Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

nghiên cứu tuổi thành thục và thử nghiệm sinh sản lươn đồng (monopterus albus zuiew, 1793)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.14 MB, 92 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN








NHAN TRUNG NGHĨA








NGHIÊN CỨU TUỔI THÀNH THỤC VÀ THỬ NGHIỆM
SINH SẢN LƯƠN ĐỒNG (Monopterus albus Zuiew, 1793)











LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN









2010
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN






NHAN TRUNG NGHĨA







NGHIÊN CỨU TUỔI THÀNH THỤC VÀ THỬ NGHIỆM
SINH SẢN LƯƠN ĐỒNG (Monopterus albus Zuiew, 1793)









LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN





CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
PGs. Ts. NGUYỄN ANH TUẤN
Ts. ĐỖ THỊ THANH HƯƠNG






2010
i

LỜI CẢM TẠ

Xin chân thành cảm ơn Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Sóc Trăng, Sở Nội Vụ

tỉnh Sóc Trăng, đề án Sóc Trăng 150 đã tạo mọi điều kiện để tôi được tham gia
học tập nâng cao trình độ chuyên môn trong thời gian qua.
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy và cô: PGs. Ts.
Nguyễn Anh Tuấn, Hiệu trưởng trường Đại học Cần Thơ; PGs. Ts. Nguyễn
Thanh Phương, Trưởng khoa Thủy Sản, trường Đại học Cần Thơ, Ts. Đỗ Thị
Thanh Hương, Trưởng Bộ môn Dinh dưỡng và Chế biến Thủy sản, khoa Thủy
sản, trường Đại học Cần Thơ đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn, truyền đạt những
kinh nghiệm và kiến thức quý báu trong suốt thời gian học tập cũng như thực
hiện đề tài.
Xin cảm ơn em Nguyễn Thành Nhựt, lớp Liên thông Nuôi trồng Thủy
sản K34, chị Mai Diệu Quyên, anh Đỗ Văn Bước lớp Cao học Nuôi trồng thủy
sản khóa 15, chị Cao Thanh Tuyền lớp Cao học Nuôi trồng thủy sản k16, chị
Nguyễn Hương Thùy, bạn Nguyễn Thị Kim Hà, Nguyễn Văn Toàn Khoa
Thủy sản, trường Đại học Cần Thơ đã tận tình giúp đỡ trong suốt thời gian
thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô đã tận tình truyền đạt những kiến
thức quý báu trong suốt thời gian học tập, cảm ơn các cán bộ khoa Thủy sản
trường Đại học Cần Thơ đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi
để tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, tập thể lớp Cao học
Nuôi trồng Thủy sản K15 và tất cả mọi người đã động viên, giúp đỡ để tôi
hoàn tất khóa học này.

Tác giả




Nhan Trung Nghĩa




ii

TÓM TẮT

Đề tài gồm 3 thí nghiệm: theo dõi tuổi thành thục của lươn đồng; thử
nghiệm sinh sản lươn đồng với nguồn bố mẹ không được nuôi vỗ thành thục
và thử nghiệm sinh sản lươn đồng với nguồn bố mẹ được nuôi vỗ thành thục.
Lươn 5 và 6 tháng tuổi được nuôi trong bể 200 lít để theo dõi tuổi thành thục.
Kết quả cho thấy lươn đồng thành thục ở giai đoạn 10 tháng tuổi. Hàm lượng
vitellines tăng nhanh trong giai đoạn lươn đồng 9-10 tháng tuổi từ 1,67
(µgALP/mg protein) lên 2,72 (µgALP/mg protein). Ở lươn đồng 10 tháng tuổi
có tỷ lệ thành thục là 18,2% và hệ số thành thục cao nhất là 1,04%.
Thử nghiệm sinh sản lươn đồng với nguồn bố mẹ không được nuôi vỗ
thành thục gồm 3 nghiệm thức, mỗi nghiệm thức lập lại 6 lần bao gồm:
Nghiệm thức (1): đối chứng, (2): tiêm HCG, (3): tiêm LHRH-a. Lươn được bố
trí vào bể xanh 500 lít, có mô đất và lục bình làm giá thể, mỗi bể bố trí 1 cặp
lươn bố mẹ. Kết quả cho thấy tỷ lệ sinh sản cao nhất ở nghiệm thức 3 (50%),
nghiệm thức đối chứng và HCG đều ở mức 33,3%. Thời gian tái sinh sản của
lươn đồng trung bình là
11,2
ngày (nghiệm thức 1). Tỷ suất lợi nhuận của thí
nghiệm 2 là -0,51.
Ở thử nghiệm sinh sản lươn đồng với nguồn bố mẹ được nuôi vỗ thành
thục, nguồn lươn được nuôi vỗ 4 tuần, tiêm HCG vào đầu mỗi tuần để kích
thích lươn thành thục. Sau đó bố trí tương tự thí nghiệm 2. Kết quả cho thấy tỷ
lệ sinh sản cao nhất ở nghiệm thức 2 (83,3%), tiếp theo là nghiệm thức 3
(66,7%) và thấp nhất là nghiệm thức đối chứng (50%). Thời gian tái sinh sản
của lươn đồng trung bình từ 10,6-13,9 ngày, thấp nhất là 3 ngày. Tỷ suất lợi

nhuận của thí nghiệm 3 là 3,4.








iii
ABSTRACT

The thesis includes three experiments: Monitoring the mature age of
ricefield eels (Monopterus albus); Reproductive experiment for the ricefield
eels from the farm; Reproductive experiment for the ricefield eels with rearing
broodstock. In monitoring the maturation age of ricefield eels with the 5 and 6
month-old-ricefield eels were reared in 200 liter tanks. Results showed that the
eels matured in 10 months old. Vitellines in the plasma increased rapidly
during the period of 9-10 month-old eels from 1.67 (µgALP / mg protein) to
2.72 (µgALP / mg protein). The maturity rate of 10 months old eels was
18.2% and the highest maturity coefficient was 1.04%
In reproductive experiment for the swarm eels from the farm included
three treatments, each was repeated six times, including: (1) control treatment,
(2) HCG injection, (3) LHRH-a injection. Eels were cultured in 500 liters
green tanks with land model and water hyacinth inside, each of tanks kept an
eel parents. The Results showed the highest fertility rate in the third treatment
(50%), remaining treatments

were 33.3%. The average time of eel
reproduction was 11.2 days (treatment 1). The profit rate of the experiment 2

was -0.51.
In reproductive experiment for the swarm eels with rearing broodstock,
ricefield eels were reared broodstock in four weeks, the eels were injected
HCG at beginning each of weeks to stimulate eels maturation. Then three
treatments were arranged similarly as the second experiment. Results showed
the highest fertility rate in the treatment 2 (83.3%), followed by treatment 3
(66.7%) and the least one in control treatment (50%). The average time of eel
reproduction was from 10.6 to 13.9 days, the lowest time was 3 days. The
profit rate of the experiment 3 was 3.4.









iv

LỜI CAM KẾT

Tôi xin cam kết luận văn này được thực hiện dựa trên kết quả nghiên
cứu của tôi, các kết quả
nghiên
cứu này chưa được dùng cho bất cứ luận văn
cùng cấp nào. Nghiên cứu này được thực hiện là một phần nội dung của Đề án
Enreca số 104.Dan.8.L.207 (physCAM) “Nghiên cứu và Đào tạo về Sinh lý
động vật Thủy sản ở Đồng bằng sông Cửu Long”. Đề án hoàn toàn có quyền
sử dụng số liệu này.


