Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

thử nghiệm kích thích cá sặc rằn sinh sản với các loại kích thích tố khác nhau ở các liều lượng thấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 52 trang )

1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN
MÃ SỐ: 304
THỬ NGHIỆM KÍCH THÍCH CÁ SẶC RẰN
SINH SẢN VỚI KÍCH THÍCH TỐ KHÁC NHAU
Ở LIỀU LƯỢNG THẤP
Sinh viên thực hiện
TRẦN NGỌC HUYỀN
MSSV: 06803015
Lớp: NTTS K1
Cần thơ, 2010
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG
2
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN
MÃ SỐ: 304
THỬ NGHIỆM KÍCH THÍCH CÁ SẶC RẰN
SINH SẢN VỚI KÍCH THÍCH TỐ KHÁC NHAU Ở
LIỀU LƯỢNG THẤP
Cán bộ hướng dẫn Sinh viên thực hiện
TS. NGUYỄN VĂN KIỂM TRẦN NGỌC HUYỀN
Ks. NGUYỂN THÀNH TÂM MSSV: 06803015
Lớp: NTTS K1
Cần thơ, 2010
3
LỜI CẢM TẠ
Sau 2 tháng thực tập từ tháng 4 năm 2010 đến tháng 6 năm 2010, tại phường Lê


Bình – quận Ninh Kiều - TP. Cần Thơ, áp dụng những kiến thức đã học kết hợp với
kinh nghiệm thực tế, nay luận văn đã được chỉnh sửa và hoàn thành.
Trước hết em xin chân thành cảm tạ Ban Giám Hiệu Trường Đại Học Tây Đô đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho em trong suốt thời gian học tập tại trường.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến thầy Nguyễn Văn Kiểm, thầy
Nguyễn Thành Tâm đã tận tình chỉ dạy cho em trong quá trình học tập đã hướng dẫn
chỉ bảo em trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Em xin chân thành cảm ơn đến tất cả quý Thầy Cô - Khoa Sinh Học Ứng Dụng –
Trường Đại Học Tây Đô đã tận tình dạy bảo, truyền đạt cho em những kiến thức quý
báu trong suốt thời gian học và tạo mọi điều kiện thuận lợi để luận văn được hoàn
thành, tạo dựng hành trang để em bước vào cuộc sống sau này.
Cuối cùng em xin cảm ơn đến gia đình, bạn bè, cùng tập thể lớp thuỷ sản K1 đã giúp
đỡ, động viên em trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Em xin chân thành cảm ơn và ghi nhớ !
Cần thơ, ngày tháng năm
Sinh viên thực hiện
TRẦN NGỌC HUYỀN
4
TÓM TẮT
Cá Sặc Rằn (Trichogaster pectorralis) một loài cá quen thuộc và được xem là đặc sản
của đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) nhờ phẩm chất thịt thơm, ngon, có giá trị ở
sản phẩm tươi và đặc biệt là sản phẩm làm khô. Nhờ khả năng chịu đựng tốt với các
điều kiện môi trường mà cá Sặc Rằn được chú ý và ngày càng phát triển rộng rãi.
Nhằm ngày càng hoàn thiện quy trình sản xuất giống đáp ứng nhu cầu con giống ngày
càng đa dạng cho người dân, đề tài kích thích cá Sặc Rằn sinh sản với các liều lượng
kích thích tố khác nhau được thực hiện với 3 thí nghiệm, mỗi thí nghiệm được thực
hiện với 3 nghiệm thức khác nhau về nồng độ và chia làm 2 đợt sản xuất (đợt thứ 1
tiến hành vào cuối tháng 4, đợt 2 tiến hành vào cuối tháng 5).
Kết quả sử dụng kích thích tố LRH-a + Motilium qua 2 đợt cho cá Sặc Rằn sinh sản
nhận thấy liều lượng 100 µg LRH-a + 5 mg Motilium cho kết quả sinh sản tốt với

sức sinh sản thực tế trung bình
149.934
trứng/kg, các chỉ tiêu sinh sản như tỷ lệ đẻ
66,5%, tỷ lệ thụ tinh của trứng 73%, tỷ lệ nở 77%, tỷ lệ sống cá con 91%.
Đối với việc sử dụng não thuỳ thì ở cả hai đợt sinh sản cá đều không sinh sản.
So với việc sử dụng LRH-a + Motilium và não thuỳ, kích thích tố HCG + não thuỳ
được cho là hormon sử dụng có hiệu quả để kích thích cá Sặc Rằn sinh sản và liều
lượng thích hợp từ 1.000 UI/kg – 1.500 UI/kg kết hợp với 2 mg não thuỳ, sức sinh sản
thực tế trung bình dao động khoảng 177.000 trứng/kg, tỷ lệ đẻ 100%, tỷ lệ thụ tinh
trung bình 68%, tỷ lệ nở 71%, tỷ lệ sống cá con 83%.
T khóa: cá S˅c Rʿn,Trichogaster pectorrali ,sinh sʱn, kích thích t˨.
5
CAM KẾT KẾT QUẢ
Tôi xin cam kết luận văn này được hoàn thành dựa trên các kết quả nghiên cứu của tôi
và các kết quả của nghiên cứu này chưa được dùng cho bất cứ luận văn cùng cấp nào
khác.
Ngày……
tháng…….năm……
TRẦN NGỌC HUYỀN
6
MỤC LỤC
LỜI CẢM TẠ i
TÓM TẮT ii
CAM KẾT KẾT QUẢ iii
MỤC LỤC iv
DANH SÁCH BẢNG vi
DANH SÁCH HÌNH vii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT viii
CHƯƠNG 1 ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1.1 Giới thiệu 1

1.2 Mục tiêu: 2
1.3 Nội dung: 2
CHƯƠNG 2 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 3
2.1 Đặc điểm phân loại và phân bố của cá Sặc Rằn 3
2.1.1 Đặc điểm phân loại 3
2.1.2 Đặc điểm hình thái 4
2.1.3 Phân bố 5
2.2 Đặc điểm sinh học
3
2.2.1 Sinh trưởng 5
2.2.2 Sinh sản 6
2.2.3 Dinh dưỡng 7
2.2.4 Khả năng thích nghi với môi trường
7
2.3 Sơ lược tình hình nuôi cá Sặc Rằn 8
2.3.1 Sơ lược tình hình nuôi cá Sặc Rằn trên thế giới 8
2.3.2 Sơ lược và hiện trạng nuôi cá Sặc Rằn ở ĐBSCL 8
2.4 Các biện pháp kích thích cá sinh sản 9
2.4.1 Sinh sản tự nhiên 9
2.4.2 Cho cá đẻ nhân tạo 10
2.4.3 Một số loại kích thích tố và chất kích thích sinh sản ở cá 11
7
2.5 Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của cá Sặc Rằn 12
CHƯƠNG 3 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 16
3.1 Thời gian và địa điểm thực hiện đề tài 16
3.1.1 Thời gian 16
3.1.2 Địa điểm 16
3.2 Vật liệu thí nghiệm 16
3.3 Phương pháp nghiên cứu 16
3.3.1 Chọn cá bố mẹ cho sinh sản 16

