Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Kinh nghiệm của Một số nước trong việc lựa chọn chiến lược ngoại thương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.26 KB, 40 trang )

Lời nói đầu
Từ sau khi mở cửa, cải cách nền kinh tế, Việt Nam đã đạt đợc những thành
tựu nhất định trên đờng phát triển: tốc độ tăng trởng GDP giai đoạn 1991-1996
bình quân đạt 8,4%, năm 1997 và 1998 đạt 8,15%, mặc dù chịu ảnh hởng của
cuộc khủng hoảng tài chính chính tiền tệ, tốc độ vẫn đạt 5,83%. Đây là những con
số rất có ý nghĩa. Nó khẳng định tính đúng đắn trong đờng lối, chính sách phát
triển của Đảng và Nhà nớc ta. Để có đợc kết quả đó, chúng ta không thể phủ nhận
những đóng góp to lớn của ngoại thơng-chiếc cầu nối giữa kinh tế Việt Nam và
kinh tế thế giới.
Trong giai đoạn hiện nay, khi xu hớng toàn cầu hoá và khu vực hoá bùng nổ
thì Việt Nam lại càng cần mở cửa để hoà nhập với sự phát triển của quốc tế, tránh
tụt hậu. Càng mở cửa, hoà nhập thì hơn bao giờ hết, ngoại thơng lại càng khẳng
định vị trí quan trọng của mình. Vì vậy, việc nghiên cứu hoạt động ngoại thơng
của nớc ta là cần thiết, không thể chậm trễ. Qua bài viết này, chúng ta có thể đa ra
những cái nhìn rõ hơn về thực trạng, hớng đi cho ngoại thơng Việt Nam. Từ đó đề
xuất những chính sách, giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt
động của lĩnh vực này. Làm tốt đợc điều này cũng có nghĩa là góp phần thực hiện
thắng lợi công cuộc CNH-HĐH đất nớc, đa Việt Nam phát triển ở một vị trí xứng
đáng trên trờng quốc tế.
1
Phần I
Ngoại thơng và vai trò của nó đối với
phát triển kinh tế
I-/ Nguồn gốc ra đời và lợi thế cạnh tranh của hoạt động
ngoại thơng.
1-/ Nguồn gốc ra đời của hoạt động ngoại thơng.
Từ khi xuất hiện trên trái đất, con ngời đã biết tự tìm kiếm, khai thác những
vật thể trong tự nhiên để sinh tồn. Qua thời gian, trớc những thử thách khắc nghiệt
của tự nhiên con ngời đã phát triển không ngừng, kinh nghiệm sống đợc đúc rút.
Cũng qua quá trình phát triển, phân công lao động (PCLĐ) nảy sinh và ngày càng
diễn ra mạnh mẽ, sâu sắc hơn. Từ chỗ con ngời phải tự tổ chức mọi việc nhằm


phục vụ cho nhu cầu bản thân, dần dần, họ đã biết chia sẻ công việc cho nhiều ng-
ời. Mỗi ngời làm một hoặc mọt số phần việc nhất đinh, phù hợp nhất với khả năng
cá nhân. Kết quả là tạo ra đợc năng suất lao động cao hơn. Quá trình PCLĐ lúc
đầu chỉ diễn ra trong phạm vi một tổ chức, một nhóm ngời, sau đó là giữa những
nhóm ngời trong xã hội (PCLĐ xã hội). Và đến một ngỡng nhất đinh, sự phân
công đó vợt ra ngoài khuôn khổ một quốc gia và trở thành quá trình PCLĐ quốc
tế. Chính PCLĐ là cơ sở hình thành, là nguồn gốc cho sự ra đời của hoạt động
ngoại thơng ngày nay.
Lịch sử phát triển nền sản xuất xã hội cho đến nay đã trải qua 3 giai đoạn PCLĐ
xã hội lớn.
Giai đoạn 1: Chăn nuôi tách rời trồng trọt. Các bộ lạc chăn nuôi mang sữa,
thịt để đổi lấy ngũ cốc, rau quả của các bộ lạc trồng trọt. Đó là mầm mống ra đời
của quan hệ sản xuất, trao đổi hàng hoá giản đơn.
Giai đoạn 2: Nghề thủ công tách khỏi nghề nông. Sản xuất chuyên môn
hoá bắt đầu phát triển, dẫn đến sự ra đời của ngành công nghiệp. Đặc biệt, với sự
xuất hiện của tiền tệ đã khiến cho quan hệ sản xuất và trao đổi hàng hoá-tiền tệ ra
đời, thay thế cho sản xuất và trao đổi hàng hoá giản đơn.
2
Giai đoạn 3: Tầng lớp thơng nhân xuất hiện, lu thông hàng hoá tách khỏi lĩnh
vực sản xuất vật chất. Điều này khiến cho các quan hệ sản xuất và trao đổi hàng hoá-
tiền tệ thêm mở rộng, phức tạp, tạo điều kiện thuận lợi để ngoại thơng quốc gia phát
triển và thơng mại quốc tế ra đời.
Nh vậy, có thể nói PCLĐ quốc tế chính là cơ sở hình thành, là điều kiện tiên
quyết thúc đẩy sự phát triển của các mối quan hệ kinh tế quốc tế, trong đó, sôi động
nhất và cũng chiếm vị trí, vai trò, động lực quan trọng nhất cho sự tăng trởng, phát triển
nền kinh tế mở của mỗi quốc gia và cho cả nền kinh tế thế giới là các hoạt động thơng
mại quốc tế (hoạt động ngoại thơng).
2-/ Lợi thế cạnh tranh trong thơng mại quốc tế
Thơng mại quốc tế ra đời, đánh dấu một bớc phát triển mới trong quá trình sản
xuất, trao đổi hàng hoá. Khi cha có ngoại thơng, mỗi quốc gia đều phải cố gắng sản