Cần Thơ, ngày 24 tháng 09 năm 2010

Tác giả




Nhan Trung Nghĩa













v

MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM TẠ I
TÓM TẮT II

ABSTRACT III


CAM KẾT KẾT QUẢ IV
MỤC LỤC V

DANH SÁCH BẢNG VII

DANH SÁCH HÌNH VIII
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT IX
CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU 1

1.2 Mục tiêu của đề tài 2
1.3 Nội dung của đề tài 2
1.4 Thời gian thực hiện đề tài: 2

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3

2.1 Đặc điểm sinh học 3

2.1.1 Hệ thống phân loại 3

2.1.2 Phân bố 3

2.1.3 Hình thái cấu tạo 4

2.2 Đặc điểm dinh dưỡng và sinh trưởng 5

2.2.1 Đặc điểm dinh dưỡng 5

2.2.2 Đặc điểm sinh trưởng 5


2.3 Đặc điểm sinh sản 5

2.3.1 Mùa vụ và tập tính sinh sản 5

2.3.2 Tỷ lệ giới tính và sức sinh sản 6

2.3.3 Sự chuyển đổi giới tính 7
3.3.4 Sự phát triển của noãn sào 7
2.4 Cơ sở khoa học của việc sinh sản lươn đồng 8

2.4.1 Yêu cầu về mặt sinh thái 8

2.4.2 Yêu cầu về mặt dinh dưỡng 9

2.4.3 Kích thích tố HCG và LHRH-a 9

2.5 Những nghiên cứu về sản xuất giống lươn đồng 10

2.5.1 Cho sinh sản tự nhiên 10

2.5.2 Sản xuất giống nhân tạo 10

2.5.3 Những nghiên cứu về Vitellogenin (protein tạo noãn hoàng) 12
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 13

3.1 Thời gian nghiên cứu 13

3.2 Địa điểm nghiên cứu 13

vi


3.3 Vật liệu nghiên cứu 13

3.4 Bố trí thí nghiệm 13

3.4.1 Xác định tuổi thành thục của lươn (thí nghiệm 1) 13

3.4.2 Thử nghiệm sinh sản lươn đồng với nguồn bố mẹ được nuôi vỗ thành
thục (thí nghiệm 2) 155

3.4.3 Thử nghiệm sinh sản lươn đồng với nguồn bố mẹ không qua nuôi vỗ
thành thục (thí nghiệm 3) 177

3.5. Phương pháp phân tích Vitellines 188

3.6. Phương pháp mô học 211
3.7. Xử lý số liệu 222

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ THẢO LUẬN 233

4.1. Xác định tuổi thành thục của lươn 233

4.1.1. Các yếu tố môi trường 233

4.1.2. Tăng trưởng về chiều dài và khối lượng của lươn đồng 24

4.1.3. Giai đoạn thành thục của lươn đồng 255

4.1.4. Hàm lượng vitellines trong huyết tương 288


4.2 Ảnh hưởng của các kích dục tố đến sự sinh sản của lươn đồng 30

4.2.1. Các yếu tố môi trường 30

4.2.2. Tỷ lệ sinh sản 322

4.2.3. Tỷ lệ thụ tinh 344

4.2.4. Tỷ lệ nở 355

4.2.5. Tỷ lệ sống sau 1 tháng 366

4.2.5. Chu kỳ tái thành thục 366

4.2.6. Hoạch toán kinh tế 377

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 40

5.1. Kết luận 40

5.2. Đề xuất 40

TÀI LIỆU THAM KHẢO 411

PHỤ LỤC 455













vii

DANH SÁCH BẢNG


Bảng 3.1. Các bước phân tích protein 19

Bảng 3.2. Các bước phân tích phosphor 21

Bảng 4.1. Các yếu tố môi trường 23

Bảng 4.2. Tăng trưởng về khối lượng của lươn đồng 24

Bảng 4.3. Tăng trưởng về chiều dài của lươn đồng 25

Bảng 4.4. Hệ số thành thục của lươn đồng 26

Bảng 4.5. Các yếu tố môi trường 31

Bảng 4.6. Tỷ lệ thụ tinh của lươn đồng ở các thí nghiệm 34

Bảng 4.7. Tỷ lệ nở của lươn đồng ở các thí nghiệm 35


Bảng 4.8. Thời gian tái sinh sản của lươn đồng 37

Bảng 4.9. Chi phí, thu nhập và lợi nhuận của thí nghiệm 2 và 3 38



viii
DANH SÁCH HÌNH

Hình 2.1: Hình thái bên ngoài lươn đồng (monopterus albus, zuiew, 1793) 3

Hình 3.1: Hệ thống bể thí nghiệm 1 143

Hình 3.2: Hệ thống bể thí nghiệm của thí nghiệm 2 và 3 15

Hình 4.1: Giai đoạn 1 (x10) 27

Hình 4.2: Giai đoạn 2 (x10) 27

Hình 4.3: Giai đoạn 3 (x30) 27

Hình 4.4: Giai đoạn 4 (x20) 27

Hình 4.5: Tỷ lệ các giai đoạn thành thục của lươn đồng 28

Hình 4.6: Hàm lượng vitellines trong huyết tương lươn đồng 29

Hình 4.7: Hàm lượng vitellines ở các giai đoạn thành thục khác nhau 30

Hình 4.8: Tỷ lệ sinh sản của lươn đồng ở các nghiệm thức sử dụng kích dục tố

khác nhau ở thí nghiệm 2 và thí nghiệm 3 32

Hình 4.9: Tổ bọt của lươn 33

Hình 4.10: Trứng lươn 33

Hình 4.11: Trứng lươn sắp nở 343

Hình 4.12: Lươn con mới nở 343

Hình 4.13: Lươn giống 1 tuần tuổi 35

Hình 4.14: Lươn giống 1 tháng tuổi 35

Hình 4.15: Tỷ lệ sống của lươn bột của các nghiệm thức khác nhau
ở thí nghiệm 2 và thí nghiệm 3 365

Hình 4.16: Tỷ suất lợi nhuận của các nghiệm thức ở thí nghiệm 3 39













ix
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

C Buổi chiều
DO Oxy hòa tan trong nước
GĐ Giai đoạn
NT Nghiệm thức
S Buổi sáng
T Tuần
TN Thí nghiệm
TSD Tuyến sinh dục
ĐC Đối chứng