3.3.2 Chuẩn bị dụng cụ cho cá sinh sản 17
3.4 Bố trí thí nghiệm 17
3.5 Phương pháp xử lý số liệu 19
3.5.1 Các chỉ tiêu sinh sản theo dõi 19
3.5.2 Ghi nhận và xử lý số liệu
20
CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 21
4.1 Các yếu tố môi trường 21
4.2 Kết quả sinh sản kích thích cá Sặc Rằn sinh sản 22
4.2.1 Kết quả sinh sản cá Sặc Rằn bằng kích thích tố LRH-a 22
4.2.2 Kết quả sinh sản cá Sặc Rằn bằng não thuỳ 27
4.2.3 Kết quả sinh sản cá Sặc Rằn bằng kích thích tố HCG + não thuỳ 29
4.3 Đánh giá chung về kết quả kích thích cá Sặc Rằn sinh sản bằng kích thích tố 33
4.4 Quá trình phát triển phôi cá Sặc Rằn 36
CHƯƠNG 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 39
5.1 Kết luận 39
5.2 Đề xuất 39
TÀI LIỆU THAM KHẢO 40
PHỤ LỤC A
DANH SÁCH BẢNG
Trang
Bảng 4.1: Một số yếu tố môi trường 21
Bảng 4.2: Kết quả sử dụng kích thích tố LRH-a kích thích cá sinh sản 23
8
Bảng 4.3: Kết quả sử dụng não thuỳ kích thích cá sinh sản 27
Bảng 4.4: Kết quả sử dụng HCG + não thuỳ kích thích cá sinh sản 29
Bảng 4.5: Đánh giá chung về kết quả sinh sản cá Sặc Rằn ở các thí nghiệm 33
Bảng 4.6: Thời gian phát triển phôi và hậu phôi của cá Sặc Rằn 36
Bảng 4.7: Ảnh hưởng của nhiệt độ nước lên chỉ các tiêu phát triển phôi cá
Sặc Rằn 37

DANH SÁCH HÌNH
Trang
Hình 2.1: Hình dạng bên ngoài cá Sặc Rằn 3
Hình 2.2: Hoạt động bắt cặp của cá Sặc Rằn 14
Hình 2.3: Chuẩn bị dụng cụ cho cá sinh sản 15
9
Hình 3.1: Cá Sặc Rằn đực và cái 17
Hình 3.2: Cách tiêm kích thích tố cho cá Sặc Rằn 18
Hình 4.1: Buồng trứng cá Sặc Rằn sau khi sinh sản xong 24
Hình 4.2: Sức sinh sản của cá Sặc Rằn bằng kích thích tố LRH-a (đợt2) 25
Hình 4.3: Các chỉ tiêu sinh sản của cá bằng kích thích tố LRH-a (đợt 2) 26
Hình 4.4: So sánh các chỉ tiêu sinh sản cá Sặc Rằn đợt 1 và 2 bằng LRH-a 26
Hình 4.5: Buồng trứng cá Sặc Rằn không sinh sản 28
Hình 4.6: Sức sinh sản cho cá đẻ bằng HCG + não thuỳ đợt 1 và 2 31
Hình 4.7: Các chỉ tiêu ấp trứng của cá Sặc Rằn cho đẻ bằng HCG + não thuỳ
đợt 1 và 2 32
Hình 4.8: So sánh chỉ tiêu sinh sản của cá Sặc Rằn bằng 2 loại kích thích tố34
Hình 4.9: Các giai đoạn phát triển phôi cá Sặc Rằn 38
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ĐBSCL: Đồng bằng Sông Cửu Long
HCG: Human Chorionic Gonadotropin
LRH-a: Lutienizing Releasing Hormon:
TGHƯ: Thời gian hiệu ứng
SSSTT: Sức sinh sản thực tế
TLĐ: Tỷ lệ đẻ
10
TLTT: Tỷ lệ thụ tinh
TLS: Tỷ lệ sống
NT: Nghiệm thức
NT1: Nghiệm thức 1

NT2: Nghiệm thức 2
NT3: Nghiệm thức 3
h: Giờ
11
CHƯƠNG 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Giới thiệu
Trong những năm gần đây, để đáp ứng nhu cầu con giống phục vụ cho nghề nuôi cá
nước ngọt theo phương châm đa dạng hoá đối tượng, có nhiều loài cá có giá trị kinh tế
đã được nghiên cứu và cho sinh sản thành công: cá Tra, cá Basa, cá Lóc, cá Bống
tượng, cá Leo,…Bên cạnh việc phát triển các nguồn lợi trên thì cũng cần củng cố việc
sản xuất giống các loại cá đồng như: cá Rô đồng, Trê vàng, cá Sặc Rằn…Cá Sặc Rằn
(Trichogaster pectorralis) là loài cá có chất lượng thịt thơm ngon, được xem là đặc
sản của ĐBSCL, có giá trị ở cả sản phẩm tươi và đặc biệt là sản phẩm làm khô.
Cá Sặc Rằn sống ở vùng trũng phèn, rừng tràm, ruộng lúa ven biển,…được nhiều
người dân chọn nuôi theo nhiều mô hình nuôi khác nhau: vườn ao chuồng (VAC),
Heo – Cá. Cá Sặc Rằn có khả năng thích nghi tốt với điều kiện bất lợi của môi trường:
mực nước thấp, nhiệt độ cao, độ trong thấp, ngoài ra do có cơ quan hô hấp phụ nên cá
có thể sống được môi trường có pH thấp, hàm lượng oxy thấp (Bonsoom, 1986).
Sản lượng cá Sặc Rằn tương đối cao so với một số loại cá đồng khác. Tuy nhiên, trong
những năm gần đây sản lượng cá Sặc Rằn ngoài tự nhiên đã giảm đáng kể, sản lượng
cá khai thác ít đi, cở cá thu hoạch nhỏ, chủ yếu tập trung ở một số địa phương thuộc
tỉnh Cà Mau, Kiên Giang, An Giang. Một số vùng khác thì sản lượng cá Sặc Rằn đã
trở nên khan hiếm. Việc đưa cá Sặc Rằn vào sinh sản nhân tạo nhằm cung cấp giống
đảm bảo đủ nhu cầu con giống cho người nuôi vẫn chưa thật sự mang lại hiệu quả cao.
Nguyên nhân là khi kích thích cho cá sinh sản thì sức sinh sản thực tế biến động lớn,
phụ thuộc rất lớn vào mùa vụ, chất lượng cá bố mẹ không ổn định …
Hiện nay đã có nhiều tác giả nghiên cứu về việc cho cá Sặc Rằn sinh sản nhân tạo, tuy
nhiên các kết quả của những tác giả này hoàn toàn khác biệt nhau và cũng chưa thể
xác định được liều lượng kích thích tố thấp nhất gây rụng trứng ở cá Sặc Rằn.

