Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

bài tập lớn công chứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.41 KB, 33 trang )

BỘ NỘI VỤ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

TÊN ĐỀ TÀI:
THỰC TRẠNG VIỆC THÀNH LẬP TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ
CÔNG CHỨNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY.

BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN

Học phần: Công chứng, chứng thực
Mã phách:.............................................

HÀ NỘI - 2021


MỤC LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT


DANH MỤC VIẾT TẮT
Công chứng viên
Luật Công chứng
Tổ chức hành nghề công chứng
Sở Tư pháp
Ủy ban nhân dân

CCV
LCC
TCHNCC
STP
UBND




MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, cung ứng dịch vụ công là điều
quan trọng trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. u cầu xã hội hóa các dịch
vụ cơng trong đó có xã hội hóa cơng chứng là một ngành dịch vụ pháp lý hết sức
cần thiết. Đây cũng là một chủ trương, đường lối của Đảng và nhiệm vụ trọng tâm
của Nhà nước ta trong chiến lược cải cách tư pháp những năm gần đây.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, năm 2006 Việt Nam đã ban hành Luật
Công chứng đầu tiên và cho đến nay là Luật Công chứng năm 2014 cho phép thành
lập các tổ chức hành nghề công chứng nhằm đáp ứng, phục vụ nhu cầu của người
dân một cách nhanh chóng, chính xác trong lĩnh vực công chứng, chứng thực. Tuy
nhiên, sau một thời gian đi vào thực tiễn, các quy định về việc thành lập tổ chức
hành nghề cơng chứng nói riêng, hoạt động cơng chứng nói chung vẫn cịn gặp phải
những hạn chế, khó khăn nhất định. Nhận thấy, Hà Nội là một trung tâm kinh tếchính trị- xã hội của cả nước, vì thế có những điểm đặc trưng như đơng dân, tốc độ
đơ thị hóa nhanh, các hoạt động về kinh tế diễn ra sôi nổi, phức tạp và đặc biệt
không thể không nhắc tới các hợp đồng, giao dịch về bất động sản nên việc thành
lập các tổ chức hành nghề tại Hà Nội có nhiều thuận lợi song cũng khơng tránh khỏi
phát sinh những bất cập. Chính vì những lý do trên, em lựa chọn đề tài: “Thực
trạng việc thành lập Tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn thành phố Hà
Nội hiện nay” là nội dung tìm hiểu của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Với đề tài về thành lập tổ chức hành nghề công chứng, ở Việt Nam đã có một
số cơng trình nghiên cứu như sau:

- Nguyễn Thanh Hà (2014), Thực hiện pháp luật công chứng trên địa bàn thành phố
Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Luật học.

- Nguyễn Thị Kim Thư (2017), Tổ chức hành nghề công chứng theo pháp luật Việt

Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học.

- Nguyễn Thị Cẩm Lai (2018), Quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công

4


chứng từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn Thạc sĩ Luật học.

- Đặng Thị Hồng Thắm (2013), Pháp luật về thành lập và hoạt động của tổ chức
hành nghề công chứng và thực tiễn thực thi trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện
nay, Luận văn.
Những cơng trình nêu trên đã góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về công
chứng, cơ sở pháp lý của hoạt động thành lập tổ chức hành nghề công chứng, là tài
liệu cho em tham khảo trong quá trình thực hiện đề tài.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Khái quát đặc trưng cơ bản về tổ chức hành nghề
công chứng; đánh giá đúng thực trạng thành lập tổ chức hành nghề công chứng trên
địa bàn thành phố Hà Nội; đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về công
chứng và nâng cao hiệu quả hoạt động thành lập tổ chức hành nghề công chứng trên
địa bàn thành phố nói riêng, cả nước nói chung.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Với mục đích nghiên cứu như trên, đề tài tập trung
vào giải quyết những nhiệm vụ chính như sau:
Thứ nhất, khái quát chung về việc thành lập tổ chức hành nghề công chứng
theo quy định của pháp luật và việc áp dụng những quy định đó trên thực tiễn.
Thứ hai, phân tích và đánh giá thực trạng áp dụng các quy định pháp luật
trong thành lập tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện
nay.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật về cơng chứng
và nâng cao hiệu quả hoạt động thành lập tổ chức hành nghề cơng chứng nói chung

và trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài có đối tượng nghiên cứu là các quy định
của pháp luật hiện hành và thực trạng áp dụng pháp luật hiện hành trong thành lập
tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay.
- Phạm vi công chứng: Đề tài nghiên cứu ở phương diện ứng dụng pháp
luật về việc thành lập tổ chức hành nghề công chứng. Đề tài tập trung nghiên cứu

5


các quy định pháp luật và thực tiễn về việc thành lập tổ chức hành nghề công chứng
trên địa bàn thành phố Hà Nội từ khi Luật Công chứng năm 2014 được ban hành
đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài bao gồm những
phương pháp sau đây: phương pháp phân tích, phương pháp nghiên cứu lý thuyết,
phương pháp tổng hợp.
6. Kết cấu của Tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chủ yếu
của đề tài được chia bố cục thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về thành lập tổ chức hành
nghề công chứng.
Chương 2: Thực tiễn việc thành lập tổ chức hành nghề công chứng trên
địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thành lập tổ chức hành
nghề công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay.