1

CHƯƠNG 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Giới thiệu

Ở Đồng Bằng Sông Cửu Long hiện nay nghề nuôi thuỷ sản nước ngọt
đang phát triển rất nhanh, diện tích nuôi trồng ngày càng được mở rộng với
quy mô ngày càng lớn. Trong các giống loài nuôi thì cá tra là một đối tượng
nuôi chủ lực của vùng. Sản lượng cá tra thu hoạch và xuất khẩu luôn đứng đầu
so với các loài khác đem lại thu nhập cao cho bà con và mang về nguồn ngoại
tệ lớn cho nền kinh tế quốc dân trong nhiều năm. Tuy nhiên, trong những năm
gần đây hiệu quả kinh tế của đối tượng này không đảm bảo do sự kiện áp dụng
thuế chống phá giá của Mỹ cũng như khủng hoảng thừa nguyên liệu vào năm
2008. Điều này dẫn đến sự chuyển hướng sang nuôi các loài khác, trong đó
lươn đồng (Monopterus albus) là một đối tượng kinh tế rất tiềm năng.
Lươn đồng là loài nuôi khá phổ biến trên thế giới, trong đó Đông Nam

Á là một trong những vùng nuôi lươn quan trọng (Lee và Degani, 2000). Lươn
đồng (Monopterus albus) là loài có giá trị dinh dưỡng cao, thịt thơm ngon, rất
được ưa chuộng trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Ngoài ra thịt lươn
còn chứa nhiều DHA, EPA, vitamin B1, B2 có tác dụng bồi bổ sức khỏe, tăng
trí thông minh, hạn chế các khối u, chống viêm (Nguyễn Chung, 2008). Theo
Razak và ctv (2001), hàm lượng arachidonic acid là 10,17% và DHA chiếm
7,16% lipid cơ thể.
Trung Quốc, Singapore, Hồng Công, Nhật Bản, có nhu cầu tiêu thụ
lươn rất lớn. Mặt dù họ đã chú trọng phát triển đối tượng này nhưng vẫn
không đáp ứng được nhu cầu của thị trường nên phải nhập khẩu từ nhiều nước
khác, chủ yếu là các nước Đông Nam Á. Hiện nay, Việt Nam đã xuất khẩu
lươn sống sang Trung Quốc, lươn đông lạnh và tẩm dầu hun khói sang các
nước Singapore, Hồng Công, Nhật Bản, Úc, Mỹ, EU…, tuy nhiên số lượng rất
hạn chế và giảm dần do nguồn hoan dã bị cạn kiệt (Nguyễn Chung, 2008).
Ở Việt Nam lươn đồng (Monopterus albus) phân bố rất rộng trong tự
nhiên do có đặc tính sinh lý, sinh thái phù hợp với điều kiện khí hậu của vùng.
Từ lâu, đối tượng này được người dân nuôi phổ biến với nhiều mô hình khác
nhau. Ở Đồng bằng sông Cửu Long, lươn đồng (Monopterus albus) đang được
nuôi bước đầu đạt năng suất và hiệu quả kinh tế cao (Đỗ Thị Thanh Hương và
ctv, 2008). Lươn là đối tượng rất kinh tế có tiềm năng phát triển nghề nuôi
theo quy mô công nghiệp để cải thiện đời giống người dân cũng như quy
hoạch phát triển đại trà. Tuy nhiên, khả năng cung cấp giống đang là rào cản

2

chính làm trì hoãn sự phát triển của nghề nuôi, do đó nghiên cứu sản xuất
giống nhân tạo là một nhu cầu lớn, cấp thiết. Hiện nay, trên thế giới và Việt
Nam những nghiên cứu về lươn đồng còn rất ít. Nghiên cứu về sản xuất giống
nhân tạo cũng được thực hiện và cho kết quả khả quan như: nghiên cứu đặc
điểm sinh lý sinh sản và thử nghiệm sản xuất giống lươn đồng (Nguyễn Thị

Hồng Thắm, 2007), thử nghiệm nuôi vỗ thành thục và sinh sản lươn đồng
(Nguyễn Thị Lệ Hoa, 2008). Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu vẫn còn những
hạn chế nhất định và chưa thể áp dụng rộng rãi trong thực tế sản xuất.
Nhằm cung cấp những kiến thức cơ sở cho việc nghiên cứu sản xuất
giống lươn đồng để đáp ứng nhu cầu con giống hiện nay và tìm hiểu một số
thông tin về đặc điểm sinh lý sinh sản cần thiết về lươn đồng (Monopterus
albus) đề tài: “Nghiên cứu tuổi thành thục và thử nghiệm sinh sản lươn
đồng (Monopterus albus

Zuiew, 1793)” được thực hiện.
1.2 Mục tiêu của đề tài
Cung cấp một số dẫn liệu về đặc điểm sinh học sinh sản và hiệu quả
sinh sản của lươn đồng trong điều kiện có và không nuôi vỗ, làm cơ sở cho
những giải pháp nghiên cứu và thực hành sản xuất giống thương phẩm.
1.3 Nội dung của đề tài
- Thí nghiệm xác định tuổi thành thục của lươn đồng
- Thử nghiệm sản xuất giống với nguồn lươn không được nuôi vỗ.
- Thử nghiệm sản xuất giống với nguồn lươn được nuôi vỗ.
- Theo dõi chu kỳ sinh sản của lươn đồng.
1.4 Thời gian thực hiện đề tài:
Từ tháng 08/2009 đến tháng 10/2010







3


CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1 Đặc điểm sinh học
2.1.1 Hệ thống phân loại
Theo Fishbase.org (2005) lươn đồng được phân loại như sau:
Ngành: Chordata
Lớp: Actinopterygii
Bộ: Synbranchiformes
Họ: Synbranchidae
Họ phụ: Neoterygii
Loài: Monopterus albus (Zwiew, 1973)

Hình 2.1: Hình thái bên ngoài lươn đồng (Monopterus albus, Zuiew, 1793)
2.1.2 Phân bố
Lươn đồng có tên tiếng Anh là Rice Eel hay Asian Swanp Eel, phân bố
rất rộng từ Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên đến Châu Phi, Châu Úc, Trung
và Bắc Mỹ, xuất hiện nhiều ở Hawaii, Florida và Georgi. Ở các nước Đông
Nam Á, lươn có rất nhiều ở Thái Lan, Myanmar, Việt Nam, Campuchia
(Nguyễn Chung, 2008). Chúng không phân bố ở Philippines và New Guinea
nhưng được tìm thấy ở Sulewesi (Celebes) (Rosen và Greenwood, 1976).
Lươn đồng đã tìm thấy ở những con sông từ lớn đến trung bình, ruộng ngập lũ,
nơi nước tù động và cả những kênh nước chảy chậm (Taki, 1978). Lươn phân
bố rộng trong nhiều loại hình thủy vực như ao đầm, kênh gạch, ruộng lúa
(Shil, 1940; Davidson, 1975), có khả năng chịu đựng được môi trường khô
hạn bằng cách chui rút vào đất ẩm và sống ở đây cho đến hết mùa khô (Liem,
1987). Lươn sống dưới đáy, chui rút dưới bùn và đào hang trong đất nhưng độ

