó như là một hiện thân của trí tuệ” (4, tr.19).
Ở Việt Nam đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, truyền thống “lá lành đùm
lá rách” trở thành những giá trị ổn định. Nó là những thước đo, khuôn mẫu
đánh giá nhân cách con người, hành vi của mỗi cá nhân và cả cộng đồng xã
hội. Tính giá trị, tính ổn định và tính lưu truyền đã tạo nên dáng vẻ riêng của
văn hóa truyền thống Việt Nam. Trong những cuộc đụng đầu lịch sử với
những kẻ thù hung bạo nhất, dân tộc ta tìm thấy sức mạnh vĩ đại trong những
giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam. Giữa truyền thống và truyền thống văn
hóa có mối quan hệ thống nhất nhưng không đồng nhất. Truyền thống mang
trong nó tính hai mặt. Một mặt, truyền thống góp phần suy tôn, giữ gìn những
gì quý giá, là cốt cách, là nền tảng cho sự phát triển của cộng đồng dân tộc, ở
góc độ này truyền thống mang những giá trị tích cực, là chỗ dựa không thể
thiếu của dân tộc trên con đường đi đến tương lai. Mặt khác, truyền thống còn

19
là nơi dung dưỡng duy trì, làm sống lại mặt bảo thủ lạc hậu khi điều kiện và
hoàn cảnh đã thay đổi. Mặt này góp phần kìm hãm, níu kéo làm chậm trễ sự
phát triển của một quốc gia dân tộc. Như vậy, văn hóa truyền thống là một bộ
phận của truyền thống, là mặt tích cực, mặt giá trị của truyền thống.Vì vậy,

khi nói đến văn hóa truyền thống là nói đến những truyền thống đã được
lịch sử đánh giá, khẳng định ý nghĩa tích cực của chúng đối với cộng đồng
trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Đồng thời, khi xem xét đánh giá
truyền thống và các giá trị văn hóa truyền thống cần phải có quan điểm
biện chứng, quan điểm lịch sử cụ thể nghĩa là phải đặt chúng trong những
điều kiện, hoàn cảnh lịch sử nhất định của cả quá khứ và hiện tại.
Như vậy văn hoá truyền thống hay giá trị văn hoá truyền thống được
hiểu như là văn hoá và giá trị gắn với xã hội tiền công nghiệp, phân biệt với
văn hoá, giá trị văn hoá thời đại công nghiệp hoá. Tất nhiên, khái niệm
truyền thống(Tradition) để chỉ những cái gì đã hình thành từ lâu đời, mang
tính bền vững và được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, thì không
chỉ xã hội tiền công nghiệp mới có mà với cả xã hội công nghiệp hoá, hiện
đại hoá thì truyền thống vẫn hình thành và định hình. Hơn thế nữa, còn có
sự kết nối giữa truyền thống tiền công nghiệp với truyền thống công nghiệp
hoá thể hiện trong từng hiện tượng hay giá trị văn hoá.
1.2. Phát triển bền vững
1.2.1. Khái niệm
Quan điểm về phát triển:
Phát triển là phạm trù triết học khái quát quá trình vận động tiến lên
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện. Như vậy, sự phát triển là quá trình không ngừng gia tăng về trình độ,
về kết cấu phức tạp của sự vật và do đó làm nảy sinh tính quy định mới cao
hơn về chất. Phép biện chứng duy vật khẳng định sự phát triển, đổi mới là

20
quá trình diễn ra không ngừng trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy
của con người. Trong giới hữu sinh, sự phát triển biểu hiện ở việc tăng
cường khả năng thích nghi của cơ thể trước sự biến đổi của môi trường, ở
khả năng sản sinh và hoàn thiện chính mình, ở khả năng hoàn thiện về trao
đổi vật chất giữa cơ thể với môi trường. Trong xã hội, sự phát triển biểu

hiện ở khả năng nhận thức, cải biến tự nhiên và xã hội theo quy luật, thông
qua hoạt động thực tiễn của con người, hướng tới sự nghiệp giải phóng con
người. Trong tư duy, sự phát triển biểu hiện ở khả năng nhận thức ngày
càng sâu sắc, đầy đủ hơn về tự nhiên và xã hội và nhận thức chính bản thân
con người. Phép biện chứng duy vật khẳng định phát triển là khuynh hướng
chung của các sự vật, hiện tượng nhưng không diễn ra một cách trực tuyến,
mà quanh co, phức tạp, theo hình xoáy ốc; trong đó có thể có bước thụt lùi
tương đối.
Phát triển được định nghĩa khái quát trong Từ điển Oxford là: “Sự
gia tăng dần của một sự vật theo hướng tiến bộ hơn, mạnh hơn ” (The
gradual grow of sth. so that it becomes more advanced, stronger ). Trong
Từ điển Bách khoa của Việt Nam, phát triển được định nghĩa là: “Phạm trù
triết học chỉ ra tính chất của những biến đổi đang diễn ra trong thế giới”.
Con người và mọi sự vật đều thay đổi theo thời gian, nhưng sự phát triển
được bao hàm cả khía cạnh thay đổi theo hướng đi lên, hướng tốt hơn
tương đối. (Sự phát triển theo hướng đi lên như vậy, trong sinh học được
gọi đó là phát triển tiến bộ hay tiến hóa, và ngược lại là phát triển thoái bộ -
thoái hóa).
Khái niệm phát triển bền vững:
Phát triển bền vững là một khái niệm mới nhằm định nghĩa một sự
phát triển về mọi mặt trong hiện tại mà vẫn phải bảo đảm sự tiếp tục phát
triển trong tương lai. Khái niệm này hiện đang là mục tiêu hướng tới của

21
nhiều quốc gia trên thế giới, mỗi quốc gia sẽ dựa theo đặc thù kinh tế, xã
hội, chính trị, địa lý, văn hóa riêng để hoạch định chiến lược phù hợp
nhất với quốc gia đó.
Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980
trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn
Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất

đơn giản: "Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển
kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác
động đến môi trường sinh thái học".
Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ Báo cáo
Brundtland (còn gọi là Báo cáo Our Common Future) của Ủy ban Môi
trường và Phát triển Thế giới - WCED (nay là Ủy ban Brundtland). Theo
Brundtland: "Phát triển bền vững là sự phát triển thoả mãn những nhu cầu của
hiện tại và không phương hại tới khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ
tương lai. Đó là quá trình phát triển kinh tế dựa vào nguồn tài nguyên được tái
tạo tôn trọng những quá trình sinh thái cơ bản, sự đa dạng sinh học và những
hệ thống trợ giúp tự nhiên đối với cuộc sống của con người, động vật và thực
vật”.
Như vậy, khái niệm "Phát triển bền vững" được đề cập trong báo cáo
Brundtland với một nội hàm rộng, nó không chỉ là nỗ lực nhằm hoà giải
kinh tế và môi trường, hay thậm chí phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ
môi trường. Nội dung khái niệm còn bao hàm những khía cạnh chính trị xã
hội, đặc biệt là bình đẳng xã hội. Với ý nghĩa này, nó được xem là "tiếng
chuông" hay nói cách khác là "tấm biển hiệu” cảnh báo hành vi của loài
người trong thế giới đương đại.
Năm 1987 hoạt động của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới
trở nên nóng bỏng khi xuất bản báo cáo có tựa đề “Tương lai của chúng

×