Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

LUẬN VĂN: Công nghiệp Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (598.7 KB, 46 trang )














LUẬN VĂN:

Công nghiệp Việt Nam trong sự
nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại
hóa đất nước








Mở đầu
Trong các ngành sản xuất vật chất của nền kinh tế quốc dân thì công nghiệp là
một ngành sản xuất vật chất rất quan trọng. Nó bao gồm tất cả các ngành như: khai
thác và chế biến các tài nguyên thiên nhiên, các loại sản phẩm các ngành nông - lâm
- ngư nghiệp thành các loại sản phẩm công nghiệp khác nhau. Sản phẩm của công


nghiệp là loại toàn bộ công cụ lao động, vật phẩm tiêu dùng nhằm thỏa mãn nhu cầu
sinh hoạt và sản xuất của nhân dân trong xã hội.
“Công nghiệp trở thành một ngành sản xuất vật chất to lớn và độc lập. Đó là kết
quả của sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội”.
Trong nền kinh tế hàng hoá nước ta hiện nay có nhiều thành phần kinh tế cùng
nhau tham gia hoạt động đan xen nhau theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước thì vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở nước ta là một tất yếu khách quan
của lịch sử nước nhà. Quá trình này diễn ra trong điều kiện nước ta là một nước có
nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển, tụt hậu khá xa so với các nước phát
triển, thua kém nhiều đối với các nước trong khu vực về trình độ, khó khăn về vấn đề
vốn, thị trường tiêu thụ, kinh nghiệm vận hành theo nền kinh tế thị trường và quản lý
sản xuất kinh doanh theo cơ chế mới. Trong điều kiện như vậy việc nghiên cứu “phát
triển công nghiệp Việt Nam theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa” là rất cần
thiết. Liệu Việt Nam có thể đi lên thành một nước tiên tiến phát triển nhờ con đường
công nghiệp hoá, hiện đại hóa dựa trên cơ sở công nghiệp được hay không đó là vấn
đề cần nghiên cứu.
Thực tế đã chứng minh, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa nền sản xuất là
điều kiện tiên quyết đối với hầu hết các nước muốn vươn lên hàng các quốc gia có
thu nhập bình quân đầu người cao. Tuy nhiên đây không phải là một quá trình đơn
giản, nó không đơn thuần là sự chuyển tiếp kinh tế, cơ cấu ngành sản xuất theo
hướng tăng tỷ lệ công nghiệp trên nông nghiệp trong phạm vi toàn quốc, mà là một
quá trình phức tạp, lâu dài. Đây là một quá trình chuyển đổi tổng thể, bao quát nhiều
vấn đề quan trọng của nền kinh tế vĩ mô mà sự thành công hay không của quá trình
này có tính quyết định đến mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hóa nền kinh tế quốc


dân.
ở nước ta, từ Đại hội Đảng (năm 1960) đã đề ra chủ trương công nghiệp hóa để
tiến lên chủ nghĩa xã hội và qua một thời gian dài trên ba mươi năm qua thì chủ
trương đó của Đảng vẫn được quán triệt và thực hiện triệt để. Vậy chúng ta phải công

nghiệp hoá, hiện đại hóa theo hướng nào đây trong khi Việt Nam còn gặp nhiều khó
khăn như vậy?
Hướng chủ yếu để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở Việt Nam là phát
triển công nghiệp - là ngành có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và
nó cũng có vai trò to lớn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
Không thể nào công nghiệp hoá, hiện đại hóa nếu không có sự phát triển công nghiệp
vì công nghiệp hoá, hiện đại hóa không thể được thực hiện khi mà nền kinh tế lạc hậu
kém phát triển. Đồng thời quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa lại tạo điều kiện
cho công nghiệp ngày càng phát triển mạnh mẽ. Vì vậy việc nghiên cứu sự phát triển
công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa là rất quan trọng và cần
thiết. Sau khi nghiên cứu môn học, em nhận thấy đề tài “Công nghiệp Việt Nam
trong sự nghiệp CNH-HĐH” là một đề tài rất lý thú. Nó đề cập tới một vấn đề vô
cùng quan trọng cần phải được quan tâm, nghiên cứu một cách kỹ lưỡng
(4)
.
Nguyện vọng chân thành và tha thiết của em khi làm bài viết cũng giống như
bao người làm sách đó là mong muốn có được những cuốn sách hay góp phần vào sự
trao đổi kiến thức cùng thế hệ trẻ - những người chủ của đất nước bước sang thế kỷ
21.

















N
N


i
i


d
d
u
u
n
n
g
g


I/ Vai trò của công nghiệp trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa.
1. Ví trí và vai trò của công nghiệp:
Công nghiệp là ngành sản xuất vật chất quan trọng của nền kinh tế quốc dân bao
gồm tất cả các ngành công nghiệp chuyên môn hóa, các xí nghiệp công nghiệp thực
hiện chức năng khai thác, chế biến, sửa chữa. Công nghiệp trở thành một ngành sản
xuất vật chất to lớn và độc lập. Đó chính là kết quả của sự phát triển lực lượng sản
xuất và phân công lao động xã hội.

