Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

nghiên cứu ảnh hưởng của diện tích chiếu sáng lên sự phát triển của ấu trùng cua biển scylla paramamosain

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.25 KB, 35 trang )


i

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG










LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ SỐ: 304

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA DIỆN TÍCH
CHIẾU SÁNG LÊN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA ẤU
TRÙNG CUA BIỂN



Sinh viên thực hiện
ĐÀO MINH QUÂN
MSSV: 06803031
LỚP: NTTS K1




Cần Thơ, 2010

ii

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG








LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ SỐ: 304

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA DIỆN TÍCH
CHIẾU SÁNG LÊN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA ẤU
TRÙNG CUA BIỂN




Cán bộ hướng dẫn

Sinh viên thực hiện
Ths. TĂNG MINH KHOA ĐÀO MINH QUÂN

MSSV: 06803031
LỚP: NTTS K1




Cần Thơ, 2010

iii

LỜI CẢM TẠ
Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy Tăng Minh Khoa và anh
Nguyễn Chí Dững đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề
tài.
Xin chân thành biết ơn quý Thầy Cô − Khoa Sinh Học Ứng Dụng đã truyền đạt
những kiến thức quý báu trong suốt qúa trình học tập. Đồng thời cũng xin chân
thành cảm ơn cô cố vấn học tập – Nguyễn Lê Hoàng Yến và tập thể lớp Nuôi
Trồng Thủy Sản KI đã không ngừng giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Cuối cùng là lời cảm ơn đến gia đình, người thân đã hỗ trợ và động viên tôi trong
quá trình học tập cũng như thực hiện đề tài.
Với sự hiểu biết còn hạn hẹp và thu thập tài liệu còn hạn chế nên báo cáo tốt
nghiệp không tránh khỏi những sai sót. Kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến
của quý Thầy Cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn và ghi nhớ!



ĐÀO MINH QUÂN
Cần Thơ, tháng 7, năm 2010


iv

TÓM TẮT
Cua biển (Scylla paramamosain) là đối tượng có giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên,
việc sản xuất giống nhân tạo loài này còn gặp nhiều khó khăn. Nghiên cứu được
tiến hành nhằm xác định ảnh hưởng của diện tích chiếu sáng lên tỷ lệ sống của ấu
trùng cua biển. Ở giai đoạn từ Zoae
1
− Zoae
5
(thí nghiệm 1) tiến hành ương với
diện tích chiếu sáng 50% và 100% (mật độ là 300 ấu trùng/lít) và từ Zoae
5
− Cua
1

(thí nghiệm 2) tiến hành ương với diện tích chiếu sáng 50% và 100% (mật độ là
30 ấu trùng/lít). Kết quả thí nghiệm 1 cho thấy: diện tích chiếu sáng 100% cho tỷ
lệ sống là 12,53% cao hơn và khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so
với diện tích chiếu sáng 50% (5,94%). Tỷ lệ sống ở nghiệm thức có diện tích
chiếu sáng 100% ở thí nghiệm 2 là 11,80% cao hơn và không có ý nghĩa thống kê
so với nghiệm thức có diện tích chiếu sáng 50% là 10,10%.
Từ khóa: Scylla paramamosain, ương ấu trùng, diện tích chiếu sáng


v

MỤC LỤC

LỜI CẢM TẠ i

TÓM TẮT ii
MỤC LỤC iii
DANH SÁCH BẢNG v
DANH SÁCH HÌNH vi
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT vii
CAM KẾT KẾT QUẢ vii
CHƯƠNG I 1
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Mục tiêu đề tài 1
Nội dung đề tài 1
CHƯƠNG II 2
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 2
2.1. Đặc điểm sinh học của cua biển 2
2.1.1. Vị trí phân loại và hình thái 2
2.1.2 Vòng đời 3
2.1.3 Đặc điểm dinh dưỡng 4
2.1.4 Đặc điểm sinh trưởng 4
2.1.5 Đặc điểm sinh sản 5
2.2. Các nghiên cứu sản xuất giống và nuôi cua biển trong và ngoài nước 6
2.2.1 Hệ thống nuôi vỗ 6
2.2.2 Kích thích sinh sản 7
2.2.3 Ấp trứng 7
2.2.4 Mật độ ương 8
2.2.5 Các yếu tố môi trường 8
CHƯƠNG III 9
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
9
3.1 Vật liệu thí nghiệm 9
3.1.1 Dụng cụ và trang thiết bị 9
3.1.2 Thuốc và hóa chất thí nghiệm 9

3.1.3 Nguồn nước 9
3.1.4 Nguồn cua mẹ 9
3.1.5 Nguồn thức ăn cho ấu trùng cua 9
3.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm 10
3.2.1 Chuẩn bị hệ thống bể ương, bố trí ấu trùng 10
3.2.2 Bố trí thí nghiệm 11

vi

3.2.3. Các chỉ tiêu theo dõi ở hai thí nghiệm 12
3.2.4 Phương pháp xử lý số liệu 12
CHƯƠNG IV 13
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 13
4.1 Thí nghiệm 1 13
4.1.1 Các yếu tố môi trường 13
4.1.2 Tỷ lệ biến thái 15
4.1.3 Tỷ lệ sống 15
4.2 Thí nghiệm 2 16
4.2.1 Các yếu tố môi trường 17
4.2.2 Tỷ lệ biến thái 18
4.2.3 Tỷ lệ sống 19
4.3 Tỷ lệ sống từ Z
1
– C
1
20
CHƯƠNG V 21
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 21
5.1 Kết luận 21
5.2 Đề xuất 21