Vì vậy, việc tìm ra liều lượng kích thích tố thấp nhất có tác dụng tốt lên sự sinh sản
của cá rất quan trọng. Do đó đề tài: ”Thử nghiệm kích thích cá Sặc Rằn sinh sản
với các loại kích thích tố khác nhau ở các liều lượng thấp” được thực hiện.
12
1.2 Mục tiêu
 Xác định liều lượng kích thích tố thấp nhất có tác dụng gây rụng và đẻ trứng ở
cá Sặc Rằn.
 Rèn luyện và nâng cao kỹ năng sản xuất giống cá Sặc Rằn.
 Chủ động nguồn giống, góp phần hoàn chỉnh quy trình sản xuất giống cá Sặc
Rằn.
1.3 Nội dung
 Nghiên cứu ảnh hưởng của kích thích tố ở liều lượng khác nhau tới sự sinh sản
cá Sặc Rằn.
 Theo dõi một số chỉ tiêu sinh sản của cá.
13
CHƯƠNG 2
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 Đặc điểm phân loại và phân bố của cá Sặc Rằn
2.1.1 Đặc điểm phân loại
Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993) định loại cá Sặc Rằn như sau:
Ngành: Vertebrata
Ngành phụ: Craniata
Tổng lớp: Gnathostomata
Lớp: Osteichthyes
Lớp phụ: Actinopterygii
Tổng bộ: Percomorpha
Bộ: Perciformes
Bộ phụ: Anabantoidei
Họ: Anabantidae
Giống: Trichogaster

Loài: Trichogaster pectoralis (Regan, 1910)
Tên tiếng Anh: Snakeskin Gouramy
Tên địa phương: Cá Sặc Rằn, cá Sặc Bổi, cá Lò Tho
Hình 2.1: Hình dạng bên ngoài cá Sặc Rằn
(Ngu˪n: FishBase)
14
2.1.2 Đặc điểm hình thái
Yasuhiko Taki, (1974) đã mô tả một số mẫu vật cá Sặc Rằn thu được tại các thủy vực
của Lào như sau:
Cá có dạng hình thuỗn. Miệng nhỏ, hướng lên trên. Hàm dưới trồ. Ðầu phủ vẩy. Mắt
lớn. Vi lưng có các tia cứng ngắn, tia mềm kéo dài. Có một số vẩy nhỏ chồng lên gốc
vi lưng. Vi hậu môn rất dài. Vi ngực phát triển. Cá có màu xám sậm nâu với các tia
xanh đen hoặc xám đen chạy dọc bề mặt cơ thể và có một ít vân ngang màu nâu đậm.
Trên vi lưng, vi hậu môn, vi đuôi có chấm đen sậm nhỏ.
Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993) sau khi phân tích 23 mẫu thu thập ở
nhiều nơi tại vùng ĐBSCL đã mô tả về cá Sặc Rằn như sau: Ðầu nhỏ, dẹp bên. Mõm
ngắn. Miệng hơi hướng trên. Mắt lớn. Thân cá dẹp bên. Vẩy lược phủ khắp thân và
đầu, có một số vẩy nhỏ chồng lên gốc vi hậu môn, vi đuôi, vi bụng, vi ngực. Ðường
bên bắt đầu từ mép trên lỗ mang, cong lên phía trên một đoạn ngắn rồi uốn cong tới
trục giữa thân sau đó chạy ngoằn ngoèo đến giữa gốc vi đuôi. Khởi điểm vi lưng
ngang với vẩy đường bên thứ 17 - 19. Ở cá đực khi trưởng thành, vi lưng kéo dài tới
khỏi gốc vi đuôi còn cá cái thì vi này ngắn, chưa tới gốc vi đuôi. Gốc vi hậu môn kéo
dài. Khởi điểm vi hậu môn ngang với vẩy đường bên thứ 5 và phần cuối nối với vi
đuôi. Gai vi lưng, vi hậu môn cứng, nhọn. Tia phân nhánh đầu tiên của vi bụng kéo
dài có thể chạm tới ngọn vi đuôi. Vi đuôi chẽ hai, rãnh chẻ cạn và phần cuối cuả 2
thùy vi đuôi tròn. Phần bụng của thân và đầu có màu xanh đen hoặc xám đen và lợt
dần xuống bụng. Có nhiều sọc đen nằm xiên vắt ngang thân cá. Chiều rộng 2 sọc lớn
hơn khoảng cách 2 sọc. Ở cá nhỏ các sọc ngang chưa rõ nhưng có 1 sọc dọc chạy từ
mõm tới gốc vi đuôi và ở gốc vi đuôi có 1 chấm đen tròn. Chấm và sọc này lợt dần và
mất hẳn khi cá lớn. Vi cá có màu xanh đen hoặc xám đen.

Từ những dẫn liệu thu thập được cho thấy có đôi chỗ khác nhau trong các mô tả.
Những điểm khác nhau này, biểu hiện sự thay đổi trong nội bộ loài khi cá sống trong
các vùng địa lý khác nhau với điều kiện sinh thái không giống nhau. Ðó cũng là kết
quả của sự biến dị thích nghi trong những vùng mà cá Sặc Rằn phân bố (Nguyễn Văn
Kiểm và csv, 1999).
Các công trình nghiên cứu đi sâu vào việc tìm hiểu về các đặc điểm sinh vật học, các
nghiên cứu về sinh sản nhân tạo cá Sặc Rằn nói riêng và các loài cá khác nói chung rất
cần thiết và quan trọng để phát triển hơn nữa nghề nuôi cá ở vùng ĐBSCL.
15
2.1.3 Phân bố
Theo Horra và Pilay (1962) cho rằng cá Sặc Rằn phân bố tự nhiên ở các nước thuộc
khu vực Đông Nam Á như Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Campuchia và
Nam Việt Nam. Cá có thể sinh sản rộng rãi ở kênh rạch, ruộng lúa, rừng tràm, ao,
hồ Cá Sặc Rằn đặc biệt thích sống ở các thuỷ vực có nhiều cây cỏ thuỷ sinh và có
nhiều chất hữu cơ. Tại Việt Nam, trong vùng châu thổ sông MeKong, cá phân bố tập
trung trong các vùng trũng ngập nước quanh năm, sinh sản tự nhiên trong ao, ruộng,
kinh mương nơi chúng cư trú, đặc biệt là những nơi có nhiều cây cỏ thủy sinh với
nhiều chất hữu cơ. Ngoài ra, cá Sặc Rằn còn có khả năng sử dụng các loại thức ăn
khác nhau do con người cung cấp: bột ngũ cốc, xác bã động thực vật, bột cá Hai
tỉnh Cà Mau và Kiên Giang là vùng phân bố tập trung và có sản lượng cao hiện nay ở
ĐBSCL. Loài cá này cũng được nuôi phổ biến trong ruộng lúa và ao gia đình (Nguyễn
Văn Kiểm và csv, 1999).
2.2 Đặc điểm sinh học
2.2.1 Sinh trưởng
Cá Sặc Rằn sinh trưởng chậm, ở các ao nuôi và các thủy vực tự nhiên ở ĐBSCL, cá có
trọng lượng khoảng 50 – 80 g/con sau 1 năm nuôi, sau 2 năm có thể đạt từ 100 - 150
g/con. Cá lớn nhanh trong 7 tháng đầu, cá lớn nhanh vào mùa mưa, vào mùa khô sức
lớn cá giảm (Lê Như Xuân, 1993).
Theo Lê Như Xuân (1993) nếu nhiệt độ trong khoảng 28 – 30
o