6



CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THÀNH LẬP
TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG
1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1. Công chứng
Theo Từ điển Luật học của Mỹ, công chứng (Notarial) là hoạt động của
CCV… CCV, theo tiếng Latinh là “Notarius”. “Notarius” trong luật Anh cổ là một
người sao chép hay trích lục các loại văn bản, giấy tờ khác, người làm chứng. Trong
luật La Mã, CCV là người ghi chép, thư ký, tốc ký, người ghi chép các hoạt động
trong nghị viện của tòa án, hoặc ghi chép theo lời người khác đọc, người soạn các di
chúc và giấy chuyển nhượng sở hữu.
Công chứng theo hệ thống công chứng La tinh và hệ thống công chứng
Anglo Saxon được hiểu là một nghề tự do, CCV hoạt động độc lập, tự chịu trách
nhiệm cá nhân về hoạt động của mình. Theo hệ thống cơng chứng Collectiviste,
cơng chứng chưa được coi là một nghề (CCV là công chức nhà nước, kiêm nhiệm
cả việc chứng thực (thị thực hành chính)); việc cơng chứng được giao cho cả các
chủ thể khơng phải là CCV đảm nhiệm; CCV khơng có chứng chỉ hành nghề, không
phải chịu trách nhiệm dân sự trước khách hàng, chỉ phải chịu trách nhiệm hành
chính trước nhà nước về những sai phạm trong hoạt động của mình) [13].
Ở Việt Nam, năm 1992, Cơng chứng Nhà nước được xác định là việc chứng
nhận tính xác thực các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân và cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội (sau đây gọi chung là các tổ chức), góp phần phịng ngừa vi phạm pháp
luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các hợp đồng và giấy tờ đã được cơng
chứng có giá trị chứng cứ (Nghị định số 45/HĐBT).
Năm 1996, Chính phủ ban hành Nghị định số 31/CP thay thế Nghị định
45/HĐBT thì khái niệm công chứng cũng được xác định như khái niệm công chứng
nhà nước được quy định tại Nghị định 45/HĐBT nhưng bổ sung thêm quy định loại
trừ giá trị chứng cứ của hợp đồng, giấy tờ đã được công chứng nhà nước chứng
nhận hoặc UBND cấp có thẩm quyền chứng thực khi bị Tịa án tun bố vơ hiệu.


7


Nghị định số 75/2000/NĐ - CP ngày 08/12/2000 về công chứng chứng thực
ra đời đã đánh dấu bước ngoặt mới trong việc định nghĩa khái niệm công chứng một
cách khoa học hơn, phù hợp hơn với thời đại. Cụ thể: “Cơng chứng là việc Phịng
cơng chứng chứng nhận tính xác thực của hợp đồng được giao kết hoặc giao dịch
khác được xác lập trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và quan hệ xã hội
khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) và thực hiện các việc khác theo quy định
của Nghị định này”. Lần đầu tiên, thuật ngữ “công chứng” xuất hiện thay thế cho
thuật ngữ “công chứng Nhà nước” đã được sử dụng trong định nghĩa trước đó, một
điều đáng lưu ý khác là chủ thể của hoạt động công chứng ở đây được quy định là
PCC chứ không phải là CCV. Tuy nhiên, sau một thời gian đi vào thực tiễn, quy
định này không phù hợp, có sự mẫu thuẫn giữa các văn bản pháp luật khác cùng
điều chỉnh nội dung trên.
Cho đến khi LCC đầu tiên ra đời năm 2006, công chứng được hiểu “là việc
cơng chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch
khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp
luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”. Với
khái niệm này, chủ thể của hoạt động công chứng được thay đổi lại là CCV. Như
vậy, đã có sự điều chỉnh hợp lý hơn về chủ thể từ một tổ chức cụ thể sang cá nhân,
không bắt buộc thuộc quyền quản lý của một tổ chức nào đó. Tuy nhiên, cũng chính
vì khơng quy định sự giám sát của một tổ chức đối với CCV đã gây ra một số hệ lụy
từ việc hoạt động khơng kiểm sốt trong cơng tác hành nghề cơng chứng.
Để khắc phục thiếu sót trên, ngày 01/01/2015, Quốc hội thơng qua LCC số
53/2014/QH13, theo đó, khái niệm về công chứng được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề cơng chứng
chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn
bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, khơng trái đạo

đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc
từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của
pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”.

8


CCV từ khái niệm trên đã trở thành thành viên thuộc quyền quản lý của một
tổ chức đặc thù và đó là tổ chức hành nghề cơng chứng. Thuật ngữ “tổ chức hành
nghề công chứng” trở thành một điểm đáng chú ý, đặt ra yêu cầu cần phải có văn
bản hướng dẫn giải thích cụ thể thuật ngữ trên.
Từ những nội dung đã trình bày ở trên, em xin được tiếp cận khái niệm công
chứng theo hướng: Công chứng là việc CCV của một TCHNCC chứng nhận tính
xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi
là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, khơng trái đạo đức xã hội của
bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước
ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp luật phải
công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện u cầu cơng chứng.
Nhìn chung, ở mỗi giai đoạn khác nhau, khái niệm cơng chứng rõ ràng có sự
thay đổi nhất định để phù hợp hơn với quan điểm của Nhà nước cũng như trình độ
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội về cơng chứng. Tuy nhiên, bản chất và mục đích
của hoạt động này vẫn khơng thay đổi.
1.1.2. Tổ chức hành nghề công chứng
Quy định chủ thể công chứng là TCHNCC chỉ xuất hiện trong pháp luật công
chứng của các nước xã hội chủ nghĩa tại Đông Âu và Liên Xô cũ. Ở Trung Quốc,
mặc dù xây dựng mơ hình TCHNCC tự do nhưng vẫn quy định PCC là chủ thể của
hoạt động bổ trợ tư pháp [17, tr.327].
Tuy nhiên nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển nghề cơng chứng tại
Việt Nam thì khơng phải điều này ngay từ đầu được pháp điển hóa trong hệ thống
pháp luật công chứng. Việc TCHNCC được công nhận là chủ thể của hoạt động

công chứng được ghi nhận lần đầu tiên tại Nghị định số 75/2000/NĐ- CP, cụ thể tại
khoản 1 Điều 2 của Nghị định này quy định như sau: “Cơng chứng là việc Phịng
cơng chứng chứng nhận tính xác thực của hợp đồng được giao kết hoặc giao dịch
khác được xác lập trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và quan hệ xã hội
khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) và thực hiện các việc khác theo quy định
của Nghị định này”. Cho đến khi LCC 2006 ra đời, thuật ngữ TCHNCC chính thức

