Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Tiểu luận rủi ro kiểm toán đánh giá rủi ro kiểm toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243 KB, 14 trang )

A.

MỞ ĐẦU
Kiểm toán là lĩnh vực đang dần được khẳng định và chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù mới ra

đời và phát triển trong hơn 20 năm nhưng số lượng các công ty kiểm toán đã ngày càng gia tăng, chứng tỏ nhu cầu đối với lĩnh
vực này ngày càng cao. Trước xu thế hội nhập như ngày nay các công ty kiểm tốn độc lập ở Việt Nam ln phải đặt ra yêu cầu
không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ của mình để có thể đáp ứng được nhu cầu của khách hàng và cạnh tranh với các cơng
ty kiểm tốn nước ngồi. Kiểm tốn Báo cáo tài chính ln là dịch vụ truyền thống và chiếm tỷ trọng lớn trong doanh thu của các
cơng ty kiểm tốn hiện nay. Những người quan tâm đến tình hình tài chính doanh nghiệp coi báo cáo kiểm toán là ý kiến cuối
cùng trong việc thẩm định, xác minh tính trung thực, hợp lý của các báo cáo tài chính. Tuy nhiên, bất cứ ngành nào cũng chứa
đựng những yếu tố rủi ro không mong muốn. Hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán cũng khơng nằm ngồi quy luật đó. Chính vì
vậy việc nghiên cứu các yếu tố rủi ro trong kiểm tốn nói chung và kiểm tốn tài chính nói riêng là việc khơng thể thiếu trong bất
kỳ cuộc kiểm tốn nào. Với tầm quan trọng như vậy đề tài “Rủi ro Kiểm toán” sẽ cung cấp, bổ sung những kiến thức liên quan
đến vấn đề rủi ro kiểm tốn. Ngồi phần Mở đầu và Kết luận, bài tiểu luận văn gồm ba phần sau:
Phần 1: Khái niệm về rủi ro kiểm toán.
Phần 2: Các bộ phận cấu thành rủi ro kiểm toán.
Phần 3: Mối quan hệ giữa rủi ro và trọng yếu.

B.

NỘI DUNG

Phần 1: Khái niệm về rủi ro kiểm tốn
I.

Định nghĩa

Rủi ro kiểm tốn là rủi ro (khả năng) mà KTV đưa ra ý kiến nhận xét khơng

thích



hợp khi BCTC đã được kiểm tốn vẫn cịn những sai sót trọng yếu. 
Rủi ro kiểm tốn có thể chấp nhận được là khả năng trong BCTC đã được kiểm tốn viên cịn chứa đựng những sai phạm mà
những sai phạm này có thể chấp nhận được (sai sót có thể bỏ qua) chưa đến mức độ là những sai sót trọng yếu.
Việc đánh giá rủi ro kiểm tốn sẽ giúp cho kiểm tốn viên có thể đưa ra ý kiến một cách xác đáng về các thông tin trên
các báo cáo tài chính. Sở dĩ rủi ro kiểm tốn là vấn đề mà kiểm tốn viên và cơng ty kiểm toán đều phải đối mặt là do một số
nguyên nhân sau:
Thứ nhất, do phạm vi của đối tượng kiểm tốn tài chính rất rộng. Đó là tồn bộ các yếu tố liên quan đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của khách thể kiểm tốn. Chính vì thế, phương pháp mà kiểm toán viên sử dụng chủ yếu để thu thập bằng chứng

1

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


trong kiểm tốn tài chính là phương pháp chọn mẫu. Q trình này thơng qua việc lựa chọn một số mẫu và dựa trên kết quả đánh
giá những mẫu được chọn đó để đưa ra kết luận cho tồn bộ tổng thể. Do vậy mà ln có khả năng đưa ra kết luận sai do mẫu
được chọn không phải là mẫu đại diện.
Thứ hai, bất kỳ cuộc kiểm toán tài chính nào cũng bị giới hạn bởi các yếu tố như thời gian, chi phí, giới hạn vè nguồn lực,
quản lý hay giới hạn từ phía khách thể kiểm tốn. Kiểm tốn viên và cơng ty kiểm tốn khơng thể kiểm tra toàn diện trên tất cả
các khoản mục, nghiệp vụ và chu trình liên quan đến đối tượng kiểm toán.
Thứ ba, rủi ro kiểm toán liên quan đến rủi ro kinh doanh. Các doanh nghiệp đều phải đối mặt với rủi ro kinh doanh. Rủi
ro kiểm toán là một rủi ro kinh doanh mà các cơng ty kiểm tốn phải xem xét đến trong khi thực hiện cung cấp dịch vụ kiểm
toán.
Như vậy, xuất phát từ những nguyên nhân trên, chúng ta có thể thấy được tầm quan trọng của cơng tác đánh giá rủi ro
kiểm tốn trong q trình kiểm tốn. Đánh giá rủi ro kiểm tốn tốt sẽ giúp cho kiểm toán viên xây dựng được các thủ tục kiểm
toán và lập kế hoạch kiểm toán phù hợp, đảm bảo thu thập được đầy đủ các bằng chứng đáng tin cậy để đưa ra ý kiến về các bảng
khai tài chính.
II.


Các yếu tố cấu thành (phân loại)

Có 3 loại rủi ro kiểm tốn: 
-  Rủi ro tiềm tàng. 
-  Rủi ro kiểm sốt 
-  Rủi ro phát hiện
Phần 2: Các bộ phận cấu thành rủi ro kiểm toán

I.

Rủi ro tiềm tàng

1.

Khái niệm

a.

Định nghĩa:

Là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong BCTC chứa đựng những sai sót trọng yếu khi
tính riêng rẽ hoặc tính gộp, cho dù có hay khơng có hệ thống kiểm sốt nội bộ.
Ở mỗi doanh nghiệp, mỗi loại hình kinh doanh và tính chất ngành nghề khác nhau thì rủi ro tiềm tàng là hồn tồn khác
nhau.
b.

Cơ sở đánh giá rủi ro tiềm tàng

Kiểm toán viên phải dựa vào việc xét đốn chun mơn của mình để đánh giá rủi ro tiềm tàng trên những nhân tố chủ yếu sau:




Trên phương diện báo cáo tài chính:

2

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


- Sự liêm khiết, kinh nghiệm và hiểu biết của Ban Giám đốc cũng như sự thay đổi thành phần Ban quản lý xảy ra trong niên độ kế
tốn.
- Trình độ và kinh nghiệm chun mơn của kế tốn trưởng, của các nhân viên kế toán chủ yếu, của kiểm tốn viên nội bộ và sự
thay đổi (nếu có) của họ.
- Những áp lực bất thường đối với Ban Giám đốc, đối với kế tốn trưởng, nhất là những hồn cảnh thúc đẩy Ban Giám đốc, kế
tốn trưởng phải trình bày báo cáo tài chính khơng trung thực.
- Đặc điểm hoạt động của đơn vị, như: Quy trình cơng nghệ, cơ cấu vốn, các đơn vị phụ thuộc, phạm vi địa lý, hoạt động theo
mùa vụ;
- Các nhân tố ảnh hưởng đến lĩnh vực hoạt động của đơn vị, như: các biến động về kinh tế, về cạnh tranh, sự thay đổi về thị
trường mua, thị trường bán và sự thay đổi của hệ thống kế toán đối với lĩnh vực hoạt động của đơn vị.