TÀI LIỆU THAM KHẢO 22
PHỤ LỤC A a
PHỤ LỤC B g

vii

DANH SÁCH BẢNG
Bảng 2.1 các giai đoạn ấu trùng cua biển (Scylla paramamosain) 4
Bảng 3.1 Công thức thức ăn chế biến cho ấu trùng cua 10
Bảng 3.2 Thức ăn cho ấu trùng cua biển ở thí nghiệm 1 11
Bảng 3.3 Thức ăn cho ấu trùng cua biển ở thí nghiệm 2 12
Bảng 4.1: Biến động một số yếu tố môi trường trong thí nghiệm 1 13
Bảng 4.2: Tỷ lệ biến thái ở các giai đoạn ấu trùng của thí nghiệm 1 15
Bảng 4.3: Biến động một số yếu tố môi trường trong thí nghiệm 2 17
Bảng 4.4 Tỷ lệ biến thái ở giai đoạn Megalopa và Cua
1
của thí nghiệm 2 19

viii

DANH SÁCH HÌNH
Hình 2.1. Hình dạng loài cua biển Scylla paramamosain 2

Hình 2.2. Vòn g đời của cu a biển S cylla sp 3

Hình 2.3 Hình dạng buồng trứng khác nhau từ giai đoạn 1-4 6

Hình 4.1 Tỷ lệ sống ở giai đoạn Zoea
5
của các nghiệm thức 16

Hình 4.2 Tỷ lệ sống ở giai đoạn Cua
1
của các nghiệm thức 19

ix

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Z: Zoae
Z
1
: Zoae
1

Z
2
: Zoae
2

Z
3
: Zoae
3

Z
4
: Zoae
4

Z
5

: Zoae
5

M: Megalopa
C
1
: Cua
1

NT1: Nghiệm thức 1
NT2: Nghiệm thức 2

x

CAM KẾT KẾT QUẢ

Tôi xin cam kết luận văn này được hoàn thành dựa trên các kết quả nghiên cứu của tôi
và các kết quả nghiên cứu này chưa được dùng cho bất cứ luận văn cùng cấp nào
khác.
ĐÀO MINH QUÂN
Cần Thơ, tháng 7, năm 2010


11


1

CHƯƠNG I
ĐẶT VẤN ĐỀ


Cua biển (Scylla paramamosain) có kích thước lớn, giá trị dinh dưỡng cao là đối
tượng thủy sản có giá trị xuất khẩu tại nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á và
một số nước khác.
Chủ động sản xuất được cua giống nhân tạo là sự bức phá về công nghệ nuôi cua
biển xuất khẩu ở Việt Nam. Hàng năm nước ta có thể sản xuất vài trăm triệu con
cua giống để thả nuôi trong khoảng 115.276 ha nuôi cua và khoảng 390.180 ha
nuôi xen canh với tôm sú và một số đối tượng khác (Nguyễn Cơ Thạch, 2007).
Tuy nhiên, lượng cua giống vẫn không đủ đáp ứng nhu cầu nuôi đang ngày một
phát triển.
Đã có nhiều nghiên cứu về sinh sản nhân tạo cua biển trong và ngoài nước. Ở Ấn
Độ, các hệ thống cho sinh sản thí nhân tạo được bắt đầu từ những năm 50. Ở
Malaysia, Ong (1964) đã thành công trong việc cho cua biển Scylla serrata sinh
sản nhân tạo đầu tiên. Ngoài ra, còn nhiều công trình nghiên cứu của các quốc gia
như: Đài Loan, Thái Lan, Philippines, Trung Quốc, Úc…nhưng cho đến nay quy
trình kỹ thuật vẫn chưa ổn định, tỷ lệ sống thấp. Do đó, yêu cầu đặt ra là phải tìm
ra giải pháp góp phần nâng cao tỷ lệ sống và chất lượng ấu trùng cua biển nhằm
đáp ứng yêu cầu sản xuất, góp phần giảm áp lực khai thác và bảo tồn nguồn lợi tự
nhiên. Xuất phát từ những vấn đề trên đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng của diện
tích chiếu sáng lên sự phát triển của ấu trùng cua biển Scylla paramamosain”
được thực hiện nhằm bổ sung thêm tư liệu góp phần hoàn chỉnh quy trình sản
xuất giống cua biển.
Mục tiêu đề tài
Xác định diện tích chiếu sáng thích hợp cho từng giai đoạn phát triển (từ Zoae
1
-
Zoae
5
và từ Zoae
5

- Cua
1
) của cua biển Scylla paramamosain nhằm nâng cao tỷ lệ
sống trong ương ấu trùng cua biển, góp phần hoàn thiện quy trình sản xuất giống
cua biển.
Nội dung đề tài
So sánh ảnh hưởng của diện tích chiếu sáng (50% và 100%) đến sự phát triển của
cua biển giai đoạn từ Zoae
1
- Zoae
5.

So sánh ảnh hưởng của diện tích chiếu sáng (50% và 100%) đến sự phát triển của
cua biển giai đoạn từ Zoae
5
- Cua
1
.