9


được sử dụng lần đầu tiên tại nước ta và được ghi nhận tại Điều 23 của Luật này
[19, tr.131]. Theo đó, TCHNCC hoạt động dưới hai hình thức đó là PCC- là đại diện
cho công chứng Nhà nước và VPCC - là đại diện cho hoạt động công chứng tư. Đây
là văn bản pháp luật đầu tiên của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện rõ
chủ trương xã hội hóa hoạt động cơng chứng được ghi nhận tại Nghị quyết số 49NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cụ thể,
trong văn bản này đã nêu rõ: “Hoàn thiện chế định công chứng. Xác định rõ phạm
vi công chứng và chứng thực, giá trị pháp lý của văn bản cơng chứng. Xây dựng mơ
hình quản lý nhà nước về công chứng theo hướng nhà nước chỉ tổ chức cơ quan
cơng chứng thích hợp; có bước đi phù hợp để từng bước xã hội hóa cơng việc này”.
Tiếp nối tinh thần của Nghị quyết trên, LCC năm 2006 ra đời đã ghi nhận VPCC là
một trong hai hình thức TCHNCC. Với quy định này, lần đầu tiên pháp luật đã thừa
nhận và cho phép hoạt động công chứng được thực hiện ở phạm vi ngoài Nhà nước.
Thuật ngữ này tiếp tục được kế thừa và ghi nhận tại khoản 5 Điều 2 LCC
năm 2014, cụ thể như sau: “Tổ chức hành nghề cơng chứng bao gồm Phịng cơng
chứng và Văn phịng cơng chứng được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật
này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan”. Theo em, đây được
xem là một quan điểm đầy đủ, khoa học về thuật ngữ TCHNCC. Bởi lẽ, nếu như
LCC năm 2006 chỉ quy định hình thức TCHNCC bao gồm PCC và VPCC thì tại
LCC năm 2014, ngồi nội dung trên, TCHNCC cịn phải “được tổ chức và hoạt
động theo quy định của Luật này và các văn bản quy phạm khác có liên quan”.

Điều đó cho thấy, Nhà nước đã đưa việc hình thành các TCHNCC vào khuôn khổ
của pháp luật, tránh việc thành lập, hoạt động một cách không thống nhất của các
TCHNCC dẫn đến tràn lan, khó kiểm sốt.
1.2. Đặc điểm của tổ chức hành nghề công chứng
Từ khái niệm nêu trên, có thể rút ra một số đặc điểm về TCHNCC như sau:
Thứ nhất, TCHNCC không bắt buộc là cơ quan hành chính nhà nước mà đó
là tổ chức cung ứng dịch vụ công, thực hiện cung ứng dịch vụ pháp lý về công
chứng theo sự ủy nhiệm của Nhà nước để phục vụ và đáp ứng nhu cầu công chứng

10


của các cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật hoặc theo yêu cầu tự nguyện
của các bên trong giao dịch.
Thứ hai, việc thành lập các loại hình TCHNCC phải tuân theo những yêu cầu
nhất định. Đối với TCHNCC là VPCC, việc thành lập phải tuân theo quy định của
LCC hiện hành và chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng của từng địa
phương. Ngược lại, đối với TCHNCC là PCC, việc thành lập ngoài việc tuân thủ
các quy định về nguyên tắc thành lập theo quy định của LCC 2014 còn phải tuân
thủ các yêu cầu về cải cách bộ máy các đơn vị sự nghiệp cung ứng dịch vụ công và
pháp luật về thành lập, tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
Thứ ba, hoạt động của TCHNCC không phải là một hoạt động mang tính
chất hành chính hay tư pháp đơn thuần mà là một hoạt động bổ trợ tư pháp.
Thứ tư, hành vi công chứng không phải là một giao dịch dân sự nhưng nó
gắn chặt với các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân phi tài sản. Việc công chứng
sai sự thật sẽ dẫn đến hậu quả gây thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần (thậm chí ở
mức độ lớn) cho một hay các bên tham gia giao dịch. Thiệt hại này có thể xảy ra
ngay lập tức nhưng cũng có thể nhiều năm sau mới xảy ra [17, tr.288].
Thứ năm, hoạt động của các TCHNCC chỉ được thực hiện bởi các CCV.
Điều này có nghĩa là, ngồi các CCV khơng một cá nhân nào khác có quyền đại

diện, nhân danh TCHNCC cơng chứng các hợp đồng, giao dịch, bản dịch của tổ
chức, cá nhân.
Thứ sáu, trong hoạt động hành nghề công chứng, các CCV hoạt động hành
nghề một cách độc lập và tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình, khơng bị chi
phối hoặc áp đặt bởi người đứng đầu TCHNCC hoặc cơ quan quản lý nhà nước.
Tuy nhiên, TCHNCC lại là chủ thể chịu trách nhiệm đền bù, bồi thường thiệt hại
hoặc nộp phạt đối với hành vi vi phạm của các CCV của tổ chức mình khi hoạt
động hành nghề trong mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.
1.3. Vai trò của tổ chức hành nghề cơng chứng
Xuất phát từ chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng được nêu rõ trong
Nghị quyết 49- NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm

11


2020, có thể thấy sự xuất hiện của TCHNCC giữ vị trí, vai trị như sau:
Trước hết, sự ra đời của các TCHNCC đã đem lại sự thuận tiện nhất định cho
người dân trong việc lựa chọn các tổ chức có thể phục vụ và đáp ứng được nhu cầu
cơng chứng của mình. Nếu như trước đây, khi chưa xuất hiện các TCHNCC, muốn
công chứng hợp đồng, giao dịch, người dân chỉ có thể đến các cơ quan có thẩm
quyền để thực hiện dẫn đến số lượng hồ sơ lớn, mất nhiều thời gian trong việc chờ
đợi kết quả thì hiện nay thay vì đến các cơ quan nhà nước, người dân có thể lựa
chọn cơng chứng hợp đồng, giao dịch tại các VPCC gần nhất. Điều này đã chứng tỏ,
chất lượng dịch vụ, chất lượng tư vấn pháp lý trong công chứng ở nước ta đang
ngày một cải thiện theo chiều hướng tốt hơn nhằm đáp ứng nhanh, đầy đủ các yêu
cầu của người dân.
Bên cạnh đó, TCHNCC đã góp một phần khơng nhỏ trong việc giảm thiểu áp
lực giải quyết công việc của tại các cơ quan nhà nước nhằm đảm bảo cho các cơ
quan này tập trung tốt hơn vào việc thực hiện các công việc liên quan đến hoạt động
chuyên môn và công tác quản lý nhà nước.

Sự xuất hiện của các tổ chức này cũng đã giúp hạn chế được phần nào tình
trạng hợp đồng, giao dịch vi phạm pháp luật hoặc chưa phù hợp, chưa đúng với các
quy định của luật, từ đó giảm được các vụ tranh chấp dân sự trong xã hội, giảm
được số lượng hồ sơ vi phạm mà Tòa án phải giải quyết. Mặt khác, các TCHNCC
cịn góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong nước
cũng như ngoài nước, ngăn ngừa vi phạm, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Ngoài
ra sự ra đời của các TCHNCC khơng chỉ góp phần giúp Đảng, Nhà nước ta thực
hiện chủ chương cải cách hành chính, cải cách tư pháp mà cịn góp phần giải quyết
việc làm cho một số bộ phận nhân lực chuyên môn ngành luật.
1.4. Quy định pháp luật hiện hành về thành lập tổ chức hành nghề công
chứng
1.4.1. Nguyên tắc thành lập tổ chức hành nghề công chứng
Mặc dù TCHNCC hoạt động dưới hai hình thức PCC và VPCC nhưng các tổ
chức này vẫn phải hoạt động theo những nguyên tắc thành lập chung của TCHNCC.