Trên phương diện số dư tài khoản và loại nghiệp vụ:

- Báo cáo tài chính có thể chứa đựng những sai sót, như: Báo cáo tài chính có những điều chỉnh liên quan đến niên độ trước; báo
cáo tài chính có nhiều ước tính kế tốn, hoặc trong năm tài chính có sự thay đổi chính sách kế tốn.
- Việc xác định số dư và số phát sinh của các tài khoản và nghiệp vụ kinh tế, như: Số dư các tài khoản dự phòng, nghiệp vụ kinh
tế đối với chi phí phát sinh sau ghi nhận ban đầu TSCĐ tính vào chi phí hay tính tăng nguyên giá TSCĐ,...
- Mức độ dễ bị mất mát, biển thủ tài sản, như: phát sinh nhiều nghiệp vụ thu, chi tiền mặt, tạm ứng tiền với số lượng lớn, thời
gian thanh toán dài,...
- Mức độ phức tạp của các nghiệp vụ hay sự kiện quan trọng đòi hỏi phải có ý kiến của chuyên gia, như: xảy ra kiện tụng hoặc

trộm cắp, .....
- Việc ghi chép các nghiệp vụ bất thường và phức tạp, đặc biệt là gần thời điểm kết thúc niên độ.
- Các nghiệp vụ kinh tế, tài chính bất thường khác.
2.

Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tiềm tàng:

Trong kiểm toán, để thực hiện được một cuộc kiểm toán với khối lượng hợp lý, rủi ro kiểm tốn thấp, KTV phải có sự hiểu biết
sâu sắc, đầy đủ về mỗi doanh nghiệp được kiểm toán, về ảnh hưởng của rủi ro tiềm tàng đến khối lượng cơng việc kiểm tốn.
Đồng thời phải nắm được các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro kiểm tốn đó là:
Lĩnh vực hoạt động kinh doanh. Tùy vào từng lĩnh vực khác nhau mà một sai sót có thể coi là trọng yếu hay không. VD: ngành
xây dựng, riêng nguyên vật liệu cũng đã nhiều, để kiểm soát chi li thật khó nên rủi ro về sai sót là chuyện không tránh khỏi. Điều
đáng bận tâm là khi nó trở thành những sai sót nghiêm trọng, đặc biệt khi có sự rút ruột cơng trình thì chuyện đã đáng để bàn rồi.
Bản chất công việc kinh doanh và đặc điểm của đơn vị, như: công việc sản xuất kinh doanh, các loại sản phẩm dịch vụ mà doanh
nghiệp tạo ra được cung cấp cho thị trường, các yếu tố tác động của ngành nghề, môi trường kinh tế, địa điểm hoạt động, cơ cấu
vốn, tính chất thời vụ, sự biến động của thị trường mua và bán. Ví dụ: vẫn xét đến doanh nghiệp ở ngành xây dựng, một điều căn
bản trong xây dựng là vấn đề thời gian (tiến độ cơng trình). Nhiều khi ngâm lâu một dự án mà nhà nước chưa kịp thời xử lí thì
cũng thất thốt một món tiền kha khá như ngun vật liệu bị bỏ không hay vật giá leo thang, hai ngày khác nhau là giá mỗi khác

3

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


chẳng hạn, thì hạch tốn sẽ khác, cũng dễ sinh ra sai sót. Đối với những đơn vị mới thành lập thì càng đáng bàn khi nhân lực chưa
mạnh, số chưa to nhưng lại rất dễ nhầm lẫn và thường có tiết mục vẽ bảng báo cáo.
Bản chất của các bộ phận, các khoản mục được kiểm toán, như: các khoản mục khác nhau trên BCTC thì khả năng chứa đựng
những sai phạm trọng yếu sẽ khác nhau, như khoản mục Hàng tồn kho có khả năng chứa đựng nhưng sai phạm trọng yếu nhiều
hơn là khoản mục tiền mặt vì hàng tồn kho phải thơng qua rất nhiều khâu tính tốn, đánh giá, tính nhất qn của phương pháp
tính giá xuất kho, phương pháp lập dự phòng giảm giá…. Các nghiệp vụ, khoản mục cần phải có sự tư vấn, xác nhận của các

chuyên gia, hay các khoản mục phản ánh về tài sản dễ mất trộm, phải kiểm kê thường xuyên về hiện vật, về quy trình và thời gian
bảo quản… kể cả tính chủ quan của hệ thống kế toán đối với từng loại nghiệp vụ và từng khoản mục. Tính chất này ảnh hưởng
rất lớn đến những sai phạm trọng yếu trên BCTC.
Bản chất hệ thống kế tốn và thơng tin trong đơn vị như: mức độ, tính chất phức tạp, phạm vi và tính hiệu quả của hệ thống điện
toán hay của các phương tiện, thiết bị thơng tin tính tốn áp dụng trong doanh nghiệp
Các nghiệp vụ kinh tế không thường xuyên: không quen, đặc biệt là khi có sự thay đổi từ các quy định của nhà nước mà chưa kịp
ra thong tư hướng dẫn.
Qui mô tổng thể, cơ cấu tổ chức doanh nghiệp: lớn quá mà cán bộ chuyên trách không đủ hoặc yếu về năng lực hoặc chồng
chéo, cồng kềnh.
Việc nghiên cứu, phân tích đánh giá rủi ro tiềm tàng có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình lập kế hoạch kiểm toán. Mức rủi ro
tiềm tàng ở mỗi doanh nghiệp mà KTV dự kiến cao thấp khác nhau sẽ là căn cứ và là cơ sở để KTV xác định về khối lượng, qui
mô, phạm vi công việc kiểm toán cần thực hiện. Đây là căn cứ để KTV dự kiến biên chế, thời gian, chi phí và các phương tiện
cần thiết khác cho một cuộc kiểm toán.
3.