Trong nền kinh tế hàng hóa phát triển, sản xuất công nghiệp hoạt động theo nhu
cầu của các quan hệ sản xuất hàng hóa như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy
luật cạnh tranh,
Công nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất cơ bản của nền kinh tế
quốc dân, trình độ phát triển của công nghiệp là một trong những tiêu chuẩn đanh giá
trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia.
Trong những năm qua, công nghiệp nước ta đã trải qua một quá trình lịch sử
đầy thử thách gay go, ác liệt để tồn tại và phát triển. Công nghiệp nước ta đã bước
đầu xây dựng được một số cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế. Sản xuất công
nghiệp với tư cách là ngành sản xuất vật chất độc lập được xuất hiện trong lịch sử chỉ
từ khi có sự phân công lao động xã hội lần thứ hai tách thủ công nghiệp khỏi nông
nghiệp. Trong quá trình phát triển, công nghiệp được vận động theo một trình tự nhất
định như sau:
Công nghiệp với tư cách là một loại lao động sản xuất nằm trong nông
nghiệp do người nông dân sử dụng thời gian nông nhàn để sản xuất ra các sản phẩm
công nghiệp có tính chất tự cấp tự túc phụ thuộc nền kinh tế nông nghiêp. Như C.
Mác đã chỉ ra đó là sự phụ thuộc có tính chất nguyên thủy của công nghiệp đối với
nông nghiệp .
Công nghiệp tách khỏi nông nghiệp dưới hình thức nghề thủ công độc lập.
Nền sản xuất đó là nền sản xuất hàng hóa nhỏ. Quá trình phát triển công nghiệp từ


nền sản xuất hàng hóa nhỏ lên nền đại công nghiệp cơ khí qua 3 giai đoạn đó là: hợp
tác giản đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí. Quá trình phát triển
của công nghiệp vừa thể hiện sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội vừa thể hiện
trình độ phát triển của nền sản xuất hàng hóa trong sản xuất công nghiệp cũng như
ảnh hưởng của sự phát triển sản xuất công nghiệp đến trình độ phát triển sản xuất
hàng hóa nói chung của nền kinh tế quốc dân .
Nghiên cứu lịch sử phát triển công nghiệp cho thấy: “Công nghiệp không chỉ tái
sản xuất cơ sở vật chất cho xã hội mà còn tái sản xuất ra các quan hệ sản xuất khác

nhau trên bước đường phát triển của mình. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa".
Tóm lại, công nghiệp là một phạm trù kinh tế với nhiều hình thức phát triển ở
mức độ khác nhau như: công nghiệp gia đình, thủ công nghiệp, tiểu công nghiệp,
công nghiệp hiện đại, công nghiệp tư bản chủ nghĩa, công nghiệp xã hội chủ nghĩa.
Quá trình phát triển sản xuất công nghiệp cả về cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như
kinh tế xã hội đã khẳng định vai trò chủ đạo và từng bước phát huy vai trò chủ đạo
của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân .
Thực chất vai trò chủ đạo của công nghiệp là sự ảnh hưởng quyết định của công
nghiệp đến việc phát triển lực lượng sản xuất của các ngành kinh tế quốc dân đồng
thời công nghiệp có khả năng tạo ra những hình mẫu để các ngành kinh tế khác phát
triển theo hướng sản xuất hàng hóa xã hội chủ nghĩa. Công nghiệp là một hình mẫu
chỉ ra con đường cho các ngành khác phát triển theo vì công nghiệp có lực lượng sản
xuất tiên tiến và quan hệ sản xuất tiên tiến hơn các ngành kinh tế quốc dân khác. Vai
trò chủ đạo của công nghiệp được bắt nguồn từ chỗ nó tập hợp và không ngừng phát
triển giai cấp công nhân đội quân tiên phong trong công cuộc đổi mới quản lý kinh tế,
đổi mới xã hội. Do đó mà công nghiệp có quan hệ sản xuất luôn được củng cố và
hoàn thiện cho phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Công nghiệp
thường xuyên tác động vào quá trình phát triển của các ngành với tư cách là hình mẫu
về sử dụng tư liệu sản xuất tiên tiến, hiện đại về phương pháp quản lý mới, về ý thức
tổ chức lao động


Mặt khác, sản xuất công nghiệp là sản xuất chuyên môn hóa phân công lao động
và hiệp tác lao động chặt chẽ. Hình thức sở hữu là hình thức toàn dân còn phân phối
theo hình thức tiền lương: đây là hình thức phân phối tối ưu nhất và hình thức tổ chức
quản lý ở trình độ cao nên hình thành các nhà máy, các xí nghiệp công nghiệp. Còn
so với nông nghiệp, hình thức sở hữu là hình thức tập thể hoặc sở hữu cá nhân, phân
phối dưới hình thức hiện vật và hình thức tổ chức quản lý ở trình độ thấp nên chỉ
hình thành các hợp tác xã.