xuất ra sản phẩm phục vụ tiêu dùng xã hội bằng mọi giá, nhng khi phát hiện ra lợi thế
trong mua bán, trao đổi quốc tế, vấn đề này đã đợc giải quyết. Đó là lợi thế tuyệt đối và
lợi thế tơng đôi (lợi thế so sánh) của hoạt động ngoại thơng. Lợi thế tuyệt đối là lợi thế
có đợc trong điều kiện so sánh chi phí để sản xuất ra cùng một loại sản phẩm. Mỗi
quốc gia sẽ tập trung vào sản xuất những mặt hàng có chi phí sản xuất thấp hơn các n-
ớc khác, sau đó đem trao đổi. Còn các quốc gia khác, khi có chi phí sản xuất ra mặt
hàng này bất lợi thì nên nhập khẩu. Với việc nhập khẩu và xuất khẩu nh vậy sẽ đem lại
lợi ích cho cả 2 bên. Đối với các nớc xuất khẩu sẽ càng thu đợc nhiều lợi nhuận hơn
khi bán sản phẩm trên thị trờng quốc tế, còn các nớc nhập khẩu không phải lãng phí
nguồn lực khi cố gắng sản xuất ra những sản phẩm không có hoặc ít có điều kiện để
sản xuất.
Nhng liệu một nớc, mà việc sản xuất ra tất cả các hàng hoá đều bất lợi hơn
tất cả các nớc khác thì có thể tham gia vào quá trình thơng mại quốc tế đợc
không? Câu trả lời đợc lợi thế so sánh đa ra là có. Nếu lợi thế tuyệt đối đợc xem
xét dựa vào chi phí sản xuất, thì lợi thế so sánh dựa vào chi phí so sánh. Đó là chi
phí có đợc trên cơ sở thực hiện chuyên môn hoá sản xuất vỡi những sản phẩm có
năng suất cao hơn. Lợi thế so sánh chỉ ra một nớc nên tập trung vào việc sản xuất
3
ra những sản phẩm mà mình có khả năng sản xuất tốt nhất trên cơ sở so sánh về
năng suất lao động với nớc trao đổi. Là nh vậy sẽ tận dụng đợc tối đa nguồn lực
của từng nớc, đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Để làm rõ hơn, ta xét một ví dụ về chi phí sản xuất thép và quần áo giữa Việt
Nam với Nga theo số liệu cho ở bảng sau:
Bảng 1: Chi phí sản xuất
Sản phẩm
Chi phí sản xuất
(ngày công lao động)
Việt Nam Nga
- Thép (1 đơn vị) 25 16
- Quần áo (1 đơn vị) 5 4

Nếu xét theo chi phí sản xuất ở bảng 1 thì Việt Nam bất lợi trong việc sản
xuất ra cả 2 mặt hàng trên vì đều có chi phí sản xuất cao hơn Nga. Lợi thế tuyệt
đối chỉ ra rằng Việt Nam không có khả năng xuất khẩu sản phẩm nào vào Nga.
Song nếu xét theo khía cạnh chi phí so sánh ở bảng 2 thì lại khác.
Bảng 2: Chi phí so sánh
Sản phẩm
Chi phí so sánh
Việt Nam Nga
- Thép (1 đơn vị) 5 4
- Quần áo (1 đơn vị) 1/5 1/4
Theo chi phí so sánh, ta thấy rằng: chi phí sản xuất thép của Việt Nam cao
hơn Nga (để sản xuát ra một đơn vị thép ở Việt Nam cần nhiều đơn vị quần áo,
trong khi đó ở Nga chỉ cần 4 đơn vị), nhng ngợc lại, chi phí sản xuất quần áo của
Việt Nam lại thấp hơn Nga (để sản xuất ra 1 đơn vị quần áo ở Việt Nam cần 1/5
đơn vị thép, trong khi đó Nga cần tới ẳ đơn vị). Nh vậy, lợi thế so sánh lại chỉ ra
rằng Việt Nam có thể xuất khẩu quần áo sang Nga. Nếu Nga đi vào chuyên môn
hoá sản xuất thép và Việt Nam chuyên môn hoá sản xuất quần áo, sau đó trao đổi
cho nhau thì kết quả là cả 2 cùng đợc lợi qua thơng mại quốc tế.
4
Những lí thuyết trên đợc A. Smith-đại diện tiêu biểu của trờng phái kinh tế cổ
điển, đa ra đầu tiên. Đến nay, qua nhiều thế kỷ phát triển, nó không ngừng đợc các
nhà lý luận kinh tế học nghiên cứu và phát triển, trong đó phải kết đến một đại
diện tiêu biểu là M.Porter. Ông đã đa ra lý thuyết Lợi thế cạnh tranh của mỗi
quốc gia (The Competitive Advantages of Nations). Theo lý thuyết của ông, lợi
thế cạnh tranh của 1 quốc gia đợc quyết định bởi sự tác động qua lại giữa 6 nhân
tố cơ bản: 1-Điều kiện sản xuất vốn có (lao động, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa
lí...); 2-Các điều kiện của thị trờng nội địa (số lợng cần, sự đòi hỏi của ngời tiêu
dùng...); 3-Các ngành công nghiệp bổ trợ và liên đới; 4-Chiến lợc, cơ cấu của các
công ty và sự cạnh tranh trong nội bộ ngành; 5-Chính phủ; 6-Các nhân tố ngẫu
nhiên. Trong 6 nhân tố trên thì 4 nhân tố đầu giữ vai trò quyết định. Hơn thế nữa,

nếu lợi thế dựa trên một trong 4 nhân tố đó đợc phát huy ở mực độ cao thì lợi thế
dựa trên các nhân tố khác sẽ dần xuất hiện do sự tác động qua lại lẫn nhau giữa
chúng. Ngợc lại, việc để mất lợi thế cạnh tranh dựa trên 1 trong những nhân tố kể
trên cũng dễ dẫn đến việc mất lợi thế dựa trên những nhân tố khác.
Trên cơ sở lí thuyết của M. Porter, xem xét đến Việt Nam, ta thấy trong giai
đoạn hiện nay có những lợi thế cạnh tranh nh sau:
Lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng: theo đánh
giá của các chuyên gia kinh tế Việt Nam cũng nh nớc ngoài, Việt Nam là quốc gia
có nguồn tài nguyên tơng đối phong phú, đa dạng. Việt Nam là quốc gia có rừng
đa sinh vật, có biển với nguồn thuỷ sản đa dạng và có nhiều loại khoáng sản khác
nhau từ dầu khí cho đến đất hiếm, than nâu...Với khi hậu nhiệt đới, nớc ta cũng
thuận lợi cho việc phát triển cây nông nghiệp và cây công nghiệp. Bên cạnh đó,
Việt Nam còn có nguồn nớc dồi dào. Tiềm năng nớc bề mặt rất lớn và phân bố đều
khắp ở các vùng. Nớc ngầm của ta tuy không lớn nhng cũng có thể đáp ứng đợc
nhu cầu nớc công nghiệp và nớc tiêu dùng của dân c.
Về vị trí địa lí: Việt Nam nằm ở Tây Thái Bình Dơng-khu vực phát triển
kinh tế cao, ổn định, nơi cửa ngõ giao lu quốc tế. Do đó, VN có nhiều khả năng để
5
phát triển các loại hình kinh tế khác nhau dựa trên những lợi thế về vận tải biển,
dịch vụ viễn thông, du lịch...
Về tài nguyên con ngời: Với khoảng 78 triệu dân, VN là quốc gia có dân số
đông thứ 13 trên thế giới. Ước tính, mỗi năm nớc ta có khoảng 1,2 triệu ngời bớc
vào tuổi lao động. Đây là nguồn lực lao động dồi dào, sẵn sang cung cấp cho nền
kinh tế. Không những thế, giá lao động của ta lại thuộc vào loại rẻ so với thế giới
và khu vực.
Những lợi thế trên của VN, theo quan điểm của M.Porter, thực chất là những
lợi thế về chi phí sản xuất dựa trên các điều kiện sản xuất vốn có. Nhờ đó, hàng
hoá và dịch vụ sản xuất tại VN có sức cạnh tranh về giá cả, đặc biệt là những hàng
hoá có hàm lợng lao động và nguyên liệu cao. Tuy nhiên, đây cũng là những lợi
thế cấp thấp, lợi thế trời cho, lợi thế có đợc và không cần phải có những đầu t