12


Theo khoản 1 Điều 18 LCC năm 2014, việc thành lập TCHNCC phải tuân
theo quy định của Luật này và phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển TCHNCC
do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tuy nhiên sau đó, khoản này đã được sửa đổi
bởi Khoản 1 Điều 2 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của 11 Luật có liên quan đến
quy hoạch 2018, cụ thể: “Việc thành lập tổ chức hành nghề công chứng phải tuân
theo quy định của Luật này” . Quy định này đặt ra nhằm khắc phục tình trạng thành
lập TCHNCC tràn lan, dẫn đến tình trạng cạnh tranh khơng lành mạnh, khơng đảm
bảo chất lượng hoạt động công chứng.
Để tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động cơng chứng, LCC năm 2014 quy
định PCC chỉ được thành lập mới tại những địa bàn chưa có điều kiện phát triển
được VPCC. VPCC thành lập tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn,
đặc biệt khó khăn được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của Chính phủ tại

Điều 16 Nghị định 29/2015/NĐ- CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của LCC năm 2014. Theo đó, VPCC thành lập tại các địa bàn có điều kiện kinh
tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn được hưởng chính sách ưu đãi sau đây:
Được hưởng các ưu đãi về thuế theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh
nghiệp; Được thuê trụ sở với giá ưu đãi, được cho mượn trụ sở, hỗ trợ về trang thiết
bị, phương tiện làm việc trong 03 năm đầu hoạt động. UBND cấp tỉnh xem xét,
quyết định cụ thể các biện pháp hỗ trợ quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 16 Nghị
định 29/2015/NĐ- CP và các biện pháp hỗ trợ khác đối với VPCC thành lập tại các
địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn. Đây chính là
những quy định nền tảng cho việc thành lập và hoạt động của TCHNCC tại các
Điều tiếp theo.
1.4.2. Điều kiện thành lập tổ chức hành nghề công chứng
Tiêu chí

Điều kiện thành lập đổi với
Phịng cơng chứng

Điều kiện thành lập đổi với
Văn phịng cơng chứng

Cơ sở pháp


Điều 19 LCC năm 2014

Điều 22 LCC năm 2014

Chủ thể
thành lập


PCC do UBND cấp tỉnh quyết
định thành lập.

Chỉ cần 2 CCV hợp danh trở
lên là có thể thành lập VPCC.

13


Địa vị pháp PCC là đơn vị sự nghiệp công lập

thuộc Sở Tư pháp, có trụ sở, con
dấu và tài khoản riêng.

Tên gọi

Tên gọi của PCC bao gồm cụm từ
“PCC” kèm theo số thứ tự thành
lập và tên của tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương nơi PCC được
thành lập.

Người đại
diện theo
pháp luật

Người đại diện theo pháp luật của
PCC là Trưởng phòng. Trưởng
PCC phải là CCV, do Chủ
tịch UBND cấp tỉnh bổ nhiệm,

miễn nhiệm, cách chức.

Nhân lực

CCV làm việc tại PCC là công
chức, viên chức hưởng chế độ
lương theo đơn vị sự nghiệp cơng
lập.

Tài chính

Do ngân sách nhà nước trả lương.

Con dấu

PCC sử dụng con dấu khơng có
hình quốc huy. PCC được khắc và
sử dụng con dấu sau khi có quyết

14

VPCC là tổ chức dịch vụ
cơng dưới hình thức cơng ty
hợp danh nhằm thay mặt nhà
nước chứng nhận tính xác thực,
hợp pháp của các hợp đồng,
giao dịch có con dấu và tài
khoản riêng hoạt động.
Tên gọi của VPCC phải bao
gồm cụm từ “VPCC” kèm theo

họ tên của Trưởng Văn phòng
hoặc họ tên của một CCV hợp
danh khác của VPCC do các
CCV hợp danh thỏa thuận,
không được trùng hoặc gây
nhầm lẫn với tên của TCHNCC
khác, không được vi phạm
truyền thống lịch sử, văn hóa,
đạo đức và thuần phong mỹ tục
của dân tộc.
Người đại diện theo pháp luật
của VPCC là Trưởng Văn
phòng. Trưởng VPCC phải là
CCV hợp danh của VPCC và đã
hành nghề cơng chứng từ 02
năm trở lên.
=> Trưởng phịng VPCC do các
thành viên hợp danh tự bầu, tự
thỏa thuận theo quy định của
pháp luật liên quan về loại hình
cơng ty hợp danh.
CCV làm việc tại VPCC có thể
là CCV hợp danh hoặc CCV
làm việc theo hợp đồng lao
động.
VPCC khơng có thành viên góp
vốn.
Tự chủ về tài chính bằng nguồn
thu từ phí công chứng, thù lao
công chứng và các nguồn thu

hợp pháp khác.
VPCC sử dụng con dấu khơng
có hình quốc huy. VPCC được
khắc và sử dụng con dấu sau khi


định thành lập. Thủ tục, hồ sơ xin
khắc dấu, việc quản lý, sử dụng
con dấu của PCC được thực hiện
theo quy định của pháp luật về con
dấu.

có quyết định cho phép thành
lập. Thủ tục, hồ sơ xin khắc dấu,
việc quản lý, sử dụng con dấu
của VPCC được thực hiện theo
quy định của pháp luật về con
dấu.
Ngoài những điều kiện thành lập TCHNCC được nêu ở trên, đối với VPCC
cần phải có thêm điều kiện về trụ sở của VPCC. Điều này được quy định tại Điều
17 Nghị định 29/2015/ NĐ- CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của LCC năm 2014. Theo đó, trụ sở của VPCC phải có địa chỉ cụ thể, có nơi làm
việc cho CCV và người lao động với diện tích tối thiểu theo quy định của pháp luật
về tiêu chuẩn, định mức sử dụng trụ sở làm việc tại các đơn vị sự nghiệp, có nơi tiếp
người u cầu cơng chứng và nơi lưu trữ hồ sơ công chứng. CCV thành lập VPCC
nộp các giấy tờ chứng minh về trụ sở của VPCC tại thời điểm đăng ký hoạt động
VPCC. STP có trách nhiệm kiểm tra việc đáp ứng các điều kiện về trụ sở của VPCC
khi thực hiện đăng ký hoạt động cho VPCC.
1.4.3. Quy trình, thủ tục thành lập Tổ chức hành nghề cơng chứng
1.4.3.1.