Trong cách mạng quan hệ sản xuất: công nghiệp quyết định sự phát triển của
các ngành kinh tế quốc dân chủ yếu lên sản xuất lớn, sản xuất hàng hóa. Công nghiệp
là ngành duy nhất trang bị công cụ lao động cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân.Vì
vậy, tốc độ và sự phát triển của công nghiệp quyết định đến trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, năng suất lao động và hiệu quả sản xuất. Đồng thời quá trình đó
cũng tác động tới quá trình phân công lao động. Trong lĩnh vực cách mạng quan hệ
sản xuất, công nghiệp có vai trò to lớn trong củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa. Công nghiệp có quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa tiên tiến nhất so
với ngành kinh tế quốc dân khác về tất cả mọi mặt. Do đó là mẫu mực để các ngành
kinh tế quốc dân khác noi theo trong quá trình phát triển của mình. Công nghiệp
thông qua việc trang bị kỹ thuật cho các ngành kinh tế (nhất là nông nghiệp) làm cho
ngành kinh tế quốc dân phát triển mạnh mẽ. Như vậy, sức mạnh của công nghiêp
không chỉ có tác dụng củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong
bản thân công nghiệp mà còn có tác dụng to lớn đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân .
Trong cách mạng khoa học kỹ thuật: "Công nghiệp giữ vai trò vô cùng to lớn
.Vai trò đó thể hiện chủ yếu ở việc đem các thanh quả của công nghệ áp dụng vào các
ngành kinh tế quốc dân bằng cách trang bị kỹ thuật cho nó làm cho các ngành đó có
những bước tiến mới về cơ sở vật chất kỹ thuật đẩy mạnh quá trình cách mạng khoa
học kỹ thuật của mình .
Trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa: Công nghiệp là tiền đề vật chất để thay đổi
tận gốc các tư tưởng và văn hóa cũ, xây dựng tư tưởng và văn hoá mới, nânbg cao đời
sống vật chất và văn hóa của nhân dân góp phần bảo đảm sự phát triển và tiến bộ
đồng đều giữa các vùng: vùng miền núi - đồng bằng, thành thị - nông thôn, lao động


trí óc - lao động chân tay, tạo sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân.
Ngoài ra trong các lĩnh vực khác: công nghiệp cũng đóng vai trò quan trọng
trong quá trình phát triển của lĩnh vực đó. Trong quá trình chuyển hóa nền kinh tế từ
cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
thì vai trò chủ đạo của công nghiệp thể hiện ở các mặt sau:

Công nghiệp là cơ sở tái sản xuất mở rộng cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân
thông qua việc công nghiệp tạo ra và trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho tất cả các
ngành.
Công nghiệp tạo điều kiện không ngừng cho việc đổi mới các phương tiện vật
chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân góp phần vào việc CNH-HĐH đất nước.
Sự phát triển công nghiệp tạo điều kiện phân bổ hợp lý hơn lực lượng sản xuất,
phát triển các vùng kinh tế của đất nước, sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên,
lao động và truyền thống nghề nghiệp của địa phương, vùng lãnh thổ.
Công nghiệp là cơ sở củng cố quốc phòng của đất nước, sản xuất ra các loại
phương tiện kỹ thuật quân sự hiện đại.
Công nghiệp là cơ sở quyết định cho việc sản xuất tư liệu sản xuất trước hết là
công cụ lao động để trang bị kỹ thuật mới cho tất cả các ngành của nền kinh tế.
Công nghiệp sản xuất ra một bộ phận cơ bản của tổng sản phẩm quốc dân và
một phần lớn quỹ tích lũy.
Liên hệ vai trò chủ đạo của công nghiệp ở Việt nam.
ở nước ta trong thời kỳ phát triển nền kinh tế thị tường, nông nghiệp giữ vai trò
hàng đầu do đó vai trò chủ đạo của công nghiệp đối với nông nghiệp càng có ý nghĩa
to lớn biểu hiện:
Trang bị cơ cở vật chất kỹ thuật, công cụ sản xuất ,máy móc hiện đại, đáp ứng
kịp thời và thúc đẩy nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa.
Thu hút lao động nhàn rỗi trong nông nghiệp bằng cách đưa công nghiệp vào
nông nghiệp phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp trong nông thôn để tổ chức


chế biến sản xuất tư liệu tiêu dùng.
Thu mua và chế biến kịp thời nông sản hàng hóa để khuyến khích nông nghiệp
phát triển.
Tạo ra thị trường tiêu thụ nông phẩm hàng hóa của nông nghiệp và trao đổi
hàng công nghiệp tiêu dùng cho nhân dân.
Nhìn chung, công nghiệp Việt Nam chưa giữ được vai trò chủ đạo vì công cụ