C thời gian phát triển
phôi 24h – 26h. Cá con sau khi nở ra sẽ tự dinh dưỡng bằng noãn hoàng trong 2 - 3
ngày. Sau khi hết noãn hoàng cá con sẽ xuống dưới lớp nước sâu hơn để kiếm thức
ăn.
Chiều dài tối đa của cá khoảng 25 cm. Theo Quách Thanh Hùng và csv (1999) nếu cá
đực và cá cái cùng tuổi thì cá đực có trọng lượng nhỏ hơn, lý do khiến cá đực có trọng
lượng nhỏ hơn cá cái có thể là do trong quá trình sinh sản cá đực thường phải giữ tổ
và chăm sóc đàn cá con nên chúng thường ăn ít hoặc đôi khi bỏ ăn. Cá ương trong ao
đạt chiều dài 2 – 3 cm sau 30 – 35 ngày, thức ăn cho cá ban đầu là động vật phiêu sinh
có kích thước nhỏ như luân trùng, các chất lơ lửng, tảo khi cá lớn hơn thì ăn nhiều
loại thức ăn hơn, cá ăn thiên về thực vật.
Ðối với cá Sặc Rằn, vì phân bố chủ yếu trên đồng ruộng hay các vùng trũng phèn
ngập nước, nên thời điểm hình thành vòng tuổi rất có thể là các tháng mùa khô. Bởi vì
trong những tháng này cá thường tập trung ở ao, đìa, kênh mương với mật độ cao, môi
trường khắc nghiệt, thiếu thức ăn (Trương Thủ Khoa và Nguyễn Minh Trung, 1980).
Trong điều kiện ĐBSCL những nghiên cứu trước đây cho rằng, độ béo của cá thường
đạt cao nhất vào các tháng mùa khô, tới đầu mùa mưa. Tương phản với độ béo là sự
16
phát triển lớn dần lên của tuyến sinh dục. Ðộ béo giảm dần ở các tháng mùa mưa, kết
thúc mùa sinh sản và sau đó lại tiếp tục một chu kỳ mới (Trương Quan Trí, 1987).
2.2.2 Sinh sản
Hora và Pillay (1962) cho rằng cá Sặc Rằn thành thục lần đầu sau 7 tháng tuổi. Khi
thành thục có thể phân biệt dễ dàng cá đực, cá cái bằng các biểu hiện bên ngoài của
dấu hiệu sinh dục phụ. Smith (1945) cho biết cá Sặc Rằn ở Thái Lan đến thời kỳ thành
thục, ở cá đực phần tia mềm vây lưng kéo dài tới hoặc vượt khỏi gốc vi đuôi, còn cá
cái thì vi này rất ngắn và không bao giờ chạm tới gốc vi đuôi. Hiện tượng tương tự
như vậy cũng thấy ở cá Sặc Rằn phân bố tại ĐBSCL (Nguyễn Tường Anh, 2004).
Ngoài chỉ tiêu căn bản này, cũng có thể phân biệt cá đực với các sọc ngang đậm nét
chạy từ lưng xuống bụng rõ hơn cá cái và miệng của nó cũng lớn hơn (Lê Như Xuân,
1993; Trương Thủ Khoa và Nguyễn Minh Trung, 1980). Sự phát triển tuyến sinh dục

của cá Sặc Rằn ở vùng ÐBSCL theo mùa rất rõ (Lê Như Xuân, 1993; Trương Thủ
Khoa và Nguyễn Minh Trung, 1980). Vào mùa khô (Tháng 1- tháng 2), phần lớn
tuyến sinh dục của cá ở giai đoạn II, sang tháng 3 tăng dần giai đoạn III và đã thấy
xuất hiện những cá thể có tuyến sinh dục ở thời kỳ đầu của giai đoạn IV. Trong
khoảng thời gian ngắn của thời điểm giao mùa, mùa khô sang mùa mưa, là sự chuyển
biến rất nhanh của tuyến sinh dục. Thời kỳ này, tuyến sinh dục cá phần lớn ở giai
đoạn IV chỉ một số ít cá có tuyến sinh dục ở giai đoạn III. Khi mùa mưa tới, nhất là
sau những trận mưa đầu mùa, cá tìm tới những nơi nước cạn ven bờ, nhiều cây cỏ
thủy sinh để sinh sản. Cá sinh sản trong suốt mùa mưa nên trong đàn luôn xuất hiện
những cá thể ở nhiều giai đoạn thành thục khác nhau (giai đoạn IV, V, VI) và giai
đoạn trung gian VI - II Ở thời điểm cuối mùa mưa (tháng 10 - tháng11), ít bắt gặp cá
thành thục giai đoạn IV, tuyến sinh dục của cá phần lớn lúc này ở giai đoạn VI, VI - II
và giai đoạn II . Hệ số thành thục (HSTT) là một chỉ số quan trọng để đánh giá khả
năng sinh sản, cũng như các vấn đề có liên quan khác. Ở ĐBSCL khi tuyến sinh dục
chuyển sang giai đoạn IV, HSTT cũng tăng dần và đạt giá trị cao vào tháng 5, tháng 6
với số liệu lần lượt là 11,22% và 12,97% và có thể đạt tới 22% (Nguyễn Tường Anh,
2004). HSTT giảm dần ở các tháng cuối mùa mưa, đầu mùa khô (Tháng 10, 11, 12, 1,
2) (Lê Như Xuân, 1993; Trương Thủ Khoa và Nguyễn Minh Trung, 1980).
Cũng như một số loài thuộc giống Trichogaster, khi sinh sản cá Sặc Rằn bắt cặp và
tìm đến vùng nước ven bờ, nơi có nhiều cây cỏ thủy sinh để đẻ. Hoạt động sinh sản
bắt đầu với tổ làm bằng bọt của cá đực, sau đó trứng đẻ ra ngoài được thụ tinh và cũng
chính cá đực dùng miệng gom trứng lại rồi đặt vào tổ bọt (Hora và Pillay, 1962; Lê
Như Xuân, 1993). Sức sinh sản của cá Sặc Rằn dao động 200.000 – 300.000 trứng/kg
cá cái. (Nguyễn Tường Anh, 2004). Kể từ khi trứng thụ tinh, trong điều kiện nhiệt độ
nước 27- 29
o
C cá nở sau 20h – 23h. Trong suốt thời gian kể từ khi trứng đẻ tới lúc nở
17
và dinh dưỡng bằng noãn hoàng, cá đực thường xuyên bơi lội quanh tổ để bảo vệ và
dùng vây quạt nước cung cấp oxy cho trứng (Nguyễn Văn Kiểm và csv, 1999).