Quy trình, thủ tục thành lập Phịng cơng chứng
(Điều 20 LCC năm 2014)

– Bước 1: Căn cứ vào nhu cầu công chứng tại địa phương, STP chủ trì phối
hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Sở Nội vụ xây dựng đề án thành lập
PCC trình UBND cấp tỉnh xem xét, quyết định. Đề án thành lập PCC , trong đề án
nêu rõ sự cần thiết thành lập PCC, dự kiến về tổ chức, tên gọi, nhân sự, địa điểm đặt
trụ sở của PCC cùng với các điều kiện vật chất và kế hoạch triển khai thực hiện.
– Bước 2: Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày UBND cấp tỉnh ra quyết định
thành lập PCC, STP phải đăng báo trung ương hoặc báo địa phương nơi có trụ sở
của PCC trong ba số liên tiếp về các nội dung sau đây: Tên gọi, địa chỉ trụ sở của
PCC; Số, ngày, tháng, năm ra quyết định thành lập và ngày bắt đầu hoạt động của
PCC.
– Bước 3: STP phải đăng báo những nội dung thay đổi về tên gọi hoặc địa
chỉ PCC trên báo trung ương hoặc báo địa phương nơi có trụ sở của PCC trong

15


trường hợp UBND cấp tỉnh quyết định thay đổi tên gọi hoặc địa chỉ trụ sở của PCC.
1.4.3.2.

Quy trình, thủ tục thành lập Văn phịng cơng chứng
(Điều 23 LCC năm 2014)

– Bước 1: Các CCV thành lập VPCC phải gửi hồ sơ đề nghị thành lập VPCC
tới UBND cấp tỉnh nơi đặt trụ sở VPCC.
Hồ sơ đề nghị thành lập VPCC bao gồm:
+ Đơn đề nghị thành lập VPCC theo quy định của pháp luật

+ Đề án thành lập VPCC , trong đề án nêu rõ sự cần thiết thành lập VPCC,
dự kiến về tổ chức, tên gọi, nhân sự, địa điểm đặt trụ sở của VPCC cùng với các
điều kiện vật chất và kế hoạch triển khai thực hiện.
+ Bản sao quyết định bổ nhiệm CCV có cơng chứng hoặc chứng thực theo
quy định của pháp luật.
– Bước 2: Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị thành
lập VPCC, UBND cấp tỉnh có trách nhiệm tiến hành xem xét, quyết định cho phép
thành lập VPCC; trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do.
– Bước 3: Trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định cho
phép thành lập VPCC của UBND cấp tỉnh, thì VPCC phải thực hiện đăng ký hoạt
động tại STP của địa phương nơi cho phép thành lập VPCC.
Nội dung đăng ký hoạt động VPCC bao gồm: tên gọi của VPCC, họ tên
Trưởng VPCC, địa chỉ trụ sở của VPCC, danh sách CCV hợp danh của VPCC và
danh sách CCV làm việc theo chế độ hợp đồng của VPCC (nếu có) theo quy định
của pháp luật.
Hồ sơ đăng ký hoạt động VPCC bao gồm: đơn đăng ký hoạt động VPCC,
giấy tờ chứng minh về trụ sở của VPCC phù hợp với nội dung đã nêu trong đề án
thành lập VPCC và hồ sơ đăng ký hành nghề của các CCV hợp danh, CCV làm việc
theo chế độ hợp đồng lao động tại VPCC (nếu có) theo quy định của pháp luật.
Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đăng ký hoạt
động VPCC, STP có trách nhiệm cấp giấy đăng ký hoạt động của VPCC trong
trường hợp hồ sơ hợp lệ; trong trường hợp từ chối cấp giấy đăng ký hoạt động của

16


VPCC thì STP phải có thơng báo bằng văn bản và nêu rõ lý do từ chối.
VPCC được phép hoạt động kể từ ngày STP cấp giấy đăng ký hoạt động theo
quy định của pháp luật. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày được cấp giấy đăng ký
hoạt động, VPCC phải đăng báo trung ương hoặc báo địa phương nơi đăng ký hoạt

động trong ba số liên tiếp về những nội dung sau đây: Tên gọi, địa chỉ trụ sở của
VPCC; Họ, tên, số quyết định bổ nhiệm của CCV hành nghề tại VPCC; Số, ngày,
tháng, năm cấp giấy đăng ký hoạt động, nơi đăng ký hoạt động và ngày bắt đầu hoạt
động.
Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày cấp hoặc cấp lại giấy đăng ký
hoạt động của VPCC, STP phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan thuế, cơ quan
thống kê, cơ quan công an cấp tỉnh, UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh, UBND xã, phường, thị trấn nơi VPCC đặt trụ sở.
Tiểu kết chương 1
Như vậy, trong chương 1, em đã đưa ra một số nội dung cơ bản khái quát về
công chứng, TCHNCC và pháp luật về thành lập TCHNCC. Đây được xem là tiền
đề giúp em tiến hành thu thập, tổng hợp dữ liệu về vấn đề thành lập TCHNCC trên
địa bàn thành phố Hà Nội, đánh giá thực trạng, nguyên nhân phát sinh những tồn
tại, bất cập trong hoạt động thành lập của các tổ chức này.

17


CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN VỀ VIỆC THÀNH LẬP TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ
CÔNG CHỨNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
Với đặc trưng là trung tâm kinh tế- chính trị- văn hóa- xã hội của cả nước
nên việc thành lập TCHNCC ở Hà Nội sẽ có những nét rất đặc thù. Sau đây, em sẽ
đi vào phân tích các đặc điểm về thành phố Hà Nội và ảnh hưởng của những đặc
điểm đó đến việc thành lập TCHNCC trên địa bàn thành phố hiện nay.
2.1.