Đánh giá rủi ro tiềm tàng

Khi lập kế hoạch kiểm toán, kiểm tốn viên và cơng ty kiểm tốn phải đánh giá rủi ro tiềm tàng cho tồn bộ báo cáo tài
chính của đơn vị được kiểm tốn. Khi lập chương trình kiểm toán, kiểm toán viên phải xác định cụ thể mức độ rủi ro tiềm tàng
cho các số dư hoặc loại nghiệp vụ quan trọng đến từng cơ sở dẫn liệu. Trường hợp không thể xác định cụ thể được thì kiểm tốn
viên phải giả định rằng rủi ro tiềm tàng là cao cho cơ sở dẫn liệu đó. Căn cứ vào mức độ đánh giá rủi ro tiềm tàng để dự kiến các
cơng việc, thủ tục kiểm tốn sẽ được thực hiện cho các nghiệp vụ, các khoản mục trọng yếu trên báo cáo tài chính, hoặc các
nghiệp vụ, các khoản mục mà kiểm tốn viên cho là có rủi ro tiềm tàng cao.

4.

Trình tự đánh giá rủi ro của KTV

Ý nghĩa của việc đánh giá rủi ro tiềm tàng


TỔNG CÔNG TY

TỔNG CÔNG TY

CÔNG TY A

CÔNG TY A

CÔNG TY B

CƠNG TY B

CƠNG TY C

CƠNG TY C

TỒN BỘ BCTC

TỒN BỘ BCTC

KHOẢN PHẢI THU

KHOẢN
4 PHẢI THU

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Phải thu từ bán lẻ


bn khó địi

bn khó địi

khó địi

Việc nghiên cứu, phân tích đánh giá rủi ro tiềm tàng có ý nghĩa rất quan trọng trong q trình lập kế hoạch kiểm toán. Rủi ro
tiềm tàng tồn tại khách quan nằm ngay trong doanh nghiệp, nó khơng phụ thuộc và cơng việc của kiểm tốn.
Mức rủi ro tiềm tàng ở mỗi doanh nghiệp mà KTV dự kiến cao thấp khác nhau sẽ là căn cứ và là cơ sở để KTV xác định về
khối lượng, quy mô, phạm vi cơng việc kiểm tốn cần thực hiện. Đây sẽ là căn cứ để KTV dự kiến biên chế, thời gian, chi phí và
các phương tiện cần thiết khác cho một kiểm tốn.
Khi phân tích đánh giá rủi ro tiềm tàng ở một đơn vị đơn vị được kiểm tốn địi hỏi KTV phải có hiểu biết sâu sắc, tồn diện
và đầy đủ và thực trạng của doanh nghiệp và các yếu tố tác động đến rủi ro tiềm tàng cũng như kinh nghiệm sát thực để có kết
quả sát thực.
II.
1.

Rủi ro kiểm soát

Khái niệm

Rủi ro kiểm soát là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục của BCTC khi tính riêng rẽ hoặc
tính gộp mà hệ thống kế toán và hệ thống kiểm sốt nội bộ của đơn vị kiểm tốn khơng ngăn ngừa hết hoặc không phát hiện và
sửa chữa kịp thời.
Rủi ro kiểm toán cũng như rủi ro tiềm tàng, tồn tại khách quan nằm ngay trong doanh nghiệp không phụ thuộc vào cơng việc
kiểm tốn có tiến hành hay khơng. Kiểm tốn viên khơng tạo ra và cũng khơng kiểm sốt rủi ro kiểm sốt. Họ chỉ có thể đánh giá
hệ thống kiểm sốt nội bộ của đơn vị được kiểm toán và từ đó đưa ra mức rủi ro kiểm sốt dự kiến.

2.


Các bước tiến hành đánh giá rủi ro kiểm soát.

Các bước trong q trình đánh giá rủi ro kiểm sốt của KTV: 4 bước
Bước 1: Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát.
Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát là việc đánh giá hiệu quả hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị trong
việc ngăn ngừa hoặc phát hiện và sửa chữa các sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm sốt thường khơng hồn tồn được loại trừ do sự
hạn chế tiềm tàng của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ. Dựa trên sự hiểu biết hệ thống kế toán và hệ thống kiểm
soát nội bộ, KTV và cơng ty kiểm tốn phải đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát đối với cơ sở dẫn liệu cho từng số sư tài khoản
hoặc các nghiệp vụ kinh tế chủ yếu
Bước 2: Lưu giữ tài liệu về đánh giá rủi ro kiểm soát
* KTV phải ghi chép và lưu lại trong hồ sơ kiểm toán:
 -    Những kết quả đạt được trong việc tìm hiểu hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán;
 -    Những nhận xét và đánh giá về rủi ro kiểm soát của kiểm toán viên. Trường hợp rủi ro kiểm sốt được đánh giá khơng cao thì
kiểm tốn viên cũng phải ghi chép và lưu lại các tài liệu làm cơ sở cho việc đánh giá này.
* KTV có quyền lựa chọn kỹ thuật khác nhau để lưu trữ thông tin liên quan hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ.
Bước 3. Thử nghiệm kiểm soát

5

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Kiểm toán viên phải thực hiện các thử nghiệm kiểm sốt để thu thập đầy đủ bằng chứng về tính hiệu quả của hệ thống
kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ trên các phương diện:
- Thiết kế: Hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được thiết kế sao cho có đủ khả năng ngăn ngừa, phát hiện
và sửa chữa các sai sót trọng yếu;
- Thực hiện: Hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ tồn tại và hoạt động mộtư cách hữu hiệu trong suốt thời kỳ xem xét.
* Thử nghiệm kiểm soát bao gồm:
- Kiểm tra chứng từ của các nghiệp vụ kinh tế và các sự kiện để thu được bằng chứng kiểm toán về hoạt động hữu hiệu của
hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ, ví dụ kiểm tra các chứng từ liên quan đến phiếu chi tiền có được phê  duyệt đầy

đủ hay khơng;
- Phỏng vấn, quan sát thực tế việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm soát của những người thực thi cơng việc kiểm sốt nội
bộ xem có để lại bằng chứng kiểm sốt hay khơng;
- Kiểm tra lại việc thực hiện thủ tục kiểm sốt nội bộ, ví dụ kiểm tra lại bảng đối chiếu tiền gửi của đơn vị với ngân hàng, xem
xét lại biên bản kiểm kê quỹ, kiểm kê hàng tồn kho, đối chiếu lại cơng nợ để đảm bảo rằng chúng có được đơn vị thực hiện hay
khơng.
Ngồi các thử nghiệm kiểm sốt, KTVcó thể thực hiện các thủ tục kiểm toán khác để thu thập đầy đủ bằng chứng
Bước 4: Đánh giá cuối cùng về rủi ro kiểm soát
Trước khi rút ra kết luận kiểm toán, kiểm toán viên phải dựa vào kết quả các thử nghiệm cơ bản và những bằng chứng kiểm toán
khác để khẳng định lại quá trình đánh giá của mình về rủi ro kiểm sốt.