lớn về vốn và tri thức. Những lợi thế này thơng không vững chắc, chỉ mang tính
ngắn hạn và trung hạn nếu các điều kiện sản xuất vốn có không đợc liên tục tái tạo
và phát triển. Do vậy, vấn đề duy trì, tái tạo và phát huy ở mức độ cao hơn những
nguồn lợi thế này là yêu cầu đặt ra với VN. Từ đó có thể tạo ra các mối liên hệ tác
động tốt, dần làm xuất hiện lợi thế ở những nhân tố khác.
Nh vậy, lợi thế cạnh tranh sẽ là 1 căn cứ quan trọng để một nớc chọn ra chiến
lợc ngoại thơng hợp lý phục vụ cho đờng lối phát triển kinh tế của đất nớc. Với
mỗi nớc khác nhau, những lợi thế sẽ khác nhau và do đó, các chiến lợc áp dụng
cũng khác nhau. Qua kinh nghiệm phát triển hoạt động ngoại thơng của 1 số nớc,
các nhà kinh tế đã đúc kết và tổng hợp thnàh các chiến lợc cụ thể mà ta sẽ đi xem
xét, nghiên cứu dới đây.
II-/ Kinh nghiệm của một số nớc trong việc lựa chọn chiến lợc
ngoại thơng
1-/ Chiến lợc xuất khẩu sản phẩm thô
Chiến lợc xuất khẩu sản phẩm thô thực thi việc xuất khẩu dựa trên sự sẵn có
của tài nguyên thiên nhiên và các điều kiện thuận lợi của đất nớc. Sản phẩm xuất
khẩu thô là các sản phẩm cha qua chế biến hoặc đang còn ở dạng sơ chế, đó là các
6
sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm khai khoáng. Nh vậy, thực chất có thể gọi đây
là chiến lợc hớng ngoại nhng ở trình độ thấp. Chiến lợc này chủ yếu đợc sử dụng ở
các nớc đang phát triển với trình độ sản xuất còn thấp kém. Đối với phát triển kinh
tế, nó có những tác động nhất định, thể hiện ở những điểm sau:
Tạo ra nguồn tích luỹ ban đầu cho nền kinh tế: Mọi sự khởi đầu đều cần
có cái gốc cơ bản. Với phát triển kinh tế cũng vậy. Một nớc muốn đi lên thì đòi
hỏi về vốn là rất cần thiết, không thể phát triển kinh tế với 2 bàn tay trắng. Do
vậy, với các nớc kém và đang phát triển đợc tự nhiên u đãi, việc thực thi chiến lợc
này sẽ góp phần tạo ra 1 nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho giai đoạn đầu của quá
trình phát triển, tạo ra những tiền đề vật chất cần thiết cho nền kinh tế tăng trởng.
Tạo điều kiện để phát triển kinh tế theo chiều rộng: Dựa trên việc khai
thác tài nguyên thiên nhiên, sản xuất các sản phẩm sơ chế, từ đó, nó thúc đẩy các

ngành công nghiệp khai khoáng, chế biến không ngừng phát triển cả về số lợng và
chất lợng. Kết quả là tạo ra nhiều việc làm cho ngời lao động, tăng đội ngũ công
nhân lành nghề và tất yếu dẫn đến tăng quy mô sản xuất của nền kinh tế.
Làm nảy sinh các mối liên kết trong kinh tế: Với sự phát triển của công
nghiệp khai khoáng, chế biến, trớc hết, nó tác động ngợc trở lại với các ngành
cung ứng nguyên liệu, tạo ra mối liên hệ ngợc. Chẳng hạn, sự phát triển của
công nghiệp dệt sẽ tạo ra nhu cầu đối với nguyên liệu bông và thuốc nhuộm, do
đó, đẩy mạnh sản xuất những ngành này. Sự phát triene của các ngành có liên
quan còn đợc thể hiện qua mối liên hệ gián tiếp thông qua nhu cầu về hàng tiêu
dùng. Mối liên hệ này nảy sinh khi phần lớn lực lợng lao động có mức thu nhập
ngày càng tăng, tạo ra nhu cầu tăng thêm về hàng tiêu dùng. Kết quả là công
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng cũng đợc kích thích phát triển.
Tạo ra sự thay đổi cơ cấu của nền kinh tế: Ban đầu là sự phát triển của
công nghiệp khai khoáng và các ngành nông nghiệp chăn nuôi, trồng cây lơng
thực và cây công nghiệp có khả năng xuất khẩu. Tiếp đến là sự phát triển của công
nghiệp chế biến tạo ra các sản phẩm sơ chế nh gạo, cà phê, cao su...
7
Trớc những năm 50 chiến lợc này đã mang lại sự tăng trởng đáng kể cho
nhiều nớc, trong đó có cả 1 số quốc gia phát triển nh Mĩ, Canada, Cộng hoà liên
bang Đức...do có các lợi thế so sánh về xuất khẩu lơng thực, thực phẩm và 1 số
khoáng sản thô khác. Cũng bằng con đờng này, 1 số nớc nghèo nh Côlômbia,
Mêhicô, Malaysia, Philipin...trong thời kì đầu CNH (những năm 50-60) đã tạo ra
đợc những động lực đầu tiên cho sự phát triển nhờ có lợi thế so sánh về một số sản
phẩm xuất khẩu nh: cao su, cà phê, dầu dừa, dầu cọ, quặng kim loại...Thực trạng
này đã lý giải vì sao đến cuối những năm 60, xuất khẩu hàng thô và sơ chế chiếm
đến 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của các nớc đang phát triển. Tuy nhiên, việc
thực thi chiến lợc này cũng có nhiều hạn chế, trở ngại đối với các nớc. Nó thể
hiện:
Hiệu quả kinh tế không cao: Nhiều nàh kinh tế đã đa ra kết luạn rằng: đây
là loại chiến lợc bán rẻ tài nguyên thiên nhiên. Các nớc này do trình độ sản xuất