Thời gian tái phát dục ở cá Sặc Rằn có thể từ 25 - 30 ngày, trong điều kiện đầy đủ
thức ăn cá Sặc Rằn có thể đẻ được 3 - 4 lần /năm (Phạm Văn Khánh, 2005).
2.2.3. Dinh dưỡng
Cũng như nhiều loài cá khác, ở thời kỳ đầu sau khi nở, cá dinh dưỡng bằng noãn
hoàng. Sau khi noãn hoàng tiêu biến cá chuyển sang ăn thức ăn bên ngoài (Lê Như
Xuân, 1993). Thức ăn ở thời kỳ đầu gồm nhiều loại như phiêu sinh động vật (Ciliata,
Rotifera, Copepoda, Cladocera), phiêu sinh thực vật (Bacillariophyceae,
Cyanophyceae, Flagellata, Chlorophyceae và mùn bã hữu cơ). Ở thời kỳ trưởng thành,
cấu tạo bộ máy tiêu hoá của cá phù hợp với loài ăn tạp. Những loại thức ăn thường
xuyên bắt gặp và chiếm khối lượng lớn trong ruột cá Sặc Rằn gồm: mùn bã hữu cơ,
thực vật phiêu sinh, động vật phiêu sinh, mầm non thực vật cũng như các loại thực vật
thủy sinh mềm trong nước. Ngoài ra, cá cũng sử dụng tốt các loại thức ăn do con
người cung cấp như: bột ngũ cốc các loại, động vật và khi thiếu thức ăn chúng ăn cả
trứng của chính nó (Quách Thanh Hùng và csv, 1999).
2.2.4 Khả năng thích nghi với môi trường
Cá Sặc Rằn có thể sống được ở nước thiếu hoặc không có oxy trong một thời gian nhờ
có cơ quan hô hấp phụ. Ngoài ra, cá còn có khả năng chịu được môi trường nước
nhiễm bẩn, có hàm lượng hữu cơ cao và môi trường có hàm lượng pH thấp (pH có thể
từ 4 - 4,5) (Nguyễn Tường Anh, 2004).
Nguyễn Phú Trí (1990) cho rằng cá Sặc Rằn sinh trưởng và phát triển tốt ở nhiệt độ từ
24 - 30
o
C và nhiệt độ thích ứng của cá dao động từ 11- 39
o
C.
Trong thời kỳ phát triển của phôi, cũng như các loài cá nuôi khác, phôi cá Sặc Rằn rất
nhạy cảm với các yếu tố môi trường: nhiệt độ, oxy hoà tan, pH,…Nếu các yếu tố môi
trường ổn định hoặc biến động trong khoảng thích hợp thì phôi cá phát triển bình
thường, cá con sinh ra khoẻ mạnh.
Trong các yếu tố môi trường nêu trên thì nhiệt độ là yếu tố có tác động rất lớn. Nhiệt

độ thích hợp cho quá trình phát triển phôi cá từ 27 – 29
o
C (Nguyễn Thị Ngọc Thuý,
1998).
18
2.3 Sơ lược tình hình nuôi cá Sặc Rằn
2.3.1 Sơ lược tình hình nuôi cá Sặc Rằn trên thế giới
Theo Soong (1948) trích dẫn bởi Lê Như Xuân (1997) mặc dù không phân bố tự nhiên
ở Mã Lai, song những năm đầu thập kỹ 20 cá Sặc Rằn đã được nhập từ Thái Lan. Sản
lượng cá Sặc Rằn nuôi trong ruộng lúa tại Mã Lai thường chiếm gần 50% so với tổng
sản lượng các loài cá đồng được nuôi cùng. Tại Thái Lan, cá Sặc Rằn bắt đầu được
nuôi từ năm 1922, cũng là thời điểm đánh dấu cho nghề nuôi cá của nước này. Theo
Yoonpundh (1992) trích dẫn bởi Nguyễn Thị Ngọc Hà (2009) cho rằng loại hình nuôi
quảng canh được áp dụng nhiều với diện tích từ 3 – 20 ha. Tuy nhiên, nuôi cá Sặc Rằn
tại nước này có xu hướng giảm dần, thí dụ từ năm 1986 sản lượng cá Sặc Rằn là 18%
đến năm 1989 chỉ còn 13,4% trên tổng sản lượng cá nước ngọt. Cũng theo
Yoonpundh (1992) nguyên nhân giảm sản lượng là do: việc quản lý không chặt do
diện tích nuôi lớn, thiếu kiến thức về nuôi cá, nguồn giống không ổn định Vào năm
1991, cục nghề cá Thái Lan cho biết, sản lượng cá Sặc Rằn chiếm khoảng 10,8%
tương đương 9,7% về giá trị so với tổng sản lượng cá nước ngọt của Thái Lan
(Komtorn Kaewpaitoon, 1994).
2.3.2 Sơ lược và hiện trạng nuôi cá Sặc Rằn ở ĐBSCL
Cá Sặc Rằn tăng trưởng chậm so với các loài cá khác, nhưng với đặc điểm thích nghi
tốt với điều kiện môi trường khắc nghiệt và phổ thức ăn rộng nên có thể nuôi cá Sặc
Rằn với nhiều mô hình khác nhau. Hiện nay cá Sặc Rằn không chỉ tiêu thụ nội địa mà
còn xuất khẩu sang một số thị trường khác trên thế giới ở dạng cá khô. Nuôi cá Sặc
Rằn đang là một xu hướng cho phát triển nuôi cá nước ngọt để cung cấp nguồn thực
phẩm có tiếng này. Việc chủ động sản xuất giống nhân tạo và nuôi cá thương phẩm
cũng phát triển tại nhiều nơi ở Nam bộ như Tây Ninh, Cần Thơ, Hậu Giang, An
Giang, Cà Mau… Hiện nay có nhiều mô hình nuôi ghép cá Sặc Rằn với các loài cá

khác như cá Rô Đồng, cá Hường, cá Lóc….trong đó cá Sặc Rằn thường được ghép
với tỷ lệ dao động từ 30 - 70% tuỳ thuộc vào dạng mô hình nuôi.
Gần đây bên cạnh các mô hình nuôi kếp hợp thì có thể áp dụng phương pháp nuôi đơn
dưới dạng bán thâm canh hay thâm canh cá Sặc Rằn trong ao đất với mật độ cá thả
dao động từ 5 – 7 con/m
2
tăng lên 30 – 40 con/m
2
(Dương Nhựt Long, 2009). Tuy
nhiên, với các hình thức nuôi bán thâm canh hay nuôi ghép từ thực tế cho thấy các mô
hình này cho hiệu quả không cao do thời gian nuôi kéo dài, năng suất thấp, do đó việc
thực hiện mô hình nuôi thâm canh cá Sặc Rằn đang được người nuôi thuỷ sản quan
tâm.
Thông qua số liệu từ các trạm nông, khuyến ngư của các tỉnh Cần Thơ, Hậu Giang và
một số huyện của tỉnh An Giang cho thấy rằng năng suất nuôi nuôi cá Sặc Rằn của
các mô hình nuôi như sau: Với mô hình nuôi cá kết hợp với heo, mật độ thả là 10 – 15
19
con/m
2
, năng suất cá Sặc Rằn từ 4 – 5 tấn/ha (tối đa là 7 – 8 tấn/ha). Mô hình nuôi
ghép các loại cá với nhau, mật độ thả 10 – 20 con/m
2
, năng suất đạt 3 – 4 tấn/ha.
Trong quá trình nuôi, thức ăn sử dụng cho cá là thức ăn tự chế (cám + các loại phụ
phẩm của nhà máy chế biến thuỷ sản, hay cá tạp…) kết hợp với thức ăn công nghiệp,
trong đó thức ăn tự chế chiếm tỉ lệ cao hơn (từ 60 – 70%). Do đó, khi thả nuôi kết hợp
cá Sặc Rằn với các đối tượng nuôi khác thì năng suất thường không cao và cở cá khi
thu hoạch thường nhỏ, không đáp ứng cho việc làm cá khô xuất khẩu. Hiện nay, mô
hình nuôi đơn cá Sặc Rằn ở các tỉnh ĐBSCL không nhiều, do đó chưa có số liệu
thống kê chính xác về diện tích cũng như tình hình nuôi của mô hình này. Theo số liệu