4


sâu không quá 3m (Nguyễn Chung, 2008), có thể tồn tại vài ngày trong môi
trường không có nước (Wu và Kong, 1940).
Theo Ngô Trọng Lư (2002), lươn thích sống ở nơi đất thịt pha sét, đất
bùn, nơi có nhiều ngõ ngách, có thể sống 2-3 tháng ở lớp đất dưới 1m ở ruộng
khô nẻ nhờ có cơ quan hô hấp phụ. Các tơ mang của lươn tiêu giảm, khi thở
lươn lấy oxy vào cơ thể phần lớn thông qua màng nhày của cung mang, bên
cạnh đó lươn có thể lấy dưỡng khí qua toàn bộ bề mặt cơ thể (Liem, 1981).
Lươn đồng sống chủ yếu ở vùng nước ngọt nhưng cũng có thể thấy ở vùng
nước lợ và mặn (Nichols, 1943).
Lươn là loài động vật biến nhiệt, nhiệt độ cơ thể thay đổi theo nhiệt độ
môi trường. Sống bình thường trong khoảng nhiệt độ từ 15-32
0
C, thích hợp
nhất ở khoảng 24-28
0
C. Khi nhiệt độ dưới 15
0
C lươn chui rút xuống lớp bùn
đáy hoặc đáy hang và ngưng hoạt động, sống dựa vào nguồn năng lượng dự
trữ trong cơ thể, khi nhiệt độ trên 32
0
C lươn giảm ăn và có thể tiết nhớt và
chết nóng (Nguyễn Chung, 2008). Lươn cũng có thể sống trong vùng có nhiệt
độ băng giá (Nico, 1999).
2.1.3 Hình thái cấu tạo
Lươn đồng có thân dài, đuôi thon, không có vẫy, mõm tròn, hàm và
vòm miệng có răng dạng lông nhung, mắt nhỏ được bao phủ bởi lớp da
(Aguirre và Poss, 1999, trích bởi Anon, 2005). Cơ thể có màu nâu xám ở bên
trên, mặt bụng có màu trắng hoặc nâu nhạt với những chấm nhỏ sậm màu ở
bên hông và đôi khi có ở mặt bụng. (Inger và Kong, 1962). Theo Trương Thủ

Khoa và Trần thị Thu Hương (1993) lươn có thân dài, phần trước tiết diện
tròn, phần sau dẹp bên và mỏng. Đường bên phát triển và rất rỏ (Jayaram,
1981).

Đầu hơi dẹp bên, mõm nhỏ, ngắn, không có râu. Mắt nhỏ, hình bầu
dục, được da che phủ, nằm gần chót mõm. Phần trán giữa hai mắt hẹp và cong
lồi. Khe mang lệch xuống mặt bụng, hai khe mang hai bên dính nhau thành
một, có dạng hình chữ V, nhưng ở phía trong dính với eo mang.
Lươn đồng ít khi dài hơn 70 cm, chủ yếu trong khoảng 25-40 cm
(Smith, 1945), một số trường hợp có thể dài hơn 1 m (Rainboth, 1996). Theo
Kottelet (1999), lươn đồng không có vi ngực và vi bụng, vi hậu môn vi đuôi
và vi lưng dính liền nhau, lỗ mang kết hợp thành khe bên dưới đầu, cơ thể có
màu đỏ nâu với một ít vết ngang lưng, miệng rộng mắt nhỏ. Xoang hầu có cấu
tạo đặc biệt gọi là bọng hầu cho phép lươn lấy oxy qua cơ quan này bên cạnh
mang và da (Nguyễn Chung, 2008).

5

2.2 Đặc điểm dinh dưỡng và sinh trưởng
2.2.1 Đặc điểm dinh dưỡng
Lươn là loài ăn thịt (Bricking, 2002), chủ yếu vào ban đêm (Yamamoto,
2000). Khảo sát hệ tiêu hóa của lươn cho thấy thức ăn phần lớn là tép, cá và
cua, chỉ số LRG là 0,65 (Lý Văn Khánh 2008). Lượng thức ăn trong ngày
không quá 8% trọng lượng cơ thể. Khi còn nhỏ ăn sinh vật phù du, côn trùng
bọ gậy, ấu trùng chuồn chuồn, đôi khi ăn thực vật như rể lúa, tảo sợi. Lươn
đồng có tính lựa chọn thức ăn rất cao (Minh Dũng, 2005), khi lớn trên 15 cm,
lươn ăn chủ yếu là thức ăn động vật như cá, tôm con, côn trùng, ốc, hến, nòng
nọc, ếch nhái, giun ốc và những động vật trên cạn gần mép nước, giun,
dế…khi thiếu thức ăn có thể ăn rau bèo, mảnh vụn thực vật ngay cả ăn nhau.
Lươn tìm thức ăn chủ yếu dựa vào khứu giác, vào mùa sinh sản lươn hầu như

không ăn (Nguyễn Chung, 2008). Theo Ngô Trọng Lư (2003), lươn có khả
năng chịu đói trong khoảng thời gian dài.
Lươn ăn tốt giun đất tươi, FCR trong khoảng 4-6, cho ăn bằng thịt trai
tươi với mức 7% trọng lượng thân thì FCR nằm trong khoảng 7,5-10 (Ngô
Trọng Lư, 2003).
2.2.2 Đặc điểm sinh trưởng
Trong hai năm đầu đời lươn tăng trưởng chiều dài nhanh hơn chiều
ngang (Việt Chương và Nguyễn Việt Thái, 2007). Tốc độ sinh trưởng của lươn
tùy thuộc vào điều kiện môi trường, ở vùng nhiệt đới không phải trú đông
lươn lớn rất nhanh. Lươn con 3-4 tháng tuổi lớn nhanh về chiều dài có thể đạt
20-27 cm nặng 18-60 g, 6 tháng tuổi có chiều dài 36-48 cm nặng 60-100 g và
một năm tuổi có chiều dài trong khoảng 40-60 cm nặng 150-250 g (Nguyễn
Chung, 2008).
Lươn con trong năm thứ nhất tăng nhanh về chiều dài, sau đó chủ yếu
gia tăng trọng lượng (Ngô Trọng Lư, 2003). Ở những nơi có mùa đông, lươn
tăng trưởng chặm do ngừng ăn trong thời gian trú đông. Lươn 1 tuổi chỉ đạt
chiều dài khoảng 27 cm nặng 18-60 g, lươn 2 năm tuổi đạt chiều dài 36-48 cm
nặng 40-100 g, đạt cỡ thương phẩm sau 3 năm tuổi (Nguyễn Chung, 2008).
2.3 Đặc điểm sinh sản
2.3.1 Mùa vụ và tập tính sinh sản
Ở những nơi có mùa đông, sau thời gian trú đông là mùa sinh sản của
lươn. Khi thời tiết ấm lên, môi trường tự nhiên dồi dào thức ăn lươn tích cực
tìm thức ăn để tích lũy năng lượng, thành thục sinh dục và bước vào mùa sinh