Khái quát vị trí địa lý, tình hình dân cư, kinh tế- xã hội của thành phố
Hà Nội ảnh hưởng đến việc thành lập các tổ chức hành nghề cơng chứng

2.1.1. Vị trí địa lý của thành phố Hà Nội

Hà Nội - thủ đô nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có vị trí nằm ở
21.0278° vĩ độ Bắc và 105.8342° kinh độ Đông. Hà Nội nằm tiếp giáp với các tỉnh
Thái Nguyên, Vĩnh Phúc ở phía bắc; Hà Nam, Hịa Bình ở phía nam; các tỉnh Bắc
Giang, Bắc Ninh, Hưng Yên ở phía đơng và Hịa Bình, Phú Thọ ở phía tây. Hà Nội
cách thành phố cảng Hải Phòng 120 km, cách thành phố Nam Định 87 km tạo thành
3 cực chính của Đồng bằng sơng Hồng. Hiện nay, thành phố có diện tích
3358,6 km², chiếm khoảng 1% diện tích tự nhiên của cả nước, đứng hàng thứ 41 về
diện tích trong 63 tỉnh, thành phố ở nước ta, và là 1 trong 17 thủ đơ có diện tích trên
3000 km².
Đại bộ phận diện tích Hà Nội nằm trong vùng đồng bằng châu thổ sơng
Hồng với độ cao trung bình từ 5 đến 20 mét so với mực nước biển. Địa hình của Hà
Nội thấp dần theo hướng từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông phản ánh rõ nét
qua hướng dịng chảy tự nhiên của các con sơng chính chảy qua Hà Nội, và có thể
chia ra làm hai vùng. Vùng đồng bằng thấp và khá bằng phẳng, chiếm đại bộ phận
diện tích của các huyện thị xã và các quận nội thành, được bồi đắp bởi các dịng
sơng với các bãi bồi hiện đại, bãi bồi cao và các bậc thềm. Xen giữa các bãi bồi hiện
đại và các bãi bồi cao cịn có các vùng trũng với các hồ, đầm. Đó là các ơ trũng tự
nhiên rất dễ bị úng ngập trong mùa mưa lũ và khi có mưa lớn ở các huyện Đơng
Anh, Gia Lâm, Thanh Trì, Thanh Oai, Quốc Oai, Chương Mỹ, Ứng Hòa, Mỹ Đức.
Do được khai phá và canh tác từ lâu đời nên hiện nay ở Hà Nội có hệ thống đê điều

18


ngăn lũ chạy dọc những triền sông. Hệ thống đê điều này khiến cho các cánh đồng
trong đê không được bồi đắp phù sa hằng năm và phải xây dựng nhiều cơng trình
thủy lợi để tưới và tiêu nước. Vùng đồi núi tập trung ở phía bắc và phía tây thành
phố, thuộc các huyện Sóc Sơn, Thạch Thất, Ba Vì, Quốc Oai, Mỹ Đức, với các đỉnh
núi cao như Ba Vì (1296 m), Gia Dê (707 m), Hàm Lợn (462 m). Khu vực nội thành
có một số gị đồi thấp, như gò Đống Đa, núi Nùng [22].

Với đặc điểm vị trí địa lý nêu trên, Hà Nội được xem là trung tâm kinh tếchính trị- văn hóa- xã hội của cả nước, là đầu mối giao thông quan trọng nhất nước
ta giúp dễ dàng trao đổi hàng hóa với các vùng khác trong nước và trong khu vực.
Hiện nay Hà Nội đang chuyển mình cùng cả nước, hàng loạt phố mới, với những
đại lộ, đường cao cấp ra đời. Sân bay quốc tế Nội Bài cách trung tâm khoảng 40
km. Đây là một trong hai sân bay lớn nhất nước với nhiều đường bay trong và ngồi
nước. Qua đây có thể thấy rằng, nơi đây chính là nơi hội tụ hành lang kinh tế đông
tây, thuận lợi cho việc hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Từ những thuận lợi nêu trên, nơi đây đã được rất nhiều các tổ hành nghề công
chứng săn đón và đặt trụ sở hoạt động.
2.1.2. Tình hình dân cư, kinh tế- xã hội thành phố Hà Nội hiện nay.
Tình hình về dân cư: Tổng dân số của thành phố Hà Nội tại thời điểm 0 giờ
ngày 01/4/2019 là 8.053.663 người, trong đó: Dân số nam là 3.991.919 người,
chiếm 49,6%; dân số nữ là 4.061.744 người, chiếm 50,4%. Dân số sống ở khu vực
thành thị là 3.962.310 người, chiếm 49,2% và ở khu vực nông thôn là 4.091.353
người, chiếm 50,8%. Hà Nội là Thành phố đông dân thứ hai của cả nước, sau thành
phố Hồ Chí Minh (8.993.082 người).
Tỷ lệ tăng dân số bình quân năm trong mười năm qua (2009-2019) của Hà
Nội là 2,22%/năm, cao hơn mức tăng của cả nước (1,14%/năm) và cao thứ 2 trong
vùng Đồng bằng sông Hồng, chỉ sau Bắc Ninh (2,90%/năm). Trong thời gian qua,
tốc độ đơ thị hóa ở thành phố Hà Nội đang diễn ra mạnh mẽ, đây cũng là xu thế tất
yếu của các thành phố lớn, thể hiện qua tỷ lệ dân số khu vực thành thị tăng nhanh:
từ 36,8% năm 1999 lên 41% năm 2009 và 49,2% năm 2019 [6].

19


Điều kiện về kinh tế- xã hội: Hiện nay, kinh tế thủ đô đã và đang tăng trưởng
theo chiều hướng tích cực, bắp kịp với xu hướng phát triển của thế giới. Bình quân
giai đoạn 2016 - 2020, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) ước tăng 7,39%. Năm
2020, quy mô GRDP ước đạt 1,06 triệu tỷ đồng, khoảng 45 tỷ USD; GRDP bình

quân đầu người ước đạt 5.500 USD, gấp 1,3 lần so với năm 2015, gấp 1,8 lần bình
quân cả nước [9]. Những năm qua, kinh tế Thủ đô vẫn liên tục tăng trưởng với tốc
độ cao, thị trường tín dụng, thị trường bất động sản đang là những vấn đề nóng, kéo
theo đó là nhu cầu về công chứng hợp đồng, giao dịch ngày một lớn. Nhờ đó đã
mang đến lượng việc và nguồn thu lớn cho công chứng Thủ đô, tạo sức hút cho việc
thành lập các TCHNCC, đặc biệt tại các quận trung tâm trên địa bàn thành phố.
Cùng với sự ra đời của LCC và chủ trương xã hội hóa, hoạt động cơng chứng
ln được UBND thành phố quan tâm sát sao và triển khai rộng rãi trên phạm vi
tồn Thủ đơ, điều này đã góp phần tích cực cho sự phát triển của hệ thống công
chứng trên địa bàn. Hơn nữa, Hà Nội lại là nơi tập trung của nhiều trường đại học
có đào tạo chuyên ngành luật cùng Học viện Tư pháp đào tạo chức danh CCV vì thế
nguồn nhân lực cho ngành nghề này ở đây là vô cùng lớn và không ngừng tăng qua
các năm.
2.2.