tại tỉnh Tiền Giang có 1 vài hộ nuôi chuyên canh cá Sặc Rằn (khoảng 4ha) khi sử
dụng thức ăn công nghiệp, hàm lượng đạm từ 32 - 35%, năng suất sau 8 tháng nuôi
đạt 15 – 20 tấn/ha. Hiện nay, tại An Giang, An Phú là huyện có người nuôi cá Sặc Rằn
tập trung nhiều nhất. Việc duy trì và phát triển nguồn lợi cá đồng gồm 4 loài cá: cá
Lóc, cá Rô Đồng, cá Trê Vàng, cá Sặc Rằn đã được thực hiện ở ngư trường sông
Trẹm tỉnh Cà Mau. Chính quyền địa phương đang qui hoạch vùng nuôi thương phẩm
cá Sặc Rằn nhằm cung cấp nguồn nguyên liệu cho xuất khẩu (Phạm Minh Thành,
2006).
Tuy nhiên, trong quá trình nuôi, người nuôi cũng gặp phải khó khăn như: Kỹ thuật
ương nuôi còn hạn chế nên sản phẩm thu hoạch thường không đạt được kích cỡ
thương phẩm, vì vậy hiệu quả mang lại chưa cao. Việc ương cá Sặc Rằn từ bột lên
giống chưa phát triển mạnh ở các xã thuộc huyện An Phú - An Giang (là huyện có số
lượng hộ nuôi cá Sặc Rằn nhiều nhất hiện nay) do nông dân chưa nắm bắt kịp thời
những kỹ thuật đã được chuyển giao hoặc chưa vận dụng các kỹ thuật sản xuất giống
nhân tạo cá Sặc Rằn một cách có hiệu quả (Huỳnh Ngọc Dũng, 2008). Từ thực trạng
trên, việc nghiên cứu về nuôi cá Sặc Rằn thương phẩm, sử dụng thức ăn công nghiệp
là yêu cầu cần thiết nhằm góp phần nâng cao năng suất sản lượng cá Sặc Rằn, chuyển
giao một cách rộng rãi các kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo cá Sặc Rằn, đa dạng sản
phẩm xuất khẩu nhằm nâng cao hiệu quả, lợi nhuận cho người dân.
2.4 Các biện pháp kích thích cá sinh sản
2.4.1 Sinh sản tự nhiên
Theo Nguyễn Văn Kiểm và csv (1999) vùng phân bố của cá Sặc Rằn tập trung ở
ĐBSCL trong đó chủ yếu là hai khu vực rừng U Minh thượng thuộc hai tỉnh Cà Mau
và Kiên Giang. Đây là vùng đất nhiễm phèn trung bình và nhẹ, có thể bị nhiễm mặn
vào mùa khô.
Vào mùa mưa nhiệt độ hạ thấp, mức nước tăng dần làm thay đổi tính chất của môi
trường nước, kích thích sự phát triển của thức ăn tự nhiên, thúc đẩy cá tìm đến môi
trường thích hợp để sinh sản.
20
Phương pháp cho đẻ tự nhiên rất đơn giản ít tốn công sức nhưng tỷ lệ hao hụt cao

thường thì do cá đẻ không tập trung, tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ nở và tỷ lệ sống của cá con
thấp: thông thường cá được giữ trong ao vào mùa khô cho đến khi mùa mưa tới mực
nước trên ruộng đạt khoảng 10 - 20 cm (vào tháng 5 - 6) đây là thời điểm tốt để thả cá
ra ruộng và cá sẽ đẻ rộ sau 5 - 7 ngày. Cá con sinh ra và lớn lên trong ruộng lúa với
nguồn thức ăn sẵn có trong tự nhiên.
2.4.2 Cho cá đẻ nhân tạo
Trong sinh sản nhân tạo theo Chung Lân và csv (1969) cho rằng: nguyên lý của kích
thích sinh sản là dựa vào nguyên lý chung về sinh vật học, trong quá trình sinh sản tự
nhiên của cá, đồng thời vì biết rằng trong ao nuôi không đủ điều kiện sinh thái làm
thoả mãn những yêu cầu về sinh sản của cá bố mẹ mà người ta dùng phương pháp
tiêm chất kích thích.
Vì thế, kích thích tố là một yêu cầu cần thiết để tạo cho cơ thể cá có một điều kiện
nhất định thoả mãn về sinh lý, sinh thái cho cơ thể cá tiến hành sinh sản. Trên cơ sở
đó kích thích sinh sản nhân tạo cá Sặc Rằn bằng các loại kích thích tố cũng được
nhiều tác giả nghiên cứu. Các loại kích thích tố như HCG, não thuỳ, LRH-a, đều có
tác dụng làm rụng trứng và kích thích cá Sặc Rằn sinh sản tốt.
Ðối với cá Sặc Rằn, Nguyễn Tường Anh (2004) đã sử dụng kích thích tố HCG để cho
sinh sản, liều lượng 2.500 – 3.000 UI HCG/kg cá cái, liều tiêm cho cá đực bằng ½ liều
tiêm cho cá cái, kết quả tốt với tỉ lệ cá đẻ là 75%, tỉ lệ thụ tinh 92% và tỉ lệ nở là 95%.
Trong khi đó nghiên cứu của Nguyễn Trọng Nho và Lê Như Xuân (1998) cho sinh
sản cá Sặc Rằn bằng kết hợp 2 loại hormon HCG và não thuỳ thể cá chép với liều
lượng 2.500 UI + 0,54 mg não/kg cá cái, tỉ lệ cá sinh sản 100%, tỉ lệ thụ tinh 98,5%, tỉ
lệ nở 94%.
Tương tự Nguyễn Văn Kiểm và csv (1999) cũng cho cá đẻ bằng cách tiêm HCG với
các liều lượng khác nhau từ 500 - 5.000 UI/kg. Qua kết quả nghiên cứu cho thấy ở tất
cả các liều lượng thì cá đều sinh sản nhưng ở liều lượng 1.000 UI/kg và 1.500 UI/kg
thì sức sinh sản đạt cao hơn so với các liều cao 4.000 - 5.000 UI/kg.
Theo Lê Như Xuân (1993) thì liều lượng HCG được sử dụng là từ 2.500 - 4.000 UI/kg
thường được sử dụng cho cá Sặc Rằn sinh sản. Nhưng kết quả thu được có sự biến
động lớn (từ 100.000 - 230.000 trứng/kg) vì phụ thuộc vào chất lượng cá bố mẹ.