6

sản vào tháng 3-4. Ở những vùng khí hậu nóng quanh năm lươn không trú
đông, thời vụ sinh sản bắt đầu khi mùa mưa đến thời tiết mát mẻ, mùa đẻ
chính vào tháng 5-6 và tái thành thục vào tháng 8-9. Ở Đồng Bằng Sông Cửu
Long, lươn đồng đẻ trong suốt mùa mưa (Nguyễn Chung, 2008). Theo Lý Văn

Khánh và ctv (2008), mùa vụ sinh sản của lươn đồng tập trung vào tháng 3-9
hàng năm, hệ số thành thục cao nhất vào tháng 3 là 6,74%.
Lươn làm tổ đẻ nơi đất sét pha thịt thường ven bờ ruộng, kênh mương,
bờ ao, bưng trũng. Sau khi bắt cặp, lươn đực sẽ đào hang thường có hình chữ
“U”, cao hơn mặt nước 5-10 cm và một hang thường có 3 ngách: ngách chính
nằm sâu dưới bùn, lươn sống và sinh sản tại đây; ngách phụ thứ nhất từ trên
bờ xuống tạo thành chữ “U”; ngách phụ còn lại để thông không khí cho lươn
thở. Lươn đực phun đầy bọt tạo ra những tổ dạng bong bóng trong vùng nước
cạn gần khu vực hang. Tổ không dính vào thực vật thủy sinh mà trôi thoải mái
ở bề mặt (Nguyễn Chung, 2008). Lươn cái đến đẻ lên đám bọt đó, lươn đực và
lươn cái cùng chăm sóc, bảo vệ trứng (Sadovy và Shapiro, 1987).
2.3.2 Tỷ lệ giới tính và sức sinh sản
Lươn đồng là loài lưỡng tính, tính cái xuất hiện trước, đời sống sinh sản
của nó thường trải qua 3 phase: cái, lưỡng tính, đực (Nguyễn Tường Anh,
1999). Lươn có sự chuyển đổi tự nhiên từ cái sang đực (Chan và Phillips,
1967). Tuyến sinh dục của lươn không đối xứng, bên trái phát triển còn bên
phải thoái hóa (Ngô Trọng Lư, 2002). Lươn có chiều dài nhỏ hơn 30 cm đa số
là lươn cái, tỉ lệ giới tính đực chiếm đa số với chiều dài lớn hơn 50 cm, trong
khoảng 30-50 cm có cả 3 pha đực, cái và lưỡng tính (Phan Thị Thanh Vân,
2006). Theo Đức Hiệp (1999), lươn có chiều dài từ 35-50 cm tính cái chiếm
60%, 40% là tính đực, với chiều dài 47-59 cm tính cái chiếm 30%, với chiều
dài 66-75 cm hoàn toàn là lươn đực. Tuyến sinh dục của lươn ở pha lưỡng tính
có cả tinh và trứng ở các giai đoạn I, II, III, rất ít trường hợp có trứng ở giai
đoạn IV và V (Phan Thị Thanh Vân, 2006). Ở nhóm chiều dài từ 30-40 cm có
hệ số thành thục cao nhất đạt 9,12% (Lý Văn Khánh và ctv, 2008).
Ở cá chình Nhật Bản (Anguilla japonica) tỷ lệ đực cái là 4:6 trong điều
kiện tự nhiên, trong ao nuôi tỷ lệ này 8 hay 9:1. Sự biến động về tỷ lệ giới tính
cũng diễn ra trên một số loài cá khác như: cá chẻm (Lates calcarifer Bloch),
giai đoạn nhỏ đực chiếm đa số, giai đoạn lớn cái chiếm đa số (Kungvankij và
ctv, 1986); cá chạch sông (Macrognathus siamensis) giai đoạn nhỏ cái chiếm

đa số, giai đoạn lớn đực chiếm đa số (Nguyễn Quốc Đạt, 2007).
Sức sinh sản của lươn tương đối thấp, buồng trứng kéo dài theo chiều
cơ thể, lươn có chiều dài 20 cm có khoảng 200-400 trứng, chiều dài thân đạt

7

30 cm có khoảng 300-400 trứng và 400-800 trứng đối với lươn có chiều dài 40
cm (Đức Hiệp, 1999). Sức sinh sản của lươn đồng từ 200-1000 trứng/con cái
(Việt Chương và Nguyễn Việt Thái, 2005; Ngô Trọng Lư, 2002), số lượng
trứng dao động trong khoảng 143-6.813 trứng/con cái với chiều dài cơ thể từ
25-66 cm (Phan Thị Thanh Vân, 2006). Đường kính trứng giai đoạn III là 0,37
mm, giai đoạn IV là 0,5 mm, giai đoạn V là 1,84 mm (Phan Thị Thanh Vân,
2008). Đường trứng kính lươn mới đẻ dao động trong khoảng 3,17-3,18 mm,
sau thời gian 48-72 giờ trứng bắt đầu xuất hiện tim phôi, nở sau 5 ngày, đến 1-
2 ngày sau thì trứng nở hết hoàn toàn với tỷ lệ có thể đạt 97% (Nguyễn Thị
Hồng Thắm, 2007).
2.3.3 Sự chuyển đổi giới tính
Theo Sadovy and Shapiro (1987), trong tự nhiên việc chuyển giới tính
của lươn đồng được hoàn tất trong 8-30 tuần. Lươn đồng có thể được chuyển
giới tính nhân tạo từ cái sang đực bằng cách sử dụng sGnRH-A liều đơn hay
liều kết hợp với DOM trong khoảng 9 tuần (Tao và ctv, 1993). Bên cạnh đó,
lươn đồng cũng có thể được chuyển giới tính bởi LH và LHRH (Yeung và ctv,
1993).
Đối với lươn đồng (Monopterus albus) khi chuyển giới tính từ con cái
thành con đực thì lượng hormon testosterone trong huyết thanh và 17β-
estradiol giảm xuống, trong tuyến sinh dục chứa các tinh bào thứ cấp, tinh tử,
một vài noãn bào sơ cấp nhưng không có noãn bào thứ cấp (Tao và al, 1993).
Khi lươn ở phase lưỡng tính tuyến sinh dục chứa tinh và trứng ở giai đoạn III,
không tìm thấy tuyến sinh dục lưỡng tính có chứa ở những giai đoạn IV và V,
hàm lượng testosteron trong huyết thanh cao nhất là 3,09 ng/ml, ở lươn cái