3.

Các nhân tố ảnh hưởng tới việc đánh giá rủi ro kiểm sốt

* Mơi trường kiểm sốt:
- Đặc thù về quản lý: quan điểm của những người quản lý đơn vị về hoạt động kinh doanh, quan điểm về chính sách và thủ tục
kiểm sốt, cơ cấu quyền lực tập trung vào một hay nhiều người.
- Cơ cấu tổ chức: Hợp lý hay khơng hợp lý, có đảm bảo nguyên tắc và hiệu quả cho công tác quản lý hay không?
- Bộ phận KTNB: Về tổ chức trực thuộc cấp nào? Có bị giời hạn phạm vi hoặc khống chế hoạt động khơng? Nhân viên có trung
thực khơng? Có đủ năng lực kiểm sốt khơng? Thơng tin kiểm sốt có phong phú khơng?
- Ngồi ra có thể tìm hiểu tác động của các yếu tố khác như công tác kế hoạch, chính sách nhân sự và các yếu tố bên ngoài (ảnh
hưởng của cơ quan quản lý Nhà nước, trách nhiệm pháp lý…). Vấn đề cần lưu ý là người đứng đầu có nhận thức đủ tầm quan
trọng và sử dụng tốt hệ thống KSNB phục vụ có hoạt động quản lý của mình hay khơng?.
* Hệ thống kế tốn:
- Tổ chức cơng tác kế tốn (tập trung hay phân tán, cơ cấu tổ chức bộ máy kế toán, hệ thống cơng nghệ ứng dụng trong cơng tác
kế tốn)
- Hệ thống chứng từ kế toán (chứng từ bắt buộc, chứng từ do đơn vị tự quy định hoặc tự tin)
- Hệ thống tài khoản kế toán (theo hệ thống tài khoản kế toán nào? Việc quy định chi tiết về hệ thống tài khoản kế tốn có tính
chất đặc thù…)


6

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


- Hệ thống sổ kế tốn: Theo hình thức kế toán nào? (Nhật ký chứng từ, nhật ký chung, chứng từ ghi sổ..)
- Hệ thống BCTC
- Chính sách kế tốn đơn vị áp dụng: Phương pháp kế toán tiền mặt hay dồn tích, phân bổ chi phí, phương pháp khấu hao, trích
lập và xử lý dự phịng,…
- Việc chỉ đạo và kiểm tra cơng tác tài chính – kế tốn.
* Vấn đề nhân sự: Công tác quản lý bị một người hay một nhóm người độc quyền nắm giữ, thiếu sự giám sát có hiệu lực của
Ban giám đốc hoặc Hội đồng quản trị.
* Vấn đề tổ chức: tổ chức chồng chéo, không khoa học
- Cơ cấu tổ chức của đơn vị được kiểm toán phức tạp một cách cố ý.
- Thay đổi thường xuyên kế toán trường hoặc người có trách nhiệm trong bộ phận Tài chính- kế tốn.
- Thiếu nhiều nhân viên kế toán trong một thời gian dài.
- Bố trí người làm cơng tác kế tốn khơng đúng chuyên môn.
- Sự bất lực trong việc sửa chữa những yếu kém của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ trong khi những yếu kém này
hồn tồn có thể khắc phục được.
* Các nghiệp vụ mới: các nghiệp vụ chưa được kiểm soát theo đúng quy trình KSNB. Những yếu tố cần được xem xét để đánh
giá mức độ rủi ro là: bản chất kinh doanh của khách hàng, bản chất của các bộ phận được kiểm toán, bản chất các hệ thống kế
toán và thông tin, xem xét các loại nghiệp vụ phức tạp và mới, khối lượng gia dịch lớn, cách thức phân bổ lao động theo phân
định cơng việc…
* Tính thích hợp, đầy đủ của các thủ tục, trình tự kiểm sốt.
Ngồi ra cịn có các yếu tố:
- Tính chất mới mẻ và phức tạp của các loại giao dịch.
- Khối lượng và cường độ của giao dịch (Nhiều hay ít, mạnh hay yếu).
- Số lượng và chất lượng của hệ thống nhân lực tham gia kiểm sốt trong doanh nghiệp.
- Tính hiệu lực, hợp lý và hiệu quả của các thủ tục kiểm sốt và trình tự kiểm sốt trong doanh nghiệp.

- Tính khoa học, thích hợp và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ như: việc sắp xếp phân cơng đúng người, đúng việc, việc
bố trí sử dụng một cách tối ưu các phương tiện, thiết bị kết hợp với con người trong q trình kiểm sốt.
Tóm lại, có thể nói rằng, rủi ro kiểm tốn trên phương diện báo cáo tài chính được đánh giá ở mức độ thấp khi mà mơi trường
kiểm sốt được thiết kế và vận hành hiệu quả, có thể ngăn ngừa, phát hiện và sửa chữa các sai sót trọng yếu và dựa vào đó, kiểm
tốn viên có thể thực hiện được các thử nghiệm kiểm soát làm cơ sở đánh giá mức độ rủi ro kiểm sốt. Ngược lại, nếu mơi trường
kiểm sốt hoạt động khơng hiệu quả hay được thiết kế không đầy đủ, và KTV cũng không được cung cấp đầy đủ thơng tin để
đánh giá mơi trường kiểm sốt thì tùy theo mức độ, KTV có thể đánh giả rủi ro kiểm sốt “trung bình” hoặc “cao”.
4.

Đánh giá rủi ro kiểm soát

Việc đánh giá rủi ro kiểm soát thực chất là việc đánh giá về hiệu lực và hiệu quả của HTKT và HTKSNB có đủ khả năng
ngăn chặn, phát hiện và xử lý kịp thời các gian lận sai sót trọng yếu xảy ra trong doanh nghiệp một cách đáng tin cậy hay không.
Khi đã đạt được những hiểu biết cơ bản về cơ cấu kiểm soát nội bộ và đủ cho việc lập kế hoạch kiểm toán thì có 3 đánh giá:
Đánh giá khả năng có thể kiểm toán được: Việc đánh giá này chủ yếu dựa vào hai yếu tố chính là tính liêm chính của hội đồng
quản trị, ban giám đốc và tính đầy đủ của chứng từ, sổ sách kế tốn. Trường hợp khơng kiểm tốn được, cần tranh luận các tình
huống với khách hàng và rút khỏi hợp đồng hoặc công bố một báo cáo kiểm toán từ chối.
Đánh giá rủi ro dựa trên hiểu biết đã thu thập được. Sau khi thu thập được sự hiểu biết về cách thiết kế và duy trì có cấu
KSNB, KTV phải thực hiện ước lượng về rủi ro kiểm soát.