còn thấp kém nên phải xuất khẩu các sản phẩm thô và sơ chế với giá rẻ mạt, không
khai thác hết đợc hết các giá trị từ nguyên liệu của mình. Thờng các sản phẩm này
đợc nớc trung gian mua lại, sau đó đem tái chế bằng công nghệ tiên tiến hơn và tái
xuất khẩu đến nớc thứ 3 với giá trị kinh tế cao hơn rất nhiều.
Phụ thuộc nhiều vào cung cầu sản phẩm thô: cung-cầu sản phẩm thô trên
thị trờng thế giới mang tính bất ổn cao, từ đó dẫn đến sự biến động giá cả của các
loại sản phẩm này. Xu hớng biến động ngày càng theo chiều hớng bất lợi cho các
nớc xuất khẩu vì tơng quan giá cả của các mặt hàng sơ chế sẽ ngày càng giảm so
với các mặt hàng chế biến, đặc biệt là các mặt hàng đợc chế biến sâu (có hàm lợng
kĩ thuật-công nghệ cao).
Gây ra hậu quả xấu về môi trờng sinh thái: vì t lợi, việc khai thác bừa bãi nguồn
tài nguyên để xuất khẩu là khó tránh khỏi, trong đó, có cả những sản phẩm phục vụ trực
tiếp cho việc bảo vệ môi trờng sinh thái của đất nớc. Nếu những sản phẩm này bị khai thác
quá mức sẽ để lại những hậu quả về môi trờng khó có thể lờng trớc đợc. Ngay nh nớc ta,
việc khai thác 1 cách bừa bãi các loại tài nguyên khoáng sản đã dẫn đến rất nhiều hậu quả
về môi trờng sinh thái, về thiên tai.
8
Giải pháp trật tự kinh tế mới
Các nớc xuất khẩu sản phẩm thô luôn cố gắng nhằm tăng giá trị của những
mặt hàng xuất khẩu. Một trong những thành công đó là việc đấu tranh để đi đến 1
trật tự kinh tế mới, gọi tắt là NIEO. Thực chất của việc làm này là kêu gọi thành
lập các tổ chức mà các thành viên tham gia là các nớc đang cung cấp sản phẩm thô
đó trên thị trờng. Nội dung hoạt động của tổ chức là kí kết các hiệp định nhằm xác
định một lợng cung sản phẩm thô hợp lí trên thị trờng quốc tế sao cho giữ đợc ổn
định hoặc tăng giá của chúng, tức là đem lại điều kiện xuất khẩu có lợi cho các n-
ớc xuất khẩu. Việc cung bừa bãi sẽ dẫn đến giá xuất khẩu bất lợi, vì vậy cần phải
hạn chế cung. Trên cơ sở lợng cung chung đợc xác định, từng nớc thành viên sẽ đ-
ợc giới hạn tại từng mức cung cụ thể theo cam kết.
Một điển hình thành công trong việc áp dụng giải pháp này là tổ chức quốc tế
về cà phê (ICO). Tổ chức này đã đa ra hạn mức xuất khẩu cho từng nớc tham gia.

Tổ chức của các nớc xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) cũng đạt đợc những thành công
nhất định. Từ năm 1974 đến 1982, OPEC đã tăng đợc giá dầu từ 4USD/ thùng lên
hơn 30USD/ thùng. Nhng giải pháp này cũng có hạn chế của nó. Đó là mức độ
thực hiện cam kết của các nớc thành viên. Thờng các nớc có xu hớng tăng thêm
sản lợng so với hạn mức để tranh thủ giá trên thị trờng, kết quả là xảy ra phản ứng
dây chuyền với các nớc khác và trật tự kinh tế quốc tế bị phá vỡ.
Giải pháp kho đệm dự trữ quốc tế
Với giải pháp này, Liên hợp quốc kêu gọi các nớc xây dựng các kho đệm dự
trữ quốc tế mà mỗi loại kho phục vụ cho 1 loại sản phẩm thô. Vẫn đề đóng kinh
phí cho hoạt động các các kho khác với trật tự kinh tế mới là Liên hợp quốc bắt
buộc đối với cả nớc xuất khẩu lẫn nớc nớc nhập khẩu. Nhiệm vụ của kho là duy trì
một lợng sản phẩm thô trên thị trờng sao cho giá cả của nó không gây bất lợi cho
cả nớc xuất khẩu và nớc nhập khẩu. Thực thi giải pháp này cũng vấp phải vấn đề là
nhiều khi không cod đầy đủ thông tin từ kho đệm đến sản xuất dễ khiên cho ngời
sản xuất nhận đợc những tín hiệu không đúng về cung-cầu sản phẩm và làm cho
kho hoạt động kém hiệu quả, thậm chí còn gây ra tác hại xấu đến thị trờng.
9
Nhìn chung cả 2 biện pháp có khác nhau về cách thức thực hiện nhng đều tác
động đến lợng hàng hoá cung ứng trên thị trờng và từ đó tác động đến giá cả để nó
không gây ra những bất lợi cho các nớc xuất khẩu và kể cả với nớc nhập khẩu.
2-/ Chiến lợc thay thế hàng nhập khẩu (chiến lợc hớng nội)
Những năm của thập niên 50-60, hầu hết các nớc đang phát triển ở châu á,
châu Phi, Mĩ-Latinh đều thực hiện CNH đất nớc bằng chiến lợc phát triển kinh tế
hớng nội mà nội dung chủ yêú của nó là việc đề cao sản xuất hàng thay thế nhập
khẩu.
Phơng pháp tiếp cận với chiến lợc này là: Trớc hết, các nhà sản xuất trong n-
ớc cần xác định rõ nhu cầu thị trờng trong nớc qua số lợng nhập khẩu thực tế hàng
năm để lập kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh. Sau đó, sẽ tiến tới đẩy mạnh
phát triển sản xuất trong nớc, mà trớc hết là công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng,
tiếp đến là các ngành công nghiệp khác để thay thế các sản phẩm nhập khẩu đáp