2

CHƯƠNG II

LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1. Đặc điểm sinh học của cua biển
2.1.1. Vị trí phân loại và hình thái
Trên thế giới có 4 loài cua biển thuộc giống Scylla: Scylla serrata, Scylla
olivacea, Scylla paramamosain và Scylla transquesparica (Keenan và Mann,
1998). Ở nước ta có 2 loài phân bố chủ yếu là cua sen (Scylla paramamosain) và
cua lửa (Scylla olivacea). Trong đó, cua sen chiếm đa số trên 90%. Theo hệ thống

phân loại Estampador (1949):
Ngành :

Arthropoda
Ngành phụ: Crustacea
Lớp: Malacostraca
Lớp phụ: Eumalacostraca
Bộ: Decapoda
Bộ phụ: Pleocyemata
Họ : Portunidae
Họ phụ: Portuninae
Giống: Scylla
Loài: Scylla paramamosain

Hình 2.1. Hình dạng loài cua biển Scylla paramamosain (Estampador, 1949)
Cơ thể cua dẹp theo hướng lưng bụng và chia làm 2 phần: Phần đầu ngực (mai)

3

và phần bụng (yếm), cơ thể phân đốt không rõ ràng. Phần đầu ngực gồm 5 đốt
gồm mắt, anten và các phần phụ miệng; phần ngực có 8 đốt gồm các chân hàm
và chân bò. Mặt trước của giáp đầu ngực là 2 hố mắt chứa 2 mắt; giữa 2 hố mắt
và mỗi bên mặt trước của giáp đầu ngực có 9 gai nằm liên tiếp nhau. Trên giáp
đầu ngực chia thành nhiều vùng, mỗi vùng là vị trí của một cơ quan (Nguyễn
Thanh Phương và Trần Ngọc Hải, 2004). Theo Nguyễn Chung (2006) mặt bụng
có nhiều tấm bụng làm thành vùng lõm ở giữa chứa phần bụng gập vào. Ở con
cái phần bụng hơi vuông trước thời kỳ thành thục sinh dục, con đực yếm có
hình chữ V, chỉ có đốt 1, 2, 6 là thấy rõ.
2.1.2 Vòng đời
Vòng đời cua biển được chia thành 4 giai đoạn: giai đoạn ấu trùng (5 giai đoạn zoae, 1

giai đoạn megalopa), giai đoạn cua con (chiều rộng mai CW: 20-80 mm), giai đoạn
tiền trưởng thành (CW: 70 - 150 mm) và giai đoạn trưởng thành (CW ≥150 mm). Tuổi
thọ trung bình của cua tuỳ thuộc vào nhiệt độ môi trường dao động từ 2-4 năm.

Hình 2.2. Vòn g đời của cu a biển S cylla sp
.
(
Nguồn:

David Mann; Sắp sếp lại Williams et al, 1999).

Ey espot eggs: trứng xuất hiện điểm mắt; Zoea 1 (Z
1
): ấu trùng zoea 1 ; Zoea 5 (Z
5
): ấu trùng Zoea 5;
Megalop a (M): ấu trùng megalop a; Crab 1(C
1
): giai đoạn cua con.
Phân biệt giữa các giai đoạn ấu trùng cua biển Scylla paramamosain được
Nguyễn Cơ Thạch (2007) miêu tả và trình bày bảng sau:

4

Bảng 2.1 Các giai đoạn ấu trùng cua biển (Scylla paramamosain)
2.1.3 Đặc điểm dinh dưỡng
Cua biển Scylla paramamosain là loài ăn tạp, chúng ăn mùn bã hữu cơ, những
loài giáp xác nhỏ, nhuyễn thể, giun, Artemia, Hill (1979) đã công bố rằng trong
ống tiêu hoá của cua chứa 50% nhuyễn thể, 21% giáp xác, 29% các mảnh vụn
hữu cơ. Ngoài ra, chúng có tập tính ăn nhau, đây cũng là một phần nguyên nhân

làm cho tỷ lệ sống của cua giảm trong quá trình ương nuôi.
Hill (1984) cho rằng ở giai đoạn Megalopa có tính ăn thịt lẫn nhau, vì lúc này có
sự xuất hiện của cặp càng. Tuỳ theo giai đoạn biến thái của ấu trùng mà tính ăn
cũng rất khác nhau. Trong điều kiện sản xuất nhân tạo ấu trùng được cho ăn với
nhiều loại thức ăn khác nhau như: Tảo (Chlorella, Tetraselmis), luân trùng,
Artemia và nhiều loại thức ăn viên có kích thước nhỏ.
Nguyễn Cơ Thạch (2007) cho rằng trong cùng một giai đoạn phát triển của ấu
trùng, cung cấp các loại thức ăn khác nhau thì tỷ lệ sống đạt được sẽ khác nhau:
Ở giai đoạn Z
2
cho ấu trùng ăn luân trùng đạt tỷ lệ sống 62,75%. Trong khi đó,
cho ăn Artemia thì tỷ lệ sống chỉ đạt 43,95%; chuyển sang giai đoạn Z
3,
nếu duy
trì cho ăn luân trùng thì tỷ lệ sống giảm còn 18,95%; sang Z
4
tỷ lệ sống chỉ còn
0,8%; Z
5
ấu trùng chết 100%.
2.1.4 Đặc điểm sinh trưởng
Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải (2004) cho rằng tuổi thọ trung bình của
cua từ 2-4 năm. Qua mỗi lần lột xác, khối lượng cua sẽ tăng lên 20-50%, và kích
thước tối đa mà cua có thể đạt được là 19-28 cm, với khối lượng 1-3 kg/con.
Giai đoạn