lao động mà ngành công nghiệp trang bị và cung cấp cho các ngành khác còn bị hạn
chế, phần lớn phải nhập khẩu từ nước ngoài, lao động còn là thủ công. Năng suất ,
trình độ kỹ thuật công nghệ, trình độ phân công lao động xã hội và hợp tác hóa đều
thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới “Công nghiệp nước ta còn nhỏ
yếu, số lượng cơ sở vật chất kỹ thuật đã được xây dựng là đáng kể song quá thấp so
với nhu cầu. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế , đặc biệt là cơ cấu ngành công
nghiệp diễn ra còn chậm. Tuy nhà nước có chủ trương về chuyển dịch cơ cấu và l số
định hướng nhằm thúc đẩy sự chuyển dịch đó; Nhưng nhìn chung, quá trình này còn
mang nặng tính tự phát , cơ cấu mới của ngành công nghiệp chưa được ổn định thực
sự. Kết cấu hạ tầng nước ta còn kém phát triển nền công nghiệp chưa thể phát huy hết
khả năng vốn có của mình. Trong những năm gần đây cơ sở vật chất của hệ thống
thông tin liên lạc đã được cải thiện đáng kể nhưng hệ thống thông tin liên lác chưa
được cải thiện một cách thích hợp, mạng lưới giao thông còn khó khăn, đường xá,
kho tàng bến bãi chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu.
Tuy nhiên công nghiệp Việt nam đã có một thời kỳ phát triển khá dài. Trong
quá trình đó công nghiệp đã phát huy được vai trò của mình là tạo ra một hệ thống cơ
sở vật chất đáng kể bao gồm nhiều ngành tạo được một hệ thống nối nhiều doanh
nghiệp có sự kết hợp giúp đỡ lẫn nhau. Cơ cấu công nghiệp dần dần được hình thành
và cải biến cho phù hợp với nhu cầu của thị trường. Trong cơ cấu đã dần dần hình
thành một số ngành trọng điểm mũi nhọn có vai trò chi phối sự phát triển của công
nghiệp và của nền kinh tế. Đó là ngành công nghiệp nhiên liệu l6,4% giá trị tổng sản
lượng công nghiệp năm l995 so với l6,2% giá trị tổng sản lượng công nghiệp năm
l989.


 Cơ cấu ngành công nghiệp :
Cơ cấu ngành công nghiệp có vai trò quan trọng trong việc phát huy vị trí chr
đạo của công nghiệp. Do đó, kế họach cơ cấu ngành công nghiệp là một bộ phận
trọng yếu trong kế hoạch hóa công nghiệp. Vì vậy để kế hoạch hóa kinh tế ngành
công nghiệp cần phải có sự nhận thức đầy đủ về các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu

ngành công nghiệp .
Nhân tố ảnh hưởng quyết định là tiến bộ KHKT. Nhân tố này làm xuất hiện các
ngành sản xuất công cụ lao động mới, làm xuất hiện nhiều ngành hiện đại như: chế
tạo công cụ, sản xuất phương tiện tự động hóa , sản xuất máy vô tuyến, sản xuất vật
liệu cao cấp.
Trình độ và tính chất phát triển của công nghiệp thể hiên ở mối quan hệ gắn bó
lâu đời giữa hai ngành sản xuất vật chất quan trọng trong nền kinh tế. Nông nghiệp
cung cấp lương thực, thực phẩm, lao động, nguyên liệu cho công nghiệp và là thị
trường tiêu thụ sản phẩm cho công nghiệp.
Cơ cấu ngành công nghiệp phụ thuộc vào tình hình tài nguyên thiên nhiên của
đất nước. Nhân tố này tạo điều kiện tiên quyết hay hạn chế việc hình thành các ngành
công nghiệp - Trên cơ sở đó xây dựng một cơ cấu công nghiệp phong phú và cũng
thể hiện được tính riêng biệt, tính mũi nhọn của công nghiệp một nước.
Điều kiện lịch sử kinh tế xã hội sẽ để lại những đặc điểm riêng về cơ cấu công
nghiệp mỗi nước, đồng thời cũng tạo ra những thay đổi cơ cấu công nghiệp trong thời
kỳ. Phong tục, tập quán, truyền thống sản xuất công nghiệp ở mỗi nước cũng được
thể hiên rõ nét trong cơ cấu. Nhân tố này tác động gián tiếp qua nhu cầu và là nhu
cầu có khả năng thanh toán của dân cư.
Trình độ phân công lao động quốc tế , tính đa dạng của nhu cầu, sự khác nhau
về diều kiện thuận lợi trong sản xuất ở các nước đòi hỏi bất kể nền kinh tế nào cũng
cần có sự trao đổi kết quả hoạt động lao động, Chính vì vậy cần phải mở rộng mối
liên hệ kinh tế giữa các nước, mở rộng thị trường thế giới.
Các nhân tố trên tạo thành một hệ thống phức tạp có quan hệ mật thiết với nhau
và đồng thời phát huy tác dụng ảnh hưởng đối với cơ cấu ngành công nghiệp. Quá


trình xây dựng và phát triển công nghiệp nước ta cũng là quá trình cải tiến cơ cấu
công nghiệp nói chung và cơ cấu ngành công nghiệp nói riêng. Vai trò của
công nghiệp trong sự nghiệp CNH-HĐH
Thực chất của CNH-HĐH:

Tực tiễn lịch sử đã chỉ rõ rằng để thủ tiêu tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, khai
thác tối ưu các nguồn lực và các lợi thế, bảo đảm nhịp độ tăng trưởng nhanh và ổn
định, giải quyết cơ bản các vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách, Con đường để đạt
được nhanh nhất là công nghiệp hóa (CNH). Sự nghiệp CNH ở nước ta được bắt đầu
từ năm l960. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (9/l960) của Đảng lao động Việt
Nam đã quyết định: “ Nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ ở Miền Bắc nước ta là
CNH xã hội chủ nghĩa , mà mấu chốt là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng". Trải
qua quá trình lịch sử lâu dài thì quan điểm đó của Đảng vẫn tiếp tục được thực hiện.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng cộng sản Việt
Nam đã coi “Công nghiệp hóa không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của
công nghiệp trong nền kinh tế mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới
căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng nhanh hiệu quả cao và lâu bền của
toàn bộ nền kinh tế quốc dân" (KTQD) và cho đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII Đảng ta đã quán triệt tư tưởng CNH: "Đẩy mạnh công nghiệp hóa với nhịp
độ tăng trưởng cao, bền vững và có hiệu quả"(1) và đại hội Đảng VIII đã quyết định :
"Tiếp tục nắm vững hai chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, đẩy
mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa".
Vậy CNH là gì ? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta hãy tham khảo thêm một số
câu trả lời đã có:
Theo một tác giả, B.Mazlish(13) thì công nghiệp hóa đã có được “hình thù”
của nó ở nước Anh vào đầu thế kỷ XIX (giai đoạn thứ nhất của lịch sử công nghiệp
hóa thế giới), cái hình thù đó nói một cách vắn tát là một quá trình: "được đánh dấu
bằng một sự chuyển động từ một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp sang một nền

(1) Trang 33- Văn kiện Đại hội Đảng VIII
(13)
(14) (15)
: Tài liệu tham khảo



kinh tế được gọi là công nghiệp".Một tác giả khác, J.Ladiere
(14)
cũng đã có một định
nghĩa tương tự : “Công nghiệp hóa là một quá trình mà các xã hội ngày nay chuyển từ
một kiểu kinh tế về chủ yếu dựa trên nông nghiệp với các đặc điểm năng suất thấp và
tăng trưởng cực kỳ thấp hay bằng không sang một kiểu kinh tế về cơ bản dựa trên
công nghiệp với các đặc điểm năng suất cao và tăng trưởng tương đối cao”.
Encyclopedic Francie”
(15)
có định nghĩa vắn tắt sau: “Công nghiệp hóa, Hoạt
động mở rộng tiến bộ kỹ thuật với sự lùi dần của tính chất thủ công trong sản xuất
hàng hóa và cung cấp dịch vụ"
Định nghĩa của UNIDO đi sâu hơn vào khái niệm “công nghiệp hóa": "công
nghiệp hóa là một quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phận ngày
càng tăng các nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế
nhiều ngành ở trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là
có một bộ phận chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng
tiêu dùng có khả năng bảo đảm cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao,
bảo đảm đạt tới sự tiến bộ về kinh tế - xã hội" (dẫn theo Nguyễn Kế Tuấn l6). Định
nghĩa này đặt công nghiệp hóa trong bối cảnh chung của phát triển kinh tế với nội
dung cơ bản là phát triển cơ cấu kinh tế trên cơ sở công nghệ hiện đại nhằm đẩy
nhanh nhịp độ phát triển kinh tế đồng thời hướng vào việc thực hiện các mục tiêu
kinh tế - xã hội.
Kết luận : Có thể hiểu “Công nghiệp hóa" là một quá trình mà các xã hội
chuyển từ một kiểu kinh tế về chủ yếu dựa trên nông nghiệp với đặc điểm năng suất
thấp và tăng trưởng cực thấp hay không tăng trưởng sang một kiểu kinh tế về cơ bản
dựa trên công nghiệp với đặc điểm năng suất cao và tăng trưởng tương đối cao, sự
chuyển đó cũng là sự biến đổi hay chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế quốc dân từ
khu vực nông nghiệp là chủ yếu sang khu vực công nghiệp là chủ yếu và sự biến đổi
trong khu vực công nghiệp mà trước hết là công nghiệp chế tạo, sự chuyển đã diễn ra

nhờ sự xuất hiện ngày càng nhiều những công nghệ mới và việc áp dụng ngày càng
rộng rãi hơn những công nghệ đó; toàn bộ quá trình được đặt trong bối cảnh chung
của phát triển kinh tế và phát triển nói chung.


Ngày nay đối với các nước đi sau tình hình đã đổi khác, để giải quyết một vấn
đề trong công nghiệp hóa có rất nhiều giải pháp hay công nghệ để sẵn sàng đem ra sử
dụng; vấn đề ở đây là phải nắm bắt kịp thời những công nghệ hiện đại nhất phù hợp
với hoàn cảnh của đất nước. Do đó CNH gắn với HĐH là một khả năng, nhu cầu mới
của các nưóc đi sau như nước ta và nếu kết hợp tốt thì sẽ rút ngắn được rất nhiều quá
trình CNH .
Vậy HĐH là gì? hiện đại hóa (HĐH) là khắc phục sự lạc hậu một hiện tượng
mang tính hệ thống sự phát triển cũng là quá trình tổng hợp về các phương diện kinh
tế, văn hóa xã hội và chính trị.
Hiện đại hóa kinh tế được quyết định bởi mức sống cao hơn do công nghiệp
công nghệ, trình độ chuyên môn cao trong sản xuất và năng suất lao động cao. Hiện
đại hoá kinh tế còn được biểu hiện ở sự gia tăng của vốn với quy mô tích lũy và đầu
tư hiện đại, sự tham gia rộng rãi vào thị trường trên cơ sở môut kết cấu hạ tầng hiện
đại về giao thông vận tải và thông tin liên lạc .
Hiện đại hóa kinh tế cũng không tách rời một bộ phận hành chính quản lý hữu
hiệu, một trình độ học vấn ngày càng nâng cao của người lao động, một sự phổ cập
rộng rãi các tri thức khoa học và đổi mới công nghệ .
Hiện đại hóa xã hội và chính trị là hoàn thiện cơ cấu xã hội, CNH các chức
năng của cả cơ chế xã hội, làm chuyển biến lối ứng sử của con người, thực hiện cuộc
cách mạng tri thức thông qua việc phát triển các phương tiện thông tin, tăng chi phí
giáo dục. Đảm bảo sự ổn định chính trị, tập trung quyền lực thực hiện vào nông
nghiệp để tiến hành cải cách và đổi mới một cách triệt để . Công nghiệp hóa là một
chuyển biến căn bản về kinh tế xã hội của đất nước. Không thể CNH với kỹ thuật cổ
điển và cơ chế quản lý cũ. ở thời điểm hiện nay, CNH nhất thiết phải gắn liền HĐH.
“Công nghiệp hóa” không chỉ là sự tăng thêm một cách đơn giản tốc độ và tỷ trọng