Còn theo Quách Thanh Hùng và csv (1999) sử dụng HCG kết hợp với não thuỳ với
liều lượng từ 500 - 4.000 UI + 0,54 mg/kg đã làm tỷ lệ đẻ trứng của cá tăng lên 17,7%
so với sử dụng HCG đơn thuần. Các chỉ tiêu như tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ nở, sức sinh sản
tương đối thực tế cũng đều cao hơn các nghiệm thức sử dụng HCG đơn thuần.
21
Sự hợp lực của các loại hormon sẽ có tác dụng làm tăng hiệu quả về mặt sinh học
cũng như tính kinh tế trong thực tế sản xuất khi kích thích sinh sản không chỉ riêng cá
Sặc Rằn mà còn đối với nhiều loài cá nuôi khác.
Mục đích của việc phối hợp HCG + não thuỳ nhằm thúc đẩy nhanh tốc độ chín cũng
như quá trình rụng trứng ở cá. Bản chất của việc kết hợp này chủ yếu là dựa trên sự
hợp lực của hormom FSH có chứa trong não và LH trong HCG làm tăng cường các
quá trình chuyển hoá trong buồng trứng của cá mà nếu như một loại hormon không đủ
(Nguyễn Tường Anh, 1994).
Trên đây là một số nghiên cứu của các tác giả ghi nhận được khi sử dụng hormon để
kích thích cá sinh sản tuy nhiên các kết quả này khác nhau, không ổn định và các kết
quả đều cho rằng khi sử dụng HCG với liều cao thì hiệu quả và kinh tế hơn ở liều thấp
nhưng cũng chưa xác định liều lượng kích thích tố thấp tối thiểu nào mà cá có thể sinh
sản được cũng như việc sử dụng LRH-a hay não thuỳ thể cho kết quả sinh sản khác
biệt như thế nào so với việc sử dụng HCG đơn thuần. Vì vậy, mà đề tài nghiên cứu
này được thực hiện nhằm khẳng định liều kích tố thấp nhất tác dụng kích thích cá Sặc
Rằn đẻ trứng.
2.4.3 Một số loại kích thích tố và chất kích thích sinh sản ở cá
HCG (Human Chorionic Gonadotropin)
HCG (kích thích tố màng đệm hoặc kích thích tố nhau thai) được Zondec và
Aschheim phát hiện từ năm 1927 trong nước tiểu của người phụ nữ có thai từ 2 - 4
tháng là một polypeptide có khối lượng phân tử 36.000 kDa, nó được tiết ra từ màng
đệm của nhau thai (Nguyễn Tường Anh, 2001). HCG là một hormon polypeptide, nó
có chức năng như LH (Luteinizing Hormon) và FSH (Follicle - Stimulating
Hormones) HCG kích thích sự rụng trứng, phát triển của buồng trứng và tiết ra
hormon sinh dục. HCG có tác dụng duy trì thể vàng sau khi rụng trứng do LH sản

phẩm nội tiết của thể vàng hoạt tính là progesteron – hormon có tác dụng chuẩn bị nội
mạc dạ con cho sự làm tổ của phôi và những thay đổi khác về sinh lý trong thời gian
mang thai và nuôi con bằng sữa. HCG là loại kích thích tố dị chủng được dùng có
hiệu quả cho nhiều loài cá nhất. Ngoài cá Mè, cá Trê, HCG có tác dụng gây rụng
trứng cho các loài cá khác ở nước ta như cá Chày, cá Vền, cá Trôi, cá Bống, cá
Vàng….
Theo Nguyễn Tường Anh (2004) ở đầu vụ sinh sản, do tính nhạy cảm của nang trứng
chưa cao đặc biệt là sự tiếp nhận của nang trứng đối với đối với yếu tố gây chín và
rụng trứng. Do đó ở đầu mùa sinh sản nếu chỉ sử dụng HCG đơn thuần thì tỷ lệ cá đẻ
thường thấp (do HCG không tham gia vào quá trình thành thục của trứng), trong khi
đó nếu kết hợp với não thuỳ thì tỷ lệ rụng trứng có thể tăng thêm 10 - 15% (do trong
22
não thuỳ có yếu tố thúc đẩy cá thành thục thêm một bước là FSH). Tỷ lệ não thuỳ là
30% so với tổng liều lượng.
Não thuỳ thể
Cấu tạo não thuỳ thể của cá cũng giống như động vật bậc cao. Não thuỳ thể nằm ở
mặt bụng của thuỳ trung gian, nối liền với mấu não dưới chia thành bộ phận thần kinh
và bộ phận tuyến thể. Trong não thuỳ thể của cá có lượng FSH rất thấp còn lượng LH
tương đương với động vật có vú. Não thùy thể tuyến yên được lấy ra từ những loài cá
thuộc các loài cá Chép, cá Trắm, cá Mè, cá Trê…đã thành thục còn tươi sống. Cá chết
vài giờ thì hoạt tính kích thích tố chỉ còn khoảng 50% (Nguyễn Tường Anh, 2001).
Não thuỳ thể cá Chép được xem là kích thích tố mạnh cho nhiều loài cá kể cả các đối
tượng khác họ và các loài cá biển.
LRH-a (Lutienizing Releasing Hormon)
LRH-a là một dạng của GnRH-a Hormon phóng kích dục tố.
LRH-a thường được sử dụng với các chất kháng Dopamin (chất gây ức chế sự tiết
kích dục tố). Theo Nguyễn Tường Anh (2004) chất kháng dopamin hiện nay sử dụng
kết hợp với GnRHa domperidin hoặc pimozide. Motilium là một trong những sản
phẩm thương mại của domperidone. GnRHa được sử dụng rộng rãi trên thế giới hiện
nay vì có một số ưu điểm:

 GnRH có thể tổng hợp được nên hoạt tính luôn ổn định.
 Tránh được sự lan truyền của bệnh (vấn đề thường gặp khi sử dụng não thuỳ).
 Sử dụng trên nhiều loại cá khác nhau.
Theo Nguyễn Tường Anh (2004) thì LRH-a là loại kích thích cá tiết GtH-I, GtH-II
điều khiển phản ứng 1 (thúc đẩy trứng thành thục thêm một bước) và phản ứng 2 (gây
ra phản ứng chín và rụng trứng ở cá). Đây là loại kích thích tố đạt hiệu quả cao khi
kích thích nhiều loài cá sinh sản.
2.5 Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của cá Sặc Rằn
Nhiệt độ: Là nhân tố có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến hoạt động của thuỷ sinh vật
trong quá trình sinh trưởng, dinh dưỡng, cũng như trong quá trình sinh sản của cá.
Nhiệt độ trong nước được cung cấp từ nguồn năng lượng ánh sáng mặt trời hoặc do
quá trình oxy hoá các hợp chất vô cơ, hữu cơ có trong thuỷ vực. Nhiệt độ thích hợp đa
số các loài cá nuôi từ 20 – 30
o
C giới hạn cho phép 10 – 40
o
C (Theo Nguyễn Thị
Ngọc Thúy, 1998).
Oxy hoà tan: Oxy hoà tan trong nước là nhân tố cần thiết cho hoạt động sống. Hàm
lượng oxygen là chất khí quan trọng nhất trong các chất khí hoà tan trong môi trường
nước nó rất cần đối với đời sống của thuỷ sinh vật. Lượng oxy trong nước thấp nhất
23
mà cá có thể chịu được là 2 mg/l nếu dưới nồng độ này cá vẫn sống nhưng không ăn
và ngừng tăng trưởng. Nhưng cá Sặc Rằn sau một tuần tuổi đã có cơ quan hô hấp phụ
nên có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện bất lợi của môi trường như: mức nước
thấp, nhiệt độ cao, pH thấp, oxy thấp….
pH: pH là một yếu tố hết sức quan trọng, mọi sự biến động của nó đều có tác động
lớn đến đời sống thuỷ sinh vật. Theo Boyd (1998) thì pH dao động trong khoảng 6 - 9
đối với ao nuôi thuỷ sản nước ngọt và từ 8 - 9 đối với nước lợ. Mỗi loài cá khác nhau
thì có khoảng thích ứng pH khác nhau.