7

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Đánh giá khả năng một mức rủi ro kiểm soát thấp hơn có thể được chứng minh : khi KTV tin rằng RRKS thực tế có thể thấp
hơn nhiều so với đánh giá ban đầu thì anh ta phải đánh giá xem liệu một mức rủi ro thấp hơn có được chứng minh hay không.
Nếu KTV tin rằng mức rủi ro thấp hơn sẽ được chứng minh thì các khảo sát kiểm soát cần phải được thực hiện, và nếu kết quả
được chứng minh thì điều này rất có lợi cho KTV trong việc điều chỉnh cho phép làm tăng rủi ro phát hiện và giảm phạm vi, quy
mô các khảo sát cơ bản.

Ngồi ra, cần có đánh giá của KTV về RRKS:
- KTV có thể đánh giá RRKS là cao đối với cơ sở dẫn liệu của BCTC trong trường hợp: Hệ thống kế toán và hệ thống kiểm sốt
nội bộ khơng đầy đủ và khơng hiệu quả, KTV khơng có được đầy đủ cơ sở để đánh giá sự thích hợp, đầy đủ và đầy đủ của hệ
thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ
- KTV có thể đánh giá RRKS ở mức độ khơng cao khi: KTV có đầy đủ điều kiện và kế hoạch để thử nghiệm về kiểm sốt. KTV
có đầy đủ bằng chứng và cơ sở kết luận hệ thống kế toán và hệ thống kiểm sốt nội bộ là có hiệu lực, hiệu quả.
5.

 Ý nghĩa của việc đánh giá rủi ro kiểm soát đối với KTV:

Giúp KTV xem xét những nhân tố có khả năng gây ra sai phạm trọng yếu. Xác định được phạm vi kiểm toán cần thiết đối với
những sai sót trọng yếu có thể tồn tại trong BCTC. Xác định lựa chọn và xây dựng được thủ tục kiểm tốn cơ bản thích hợp về
phạm vi quy mô và thời gian vận dụng các thủ tục kiểm toán.
III.

Rủi ro phát hiện

1.

Khái niệm

a.

Định nghĩa

Rủi ro phát hiện là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính
riêng rẽ hoặc tính gộp mà trong q trình kiểm tốn, kiểm tốn viên và cơng ty kiểm tốn khơng phát hiện được.
Rủi ro phát hiện có ngun nhân bắt nguồn trực tiếp từ nội dung, thời gian và phạm vi của các thử nghiệm cơ bản do kiểm tốn
viên thực hiện. Ví dụ: rủi ro phát hiện sẽ giảm xuống nếu kiểm toán viên mở rộng phạm vi kiểm tra, tăng cường kích cỡ của các
thử nghiệm hay tăng các thủ tục kiểm tra chi tiết với các số dư hoặc nghiệp vụ.

b.

Đánh giá rủi ro phát hiện

Mức độ rủi ro phát hiện có liên quan trực tiếp đến thử nghiệm cơ bản của KTV. KTV phải dựa và đánh giá mức độ rủi ro tiềm
tàng và rủi ro kiểm sốt để xác định nội dung, lịch trình và phạm vi thử nghiệm cơ bản để giảm rủi ro phát hiện và giảm rủi ro
kiểm toán xuống thấp đến mức có thể chấp nhận được. Để giảm rủi ro phát hiện và rủi ro kiểm toán, KTV cần xem xét:
Một là, nội dung thử nghiệm cơ bản, ví dụ thủ tục thu thập tài liệu, hoặc xác nhận thơng tin từ bên ngồi độc lập với đơn vị có giá
trị cao hơn là thu thập tài liệu trong nội bộ đơn vị, hoặc kết hợp kết quả kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ và số dư với thủ tục phân
tích.
Hai là, lịch trình của thử nghiệm cơ bản, ví dụ kiểm tra số dư hàng tồn kho cuối năm được thực hiện vào cuối niên độ kế tốn có
giá trị cao hơn là thực hiện kiểm tra vào một thời điểm khác và phải điều chỉnh.
Ba là, phạm vi thử nghiệm cơ bản, ví dụ xác định cỡ mẫu kiểm tra rộng hơn là hẹp. Tuy nhiên, khó có thể loại bỏ hồn tồn rủi ro
phát hiện ngay cả khi KTV kiểm tra chi tiết toàn bộ các nghiệp vụ và số dư tài khoản.

8

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Mục tiêu của thử nghiệm cơ bản và thử nghiệm kiểm soát là khác nhau, nhưng kết quả thu được từ hai loại thử nghiệm này có thể
bổ sung cho nhau trong việc thực hiện đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm sốt. Ví dụ: Những sai sót phát hiện được trong
thử nghiệm cơ bản có thể buộc KTV phải xem xét, đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát.

2.

Yếu tố ảnh hưởng

Trong một cuộc kiểm toán, với mức rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát cố định, nếu rủi ro phát hiện càng tăng tức là: khả năng
không phát hiện ra gian lận sai sót trọng yếu càng tăng, dẫn đến rủi ro kiểm toán cũng càng tăng. Ngược lại, để hạ thấp rủi ro

kiểm toán, KTV thường phải hạ thấp rủi ro phát hiện. Để làm được điều này, KTV phải nắm vững được các yếu tố ảnh hưởng
đến rủi ro kiểm tốn. Đó là:
Thứ nhất, phạm vi kiểm tốn: với tính hiệu quả, khoa học và trình độ kinh nghiệm của KTV là cố định. Nếu phạm vi kiểm toán
càng rộng thì khả năng phát hiện gian lận, sai sót càng tăng lên, tức là khả năng không phát hiện ra gian lận, sai sót giảm đi có
nghĩa rủi ro giảm đi và ngược lại.
Thức hai, phương pháp kiểm toán: nếu phương pháp kiểm tốn càng khoa học, chặt chẽ thì khả năng phát hiện các gian lận, sai
sót tăng lên, rủi ro phát hiện giảm và ngược lại.
Thứ ba, trình độ, kinh nghiệm và khả năng xét đoán nghề nghiệp của KTV. Nếu KTV có trình độ cao, nhiều kinh nghiệm và khả
năng xét đốn nghề nghiệp tốt thì những gian lận, sai sót dễ bị phát hiện, rủi ro phát hiện giảm
IV.