của sản xuất công nghiệp trong nền KTQD mà là cả một quá trình chuyển dịch cơ
cấu, gắn liền với đổi mới công nghệ tạo nền tảng cho sự phát triển sản xuất bền vững
và có hiệu quả cao của toàn bộ nền KTQD, CNH phải biết đi đôi với HĐH kết hợp
những bước tiến tuần tự về công nghiệp vận dụng phát triển chiều rộng và tạo nhiều


công ăn việc làm cho đội ngũ lao động hiện nay với việc tranh thủ những cơ hội đi
tắt, đón đầu phát triển chiều sâu tạo nên những mũi nhọn theo trình độ tiến triển của
khoa học công nghiệp thế giới.
Nói đến HĐH là nói đến một quá trình lâu dài đầy gian khổ của việc cải biến
một xã hội cổ truyền thành xã hội hiện đại có trình độ văn minh cao hơn thể hiện đầy
đủ hơn những giá trị chung mà nhân loại vươn tới. Các nước khác thì có thể tiến hành
CNH theo hình thức khác nhau bằng con đường không hoàn toàn giống nhau. Trong
quá trình CNH gắn với HĐH ở nước ta hiện nay một vấn đề cần phải được nhận thức
một cách đúng đắn là vừa phải đi vào công nghiệ hiện đại. Phải coi trọng cả khu vực
công nghệ truyền thống và cơ khí thông thường lẫn khu vực công nghệ. Đối với khu
vực công nghệ truyền thống và cơ khí thì khuyến khích chủ yếu bằng chính sách kinh
tế, chính sách công nghệ, bằng các hoạt động thông tin phổ biến, khoa học và công
nghệ, bằng chính sách khuyến khích việc thâm nhập của công nghệ truyền thống. Còn
về mặt đầu tư của nhà nước để phát triển tiềm lực khoa học và định hướng cho các
hoạt động nghiên cứu triển khai chủ yếu là phải tập trung vào công nghệ cao như:
điện tử, tin học, công nghệ tin học, vật liệu mới, cơ khí chính xác và tự động hóa,
để tạo mọi điều kiện cần thiết cho việc đi nhanh, đi thẳng vào các ngành công nghệ
cao không tự hạn chế trong phạm vi các điệu kiện, tiền đề hiện có.
Để tìm hiểu sâu hơn về CNH ta tìm hiểu bản chất của CNH :
Công nghiệp hóa là một quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại cho
tất cả các ngành kinh tế quốc dân. Trước hết, là những ngành chiếm vị trí trọng yếu,
do vậy phải gắn liền quá trình CNH với HĐH cả phần cứng và phần mềm của công
nghệ là quá trình xác định xã hội văn minh công nghiệp và cải tiến các ngành kinh tế
hoạt động theo phong cách của nền công nghiệp lớn hiện đại .HĐH là cái đích vươn

tới trong quá trình CNH - sự vươn lên về trình độ công nghệ lại bị ràng buộc bởi yêu
cầu đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội; HĐH chỉ là phương tiện để đạt được mục tiêu
của quá trình CNH.
Quá trình CNH không chỉ liên quan đến phát triển công nghiệp mà là quá trình
bao trùm tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động của một nước. Công nghiệp luôn là