hàm lượng 17β-estradiol cao nhất là 0,95 ng/ml, hàm lượng 17β-estradiol có
xu hướng giảm ở lươn lưỡng tính (Phan Thị Thanh Vân, 2006). Điều này cho
thấy androgen và một số hormon steroid có vai trò quan trọng trong sự chuyển
giới tính của lươn. Bên cạnh đó, melatonin cũng có vai trò quan trọng trong sự
chuyển giới tính của lươn đồng, vào mùa sinh sản lượng melatonin tăng sau
khi đẻ nhằm thúc đẩy quá trình chuyển giới tính (Sadovy và Shapiro, 1987).
3.3.4 Sự phát triển của noãn sào
Theo Nguyễn Văn Kiểm (2008), sự phát triển của noãn bào thường chia
thành 6 giai đoạn trong đó giai đoạn I chỉ gặp ở những cá thể mới thành thục
lần đầu.
Giai đoạn I: Buồng trứng rất nhỏ, tế bào sinh dục là những noãn nguyên
bào.

8

Giai đoạn II: Buồng trứng lớn hơn rất nhiều so với giai đoạn I do mô
liên kết đang phát triển. Đa số tế bào ở thời kỳ sinh trưởng sinh chất.
Giai đoạn III: Thể tích buồng trứng tăng lên rất nhanh, có thể phân biệt
tế bào trứng bằng mắt thường nhưng khó tách tế bào trứng ra khỏi tấm trứng.
Ở giai đoạn này, quá trình tích lũy noãn hoàng diễn ra mạnh mẻ, trong noãn
bào xuất hiện không bào, bên ngoài xuất hiện vỏ tế bào và lớp vân phóng xạ.
Nếu cá đẻ trứng dính thì màng dính cũng được hình thành.
Giai đoạn IV: thể tích buồng trứng có thể chiếm 2/3 thể tích xoang
bụng. Hạt trứng tròn căng dễ tách khỏi tấm trứng. Đây là giai đoạn hoàn thành
tích lũy noãn hoàng, nhân di chuyển về lỗ thụ tinh (noãn khổng).
Giai đoạn V: Buồng trứng đang trong tình trạng sinh sản, đại đa số tế
bào trứng đã chín và rụng.
Giai đoạn VI: Buồng trứng đã đẻ xong trở nên mềm nhão và teo nhỏ lại,
quá trình thoái hóa xảy ra. Kết thúc quá trình thoái hóa, buồng trứng sẽ trở về
giai đoạn II hoặc III.

Nếu có chế độ dinh dưỡng và điều kiện sinh thái thích hợp sẽ giúp đa số
các loài cá có tuyến sinh dục thành thục tốt hơn. Tuy nhiên noãn bào thường
tồn tại các phase khác nhau của giai đoạn IV nên việc tiêm các hoạt chất góp
phần thúc đẩy đa số noãn bào chuyển sang giai đoạn V, tình trạng trứng chín
và rụng (Nguyễn Tường Anh, 1999).
2.4 Cơ sở khoa học của việc sinh sản lươn đồng
2.4.1 Yêu cầu về mặt sinh thái
Các yếu tố bên ngoài tạo môi trường cho sự phát triển tuyến sinh dục
của cá. Mức độ can thiệp của con người vào quá trình này tùy thuộc vào đặc
tính của từng loài vì môi trường cho sự thành thục sinh dục và sự sinh sản của
cá là sự tổng hợp tác động của nhiều yếu tố vật lý, hóa học, sinh học như: sự
thay đổi về nhiệt độ, chất nước, dòng chảy, giá thể Nếu các yếu tố này
không phù hợp với nhu cầu sinh lý của cá có thể gây ra những rối loạn trầm
trọng (Nguyễn Văn Kiểm, 2008).
Nhiệt độ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự thành thục. Theo quy
luật chung thì nhiệt độ thấp (trong giới hạn thích ứng) thích hợp cho sự sinh
trưởng và tích lũy vật chất trong khi nhiệt độ cao thích hợp cho sự thành thục
(Nguyễn Văn Kiểm, 2008).

9

Theo Nguyễn Tường Anh (1999), việc kích thích nước bằng cách phun
mưa hoặc tạo dòng chảy có có vai trò rất quan trọng trong việc nuôi vỗ và cho
sinh sản một số loài cá.
Mỗi loài cá trong mỗi giai đoạn thành thục đều có nhu cầu oxy khác
nhau (Nguyễn Văn Kiểm, 2008). Do trao đổi chất tăng trong quá trình phát
triển tuyến sinh dục nên nhu cầu oxy sẽ tăng và vì thế yếu tố oxy ảnh hưởng
trực tiếp đến sự thành thục của cá (Dương Tuấn, 1981).
2.4.2 Yêu cầu về mặt dinh dưỡng
Thức ăn là cơ sở để cung cấp cho quá trình trao đổi chất của động vật

thủy sản (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009), thức ăn không
những là nguồn cung cấp vật chất dinh dưỡng cho sự sinh trưởng mà còn là
nguyên liệu cho sự tạo thành sản phẩm sinh dục (Nguyễn Văn Kiểm, 2008).
Nếu để cá bị đói trong giai đoạn thành thục thì hệ số thành thục thấp hoặc
không thành thục, hoặc buồng trứng có thể thoái hóa hoặc tiêu biến dù cho các
yếu tố khác thuận lợi (Nguyễn Tường Anh, 1999).
Thức ăn cung cấp phải phù hợp với đặc tính dinh dưỡng của loài,
những loài sử dụng động vật làm thức ăn thì hàm lượng protein phải cao. Mặt
khác thức ăn của loài cũng có vai trò quan trọng đối với sự thành thục sinh
dục. Khi nuôi cá sinh sản trong ao thì vấn đền dinh dưỡng cần đặt lên hàng
đầu đặc biệt là thức ăn của loài cần phải đầy đủ (Nguyễn Văn Kiểm, 2008).
Khi cá được cung cấp đầy đủ thức ăn ngoài việc nâng cao được sức
sinh sản còn có tác dụng quan trọng là rút ngắn chu kỳ sinh sản (Nguyễn Văn
Kiểm, 2008).
2.4.3 Kích thích tố HCG và LHRH-a
HCG có tên tiếng Việt là kích dục tố màng đệm hoặc kích dục tố nhau
thai, được Zondec và Aschheim phát hiện năm 1927 trong nước tiểu phụ nữ có
thai. HCG là loại kích dục tố dị chủng được dùng có hiệu quả cho nhiều loài
cá nhất gây rụng trứng (Nguyễn Tường Anh, 1999).
Các loài cá được sử dụng HCG trong sinh sản một cách hiệu quả ở
nước ta như: cá chày, cá vền, cá trôi, cá bóng, cá vàng, cá trê, các loài cá
mè…, ngoài ra còn được dùng tốt cho việc kích thích rụng trứng các loài cá
trình, cá nheo mang túi Ấn Độ, cá chạch… (Nguyễn Tường Anh, 1999).
Ngày nay, hormone gây tiết kích dục tố GnRH được sử dụng khá phổ
biến trong việc kích thích sự sinh sản của cá. Tùy vào nguồn gốc mà có tên gọi
khác nhau, GnRH của động vật có vú còn gọi là LHRH (Leutinising Hormone