Mối quan hệ giữa các loại rủi ro

Mối quan hệ giữa 3 loại rủi ro:
- Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát tồn tại độc lập ngay trong doanh nghiệp, dù cơng việc kiểm tốn có được thực hiện hay
không. Ngược lại, rủi ro phát hiện lại hồn tồn phụ thuộc vào cơng việc kiểm tốn. Do rủi ro phát hiện chính là khả năng khơng
phát hiện ra gian lận sai sót trọng yếu trong quá trình kiểm tra của KTV.
- Rủi ro kiểm sốt có điểm giống với rủi ro phát hiện ở chỗ: Nó phụ thuộc vào việc kiểm soát của con người để phát hiện ra gian
lận sai sót trọng yếu.
+ Tuy nhiên có sự khác biệt là: Rủi ro kiểm sốt tồn tại là do hệ thống kế toán và hệ thống KSNB hoạt động khơng hiệu quả và
KTV trong q trình kiểm tra sẽ phát hiện ra để ngăn ngừa gian lận sai sót trọng yếu.
+ Ngược lại rủi ro phát hiện lại do chính KTV khơng phát hiện những sai phạm trong q trình kiểm tốn của mình.
Có thể minh họa mối quan hệ giữa 3 loại rủi ro này như sau:


Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp luôn tồn tại những gian lận sai sót

VD: Hàng tồn kho có khả năng chứa đựng những sai phạm trọng yếu do phải thơng qua rất nhiều khâu tính tốn, đánh giá, tính
nhất quán của phương pháp tính giá xuất kho, phương pháp lập dự phịng giảm giá..........
Đây chính là rủi ro tiềm tàng.


9

LUAN VAN CHAT LUONG download : add




Phát hiện gian lận sai sót bằng các thủ tục kiểm sốt của hệ thống KSNB

VD: Cơng ty kiểm tốn D phát hiện được sai sót về hàng tồn kho của doanh nghiệp A do có 1 phần hàng tồn kho khơng được
đảm bảo về tính nhất qn của phương pháp tính giá xuất kho mà hệ thống KSNB khơng phát hiện được.
Đây chính là rủi ro kiểm sốt.


Phát hiện gian lận sai sót bằng cơng việc kiểm tốn của KTV

VD: Chỉ tiêu doanh thu của doanh nghiệp A năm 2011 phải đạt được 10 tỉ đồng. Trong khi đó, kế toán lập BCTC vào ngày
15/02/2012 nhận thấy rằng doanh thu năm 2011 tính đến 31/12/2011 chỉ là 9 tỉ đồng. Nhận thấy trong 1,5 tháng của năm 2012
doanh số bán hàng tăng vọt đáng kể. Kế toán quyết định đưa doanh số này vào doanh thu của năm 2011 nhằm đảm bảo chỉ tiêu
được giao. Trong trường hợp này, kê tốn vi phạm ngun tắc “tính đúng kì” trong các ngun tắc của hệ thống kế tốn. Tuy
nhiên thì KTV lại khơng phát hiện ra sai phạm này.
Đây chính là rủi ro phát hiện.
Như vậy, chính vì KTV khơng phát hiện hết các gian lận sai sót trọng yếu, dẫn đến đưa ra ý kiến sai  Rủi ro kiểm toán xuất
hiện.
- Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm sốt quyết định đến khối lượng, quy mơ, phạm vi chi phí, biên chế và thời gian kiểm tốn. Nếu 2
rủi ro này là cao thì KTV dự kiến rủi ro phát hiện là thấp và ngược lại. Vậy, mức độ rủi ro phát hiện dự kiến có mối quan hệ tỉ lệ
nghịch với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm sốt.
Chúng ta có thể thấy rõ mối quan hệ này thông qua bảng ma trận rủi ro:
Đánh giá của KTV về rủi ro kiểm sốt

Cao

Trung bình

Thấp

Đánh giá của KTV về

Cao

Thấp nhất

Thấp

Trung bình

rủi ro tiềm tàng

Trung bình

Thấp

Trung bình

Cao

Thấp

Trung bình


Cao

Cao nhất

Dựa vào ma trận trên có thể hiểu:


Khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát đều cao thì rủi ro phát hiện là thấp nhất.



Khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm sốt đều thấp thì rủi ro phát hiện là cao nhất.

10

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


V.

Mơ hình rủi ro kiểm tốn

  Quan hệ giữa các loại rủi ro trên có thể được phản ánh qua một mơ hình rủi ro sau đây: 
               AR=IR x CR x DR       DR = AR/( IRxCR)
Trong đó:
AR  :   rủi ro kiểm tốn 

 DR  :   rủi ro phát hiện 

  IR   :   rủi ro tiềm tàng 


CR  :   rủi ro kiểm sốt 

Với mơ hình này, KTV có thể sử dụng để điều chỉnh rủi ro và phát hiện dựa trên các loại rủi ro khác dã được đánh giá nhằm đạt
được rủi ro kiểm toán thấp như mong muốn.
Chẳng hạn, KTV muốn thực hiện một cuộc kiểm toán cụ thể và muốn rủi ro kiểm toán đạt được ở mức tương đối thấp (ví dụ
0,05, có nghĩa là bình qn có khoảng 5% các quyết định kiểm tốn là khơng chính xác). Tất cả các rủi ro tiềm tàng và rủi ro
kiểm soát đều được đánh giá và nhận định trên kinh nghiệm nghề nghiệp có minh chứng cụ thể. Giả sử KTV cho rằng rủi ro tiềm
tàng đối với đối tượng kiểm toán là rất lớn (IR=0,90) và hệ thống kiểm sốt nội bộ của đơn vị khơng được hiệu lực lắm
(CR=0,70). Nếu KTV muốn đạt được mức rủi ro kiểm tốn như mong muốn (AR= 0,50) thì các thủ tục kiểm toán phải được thiết
kế sao cho rủi ro phát hiện (DR) không được vượt quá mức 0,08 (Từ cơng thức tính ra).
Kết quả về rủi ro phát hiện tính ra được là căn cứ để KTV dự kiến về quy mô, phạm vi khối lượng công việc cần kiểm tốn thích
hợp. Việc xác định phạm vi khối lượng cơng việc kiểm tốn dựa trên kết quả dự kiến tính được theo cơng thức trên.
Một số lưu ý khi sử dụng mơ hình rủi ro kiểm tốn


Việc vận dụng mơ hình rủi ro trong thực tế là một vấn đề phức tạp. Khi vận dụng  sẽ có sự khác nhau giữa các đơn vị được
kiểm toán và các cơng ty kiểm tốn do việc đánh giá rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát ở các đơn vị được kiểm tốn có sự
khác nhau và tính thận trọng của mỗi KTV và cơng ty kiểm tốn cũng có sự khác nhau.



KTV chỉ có thể đánh giá chứ không thể tác động đến rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm sốt. Trong trường hợp khơng thể đánh
giá được thì chấp nhận ở mức tối đa.



KTV chủ động quyết định mức rủi ro phát hiện bằng cách điều chỉnh nội dung, phạm vi và thời gian của các thử nghiệm cơ
bản.