Đánh giá về thực tiễn thành lập tổ chức hành nghề công chứng trên địa
bàn thành phố Hà Nội hiện nay

2.2.1. Ưu điểm của thực trạng thành lập tổ chức hành nghề công chứng trên địa
bàn thành phố Hà Nội hiện nay.
Trong những năm gần đây, trên địa bàn thành phố Hà Nội, các TCHNCC và
CCV đang ngày càng gia tăng cả về chất và lượng. Tính đến nay, trên địa bàn thành
phố đã có đến 10 PCC và hơn 120 VPCC được thành lập trải đều từ thành thị đến
nông thôn. Điều này cho thấy, hoạt động công chứng đang nhận được sự quan tâm
lớn của xã hội, chất lượng phục vụ người dân của các TCHNCC ngày càng tốt và
chuyên nghiệp hơn. Các PCC duy trì được chất lượng và uy tín, nhiều VPCC xây
dựng thương hiệu tốt, đáp ứng được nhu cầu công chứng của cá nhân, tổ chức.
Người dân trên địa bàn thành phố có nhiều thuận lợi, nhiều lựa chọn hơn khi có yêu

20



cầu công chứng, nhất là người dân tại các huyện, nơi trước đây chưa có các
TCHNCC.
Các TCHNCC trên địa bàn thành phố đã có bước phát triển. Về cơ bản các tổ
chức này đã và đang tuân thủ, chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật
trong tổ chức và hoạt động; phối hợp khá tốt UBND cấp huyện, UBND cấp xã, Văn
phòng đăng ký đất đai, cơ quan thuế, các tổ chức tín dụng… để nắm bắt thơng tin,
kiểm tra, củng cố hồ sơ pháp lý, thực hiện hoạt động cơng chứng đảm bảo tính pháp
lý.
2.2.2. Hạn chế, tồn tại của thực trạng thành lập tổ chức hành nghề công chứng
trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay.
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, việc thành lập TCHNCC vẫn còn tồn tại
những hạn chế, vướng mắc như sau:
Thứ nhất, quy trình thủ tục thành lập TCHNCC nhất là VPCC còn phức tạp,
tốn nhiều thời gian trong việc đăng ký hoạt động.
Thứ hai, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 11 luật có liên quan đến quy
hoạch, Nghị quyết số 63/NQ-CP ngày 26 tháng 8 năm 2019 của Chính phủ ban
hành Danh mục các quy hoạch về đầu tư phát triển hàng hóa, dịch vụ, sản phẩm cụ
thể, ấn định khối lượng, số lượng hàng hóa, dịch vụ, sản phẩm được sản xuất, tiêu
thụ hết hiệu lực theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 59 Luật Quy hoạch thuộc
thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ đã bỏ quy hoạch cơng chứng. Thực
hiện nhiệm vụ theo thẩm quyền quy định tại LCC, các địa phương đã ban hành mới
tiêu chí xét duyệt hồ sơ đề nghị thành lập VPCC để xét duyệt hồ sơ đề nghị thành
lập VPCC nhằm lựa chọn hồ sơ tốt nhất để cấp phép thành VPCC, từ đó, góp phần
nâng cao chất lượng hoạt động công chứng trong bối cảnh khơng cịn quy hoạch.
Như vậy, ngồi các tiêu chuẩn, điều kiện quy định tại LCC, VPCC khi thành lập cịn
phải tn theo các tiêu chí xét duyệt hồ sơ đề nghị thành lập VPCC do UBND cấp
tỉnh ban hành. Số lượng VPCC trên một địa bàn một tỉnh, thành phố không bị hạn
chế theo quy định của pháp luật, tuy nhiên trên thực tế, chính vì những tiêu chí do

UBND cấp tỉnh đưa ra tại một số địa phương đã làm hạn chế việc thành lập VPCC.

21


Thứ ba, kinh phí thành lập VPCC cao. Các CCV đầu tư thành lập VPCC đều
nghĩ rằng công chứng là nghề đem lại lợi nhuận hiệu quả, có thể bù lại số phí bỏ ra
khi thành lập trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy, số lượng các
VPCC trong tình trạng từ hịa đến lỗ ở các địa phương ngày càng tăng, thậm chí có
những văn phịng lỗ triền miên cả chục năm. Thế nhưng, đâu đó vẫn còn những
CCV tâm huyết, say mê với nghề vẫn cố giữ văn phòng bằng được với mong muốn,
hy vọng vào một tương lai tươi sáng hơn. Trừ một số ít VPCC mới hoạt động có
nguồn thu cơ bản trang trải được các chi phí hoạt động, cịn lại hầu hết các VPCC
mới thành lập đều không thể đạt được điểm hồ vốn trong 2 năm đầu tiên. Có nhiều
lý do mang tính đặc thù mà các chủ đầu tư không lường trước được. Điều này dẫn
đến hệ lụy là các VPCC buộc phải bước vào cuộc cạnh tranh không lành mạnh vì
mục tiêu sống cịn để tồn tại. Theo quy định của LCC thì VPCC là tổ chức cung cấp
dịch vụ công do nhà nước ủy nhiệm. Tuy nhiên, xét cho cùng thì VPCC cũng là tổ
chức kinh tế, do vậy, ngồi vấn đề chun mơn, vấn đề doanh thu mới là vấn đề
“cốt tử”. Nếu thành lập VPCC mà chỉ phụ thuộc vào một nguồn doanh thu theo
quan hệ của ai đó mà khơng có phương án hạch tốn tổng thể dài hạn thì thất bại là
điều hiển nhiên [8].
Thứ tư, hệ thống pháp luật về thành lập TCHNCC vẫn cịn gặp nhiều khó
khăn. Theo đại diện một số VPCC trên địa bàn thành phố, quy định về việc thay đổi
tên gọi của VPCC trong trường hợp thay đổi tên gọi, trụ sở hoặc trưởng VPCC là
không hợp lý. Tại Khoản 3, Điều 22, LCC quy định tên gọi của VPCC phải bao
gồm cụm từ “VPCC kèm theo họ tên của trưởng văn phòng hoặc họ tên của một
cơng chứng viên hợp danh khác của VPCC”. Do đó, khi CCV hợp danh xóa hành
nghề tại VPCC mang tên mình thì VPCC phải làm thủ tục thay đổi tên gọi của
VPCC. Cá biệt có trường hợp CCV sau khi xóa hành nghề tại VPCC mang tên mình

thì chuyển sang hành nghề ở VPCC khác với hình thức hợp danh, sau đó thực hiện
đổi tên VPCC lấy lại tên VPCC mà trước đó đã chấm dứt hoạt động.
Thứ năm, do việc đào tạo để trở thành CCV mất nhiều thời gian nên một số
người đã vi phạm đạo đức nghề nghiệp, rút ngắn khoảng cách hành nghề bằng cách