Kích thước
(mm)
Đặc điển hình thái ngoài
Zoae

1
1,25
Đôi mắt kép màu đen chưa có cuống mắt. Kết thúc giai
đoạn Z
1
từ 5-6 ngày.
Zoae
2
1,53
Giống Z
1
nhưng khác nhau về kích thước. Kết thúc giai
đoạn Z
2
từ 4-5 ngày.
Zoae
3
1,93
Mắt lớn hơn, đã hình thành cuống nhưng chưa phân đốt,
chưa có mầm chân bụng. Kết thúc giai đoạn Z
3
từ 3-4 ngày.
Zoae
4
2,75
Hình thành mầm chân bụng, cuống mắt đã phân đốt. Kết
thúc giai đoạn Z
4
từ 4-5 ngày.
Zoae

5
3,67
Chân bụng phát triển chẻ đôi thành hai, mép ngoài chân
bụng có lông tơ. Kết thúc giai đoạn Z
5
từ 4-5 ngày

5

Cua biển là loài sinh trưởng không liên tục được đặc trưng bởi sự gia tăng đột
ngột về kích thước và trọng lượng. Cua lột xác để tăng kích thước và quá trình
này phụ thuộc rất lớn vào điều kiện dinh dưỡng, môi trường và giai đoạn phát
triển của cơ thể. Theo Mangnapa et al. (1987) cho rằng cua đực tăng trưởng
nhanh hơn cua cái và tốc độ tăng trưởng của cua đực khoảng 1,3 g/ngày, trong khi
đó cua cái tăng trưởng 0,9 g/ngày. Theo Trĩno et al. (1999) khi nuôi chung hỗn
hợp giữa cua đực và cua cái thì cua cái có tốc độ tăng trưởng chậm hơn cua đực
(Trích dẫn: Phạm Thị Tuyết Ngân, 2005). Ong (1966) cho rằng tăng trưởng trung
bình của cua Scylla ở điều kiện tự nhiên nhanh hơn so với điều kiện ương nuôi
trong phòng thí nghiệm, mặc dù chất lượng nước trong phòng thí nghiệm tốt hơn.
Quá trình lột xác của cua mang tính đặc trưng riêng biệt từng loài, thông thường
2–3 ngày/lần, cua càng lớn thì chu kỳ lột xác càng kéo dài. Đặc biệt, trong quá
trình lột xác, cơ thể của chúng có thể tái sinh những phần phụ bộ đã mất. Ðối với
những con cua bị tổn thương, khi mất phần phụ bộ thì cua có

khuynh hướng lột
xác sớm hơn (Trần Ngọc Hải et al., 1999).
Manjulatha và Babu (1998) cho rằng nhiệt độ có ảnh hưởng rất lớn đến sự lột xác
và tăng trưởng của cua. Nhiệt độ nước thấp hơn 24
o
C hoặc trên 34

o
C làm cua
giảm ăn và kéo dài thời gian lột xác. Ở nhiệt độ từ 26 − 31
o
C, hoạt động bắt mồi
và lột xác của cua trong tình trạng bình thường.
2.1.5 Đặc điểm sinh sản
Hill (1975) cho rằng cua thường di cư ra biển để tiến hành giao vĩ, lột xác và sinh
sản, ở những vùng nhiệt đới cua đẻ quanh năm. Ở vùng biển phía Nam Việt Nam
mùa sinh sản của cua bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau, còn ở vùng biển
phía Bắc từ tháng 4 − 7, đây là mùa vụ thuận lợi cho cua đẻ do khí hậu ấm áp và
nhiệt độ ổn định (Hoàng Đức Đạt, 1992).
Theo Le Vay (2001) thì cua biển thành thục sinh dục vào khoảng 1 − 1,5 tuổi.
Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải (2004), cho rằng khi chiều rộng của
mai cua khoảng 10 cm và trọng lượng trung bình từ 150 g trở lên thì cua sinh sản
tốt. Theo Prasad et al. (1989) cua Scylla paramamosain chỉ tham gia sinh sản khi
chiều rộng mai đạt từ 120-180 mm. Thêm vào đó, không như cua đực, cua cái
không bao giờ đạt đến mức 100% độ thành thục dù ở bất cứ kích cỡ nào.
Đối với những cá thể chưa thành thục, buồng trứng còn non có màu trong mờ,
những noãn bào còn non có hình mắt lưới, trong tế bào chất tồn tại một ít noãn
hoàng sau đó buồng trứng bắt đầu phát triển để tăng thể tích và thay đổi màu sắc
từ màu trắng sang màu vàng cam khi cua đạt đến sự thành thục sinh dục.

6









Hình 2.3 Hình dạng buồng trứng khác nhau từ giai đoạn 1-4
(Nguồn: Phạm Thị Tuyết Ngân, 2005)
Theo Hoàng Đức Đạt (2004) cua cái có trọng lượng 300 g có thể đẻ và mang trên
1 triệu trứng. Trong mùa sinh sản một cua cái có thể đẻ trứng 3 lần, mỗi lần đẻ
cách nhau 30 − 40 ngày. Trứng cua lúc đẻ ra có đường kính trung bình 300 µm.
2.2. Các nghiên cứu sản xuất giống và nuôi cua biển trong và ngoài nước
2.2.1 Hệ thống nuôi vỗ
Trong sinh sản nhân tạo, đã nghiên và sử dụng nhiều mô hình nuôi vỗ khác nhau
như: nuôi trong ao, lồng hoặc bể composite và cũng tùy theo điều kiện của mỗi
nước. Ở Úc, Đài Loan, Ấn Độ, Malaysia dùng bể từ 1-2 m
3
để trong phòng kín
(Heasman và Fielder, 1983). Millamena và Quinitio (2000) đã thành công khi
nuôi vỗ cua bố mẹ với những bể có thể tích từ 1 − 12 m
3
(Lê Minh Tuấn, 2009). Ở
Malaysia đã nuôi vỗ khá thành công cua bố mẹ trong hệ thống ao đất
(Zainoddin,1992).
Còn ở Việt Nam, theo Trương Trọng Nghĩa (2005) việc nuôi vỗ cua có 3 hệ thống
chính: (1) Nuôi trong bể composite kết hợp lọc tuần hoàn với thể tích bể nuôi 70
lít và bể lọc là 700 lít, đặt trong nhà và che tối hoàn toàn; (2) Nuôi trong ao đất,
thể tích 60 m
3
; (3) là nuôi trong hệ thống bể ciment có thể tích 100 lít, đặt trong
GĐ1
GĐ2