Độ mặn: Là một yếu tố môi trường ảnh hưởng đến sự sinh sống và phân bố của thuỷ
sinh vật. Ở các vùng có độ mặn khác nhau sẽ là nơi cư trú của những loài thuỷ sinh
vật khác nhau. Theo Nguyễn Thị Oanh (2009) thì phôi cá Sặc Rằn phát triển bình
thừơng khi gây sốc ở độ mặn 1 ‰, 3 ‰, 5 ‰, 7 ‰, 9 ‰ nhưng ở 11 ‰ thì phôi dừng
phát triển và phân huỷ sau 20h.
N-NO
2
: Hàm lượng N-NO
2
quá cao sẽ ngăn cản oxy kết hợp Hemoglobin và gây chết
ngạt. Tính độc của Nitric giảm khi nhiệt độ và oxy hoà tan cao vì sẽ bị oxy hoá thành
dạng Nitrate không độc. Hàm lượng N-NO
2
thích hợp phải thấp hơn 0,5 mg/l (Nguyễn
Thị Ngọc Thuý, 1998).
NH
3
/NH
4
+
: Được cung cấp trong các thuỷ vực từ quá trình phân huỷ bình thường
protein, xác bã động thực vật phù du, sản phẩm bài tiết của động vật hay từ phân bón
vô cơ và hữu cơ. NH
3
là khí độc đối với thuỷ sinh vật. Theo Nguyễn Đình Trung
(2004), nitrite là một trong những chất đạm rất độc với tôm cá, tính độc của nitrite
khác nhau giữa môi trường nước ngọt và nước lợ, trong môi trường nước ngọt tính
độc của nitrite gấp 55 lần so với môi trường nước có độ mặn 16 ‰.
Một số yếu tố khác ảnh hưởng đến quá trình sinh sản của cá Sặc Rằn
Trong sinh sản nhân tạo tất cả các loài cá nuôi muốn thu được kết quả tốt thì nuôi vỗ

cá bố mẹ là khâu quan trọng đầu tiên. Mục đích của việc nuôi vỗ là đem lại đàn cá có
mức độ thành thục cao có thể sinh sản và cho kết quả như mong muốn. Nhưng không
phải lúc nào cá thành thục tốt cũng đều cho kết quả sinh sản cao. Cũng như các loài cá
khác quá trình phát dục và sinh sản của cá Sặc Rằn chịu ảnh hưởng rất nhiều yếu tố
như: nhiệt độ, môi trường, dòng chảy, ánh sáng, thức ăn, không gian hoạt động,…
Ánh sáng: Là một yếu tố khá quan trọng đối với hoạt động của cá, nó ảnh hưởng
nhiều đến quá trình sinh trưởng và sinh sản của hầu hết các loài cá nuôi.
Mỗi loài cá có ngưỡng ánh sáng khác nhau, có loài ánh sáng mạnh là kích thích nhưng
loại khác lại thích nghi hơn với bóng tối nhất là đối với hoạt động sinh sản.
Ngoài tự nhiên cá Sặc Rằn có tập tính thích làm tổ nơi yên tĩnh và bóng tối. Việc tác
động của ánh sáng đến quá trình sinh sản đã được Nguyễn Phú Trí (1990) thực hiện
24
thí nghiệm và rút ra kết luận trong quá trình sinh sản cá Sặc Rằn thích nghi với điều
kiện che tối và trong lúc sinh sản thì cá cần sự yên tĩnh.
Ảnh hưởng của không gian hoạt động và tỉ lệ đực cái đến khả năng và hiệu quả
sinh sản của cá Sặc Rằn
Cá Sặc Rằn thường có tập tính rượt đuổi, trước lúc sinh sản cá đực và cá cái cắn vào
bụng và đuôi lẫn nhau để kích thích sinh sản.
Tỷ lệ đực cái: Khi tỷ lệ đực cái không tương xứng, như thiếu cá cái thường xảy ra sự
cắn giành cá đực với nhau, còn thiếu cá đực thì sẽ ảnh hưởng đến tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ
nở của cá. Do đó, theo nhiều kết quả nghiên cứu Nguyễn Tường Anh (2004), Phạm
Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2009) thì tỷ lệ đực cái tốt nhất là 1:1.
Việc bố trí cho cá sinh sản trong dụng cụ có diện tích nhỏ thích hợp với mật độ vừa
phải sẽ tăng khả năng bắt cặp của cá được dễ dàng hơn, xác suất gặp nhau nhiều hơn.
Còn nếu bố trí trong bể có thể tích quá lớn sẽ làm hạn chế khả năng rượt đuổi và bắt
cặp của cá. Vì vậy theo khuyến cáo thì trong sinh sản nhân tạo cá Sặc Rằn nên bố trí
trong dụng cụ với diện tích phù hợp, che tối một phần và tránh tiếng động mạnh. Tỷ lệ
đực cái là 1:1 và bố trí từ 2 - 3 cặp cá/thau hoặc thùng sẽ thích hợp cho việc sinh sản
của cá (Nguyễn Phú Trí, 1990).
Mực nước: Mực nước thích hợp cho cá đẻ trung bình khoảng 40 – 80 cm (Nguyễn

Tường Anh, 2004).
Vì cá Sặc Rằn có tập tính làm tổ, con đực làm tổ bằng nước bọt dưới những tán lá hay
lùm cây cỏ. Sau đó đưa cá cái đến gần tổ và cong mình ép cá cái đẻ trứng vào tổ, vì
vậy việc đặt giá thể (lá môn, lá sen nước…) là rất quan trọng trong lúc cho cá đẻ. Và
lưu ý không nên lấy giá thể ra sớm khi cá sinh sản chưa xong sẽ làm cho cá hoảng sợ
ảnh hưởng đến sức sinh sản của cá.
Hình 2.2: Hoạt động bắt cặp của cá Sặc Rằn
25
Mặc dù cá có tập tính ăn trứng sau khi đẻ (cá càng đói ăn càng nhiều) nhưng cũng
không nên bắt cá bố mẹ ra quá sớm. Thông thường kể từ khi cá đẻ đến lúc bắt cá bố
mẹ khoảng 3 – 5h.
Hình 2.3: Chuẩn bị dụng cụ cho cá Sặc Rằn sinh sản

×