10

Releasing Hormone) (Nguyễn Văn Kiểm, 2008). Trong vài năm gần đây,

LHRH nhân tạo gọi là LHRH-a, được sử dụng hiệu quả hơn nhiều. Vì chúng
tinh khiết hơn LHRH và được cá chuyển hóa chặm, do đó chất này duy trì
được tác dụng trong thời gian dài. Trong điều kiện tự nhiên, cơ thể cá có một
cơ chế phản ứng làm hạn chế việc giải phóng chất kích dục. Cơ chế này sử
dụng một chất hóa học có tên là dopamin, chất này kiềm chế hoạt động của
LHRH. Khi cá có dopamin, thì cả LHRH-a cũng bị hạn chế. Chất kháng
dopamin thường được sử dụng để hạn chế tác dụng của dopamin. Khi sử dụng
kết hợp LHRH-a và kháng dopamin, hiệu quả sinh sản tăng đột biến
(
)
.

2.5 Những nghiên cứu về sản xuất giống lươn đồng
2.5.1 Cho sinh sản tự nhiên
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Thắm (2007), có thể dùng bể
composite 500 lít có đắp mô đất cao 40 cm, chiếm ½ diện tích bể cho nước
vào khoảng 30 cm, thả lươn bố mẹ vào cho đẻ bán tự nhiên. Theo Nguyễn
Chung (2007), có thể cho lươn đẻ tự nhiên bằng cách: dùng bể xi măng tô láng
hay lót bạt nhựa có diện tích khoảng 1x3 m, 1x4 m hay 1,5x5 m và cao 1,4 m,
có hệ thống cấp và thoát nước, đáy bể cho 1 lớp bùn dầy 15-20 cm, trồng thêm
khoai nước hoặc bèo lục bình cho lươn cư trú. Chọn 30-40 cá thể bố mẹ khỏe
mạnh thả vào bể sinh sản. Lươn bố mẹ dài 40-60 cm, nặng 250-300 g/con.
Thức ăn cho lươn phải tươi, không ươn hư, nên duy trì thức ăn lươn đã
quen, nên cho ăn trùng quế, trùng hổ cho lươn mới thu gom, không tập cho
lươn ăn thức ăn mới ngay. Có thể trộn thêm vitamin A, D, E vào thức ăn cho
lươn (Nguyễn Chung, 2007). Cứ 2-3 ngày vào buổi chiều tạo kích thích nước
bằng cách phun mưa, chất lượng nước phải đảm bảo thích hợp cho sự sống,
tăng trưởng và sinh sản bình thường của lươn (Nguyễn Chung, 2007). Đối với
nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Thắm (2007) cũng sử dụng phương pháp
phun mưa vào buổi chiều để kích thích lươn sinh sản. Lươn sẽ bắt cặp và sinh

sản sau 15-20 ngày, lươn bố phun bọt trắng làm tổ, lươn mẹ đẻ vào tổ bọt. Khi
thấy tổ bọt ngã sang màu trắng ngà ta bắt đầu vớt trứng ấp riêng, lúc này trứng
đã được sinh sản khoảng 3 ngày (Nguyễn Chung, 2007).
2.5.2 Sản xuất giống nhân tạo
Lươn được nuôi vỗ từ đầu mùa xuân, khi thời tiết ấm áp vào giữa xuân
hoặc đầu hè thì có thể cho sinh sản. Sử dụng bể composite hay xi măng diện
tích 15-30 m
2
cao 80-100cm có bố trí vỉ tre hoặc bó dây nylon làm chổ ẩn nấp
để nuôi vỗ, mật độ là 2-5 con/m
2
. Không nên đổi loại thức ăn mới, nên sử

11

dụng thịt ốc, thịt cá cắt miếng, ếch nhái con, trùng quế, côn trùng tươi sống
trộn thêm một số vitamin A, D, E và men tiêu hóa làm thức ăn cho lươn. Khi
nuôi vỗ, sau 2-3 ngày nên phun mưa vào buổi chiều một lần để kích thích lươn
thành thục (Nguyễn Chung, 2007).
Mùa vụ thích hợp cho lươn sinh sản vào tháng 4-5 khi nhiệt độ nước ở
mức 25-27
0
C, có thể dùng các loại thuốc kích thích sinh dục như LHRH-a,
HCG hay nảo thùy thể cá chép bằng cách tiêm trực tiếp vào xoang bụng (Ngô
Trọng Lư, 1999). Theo Nguyễn Thị Hồng Thắm (2007) có thể dùng HCG
hoặc LHRH-a kích thích cho lươn sinh sản với liều lượng lần lượt: 1000
UI/kg, 1500 UI/kg, 2000 UI/kg đối với HCG hoặc 50, 100, 150 µg/kg đối với
LHRH-a. Tuy nhiên, sau khi bố trí vào bể có ụ đất cho sinh sản bán tự nhiên,
nghiệm thức 150 µg/kg LHRH-a cho tỷ lệ sinh sản cao nhất đạt 75%. Tỷ lệ thụ
tinh dao động từ 52% đến 97 % tùy vào loại kích thích tố.

Sử dụng LHRH-a cho lươn cái cỡ 30-40 cm nặng 200-250 g/con với
lượng 30-40 µg/con, sau 24 giờ tiêm cho lươn bố với lượng 10-20 µg/con
(Nguyễn Chung, 2007). Theo Đức Hiệp (1999) dùng LHRH-a với lượng 10-30
µg/con cho lươn cái cỡ 20-50 g và lươn đực cỡ 50-250 g, tiêm kích thích tố
cho lươn đực sau lươn cái 24 giờ.
Tiêm xong thả lươn đực và lươn cái vào vèo lưới đặt trong bể để theo
dõi, nước trong bể khoảng 20-30 cm, ngày thay 2/3 nước. Ở nhiệt độ 25
0
C sau
khi tiêm 40 giờ thuốc bắt đầu hiệu ứng. Kiểm tra lươn cái sau mỗi 3 giờ, vuốt
nhẹ bụng thấy trứng rời rạc là có thể tiến hành thụ tinh.
Lươn mẹ đã rụng trứng, ta tiến hành vuốt trứng vào dụng cụ chứa khô,
sạch. Mổ lấy một phần tinh sào soi dưới kính hiển vi, nếu thấy tinh trùng hoạt
động bơi lội bình thường thì cắt vụn tinh sào cho vào đĩa đựng trứng. Dùng
lông gà nhẹ tay khuấy đều, thêm 200 ml nước muối sinh lý tiếp tục khuấy đều,
sau 5 phút chắt bớt nước cũ và tiếp tục cho nước mới vào tiếp tục khuấy đều
để rửa hết tạp chất. Thực hiện như vậy 2-3 lần rồi cho trứng vào bể ấp
(Nguyễn Chung, 2007).
Trứng sau khi được vớt hoặc cho thụ tinh nhân tạo sẽ được cho vào xô
để ấp trong điều kiện sụt khí liên tục. Với điều kiện nhiệt độ 28-32
0
C, pH
trung bình 7,85 và hàm lượng oxy trung bình đạt 6,28 ppm, sau thời gian ấp
khoảng 48-72 giờ trứng bắt đầu xuất hiện tim phôi, sau 5 ngày ấp trứng bắt
đầu nở, 1-2 ngày sau trứng nở hết hoàn toàn, tỷ lệ nở cao nhất đạt 97 %
(Nguyễn Thị Hồng Thắm, 2007). Theo Yun (2005), trong tự nhiên tỷ lệ nở
thành lươn bột trung bình 85,2%, tỷ lệ sống 64%.