GĐ3


GĐ4


7

nhà, dưới đáy bể có trải một lớp cát mỏng khoảng 5cm; Ông cũng kết luận rằng,
hệ thống nuôi vỗ trong ao đất ít gây sốc và cho sinh sản tốt hơn. Tuy nhiên, khó
khăn nhất của nuôi ao là vệ sinh không đạt chuẩn nên tỷ lệ chết cao hơn nuôi trên
bể. Hoàng Đức Đạt (2004) cũng đã cho nuôi vỗ trong ao có diện tích 100 − 500
m
2
, độ sâu 1,2 − 1,5 m, mật độ nuôi 2 − 5 con/m
2
. Song song đó, tiến hành nuôi
vỗ cua bố mẹ trong lồng với kích thước 3x2x1,2 m, mật độ nuôi 2 − 4 con/m
2
.
2.2.2 Kích thích sinh sản
Cắt mắt thúc đẩy quá trình phát triển tuyến sinh dục, cua nuôi vỗ sau khi cắt mắt
sẽ rút ngắn thời gian nuôi vỗ và có thể đẻ trứng quanh năm. Theo Trần Ngọc Hải
(1997), cua đã cắt mắt nuôi vỗ đẻ trứng sau 25 ngày, trường hợp cá biệt 5 ngày và
110 ngày.
Trương Trọng Nghĩa et al., (2001) nghiên cứu ảnh hưởng của mùa vụ, ánh sáng
và sự cắt mắt lên đặc điểm sinh sản của cua biển (Scylla paramamosain). Kết quả
cho thấy việc cắt mắt ảnh hưởng lớn hơn mùa vụ sinh sản, cắt mắt trái hay cắt
mắt phải đều ảnh hưởng như nhau, khi cắt hai mắt thời gian đẻ sẽ ngắn hơn nhưng
tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ sống thấp hơn khi cắt một mắt.
2.2.3 Ấp trứng
Sau khi đẻ, cua cái ôm trứng cho đến khi nở ra ấu trùng zoea

1
, cua ôm trứng được
chuyển sang bể kiếng có đáy phẳng thể tích 60 lít, bể nhựa 100 lít hoặc bể
composite từ 300-500 lít (Hamasaki, 2002) hay dùng bể 1 m
3
(Williams et al.,
1998) (Phạm Văn Quyết, 2008). Trong khi ấp thì có thể thay nước hoặc dùng lọc
tuần hoàn để làm cho môi trường nước ấp được sạch, ngăn ngừa sự ô nhiễm, hạn
chế được mầm bệnh. Theo Trương Trọng Nghĩa et al. (2005) trong giai đoạn ấp
không nên cho cua ăn nhằm hạn chế nước bị nhiễm bẩn, ấu trùng nở ra sẽ mạnh
khoẻ hơn.
Trong quá trình ấp trứng cua thường thải trứng (Hoàng Đức Đạt, 2004), trứng có
thể nhiễm nhiều loại ký sinh trùng và nấm nếu giảm chất lượng môi trường nước.
Theo Hamasaki và Hatai (1993) việc sử dụng formalin 25 ppm xử lý trứng nhiễm
nấm sẽ gây độc cho trứng và cua mẹ trong thời gian lâu dài, Hamasaki đề xuất
nên xử lý nấm và ký sinh trùng bằng formalin tốt nhất là ở giai đoạn đầu của ấu
trùng (Phạm Văn Quyết, 2008).
Thời gian phát triển phôi phụ thuộc vào nhiệt độ và độ mặn của nước. Theo
Hoàng Đức Đạt (2004) phôi sẽ nở thành ấu trùng sau khi đẻ từ 10-12 ngày ở nhiệt
độ nước 28
0
C, độ mặn 30 ± 2‰. Đoàn Văn Đẩu và csv., (1997) cho rằng với nhiệt
độ 19 − 26
0
C, độ mặn 22 − 28‰ thời gian nở kéo dài 26 − 29 ngày.