ngành quan trọng như giai đoạn đầu các nước đang phát triển chỉ có lực lượng công
nghiệp nhỏ bé, sản xuất hàng tiêu dùng đơn giản và khai thác sản phẩm của tài
nguyên thiên nhiên. Công nghiệp luôn luôn giành được sự ưu tiên phát triển.Tuy
công nghiệp không đồng nhất với CNH nhưng không thể CNH nếu không phát triển
công nghiệp. Bởi vậy công nghiệp dấn dần chiếm vị trí hàng đầu, trong cơ cấu
KTQD.
Quá trình CNH trong bất cứ giai đoạn nào đều “vừa là quá trình kinh tế kỹ thuật
vừa là quá trình kinh tế xã hội". Thực hiện CNH sẽ thủ tiêu tình trạng lạc hậu kinh tế
thấp kém về kinh tế. Đồng thời gắn với thủ tiêu tình trạng lạc hậu về xã hội, nâng cao
dân trí, mức sống của nhân dân đưa xã hội đến văn minh công nghiệp. Hai quá trình
này ràng buộc lẫn nhau, quá trình kinh tế kỹ thuật tạo điều kiện vật chất kỹ thuật cho
việc thực hiện các nội dung của quá trình kinh tế xã hội. Ngược lại quá trình kinh tế
xã hội góp phần tạo nên động lực cho quá trình kinh tế kỹ thuật.
Quá trình công nghiệp hóa cũng đồng thời là quá trình mở rộng quan hệ kinh tế
quốc tế. Trong điều kiện ngày nay mở rộng phân công lao động quốc tế và quốc tế
hóa đời sống kinh tế trở thành một xu thế phát triển ngày càng mạnh mẽ . Mỗi nước
là một bộ phận của hệ thống kinh tế thế giới ở tác động hỗ trợ ở mức độ khác nhau
của các nước khác và chịu ảnh hưởng của biến động kinh tế xã hội chung của thế
giới. Cần phải đạt được phát triển của kinh tế đất nước trong xây dựng hệ thống kinh
tế mở, tăng cường quan hệ thương mại quốc tế tham gia tích cực vào quá trình cạnh
tranh và liên kết KTQD. Về nguyên tắc việc thực hiện CNH phải dựa vào nguồn lực
trong nước trong nước là chủ yếu, phát huy lợi thế so sánh trong nước để tham gia
vào quá trình kinh tế quốc tế.

CNH không phải là mục đích tự thân mà là phương thức có tính chất phổ biến
để thực hiện mục tiêu của mỗi nước. Đó là xây dựng cơ sở vât chất kỹ thuật ngày
càng hiện đại, khai thác có hiệu quả nguồn lực của đất nước, bảo đảm nhịp độ phát
triển kinh tế - xã hội nhanh và ổn định cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân. Mục tiêu cụ thể của mỗi nước phụ thuộc quan điểm của hệ thống chính trị
lãnh đạo, quy mô phương hướng, nhịp độ CNH phụ thuộc vào quan điểm chính trị xã
hội của đất nước.


Từ những hiểu biết về CNH ta thấy được tính tất yếu phải CNH, HĐH. Công
nghiệp hoá, hiện đại hóa là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn với các
nước xung quanh, thoát khỏi cảnh một nước kém phát triển nghèo đói, giữ được ổn
định chính trị xã hội, bảo vệ được độc lập chủ quyền và định hướng xã hội chủ nghĩa;
CNH là một quá trình tất yếu của lịch sử nhằm tạo nên những chuyển biến căn bản
về kinh tế - xã hội của đất nước trên cơ sở khai thác các nguồn lực và lợi thế trong
nước, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, xây dựng cơ cấu kinh tế, nhiều ngành với
nhiều trình độ khoa học công nghệ ngày càng hiện đại.
Bước vào những năm 60 thì các nước công nghiệp mới, châu á mới chỉ là nước
kém phát triển điển hình là thu nhập quốc dân thấp (Nam Triều Tiên năm 1961 đạt
87USD thua xa Việt Nam). Thế nhưng tới năm 1988 các nước này đã trở thành các
nước phát triển cùng Nhật và châu á. Giá trị tổng sản phẩm chung các ngành công
nghiệp mới châu á năm 1988 là 396 tỷ USD và dự tính tới năm 2000 là 1039 tỷ USD
lớn hơn giá trị sản phẩm của phần châu á còn lại. Tốc độ phát triển công nghiệp của
các nước ngày càng cao: Singapore: 12,2% từ năm 1965-1980 và hơn 6% từ năm
1980-1987; Nam Triều Tiên: 16.6% từ năm 1965-1980 và hơn 10% từ năm 1980 -
1985. Sự phát triển kinh tế của các nước này là do đã nhanh chóng CNH đất nước.
Do vậy, tất yếu phải CNH-HĐH để đưa đất nước đi lên thoát khỏi tình trạng
yếu kém về kỹ thuật, lạc hậu về mọi mặt nhất là đối với những nước kém phát triển
như nước ta.
Trong quá trình CNH-HĐH đất nước không thế thiếu được ngành sản xuất công

nghiệp. Công nghiệp là ngành sản xuất vật chất to lớn trong nền KTQD, là ngành
cung cấp công cụ lao động cho tất cả các ngành khác nên các ngành khác không thể
phát triển nếu thiếu ngành công nghiệp. Chính vì lẽ này, trong quá trình CNH-HĐH
đất nước, phát triển công nghiệp luôn chiếm vị trí hàng đầu, luôn được ưu tiên phát
triển. Không thể CNH-HĐH đất nước nếu không phát triển ngành công nghiệp vì
không thể CNH-HĐH trên cơ sở nền kinh tế kém phát triển. Hai quá trình luôn đi liền
nhau và bổ trợ cho nhau.3. Kinh nghiệm CNH-HĐH của thế giới:
Lịch sử CNH được bắt đầu từ nước Anh có chiều dài 200 năm. Giờ đây các