12


2.5.3 Những nghiên cứu về Vitellogenin (protein tạo noãn hoàng)
Vitellogenin (Vg) là tiền protein noãn hoàng có thành phần là
lipoprotein được tổng hợp từ gan sau đó được đưa vào hệ thống tuần hoàn đi
vào buồng trứng tạo noãn hoàng (Nguyễn Tường Anh, 1999). Thành phần cấu
tạo đầu tiên của vitellogenin trong tế bào chất của trứng ở lươn đồng là lipid
(Mario và Maria, 2002).
Ở cá xương, trong quá trình tạo Vitellogenin ở gan và phóng thích vào
máu được xác định như sau: kích dục tố GTH I kích thích các tế bào nang
trứng tiết 17β Estradiol (E2), sau đó E2 sẽ kích thích tổng hợp và tiết ra
Vitellogenin ở gan (Nguyễn Tường Anh, 1999).
Có thể phát hiện Vitellogenin trong máu 2 giờ sau khi nó được tổng
hợp. Lượng Vitellogenin được tổng hợp tỷ lệ thuận với liều E2 được đưa vào
môi trường (Goncharov, tổng quan, 1977, trích bởi Nguyễn Tường Anh,
1999).
Theo Nguyễn Thị Lệ Hoa (2009), ở lươn đồng có sự tương quan giữa
hàm lượng Vitellines với các giai đoạn phát triển của buồng trứng, trung bình
hàm lượng Vitellines thấp nhất khi buồng trứng ở giai đoạn I (0,13 µgALP/mg
protein) và tăng dần rồi đạt cao nhất ở giai đoạn V (3,79 µgALP/mg protein).
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Thắm (2007) về Vitellines cũng cho kết
quả tương tự.












13

CHƯƠNG 3
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 8 năm 2009 đến tháng 2 năm 2010
3.2. Địa điểm nghiên cứu
Thí nghiệm được bố trí tại Khoa thuỷ sản Trường Đại học Cần Thơ.
3.3. Vật liệu nghiên cứu
19 bể composite 500 lít; 2 bể composite 200 lít; máy đo Oxy, pH; ống
tiêm 1 ml; các loại kích dục tố; chlorine, formol; hệ thống bơm nước và sụt
khí; dụng cụ phân tích trong phòng thí nghiệm; lươn thí nghiệm: lươn bố mẹ
và lươn con từ nguồn giống sản xuất nhân tạo. Lươn được chọn đồng cỡ,
không dị tật, không nhiễm bệnh, không xay xát.
3.4. Bố trí thí nghiệm
3.4.1 Xác định tuổi thành thục của lươn (thí nghiệm 1)
- Hệ thống bể thí nghiệm
Hệ thống bể gồm 3 bể composite (200 L/bể) có sục khí, các bể có thoát
nước ở trung tâm. Nước được cấp vào ở bề mặt. Nguồn nước cung cấp cho hệ
thống từ giếng khoang qua hệ thống lọc và được trữ trong bồn chứa.
- Thức ăn thí nghiệm
Tép nhỏ tươi, trữ trong tủ đông ở nhiệt độ -80
0
C.
- Bố trí thí nghiệm
Hai lứa lươn con có ngày sinh sản khác nhau, lứa nhỏ nở vào ngày
10/05/2009, đàn lớn nở vào ngày 6/04/2009. Lươn được bố trí trong 3 bể 200
lít với mật độ 30 con/bể. Lứa lươn nhỏ bố trí trong 2 bể (bể 2, 3) và lứa lươn

lớn được bố trí trong 1 bể (bể 1). Thí nghiệm được bố trí vào ngày 9/10/2009.

14


Hình 3.1: Hệ thống bể thí nghiệm 1
- Quản lý cho ăn
Cho ăn 1 lần/ngày vào 16 giờ, cho ăn theo nhu cầu.
- Thu mẫu môi trường
Nhiệt độ và pH được theo dõi mỗi ngày 2 lần vào buổi sáng và chiều.
-
Theo dõi các chỉ tiêu sinh sản
Phương pháp thu mẫu:
Thu mẫu định kỳ: mỗi lần thu 5 con/bể, mỗi tháng thu 1 lần, thu trong 4
tháng để xác định: hệ số thành thục, tỷ lệ thành thục, sức sinh sản tuyệt đối,
giai đoạn phát triển của noãn sào và tinh sào. Các bước tiến hành gồm:
+ Cân khối lượng và đo chiều dài thân.
+ Thu mẫu máu, ly tâm lấy huyết tương để phân tích hàm lượng
Vitellines. Máu được thu từ động mạch lưng bằng kim tiêm và sau đó ly tâm
lạnh ở âm 40
0
C trong vòng 6 phút (6000 vòng/phút). Hàm lượng Vitellines
được xác định bằng phương pháp so màu quang phổ (theo phương pháp
ALKALI LABILE PHOSPHATE dựa trên đường chuẩn Phosphorus Standar
và so màu ở bước sóng 660 nm).
+ Cân khối lượng và thu mẫu tuyến sinh dục: tuyến sinh dục được cố
định bằng dung dịch Boin trong 24 giờ, sau đó rửa và bảo quản bằng cồn 70
0
.
Giai đoạn tuyến sinh dục được xác định bằng mắt thường và phương pháp mô

học theo mô tả của Nguyễn Văn Kiểm và ctv (2009) với 6 giai đoạn.
- Hệ số thành thục
Dựa trên kết quả khối lượng tuyến sinh dục xác định hệ số thành thục
(Gonado Somatic Index: GSI) của lươn đồng.

Khối lượng tuyến sinh dục

GSI

=

x 100

Kh
ối lượng lươn


×