8

2.2.4 Mật độ ương

Yunus et al., (1994) cho rằng tỷ lệ sống của ấu trùng giảm khi gia tăng mật độ
ương: Với các mật độ ương 100, 75, 50 và 25 con/lít có tỷ lệ sống tương ứng là
8,9%; 9,7%; 13,7% và 18,9%. Tuy nhiên, ấu trùng có thể ương ở mật độ từ 10 −
200 con/lít nhưng mật độ ương thông thường là 30 − 60 con/lít.
Theo Trần Ngọc Hải và Trương Trọng Nghĩa (2004) khi nghiên cứu ảnh hưởng
của mật độ ương lên sự phát triển và tỷ lệ sống của ấu trùng cua biển Scylla
paramamosain giai đoạn từ Z
1
– Z
5
trong mô hình nước xanh (sử dụng tảo
Chlorella) 100 con/lít cho kết quả tỷ lệ sống đến giai đoạn Z
5
là 66±15,42% cao
hơn so với mật độ 50 và 70 con/lít.
Nguyễn Cơ Thạch (1998) xác định mật độ thích hợp cho quá trình ương cua bột
lên cua giống với dụng cụ thí nghiệm là giai lưới 3x10x0,6 m đặt trong ao đất bố
trí ở các mật độ 10, 20, 30, 40 và 50 con/m
2
. Thí nghiệm cho thấy nếu càng tăng
mật độ ương tỷ lệ sống càng giảm.
Nguyễn Thị Ngọc Diễm (2000) khi ương ấu trùng cua Scylla paramamosain ở
mật độ 50, 70, 100 con/lít với các loại thức ăn khác nhau cho tỷ lệ sống đến giai
đoạn Z
5
của các nghiệm thức sử dụng thức ăn tảo, Rotifer và Artemia là 66% cao
hơn so với nghiệm thức sử dụng thức ăn đơn lẻ.
Quách Kha Ly (2007) ương ấu trùng cua Scylla paramamosain theo hai giai đoạn
(Z
1

– Z
5
) với các mật 100, 200, 300 con/lít và (Z
5


C
1
) với mật độ 20 và 40
con/lít. Kết quả cho thấy mật độ ương 200 con/lít ở giai đoạn một cho tỷ lệ sống
80,2% cao hơn các nghiệm thức còn lại nhưng trong giai đoạn hai ương ở mật
thấp 20 con/lít lại cho tỷ lệ sống cao hơn (21,9%) so với mật độ 40 con/lít
(12,2%).
2.2.5 Các yếu tố môi trường
Trong quá trình ương ấu trùng cua vấn đề về quản lý môi trường đóng vai trò hết
sức quan trọng. Theo Ong (1964) nhiệt độ ương ấu trùng là 24,5 – 31,5
o
C và độ
mặn là 29 – 30‰. Heasman và Fielder (1983) cho rằng ở nhiệt độ 27
o
C và độ
mặn 27 – 33‰ thì ấu trùng phát triển tốt. Ở độ mặn quá thấp hay quá cao cũng
đều ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của ấu trùng cua.
Ngoài hai yếu tố nhiệt độ và độ mặn thì ánh sáng cũng là yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến quá trình biến thái của ấu trùng. Theo Trần Ngọc Hải (1997) chu kỳ
chiếu sáng 4500 – 5000 lux (dưới mái che trong suốt) cho kết quả biến thái và tỷ
lệ sống của ấu trùng cao nhất.

9



Chương III
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1 Vật liệu thí nghiệm
3.1.1 Dụng cụ và trang thiết bị
− Bể xử lý nước và bể chứa nước
− Bể ương ấu trùng
− Hệ thống sục khí: Ống dẫn khí, val điều chỉnh, đá bọt.
− Bình ấp Artemia.
− Kính hiển vi, lame.
− Các dụng cụ khác như: Cân điện tử, máy bơm chìm, ống xiphon,
thau nhựa, vợt, túi lọc, cốc thủy tinh…
3.1.2 Thuốc và hóa chất thí nghiệm
Chlorine, EDTA, NaHCO
3
, Natri thiosulphate, Formaline, CaCO
3
, test môi
trường Sera (NO
2
-
, NH
4
, NH
3
và độ kiềm)
3.1.3 Nguồn nước
Nước ngọt lấy từ nguồn nước máy của thành phố Cần Thơ pha với nước ót (lấy từ
Vĩnh Châu có độ mặn 80‰ - 120‰) thành nước 30‰, xử lý bằng chlorine 60

ppm, sục khí mạnh liên tục. Sau 48 giờ cho chlorine bay hơi, kiểm tra lại hàm
lượng chlorine bằng bộ test, nếu thấy còn chlorine thì trung hòa chlorine bằng
Na
2
S
2
O
3
(với lượng vừa đủ). Sau đó, điều chỉnh pH bằng NaHCO
3
10 ppm, tiếp
tục trung hòa độ kiềm bằng CaCO
3

10 ppm

và dùng EDTA 10 ppm để kết tủa
kim loại nặng, bơm nước qua túi lọc gòn 5 µ trước khi sử dụng.
3.1.4 Nguồn cua mẹ
Cua mẹ mang trứng có nguồn gốc từ Cà Mau, đạt trọng lượng 400 − 600 g, cơ thể
lành lặn không bị xay xát, trứng có màu xám tro, đồng đều, yếm xòe ra hình tán
nấm, sau 3 ngày trứng nở thành ấu trùng.
3.1.5 Nguồn thức ăn cho ấu trùng cua
Tùy theo giai đoạn phát triển mà cung cấp thức ăn khác nhau để phù hợp với kích
cỡ miệng ấu trùng