Khi lập kế hoạch kiểm toán KTV thường phải ấn định mức trọng yếu hay những sai phạm có thể chấp nhận được ở mức
thấp hơn so với mức dùng làm căn cứ để đánh giá của KTV nhằm tạo ra một khoảng lề an toàn cho KTV trong q trình
kiểm tốn.



Rủi ro kiểm sốt ln ln khơng được loại trừ vì những hạn chế vốn có của hệ thống KSNB, và rủi ro kiểm tốn khơng bao
giờ bằng không.

11

LUAN VAN CHAT LUONG download : add




Dù cho rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm sốt được đánh giá ở mức độ thấp nhất thì KTV vẫn phải thực hiện thử nghiệm cơ
bản đối với các nghiệp vụ và số dư tài khoản trọng yếu.



Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá càng cao thì kiểm tốn viên càng phải thu thập nhiều bằng chứng kiểm
toán từ các thử nghiệm cơ bản. Khi kiểm tốn viên xác định rằng khơng thể giảm rủi ro phát hiện liên quan đến cơ sở dẫn
liệu của báo cáo tài chính, đến số dư tài khoản hoặc các nghiệp vụ trọng yếu đến mức có thể chấp nhận được thì kiểm tốn
viên phải đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần hoặc ý kiến từ chối.




Rủi ro kiểm sốt ở đơn vị có qui mơ nhỏ khác với đơnvị có qui mơ lớn, vì hệ thống kiểm sốt có sự khác nhau. Ở đơn vị có
qui mơ lớn, q trình kiểm sốt tn thủ ngun tắc bất kiêm nhiệm, cịn đơn vị có qui mơ nhỏ lại vi phạm nguyên tắc
này.Thường một người kiêm nhiệm nhiều việc, vừa làm vừa kiểm tra kiểm soát. Trường hợp này, kết luận của KTV phải
hoàn toàn dựa trên bằng chứng thu được từ các thử nghiệm cơ bản.
Phần 3: Mối quan hệ giữa rủi ro và trọng yếu

1. Khái niệm trọng yếu.
Trong lĩnh vực kế toán, khái niệm “trọng yếu” được nhắc đến là một trong các nguyên tắc kế toán chung được chấp
nhận. Nguyên tắc trọng yếu yêu cầu chú trọng đến những vấn đề mang tính thận trọng, quyết định bản chất và nội dung của sự
vật, sự kiện kinh tế phát sinh, không quan tâm đến những yếu tố có ít tác dụng trong Báo cáo tài chính.
Trong lĩnh vực kiểm tốn, khái niệm trọng yếu thường xuyên được nhắc đến, được định nghĩa trong rất nhiều các tài liệu về kiểm
toán, đặc biệt là kiểm toán BCTC.
Chuẩn mực kiểm toán Quốc tế số 320 (VSA 320) về tính trọng yếu trong kiểm tốn đã định nghĩa: “Thơng tin là trọng yếu nếu
việc bỏ sót hoặc sai sót của thơng tin đó có thể ảnh hưởng tới quyết định kinh tế của người sử dụng BCTC. Tính trọng yếu phụ
thuộc vào mức độ quan trọng của các khoản mục hay sai sót được đánh giá theo bối cảnh cụ thể tạo ra việc bỏ sót hoặc sai sót đó.
Vì thế tính trọng yếu là một ngưỡng hoặc một điểm định tính cơ bản mà một thơng tin hữu ích cần phải có”. Trong chuẩn mực
kiểm tốn Việt Nam số 320 (VSA 320): “Tính trọng yếu trong kiểm toán”, trọng yếu được định nghĩa như sau: “Là thuật ngữ
dùng để thể hiện tầm quan trọng của một thơng tin (một số liệu kế tốn) trong BCTC. Thơng tin được coi là trọng yếu có nghĩa là
nếu thiếu thơng tin đó hoặc thiếu tính chính xác của thơng tin đó sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng BCTC.
Mức trọng yếu tùy thuộc vào tầm quan trọng và tính chất của thơng tin hay của sai sót được đánh giá trong hồn cảnh cụ thể.
Mức độ trọng yếu là một ngưỡng, một điểm chia cắt chứ không phải là nội dung của thông tin cần phải có. Tính trọng yếu của
thơng tin phải xem xét trên cả phương diện định lượng và định tính”.
Rõ ràng, khái niệm “Trọng yếu” đã đặt ra yêu cầu xác định nội dung kiểm tốn trên cơ sở khơng bỏ sót các nghiệp vụ có quy mơ
lớn và có tính hệ trọng. Vi phạm nguyên tắc này sẽ tạo ra rủi ro kiểm toán.
2. Khái niệm rủi ro
Theo định nghĩa chung nhất, rủi ro là khái niệm chỉ khả năng mà một sự kiện khơng thuận lợi nào đó sẽ xuất hiện. Rủi ro
được nhắc đến như một sự ám chỉ về một điều không chắc chắn, một hậu quả với những tình huống khơng thể lường trước được,
nó có thể xảy ra, nếu xảy ra có thể khơng như chúng ta mong đợi, hoặc mang lại kết quả không tốt đẹp. Rủi ro ứng với sai lệch
giữa dự kiến với thực tế.