ứng cho nhu cầu tiêu dùng trong nớc. Nhà nớc sẽ có trách nhiệm bảo đảm d các
điều kiện cần thiế để các nhà sản xuất trong nớc có thế tự là chủ toàn bộ quá trình
hàng rào bảo vệ cho sản xuất và mậu dịch trong nớc phát triển bằng các biện pháp
thuế quan và phi thuế quan.
Bằng chiến lợc này, trong thực tiễn phát triển, nhiều nớc đã đạt đợc tăng tr-
ởng và phát triển kinh tế nhờ khai thác, phát huy tốt các tiềm năng, thế mạnh về
lao động, tài nguyên...để phát triển mạnh sản xuất các sản phẩm thay thế nhập
khẩu với chi phí, giá thành hợp lí. Tuy nhiên, để thực hiện thành công chiến lợc
này cần phải có đợc những điều kiện nhất định cho nó phát huy khả năng. Các
điều kiện đó là:
Điều kiện cơ bản nhất là phải có bảo hộ của chính phủ để hạn chế tính cạnh
tranh của hàng nớc ngoài. Bảo hộ của chính phủ có thể bằng nhiều cách, nhng
biện pháp hữu hiệu nhất thờng đợc áp dụng là bảo hộ bằng thuế nhập khẩu và bằng
hạn ngạch (Quota).
10
Phải xác định đợc khả năng phát triển của công nghiệp trong nớc: Việc can
thiệp, bảo hộ của chính phủ chỉ trong những giới hạn và thời kì nhất địn. Chính
phủ không thể bảo hộ mãi đợc mà cái chính là doanh nghiệp phải tự bảo vệ lấy
mình qua việc nâng cao chất lợc, khả năng sản xuất. Nhng, trong giai đoạn đầu, để
vực sản xuất trong nớc nhất thiết cần có bàn tay hữu hình can thiệp. Điều quan
trọng là sự hợp lí trong can thiệp, bảo hộ của chính phủ nh thế nào. Việc bảo hộ
quá mức hay lỏng lẻo đều gây ra những hậu quả xấu cho nền kinh tế. Do đó, cần
phải xác định đợc một cách chính xác khả năng của các ngành sản xuất trong nớc,
để từ đó đa ra đợc giải pháp bảo hộ tối u.
Phải có đợc một thị trờng trong nớc đủ lớn. Bảo hộ gần nh là khép kín. Để
sản xuất trong nớc phát triển cần có thị trờng mà thị trờng này đợc hớng nội xác
định là chỉ có thị trờng trong nớc. Cho nên, đòi hỏi của chiến lợc là thị trờng phải
đủ rộng cho sản xuất trong nớc phát triển. Thiếu thị trờng là đồng nghĩa với bóp
chết sản xuất.
Bên cạnh những điều kiện trên, thực thi chiến lợc hớng nội còn vấp phải nhng

khó khăn khác nữa. Những cái khó của hớng nội thể hiện ở một số điểm sau:
- Từ cuối những năm 60, chiến lợc thay thế nhập khẩu đã bị hạn chế dần tác
dụng ở một loạt nớc, trớc tiên là các nớc Mĩ-Latinh, sau đó lan rộng ra các nớc
châu á, châu Phi. Nguyên nhân sự thất bại này là do chiến lợc ngày càng tỏ ra lạc
hậu trớc xu thế mở cửa, phát triển mạnh các quan hệ hợp tác và phân công lao
động quốc tế. Với việc đề cao hớng nội sẽ làm hạn chế tự do hoá thơng mại, vi
phạm quy luật lợi thế so sánh qua đóng cửa, bế quan toả cảng nền kinh tế.
- Do đề cao quan điểm tự lực cánh sinh, nhiều khi các nớc phải sản xuất ra
sản phẩm thay thế nhập khẩu với bất cứ giá nào. Làm nh vậy sẽ gây lãng phí
nguồn lực sản xuất.
- Một lí do nữa là công nghiệp thay thế nhập khẩu thờng phải tách rời những
khu vực sản xuất vật chất truyền thống, vì thế nảy sinh ra 1 mâu thuẫn là để phát
triển mạnh công nghiệp thay thế nhập khẩu thì lại càng phải tăng nhập khẩu
11
nguyên liệu, máy móc...Điều này trái với chính sách tiết kiệm ngoại tệ, mà hầu hết
các nớc áp dụng chiến lợc này đều nằm trong diện kém và cha phát triển. Từ đó,
các nớc này ngày càng lâm vào tình trạng vay nợ, phụ thuộc vào các nguồn vốn
đầu t của t bản nớc ngoài.
Nh vậy, chiến lợc này cũng có khá nhiều nhợc điểm. Nó đòi hỏi khi áp dụng
chiến lợc, các nớc phải có sự nghiên cứu kĩ càng, tránh áp dụng 1 cách dập khuôn
máy móc. Một điển hình cho việc áp dụng không thành công chiến lợc phát triển
hớng nội là Myanma. Nhìn lại lịch sử ta thấy Myanma đã kiên trình theo đuổi
chiến lợc này trong suốt những năm 50-60. Nhng trong quá trình thực hiện, do
điều kiện không phù hợp, các chính sách đa ra không hợp lí đã dẫn đến thất bại.
Kết quả là Myanma lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng, trở thành
một nớc nghèo nhất thế giới: GDP/ ngời chỉ có 200USD, mặc dù Myanma có lực l-
ợng lao động đông, diện tích đất đai lớn, có trữ lợng khá về dầu lửa và nhiều
nguồn tài nguyên khác, đặc biệt là có nhiều khả năng phát triển nông-lâm-ng
nghiệp. Nhng nh vậy, không có nghĩa là chiến lợc này lợi ít hơn hại. Thất bại của
Myanma chỉ là một minh chứng cho việc lựa chọn chiến lợc không hợp lí chứ

không phải là kết quả tất yếu do chiến lợc này gây ra. Xem xét đến các nớc khác
nh Hongkong và Đài Loan, ta thấy điều này ngợc lại. Để trở thành rồng châu á
nh ngày nay, Hongkong và Đài Loan đã thực thi chiến lợc thay thế nhập khẩu. Cả
2 nớc đều tiến hành thay thế nhập khẩu lần thứ nhất với hàng tiêu dùng, và kể cả
sau khi đã chuyển hớng chiến lợc sang hớng ngoại thì họ vẫn thực hiện bợc thứ 2
của thay thế nhập khẩu với nguyên phụ liệu, máy móc thiết bị...Điều không thể
phủ nhận là nhờ thay thế nhập khẩu một cách hợp lí đã thúc đẩy kinh tế 2 nớc phát
triển. Rõ ràng là chiến lợc này tốt hay xấu là tuỳ thuộc vào việc sử dụng linh
hoạt của mỗi nớc. Bên cạnhđó cũng cần lu ý, chính trong quá trình thực hiện chiến
lợc này, đến một thời điểm nào đó bằng việc chuyên môn hoá phát triển sản xuất
thay thế nhập khẩu, mỗi nớc đều có thể đạt đợc lợi thế so sánh ở một vài sản phẩm
công nghiệp nào đó, và do đó vẫn có thể xuất khẩu những sản phẩm này sau khi đã
thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nớc. Chiến lợc hớng nội sẽ là khúc dạo đầu cho
việc tăng trởng theo hớng xuất khẩu.
12
3-/ Chiến lợc hớng ra thị trờng quốc tế (chiến lợc hớng ngoại)
Ngợc hẳn với chiến lợc thay thế nhập khẩu, chiến lợc công nghiệp hoá hớng
vào xuất khẩu thể hiện sự vận dụng quy luật lợi thế so sánh ở mức độ cao nhất, do
đó, nó đặc biệt đề cao việc mở cửa, phát triển mạnh hớng ngoại của nền kinh tế. Nội
dung cơ bản của chiến lợc là: các nớc khác nhau đều có những lợi thế so sánh khác
nhau về nguồn lực sản xuất vốn có nh vốn, lao động, tài nguyên, vị trí địa lí...vì thế
các nớc cần phụ thuộc lẫn nhau trong quá trình phát triển để có thể trao đổi cho
nhau các lợi thế so sánh đó thông qua các hoạt động kinh tế đối ngoại nh ngoại th-
ơng, liên doanh liên kết...để cùng phát triển sản xuất kinh doanh.
Đến nay, qua thực tiễn phát triển ở nhiều nớc đã khẳng định tính hiệu quả
kinh tế cao, phù hợp với xu thế phát triển của chiến lợc này. Ví dụ thành công nhất
trong việc áp dụng chiến lợc hớng ngoại phải kể đến 4 con rồng châu á là các
nớc: Đài Loan, Hongkong, Hàn Quốc và Singapo. Cả 4 nớc này đều nghèo tài
nguyên, kinh tế chậm phát triển, nhng nhờ áp dụng đúng đắn, sáng tạo chiến lợc
hớng ngoại, lấy xuất khẩu dẫn đờng, thúc đẩy kinh tế phát triển. Kết quả là chỉ sau