10

3.1.5.1 Artemia
Artemia có nguồn gốc từ Vĩnh Châu và Mỹ, Artemia được ấp ở độ mặn 15‰

trong khoảng thời gian 14 − 15 giờ, sục khí liên tục, liều lượng Artemia ấp là 2 −
5 g/lít nước. Artemia bung dù sau 24 giờ, trước khi cho ăn được khử trùng bằng
formaline nồng độ 25 ppm và rửa sạch bằng nước ngọt.
3.1.5.2 Thức ăn chế biến
Bảng 3.1 Công thức thức ăn chế biến cho ấu trùng cua
Thành phần Lượng
Trứng gà 20 trứng
Sữa bột giàu canxi 50 g
Thịt tép 200 g
Dầu mực 5%
Lecithin 2%
Các nguyên liệu trên được cho vào máy xay sinh tố để xay nhuyễn. Sau đó, đem
hỗn hợp hấp cách thủy với thời gian nước sôi khoảng 15-20 phút. Thức ăn sau khi
hấp có thể bảo quản trong tủ lạnh để sử dụng dần trong một tuần.
Trước khi cho ăn, cần ép thức ăn qua sàn với kích cỡ mắt lưới 1000 µm.
3.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm
3.2.1 Chuẩn bị hệ thống bể ương, bố trí ấu trùng
3.2.1.1 Chuẩn bị bể ương ấu trùng
Bể trước khi bố trí được rửa sạch bằng xà phòng, khử trùng bằng chlorine nồng
độ 200 ppm. Sau đó, rửa sạch bằng nước ngọt cho đến khi hết mùi chlorine.
3.2.1.2 Thu ấu trùng và bố trí vào bể
Sau khi trứng nở thành ấu trùng khoảng 30 phút, tiến hành thu ấu trùng Zoea:
Trước khi thu ấu trùng, tắt sục khí khoảng 3 − 5 phút, lúc đó toàn bộ ấu trùng có
chất lượng tốt sẽ hướng quang và nổi lên trên mặt nước, cuộn lại thành từng đám,
số ấu trùng yếu sẽ lắng dưới đáy. Thu ấu trùng đạt chất lượng ra thùng nhựa 50
lít, sau đó định lượng và chuyển vào bể ương. Thời gian thu xong ấu trùng càng
nhanh càng tốt (khoảng 15 − 20 phút).

11


3.2.2 Bố trí thí nghiệm
Nghiên cứu được tiến hành với 2 thí nghiệm
Thí nghiệm 1: Ương ấu trùng cua biển từ giai đoạn Z
1
– Z
5
với diện tích chiếu
sáng khác nhau. Thí nghiệm gồm 2 nghiệm thức, mỗi nghiệm thức được lặp lại 3
lần và bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên :
− Nghiệm thức 1: Diện tích chiếu sáng 50% (mái che được lợp bằng
tole sáng 50%)
− Nghiệm thức 2: Diện tích chiếu sáng 100% (mái che được lợp bằng
tole sáng 100%)
Thí nghiệm được bố trí với mật độ ương 300 ấu trùng/lít, theo quy trình nước
trong hở, thể tích bể ương 50 lít/ bể 60 lít.
Chế độ cho ăn: 4 lần/ngày vào các mốc thời gian trong ngày: 6 giờ, 10 giờ, 16 giờ
và 22 giờ, lượng thức ăn được điều chỉnh theo từng giai đoạn phát triển của ấu
trùng.
Bảng 3.2 Thức ăn cho ấu trùng cua biển ở thí nghiệm 1
Giai đoạn
Thức ăn
Z
1
Z
2
Z
3
Z
4
Z

5

Lượng TA
Artemia bung dù
X X
Theo nhu cầu
Ấu trùng Artemia
X X X
Theo nhu cầu
Thí nghiệm 2: Ương ấu trùng cua biển từ giai đoạn Z
5
– C
1
với diện tích chiếu
sáng khác nhau. Thí nghiệm gồm 2 nghiệm thức, mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần và
được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên :
− Nghiệm thức 1: Diện tích chiếu sáng 50% (mái che được lợp bằng
tole sáng 50%)
− Nghiệm thức 2: Diện tích chiếu sáng 100% (mái che được lợp bằng
tole sáng 100%)
Thí nghiệm được bố trí với mật độ ương 30 ấu trùng/lít, theo quy trình nước
trong hở, thể tích bể ương 50 lít/ bể 60 lít.

Ấu trùng được bố trí từ giai đoạn Z
5
và có cùng một nguồn gốc. Thức ăn cho ấu
trùng tùy thuộc vào giai đoạn và được trình bày trong Bảng 3.3. Cho ăn 4
lần/ngày vào các mốc thời gian trong ngày: 6 giờ, 10 giờ, 18 giờ và 22 giờ.

12


Bảng 3.3 Thức ăn cho ấu trùng cua biển ở thí nghiệm 2
Giai đoạn
Thức ăn
Z
5
M C
1

Lượng TA
Ấu trùng Artemia
X
Theo nhu cầu
Thức ăn chế biến
X X
Theo nhu cầu
3.2.3. Các chỉ tiêu theo dõi ở hai thí nghiệm
3.2.3.1 Yếu tố môi trường
− Nhiệt độ, pH: được ghi nhận ngày 2 lần vào lúc 8 giờ và 14 giờ
− NH
3
/NH
4
+
, N-NO
2
-
: 4 ngày/lần, xác định bằng testkist.
3.2.3.2 Sinh trưởng và tỉ lệ sống
− Sinh trưởng: Mỗi ngày lấy ngẫu nhiên 30 ấu trùng cua xem trên kính

hiển vi xác định tỷ lệ các giai đoạn có trong bể.
− Tỷ lệ sống được thu vào cuối giai đoạn zoea
5
(thí nghiệm 1) và giai
đoạn cua
1
(thí nghiệm 2).
Tổng số ấu trùng Z
5
x 100
Tỷ lệ sống ấu trùng (%) =
Tổng số ấu trùng Z
1

Tổng số C
1
x 100
Tỷ lệ sống cua con (%) =
Tổng số Z
5

3.2.4 Phương pháp xử lý số liệu
Số liêu thu thập được tính toán các giá trị trung bình, độ lệch chuẩn bằng phần
mềm Excel và SPSS 13.0.