12

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Theo định nghĩa của nguyên tắc chỉ đạo kiểm toán quốc tế IAG 25, Trọng yếu và rủi ro kiểm toán, “rủi ro kiểm toán là những rủi
ro mà kiểm tốn viên có thể mắc phải khi đưa ra những nhận xét không xác đáng về các thông tin tài chính và đó là các sai sót
nghiêm trọng”.
Những nhận xét khơng xác đáng chủ yếu theo hướng kiểm tốn viên sẽ kết luận là các BCTC được trình bày trung thực và hợp
lý, do đó cơng bố một ý kiến chấp nhận hồn tồn trong khi chúng bị sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm toán gắn liền với rủi ro kinh
doanh, rủi ro mà kiểm toán viên sẽ phải chịu thiệt hại vì mối quan hệ với khách hàng, đặc biệt trong trường hợp các báo cáo kiểm
toán cung cấp cho khách hàng là sai. Do vậy để giới hạn rủi ro kinh doanh, kiểm toán viên phải kiểm soát chặt chẽ rủi ro kiểm
toán.
3. Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán.
Trọng yếu và rủi ro có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, VSA 320 “Tính trọng yếu trong kiểm tốn” đã quy định: “Khi tiến hành
một cuộc kiểm toán, KTV phải quan tâm đến tính trọng yếu của thơng tin và mối quan hệ của nó với rủi ro kiểm tốn”. Mối quan
hệ giữa trọng yếu và rủi ro được thể hiện rất rõ trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán nhằm đánh giá rủi ro tiềm tàng, rủi ro
kiểm soát và xác định những vùng kiểm toán trọng yếu, xác định mức trọng yếu cho từng mục tiêu kiểm toán, khả năng có những
sai sót cho từng khoản mục.
* Trong một cuộc kiểm toán, mức trọng yếu và rủi ro kiểm tốn có mối quan hệ tỉ lệ nghịch với nhau : mức trọng yếu càng
cao thì rủi ro kiểm tốn càng thấp và ngược lại. Bởi vì khi mức sai sót trọng yếu có thể chấp nhận được càng thấp thì khả năng
xảy ra rủi ro kiểm tốn sẽ gia tăng lên. Mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm tốn càng phải thấp xuống vì khi giá trị của sai sót
càng cao, mức độ ảnh hưởng càng lớn thì khả năng bỏ qua sai sót đó phải giảm xuống, do đó rủi ro kiểm tốn sẽ thấp. Cịn khi
mức trọng yếu khơng cao, KTV có thể chấp nhận một mức rủi ro kiểm tốn cao hơn mà khơng gây ra những ảnh hưởng lớn. Mối
quan hệ này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định nội dung, phạm vi, thời gian của các thủ tục kiểm toán thích hợp. Khi lập
kế hoạch kiểm tốn, nếu KTV xác định mức trọng yếu chấp nhận được là thấp thì rủi ro kiểm tốn sẽ tăng lên. Khi đó, KTV có
thể:
- Giảm mức độ rủi ro kiểm sốt đã được đánh giá bằng cách mở rộng hoặc thực hiện thêm thử nghiệm kiểm soát để chứng minh
cho việc giảm rủi ro kiểm soát; hoặc
- Giảm rủi ro phát hiện bằng cách sửa đổi lại nội dung, lịch trình và phạm vi của những thủ tục kiểm tra chi tiết đã dự kiến.

* Trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong đánh giá bằng chứng kiểm toán: Kết quả đánh giá mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán của
kiểm toán viên ở thời điểm lập kế hoạch kiểm toán ban đầu có thể khác với kết quả đánh giá ở các thời điểm khác nhau trong q
trình kiểm tốn. Sự khác nhau này là do sự thay đổi tình hình thực tế hoặc sự thay đổi về sự hiểu biết của kiểm toán viên về đơn
vị được kiểm toán dựa trên kết quả kiểm toán đã thu thập được, nhưng trường hợp lập kế hoạch kiểm toán trước khi kết thúc năm
tài chính, kiểm tốn viên đã đánh giá mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán căn cứ trên dự tính tr ước kết quả hoạt động và tình hình
tài chính của doanh nghiệp. Nếu tình hình tài chính thực tế và kết quả hoạt động của doanh nghiệp có sự khác biệt đáng kể so với
dự tính, thì việc đánh giá mức trọng yếu và rủi ro kiểm tốn sẽ có thay đổi. Hơn nữa, trong khi lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán
viên thường ấn định mức trọng yếu có thể chấp nhận được thấp hơn so với mức sử dụng để đánh giá kết quả kiểm tốn nhằm tăng
khả năng phát hiện sai sót.
Ví dụ: Trong thời điểm nền kinh tế đi vào suy thoái và gặp nhiều khó khăn như hiện nay thì sức ép từ thị trường tài chính, chứng
khốn, từ sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường nên việc cho rằng những nhà lãnh đạo doanh nghiệp có động lực để “phù phép”

13

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


báo cáo tài chính là có cơ sở. Cũng chính vì tâm lý này mà mức độ trọng yếu trong thời điểm này sẽ thấp hơn tại những thời điểm
kinh tế bình thường khác do rủi ro kiểm tốn cao hơn. Thêm vào đó, có những doanh nghiệp các năm trước đều lãi lớn nhưng
năm nay lại lỗ hoặc lãi không đáng kể, do vậy cần phải xem xét lại cách định lượng mức độ trọng yếu cho BCTC. Khi lập
chương trình kiểm tốn cho các phần hành, kiểm tốn viên cần phải tăng cường các thủ tục kiểm tra chi tiết đối với những khoản
mục được xác định là trọng yếu và liên quan nhiều đến sự đánh giá chủ quan của người lập BCTC.

Phần 3: KẾT LUẬN
Từ việc tìm hiểu các loại rủi ro kiểm tốn ở trên, ta kết luận về tầm quan trọng và sự cần thiết của việc xác định, đánh
giá rủi ro kiểm toán.
 Đánh giá rủi ro kiểm tốn là việc KTV và cơng ty kiểm toán xác định mức độ rủi ro kiểm tốn có thể xảy ra là cao hay
thấp, bao gồm đánh giá rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện. Rủi ro kiểm toán được xác định trước khi lập kế
hoạch và trước khi thực hiện kiểm toán (VAS 400). Chúng ta biết rằng rủi ro kiểm tốn ln tồn tại trong mọi cuộc kiểm tốn do
đó, khả năng để kiểm tốn viên nhận xét khơng xác đáng về báo cáo tài chính là điều ln có thể xảy ra. Vấn đề đặt ra là phải

đánh giá hợp lý các loại rủi ro để đánh giá đúng bản chất đối tượng kiểm toán cũng như đảm bảo tính hợp lý trong việc lập kế
hoạch và thực hiện cuộc kiểm tốn. Do đó, ý nghĩa của việc đánh giá rủi ro kiểm toán là rất lớn, mang lại lợi ích thiết thực trong
tất cả các giai đoạn của cuộc kiểm toán, nhất là trong giai đoạn đầu tiên của cuộc kiểm toán. Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm
toán, đánh giá rủi ro kiểm toán sẽ giúp KTV giới hạn phạm vi cơng việc kiểm tốn ở mức độ cần thiết để vừa tiết kiệm được thời
gian vừa đảm bảo chất lượng kiểm toán với mức phí hợp lý và cạnh tranh và xác định được những khoản mục hoặc nhóm nghiệp
vụ chứa rủi ro cao, từ đó tập trung nguồn lực để thỏa mãn các mục tiêu kiểm tốn. Có thể kết luận rằng, đánh giá rủi ro kiểm toán
khi tiến hành kiểm toán tài chính bao giờ cũng là cơng việc quan trọng. Đặc biệt là khi cơng ty kiểm tốn cung cấp dịch vụ lần
đầu cho khách hàng. Việc đánh giá rủi ro kiểm tốn có ảnh hưởng lớn đến uy tín, chất lượng dịch vụ kiểm tốn. Và do vậy, cơng
tác đánh giá rủi ro kiểm toán cần được kiểm toán viên và cơng ty kiểm tốn coi trọng và hồn thiện để ngày càng có hiệu quả
hơn.

14

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



×