20-30 năm kể từ khi bắt đầu tiến hành CNH, các nớc này đã đạt đợc nhiều thành
tựu trên con đờng phát triển, trở thành các nớc công nghiệp của châu á (NIES).
Năm 1960, kim ngạch xuất khẩu của 4 con rồng mới chỉ chiếm 1,6% kim ngạch
xuất khẩu của thế giới, nhng sau một thời gian hớng ngoại mạnh mẽ, con số này
đã tăng lên tới 8,6% vào năm 1991. Điều đáng quan tâm là, trong suốt 30 năm
qua, từ khi các nớc NIES châu á tiến hành CNH, mặc dù thế giới có nhiều biến
động phức tạp nhng họ vẫn luôn giữ đợc tốc độ tăng trởng kinh tế cao và ổn định.
Trong thập kỉ 60, tốc độ tăng trởng bình quân hàng năm của 4 con rồng là 9%,
những năm của thập niên 70 là 9,1% và thập kỉ 80, mặc dù đã chậm lại song vẫn
giữ đợc tốc độ tăng trởng hàng năm khá cao là 7,5%. Để đạt đợc kết quả trên là sự
kết hợp, tác động tổng hợp của nhiều nhân tố, nhng nhân tố quan trọng nhất làm
nên thành tựu đó, là họ đã lựa chọn và sử dụng chiến lợc hớng ngoại một cách hợp
lí, sáng tạo. Việc thực thi chiến lợc này tạo ra nhiều tác động tích cực đối với phát
triển kinh tế. Điều này đợc thể hiện:
13
Hớng ngoại tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nớc ngày càng nâng
cao sức cạnh tranh trên thị trờng quốc tế. Trái ngợc với hớng nội là tạo ra sức ỳ,
tính ỷ lại của các doanh nghiệp trong nớc, với chiến lợc hớng ngoại, nó đẩy các
doanh nghiệp vào tình thế cạnh tranh khốc liệt và đòi hỏi các doanh nghiệp phải
năng động để có thể tự đứng vững trên thị trờng. Qua quá trình tôi luyện, sức cạnh
tranh của các doanh nghiệp tăng lên, không chỉ trong nớc mà có thể vơn xa ra thị
trờng thế giới.
Thúc đẩy việc tạo ra một cơ cấu kinh tế mới năng động hơn, thông qua việc
phát huy đầy đủ các mối liên kết trong kinh tế. Với việc tạo ra các mối liên kết
trực tiếp và gián tiếp, nền kinh tế sẽ có đợc những kích thích cho sự phát triển và
tiến tới một cơ cấu kinh tế mới năng động hơn, sẵn sàng hoà nhập, sẵn sàng cạnh
tranh với trình độ chuyên môn hoá sản xuất ngày càng sâu rộng, kĩ thuật và năng
lực sản xuất không ngừng biến chuyển theo hớng hiện đại hoá.
Hớng ra thị trờng thế giới còn góp phần tạo thêm việc làm cho ngời lao
động, đem lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nớc. Hớng ngoại với trọng tâm

là xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ làm cho kim ngạch xuất khẩu đợc cải thiện, tạo
ra một sự gia tăng đáng kể về ngoại tệ qua việc tăng kim ngạch xuất khẩu. Cũng từ
đòi hỏi phát triển mạnh xuất khẩu, các lĩnh vực sản xuất trong nớc, đặc biệt là các
ngành phục vụ trực tiếp cho xuất khẩu sẽ ngày càng tăng lên cả về số lợng và chất
lợng, góp phần thu hút thêm một lợng lao động không nhỏ cho đất nớc.
Bên cạnh những u điểm trên, chiến lợc này cũngcó những giới hạn nhất định.
Đó là sự phụ thuộc vào quan hệ cung-cầu, giá cả thị trờng thế giới; các quan hệ
ràng buộc, chi phối bởi sự đầu t t bản nớc ngoài; sự tập trung quá mức vào 1 số
ngành sản xuất chuyên môn hoá cho xuất khẩu đôi khi lại dẫn đến toan bộ nền
kinh tế bị phụ thuộc vào sự bién động của những ngành đó, dễ khiến cho nền kinh
tế mất cân đối nghiêm trọng, trở thành nền kinh tế nhị nguyên nh thuyết phát
triển của W. Lewis đã đề cập. (Đó là sự hình thành nên 2 khu vực kinh tế cùng
song song tồn tại. Một bên là các khu vực kinh tế mới hiện đại, năng động do tác
động của các ngành xuất khẩu với dân c đông đúc, đời sống nâng cao-các vùng
14
thành thị, các trung tâm phát triển công nghiệp, dịch vụ...Còn 1 bên là các khu vực
sản xuất truyền thống, cổ điển ít đợc coi trọng nên thờng lạc hậu, dân c tha thớt,
đời sống thấp kém-các vùng nông thôn, địa phơng xa xôi, hẻo lánh). Tuy nhiên,
trong quá trình áp dụng chiến lợc này, mỗi nớc nếu biết sử dụng một cách linh
hoạt, sáng tạo và có bàn tay tích cực từ phía chính phủ thì những trở ngại trên sẽ đ-
ợc hạn chế rất nhiều. Cho đến nay, chiến lợc CNH hớng vào xuất khẩu vẫn đợc
đánh giá là u việt hơn cả, phù hợp với tình hình quốc tế, với xu thế phát triển của
thời đại là quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới và hợp tác vì sự phát triển chung
của nhân loại.
4-/ Chiến lợc phát triển tổng hợp-chiến lợc hữu hiệu nhất với phát triển kinh
tế
Sự phân định thành 3 loại chiến lợc phát triển trên trong thực tiễn phát triển
của nhiều nớc chỉ mang tính ớc lệ, tơng đối. Hầu hết các nớc này đều không theo
đuổi hẳn một loại chiến lợc nào mà thực hiện sự kết hợp đồng bộ của 2 hay cả 3
loại chiến lợc thành chiến lợc phát triển hỗn họp, mặc dù khi thực hiện nó, tuỳ