22


mua bằng, thuê bằng của những CCV khác để mở văn phịng. Điều này ảnh hưởng
khơng nhỏ đến trình độ chun mơn nghiệp vụ của các CCV trong q trình hoạt
động dẫn đến những hậu quả pháp lý không thể lường trước.
Thứ sáu, mạng lưới các TCHNCC phân bố ở các địa phương, khu vực trên
địa bàn thành phố chưa đồng đều, chủ yếu tập trung ở các quận trung tâm, thị xã và
một số ít huyện có điều kiện thuận lợi, do vậy chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi
cho người dân, doanh nghiệp khi có nhu cầu công chứng các hợp đồng, giao dịch…
2.3.

Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong thành lập tổ chức
hành nghề công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay
Hiện nay, dù LCC năm 2014 đã điều chỉnh một cách tương đối toàn diện và

đầy đủ các vấn đề liên quan đến lĩnh vực cơng chứng nói chung, thành lập
TCHNCC nói riêng, tuy nhiên trong q trình thực thi hiện đang dần bộc lộ những
hạn chế nhất định, chưa phù hợp với thực tiễn. Một số quy định của luật không rõ
ràng dẫn đến việc áp dụng không thống nhất và thiếu chính xác gây khó khăn đối
với các TCHNCC. Bên cạnh đó, do khơng khắc phục kịp thời những kẽ hở trong
quy định khiến cho một bộ phận cơ quan nhà nước cũng như các TCHNCC và CCV
lợi dụng để thực hiện các hành vi vi phạm…
Tiếp đến, các cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn chưa có sự quan tâm
đúng mức đối với cơng tác quản lý nhà nước về lĩnh vực thành lập TCNHNCC. Từ

đó dẫn đến cơng tác thanh tra, kiểm tra giám sát vẫn còn lỏng lẻo, chưa thực sự chú
trọng, việc xử lý vi phạm cịn hạn chế.
Ngồi ra, cịn phải kể đến nhận thức của người dân về các TCHNCC chưa
đúng, chưa đủ. Người dân thường không tin tưởng hoạt động của VPCC do đây là
tổ chức tư nhân, họ quan ngại về năng lực, trình độ của hình thức tổ chức này. Mặt
khác, PCC là do UBND cấp tỉnh quyết định thành lập, gần gũi với người dân hơn,
từ đó họ có sự tin tưởng hơn đối với tổ chức này. Mặc dù giá trị pháp lý của văn bản
cơng chứng giữa PCC và VPCC là như nhau. Chính vì vậy, trong thời gian đầu mới
thành lập, các VPCC sẽ không thể tránh khỏi “sự phân biệt đối xử” của người dân,
dẫn đến sự duy trì hoạt động của loại hình tổ chức này khơng được lâu.
Tiểu kết chương 2

23


Dựa trên những quy định pháp luật cơ bản về pháp luật thành lập TCHNCC
ở chương 1. Trong chương 2 em đã tiến hành thu thập dữ liệu, đánh giá tổng quan
ưu điểm cũng như hạn chế trong việc thành lập các TCHNCC trên địa bàn thành
phố Hà Nội. Tạo cơ sở, tiền đề để đưa ra những kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu
quả thành lập TCHNCC trong chương 3.

24


CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THÀNH LẬP
TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
3.1. Hoàn thiện pháp luật liên quan đến thành lập tổ chức hành nghề
công chứng.
Tiếp tục thể chế hóa đầy đủ, chính xác tồn diện các chủ trương, đường lối

của Đảng liên quan đến hoạt động cơng chứng, đảm bảo hồn thành tốt các chủ
trương xã hội hóa về cơng chứng đã đề ra. Tại phiên họp ngày 22 tháng 6 năm
2021, chủ trì cuộc họp kiện toàn Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương, Chủ
tịch nước đề nghị cần tiếp tục hoàn thiện dự thảo, đề án, nhất là quy định rõ hơn về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương
trong chỉ đạo, kiểm tra, giám sát thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp, thống
nhất với các quy định của Đảng hiện nay; đồng thời tổ chức đánh giá tổng kết 15
năm thực hiện Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị khóa IX, ngày 2/6/2005 "về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020." Chủ tịch nước nêu rõ việc kiện toàn Ban Chỉ
đạo Cải cách tư pháp Trung ương sẽ góp phần quan trọng vào việc nghiên cứu xây
dựng và thực hiện "Chiến lược hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
đến năm 2030, định hướng đến năm 2045"; trong đó, có Chiến lược Cải cách tư
pháp như Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra.
Chủ tịch nước giao Ban Nội chính Trung ương tiếp thu ý kiến của Thường trực Ban
chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương và các cơ quan liên quan để hoàn thiện Đề án,
báo cáo Bộ Chính trị cho ý kiến [21].
Đồng thời, tiếp tục xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật cơng chứng
phù hợp với thực tiễn, đảm bảo tính khả thi, dễ hiểu, thống nhất, đồng bộ với các
văn bản pháp luật khác. Cụ thể, đối với thành lập TCHNCC là VPCC cần phải đơn
giản hóa thủ tục, giấy tờ, hồ sơ. Ngồi ra, cần xây dựng các chính sách đồng bộ,
thống nhất giữa các lĩnh vực, giữa Trung ương và địa phương đối với lĩnh vực công
chứng. Về lâu dài cần nghiên cứu sửa đổi Luật đất đai, Luật nhà ở, Nghị định số
23/2015/NĐ-CP về cấp bản sao từ bản gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×