13

CHƯƠNG IV
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 Thí nghiệm 1

4.1.1 Các yếu tố môi trường
4.1.1.1 Nhiệt độ
Trong quá trình thí nghiệm, nhiệt độ giữa các nghiệm thức không có sự biến động
lớn, sự dao động nhiệt độ giữa sáng và chiều trong cùng một nghiệm thức cũng
không lớn. Nhiệt độ trung bình buổi sáng khoảng 26,5 − 28
o
C và buổi chiều trong
khoảng 29 − 31,5
o
C. Sự ít biến động này là do thí nghiệm được bố trí tại khu vực
được chắn kín gió.
Bảng 4.1 Biến động một số yếu tố môi trường trong thí nghiệm 1
Chỉ tiêu Thời gian đo Nghiệm thức 1 Nghiệm thức 2
Nhiệt độ Sáng
Chiều
26,5 – 27,0
29,0 – 30,0
27,0 – 28,0
30,0 – 31,5
pH Sáng
Chiều
7,7 – 7,8
7,7 – 7,9
7,7 – 7,8
7,7 – 7,9
N - NO
2
-
0,0 – 0,7 0,0 – 0,5
NH

4
+
0,0 – 3,0 0,0 – 5,0
Theo Ong (1964) cho rằng nhiệt độ ương ấu trùng cua nằm trong khoảng 24,5 −
31,5
o
C. Theo Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải (2004) cho rằng nhiệt độ
trong khoảng 27 − 30
o
C thì ấu trùng cua phát triển tốt. Trong quá trình thí
nghiệm mặc dù có mưa nhưng nhiệt độ vẫn tương đối ổn định, sự chênh lệch
nhiệt độ giữa sáng và chiều không cao, do đó không ảnh hưởng lớn đến tốc độ
tăng trưởng của ấu trùng.
4.1.1.2 pH
pH là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự phát triển của các đối
tượng thủy sản thông qua độc tính của các khí hay sự mất cân bằng ion trong
nước. Qua Bảng 4.1 cho thấy pH giữa các nghiệm thức trong quá trình thí nghiệm
dao động trong khoảng 7,7-7,9. Do nguồn nước trước khi bố trí ấu trùng đã sử
dụng NaHCO
3
điều chỉnh độ kiềm khoảng 120 mg/L giúp cho pH luôn được ổn
định. Theo Trương Quốc Phú và csv., (2006) độ kiềm từ 80-120 mg/L thích hợp
cho sự phát triển của động vật thủy sản.

14

Nguyễn Cơ Thạch (2007) thì cho rằng pH thích hợp cho ương ấu trùng cua là từ
7,5-8,6. Trương Quốc Phú (2002) cho biết pH thích hợp cho các đối tượng thủy
sản nằm trong khoảng từ 6,5-9,0 nhưng phát triển tốt nhất là từ 7,5-8,5. Như vậy
pH trong các nghiệm thức đều nằm trong khoảng thích hợp cho sự phát triển của

ấu trùng.
4.1.1.3 N-NO
2
-

Theo Trương Quốc Phú và csv., (2006) N-NO
2
-
là sản phẩm trung gian của quá
trình oxy hóa amoniac nhờ hoạt động của vi khuẩn Nitrosomonas là một chất gây
độc đối với động vật thủy sản. Chính vì thế mà N-NO
2
-
là một yếu tố quan trọng
cần được theo dõi trong quá trình thí nghiệm.
Qua Bảng 4.1 cho thấy hàm lượng N-NO
2
-
trong môi trường nước ương ở các
nghiệm thức trong thí nghiệm 1 dao động trong khoảng 0,5-0,7 mg/L. Gía trị của
N-NO
2
-
trong thí nghiệm tương đối cao hơn mức cho phép và càng tăng cao vào
cuối giai đoạn ương. Nguyễn Cơ Thạch và csv., (2004) cho rằng hàm lượng
nitrite tốt nhất trong ương ấu trùng cua nên duy trì ở mức nhỏ hơn 0,1 mg/L. Tuy
nhiên, theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải
(2004) hàm lượng N-NO
2
-

có thể lên đến 2 mg/L vẫn không ảnh hưởng đến ấu
trùng cua biển.
4.1.1.4 NH
4
+

Qua Bảng 4.1 cho thấy hàm lượng NH
4
+
càng tăng cao vào cuối chu kỳ ương.
Hàm lượng NH
4
+
ở nghiệm thức 2 cao hơn so với nghiệm thức 1 và đã tăng vượt
mức khuyến cáo, có thể do ấu trùng sử dụng không hết lượng Artemia cung cấp
vào bể ương, cùng với sự tích tụ của chất thải ngày càng nhiều. Theo Churchill
(2003) LC-50 24 giờ là 39,7 mg/L ở pH 8,2 của ấu trùng Zoae
1
của loài Scylla
serrata (trích dẫn Phạm Văn Quyết, 2008). Theo Boyd (1990) hàm lượng NH
4
+

thích hợp cho đời sống thủy sản là 0,2-2 mg/L (Lê Minh Tuấn, 2009). Theo
Trương Trọng Nghĩa (2005) cho rằng trong hệ thống lọc tuần hoàn dùng để ương
ấu trùng cua thì hàm lượng NH
4
+
có thể lên đến 5mg/L nhưng ấu trùng vẫn phát
triển tốt. Nhìn chung hàm lượng NH

4
+
tăng cao hơn mức khuyến cáo vào cuối
giai đoạn ương nhưng chưa thấy ảnh hưởng đến ấu trùng.

×