theo từng thời kì lịch sử cụ thể, những đặc điểm, quy định cụ thể của tiến trình
CNH mà mỗi nớc đều có sự nhấn mạnh trọng tâm vào phát triển loại chiến lợc này
hay chiến lợc khác. Cũng qua thực tiễn áp dụng, ta có thể khẳng định tính u việt,
hơn hẳn của nó đối với phát triển kinh tế. Bởi lẽ nó tạo ra một sự kết hợp hài hoà,
cân đối giữa các chiến lợc, từ đó có thể phát huy u điểm, hạn chế nhợc điểm của
từng chiến lợc. Khó có thể thực thi riêng biệt, rạch ròi từng chiến lợc cụ thể mà
cần có sự tơng trợ lẫn nhau giữa chúng, đặc biệt là giữa hớng nội và hớng ngoại.
Không thể hớng ngoại khi cha hớng nội, cha đủ sức cạnh tranh; cũng không nên
bỏ qua hớng ngoại khi hớng nội đã đến giai đoạn chín muổi.
Với Việt Nam, việc lựa chọn một chiến lợc phát triển tổng hợp sẽ là hợp lí
hơn cả. Điều này có thể lí giải nh sau:
- Đối với loại chiến lợc xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế: đó là loại chiến l-
ợc hớng về xuất khẩu ở trình độ sơ đẳng và đợc đánh giá là chiến lợc bán rẻ tài
nguyên, song nó cũng có những đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế-xã hội.
Với thực tiễn còn kém phát triển, trong khi nguồn tài nguyên khá dồi dào nh Việt
15
Nam, nhất là lại đang trong giai đoạn đầu của quá trình CNH-HĐH đất nớc hiện
nay thì Việt Nam khong thể bỏ qua chiến lợc này. Tuy bán rẻ tài nguyên nhng
đây sẽ là điểm nhất bổ trợ cho giai đoạn sau của phát triển với việc tạo ra ngoại tệ,
tăng nguồn thu cho đất nớc, cộng thêm những kinh nghiệm khi tham gia vào thị tr-
ờng thế giới thông qua xuất khẩu. Thực tế những năm qua, sản phẩm thô và sơ chế
là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam, chiếm tới 70-80% trong tổng kim
ngạch xuất khẩu của đất nớc. Nhng đã đến lúc Việt Nam cần xem xét lại cơ cấu
xuất khẩu của mình, không nên tập trung, nhng cũng không nên xem nhẹ chiến l-
ợc này. Điều cốt yếu là đa ra đợc mức độ, cơ cấu mặt hàng hợp lí nhất cho xuất
khẩu sản phẩm thô và sơ chế. Vấn đề này chúng ta sẽ đề cập đến ở phần III.
- Về loại chiến lợc thay thế nhập khẩu: cần phải nhận thấy rằng, tự bản thân
chiến lợc này không phải là chiến lợc tiêu cực, bế tắc mà ngợc lại, nó hoàn toàn có
tác dụng tích cực đối với tăng trởng và phát triển kinh tế nếu biết vận dụng 1 cách
sáng tạo, linh hoạt. Đặc biệt là qua bài học kinh nghiệm của các nớc NIES châu á

càng khẳng định tính tất yếu phải thực hiện nó trong quá trình phát triển. Việt
Nam với trình độ sản xuất nhìn chung còn lạc hậu, vì vậy không thể hớng ngoại
mạnh mẽ ngay đợc mà nhất thiết cần có 1 giai đoạn khép hờ hờ ở 1 số ngành
nghề, lĩnh vực còn yếu kém với thời gian và mức độ hợp lí đủ cho sản xuất trong
nớc có thể đơng đầu đợc với các hàng hoá quốc tế với sức cạnh tranh cao. Điều
cần tránh nhất với Việt Nam khi sử dụng chiến lợc này là việc bảo hộ của chính
phủ về quá sâu, dễ tạo cho các doanh nghiệp trong nớc tính ỷ lại, dựa dẫm, từ đó
mà đi ngợc lại với yêu cầu của chiến lợc hớng ngoại. Một khó khăn nữa là thời hạn
cắt giảm thuế quan của AFTA mà Việt Nam tham gia không còn xa, nên thời gian
tới mức độ thực thi chiến lợc này sẽ càng phải hợp lí hơn nữa để đảm bảo sao cho
vừa phục vụ đợc mục đích của sản xuất trong nớc, vừa không vi phạm quy trình
cắt giảm thuế quan chung.
- Với mô hình chiến lợc hớng vào xuất khẩu: Chiến lợc này tuy mới xuất hiện
từ những năm 60 đến nay và có những giới hạn nhất định nhng đã đợc thực tiễn
phát triển của nhiều nớc khẳng định là mang lại thành công hơn cả. Chiến lợc này
16
vừa phù hợp với quy luật của lợi thế so sánh vừa phù hợp với xu thế hoà nhập, mở
cửa hiện nay, do vậy, với Việt Nam, đây sẽ là sự lựa chọn trọng tâm trong thời
gian tới. Tuy nhiên, với những hạn chế của Việt Nam nh đã nêu thì hớng ngoại
không thể thành công đợc nếu không có sự hỗ trợ đắc lực của 2 chiến lợc kia. Một
sự kết hợp hài hoà giữa 3 chiến lợc tạo ra một chiến lợc tổng hợp phù hợp nhất cho
thực tiễn Việt Nam, và tình hình thế giới sẽ là mấu chốt cho kinh tế Việt Nam phát
triển.
Thực tiễn hoạt động của ngoại thơng Việt Nam hiện nay cho thấy rằng chúng
ta đang theo đuổi chiến lợc phát triển tổng hợp này, tuy nhiên, mức độ sử dụng và
kết quả đạt đợc cha cao. Sự hạn chế này là do chúng ta cha hội đủ các điều kiện
cần thiết và cha tạo đợc môi trờng thuận lợi cho chiến lợc phát huy tác dụng ở mức
độ cao nhất. Thời gian tới, Việt Nam cần xác định tiếp tục theo đuổi chiến lợc phát
triển tổng hợp với trọng tâm là u tiên cho chiến lợc hớng ngoại. Với hớng đi này,
cộng thêm các chính sách hỗ trợ thích đáng, hợp lí từ phía chính phủ, chiến lợc

này sẽ phát huy tác dụng một cách cao nhất.
III-/ Vai trò của ngoại thơng với phát triển kinh tế:
Tromg cơ chế mở, ngoại thơng giữ vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình
tăng trởng và phát triển kinh tế. Điều này đợc thể hiện qua 3 tác động cơ bản sau của
ngoại thơng:
1-/ Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hớng CNH, HĐH:
Những nhân tố cơ bản tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
một đất nớc đó là sự phát triển của lực lợng sản xuất, sự tác động của tiến bộ khoa
học kỹ thuật và các quan hệ hợp tác quốc tế về đầu t và thu hút vốn đầu t nớc
ngoài. Chính ngoại thơng là chủ thể tác động trực tiếp , sâu sắc tới những nhân tố
này, từ đó thúc đẩy các nhân tó phát triển không ngừng và kết quả là cơ cấu kinh
tế cũng không ngừng đợc chuyển dịch, tạo ra một cơ cấu kinh tế năng động, phù
hợp và ngày càng hoàn thiện theo hớng CNH, HĐH.
- Sự tác động của ngoại thơng đến phát triển lực lợng sản xuất đợc thể hiện
qua việc chuyên môn hoá sản xuất và phân công lao động xã hội. Phân công lao
17
động xã hội càng cao, chuyên môn hoá càng sâu sắc, cũng có nghĩa là lực lợng sản
xuất càng phát triển.
Ngoại thơng với quy luật chi phối là lợi thế cạnh tranh đã đã hớng các hoạt
động sản xuất đi vào chuyên sâu trong việc sản xuất ra các hàng hoá, dịch vụ. Các
sản phẩm có lợi thế cạnh tranh cao nhất sẽ đợc các nớc tập trung sản xuất, với các
sản phẩm bất lợi họ sẵn sàng nhập khẩu từ các nớc khác và dành việc sản xuất
chúng cho những nớc có điều kiện thuận lợi hơn. Sự phân công lao động quốc tế từ
đâu nảy sinh và không ngừng tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hớng
ngày càng hiện đại.
Nh đã đề cập, phân công lao động quốc tế là điều kiện tiên quyết để phát
triển ngoại thơng. Điều này đã đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá lực lợng sản xuất
đang diễn ra đồng bộ ở tất cả các quốc gia và hầu hết các lĩnh vực khác nhau của
quan hệ kinh tế quốc tế. Thông qua cầu nối thơng mại quốc tế, các nớc dù ở trình
độ phát triển khác nhau đều có thể thực hiện sự hợp tác, phân công lao động quốc

tế chặt chẽ theo hớng chuyên môn hoá ngày càng sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực
của hoạt động sản xuất kinh doanh về cùng một loại sản phẩm hay nhiều loại sản
phẩm, nhiều chi tiết sản phẩm khác nhau... từ đó, các ngành, lĩnh vực sản xuất của
từng nớc không ngừng đợc cơ cấu lại theo yêu cầu của chuyên môn hoá và dần
tiêns tới một cơ cấu ngày càng hiện đại.
- Với vấn đề hợp tác quốc tế về đầu t và thu hút vốn đầu t của nớc ngoài,
ngoại thơng cũng có quan hệ chặt chẽ, là yếu tố chi phối quan hệ hợp tác này.
Thông thờng, bất kỳ một nớc nào trớc khi quyết định cần hợp tác về đầu t với ai,
trong lĩnh vực kinh doanh nào đều phải căn cứ vào các mục tiêu đặt ra trớc đó,
trong đó có xuất khẩu và nhập khẩu là một mục tiêu rất quan trọng thờng đợc các
bên đối tác đầu t đặc biệt quan tâm. Quá trình này thờng chỉ diễn ra một chiều từ
các nớc phát triển sang các nớc kém phát triển và đang phát triển. Những ngành và
lĩnh vực nào trong nớc đợc đầu t nớc ngoài chú ý sẽ ngày càng phát triển theo h-
ớng HĐH và không ngừng chuyển dịch trong cơ cấu của nền kinh tế.
18
- Đối với hợp tác quốc tế về khoa học - công nghệ, nh đã biết, đó là các kinh
doanh chuyên môn hoá và hợp tác hoá ở tầm quốc tế trong lĩnh vực sản xuất,
nghiên cứu khoa học và trao đổi công nghệ. Có nhiều phơng thức, con đờng khác
nhau để thực hiện hoạt động kinh tế đối ngoại, trong đó thông qua ngoại thơng với
các hoạt động xuất - nhập khẩu là một trong những phơng thức, con đờng mang lại
hiệu quả cao trong việc chuyển giao giữa các nớc với nhau về các kết quả, thành
tựu phát triển khoa học - công nghệ. Có thể nói sự tác động của tiến bộ khoa học -
công nghệ có tác động trực tiếp và thể hiện rõ nét nhất trong việc cấu trúc lại nền
ktcủa một nớc theo hớn CNH, HĐH.
2-/ Nâng cao hiệu quả của nền kinh tế mở qua việc cải thiện cán cân thanh
toán quốc tế, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, và mở rộng các
quan hệ kinh tế đối ngoại.
Cán cân thanh toán quốc tế là bản quyết toán tổng hợp toàn bộ các mối quan
hệ kinh tế đối ngoại của một nớc. Cấu thành cán cân thanh toán quốc tế bao gồm
nhiều bộ phận, trong đó cán cân ngoại thơng ( hay còn gọi là cán cân mậu dịch

hay cán cân hữu hình) là một bộ phận cấu thành quá trình nhất. Trong cán cân
ngoại thơng thì cán cân thanh toán vãng lai (do cán cân dịch vụ và cán cân chuyển
tiền đơn phơng hợp thành) lại giữ vị trí quan trọng nhất. Sự d thừa hay thiếu hụt
của nó có tác động trực tiếp đến cung - cầu ngoại tệ trên thị trờng ngoại hối của
một nớc, nghĩa là trực tiếp ảnh hởng đến tỷ giá của các ngoại tệ so với đồng nội tệ
của nớc đó. Nh vậy, phát triển hoạt động ngoại thơng góp phần cải thiện cán cân
thanh toán quốc tế, thông qua đó, nó điều tiết đến tỷ giá, lạm phát và vấn đề ổn
định kinh tế vĩ môcủa một đất nớc.
Song song với sự phát triển của hoạt động ngoại thơng hữu hình, các hoạt
động ngoại thơng vô hình cũng không ngừng gia tăng, sôi động nh: Du lịch quốc
tế, GTVT quốc tế, thông tin liên lạc quốc tế, bảo hiểm quốc tế, dịch vụ kiều hối...
Các hoạt động nảy không chỉ làm tăng hiệu quả của hoạt động ngoại thơng mà nó
còn những tác động tích cực thúc đẩy các hoạt động kinh tế đối ngoại khác phát
triển. Các hoạt động kinh tế đối ngoại khác, nếu đạt đợc hiệu quả tốt, đến lợt mình
lại tác động tích cực trở lại để ngoại thơng tiếp tục phát triển tốt hơn và do đó sẽ
19

×