nước CNH mới NICS ở châu á đã thực hiện thành công quá trình CNH đất nước
trong thời gian ngắn. Nước Anh cần 120 năm, các nước Tây Âu khác và Mỹ cần trên
dưới 80 năm, Nhật cần hơn 60 năm còn những con rồng châu á chỉ cần 20 năm.
ở các nước đang phát triển nói chung và nước ta nói riêng CNH đang là điều
cấp bách sống còn. Từ một nước vẫn mang tính chất nông nghiệp lạc hậu, công
nghiệp nhỏ bé, tổng sản phẩm quốc dân theo đầu người vào loại thấp nhất thế giới
(220USD tính đến tháng 9/1993) chỉ bằng 1/9 Thái Lan, 1/14 Malaysia, 1/45 Đài
Loan thấp hơn Lào và Bănglađet. Tốc độ tăng trưởng bình quân của nước ta không
còn cách nào đi lên thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội văn minh ngoài
con đuờng CNH-HĐH. Nước ta là nước thực hiện CNH-HĐH sau các nước Châu Âu
và các nước công nghiệp mới châu á do vậy ta học được nhiều kinh nghiệm của các
nước đã trải qua và thành công trong quá trình CNH-HĐH. Sau đây chúng ta sẽ cùng
điểm qua một số kinh nghiệm về CNH-HĐH.
Kinh nghiệm quan trọng của quá trình CNH ở các nước ASEAN là rất linh hoạt
trong việc chuyển hướng CNH thay thế nhập khẩu sang CNH hướng về xuất khẩu.
Hầu hết các nước ASEAN sau khi giành được độc lập đều áp dụng mô hình hướng
nội. Để thực hiện chiến lược hàng xuất khẩu các nước đều tập trung phát triển công
nghiệp dân tộc, đẩy mạnh công nghiệp chế biến nguyên liệu hoặc lắp ráp các hàng
tiêu dùng đơn giản. Hàng công nghiệp chế tạo dùng cho xuất khẩu nhìn chung là
không đáng kể. Mặc dù có những đóng góp nhất định cho nền kinh tế song chiến lược

phát triển kinh tế hướng nội của các nước ASEAN không có hiệu quả. Hàng công
nghiệp sản xuất không thể xuất khẩu ra nước ngoài, không cạnh tranh được thị trường
thế giới. Trong khi đó các nước NICS ở đó và Bắc á nhờ chiến lwợc phát triển hướng
ngoại đã đưa nền kinh tế ở đây phát triển nhanh chóng. Điều này tác động đến chiến
lược phát triển của các nước ASEAN.
Vào thập kỷ 60 các nước ASEAN áp dụng chiến lược phát triển CNH hướng về
xuất khẩu và được đẩy mạnh thực hiện vào thập kỷ 80. Điểm nổi bật là kết hợp sản
phẩm nông nghiệp truyền thống, sản phẩm sử dụng nhiều lao động với sản phẩm có
hàm lượng kỹ thuật cao. Đạt được kết quả này là nhờ hai phương pháp chủ yếu:


Bảo hộ hầu hết các nước ASEAN (trừ nước Singapo) đều áp dụng biện pháp
bảo hộ cả thị trường xuất khẩu và thị trường nhập khẩu.
Chính sách tích cực thâm nhập thị trường nước ngoài.
Có chính sách thu hút vốn đầu tư: Lý luận CNH chỉ ra là sự thành bại của quá
trình CNH là ở vấn đề vốn đầu tư và con người. Trong bối cảnh những năm 50 đến
cuối thập kỷ 90 xu hướng vận động của vốn đầu tư có sự thay đổi. Do nhiều lý do
khác nhau mà vốn đầu tư chuyển sang các nước công nghiệp phát triển. Song ở hoàn
cảnh đó các nước ASEAN đã thực hiện chính sách khuyến khích cho đầu tư chảy vào
nước mình:
Mở cửa không hạn chế đầu tư nước ngoài
Tạo môi trường đầu tư thuận lợi
Khuyến khích vật chất để thu hút vốn đầu tư
Đặc biệt phát triển các khu chế xuất để phát triển ngoại tệ thu hút vốn, giải
quyết công ăn việc làm, đẩy mạnh xuất khẩu và khuyến khích khu vực kinh tế dân
tộc.
Chú trọng giáo dục văn hóa truyền thống và giáo dục hướng nghiệp cho người
lao động. Trước hết chính phủ chú trọng giáo dục luật pháp và truyền thống dân tộc.
Đặc biệt quan tâm đến giáo dục hướng nghiệp từ phổ thông đến đại học, thúc đẩy áp
dụng khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao trình độ cho người lao động. Cho phép phát

triển rộng rãi mạng lưới giáo dục đầu tư nghiên cứu khoa học kỹ thuật.
Chú trọng công nghiệp hướng về xuất khẩu đồng thời quan tâm đến phát triển
công nghiệp vừa và nhỏ. Quá trình này đòi hỏi phát triển mạnh mẽ các ngành công
nghiệp có kỹ thuật cao, có giá trị gia tăng lớn. Các ngành công nghiệp nhỏ chiếm tỷ
trọng nhỏ bé tuy vậy thị trường phát triển lại đòi hỏi quan tâm đến doanh nghiệp nhỏ
vì nhiều lý do và để khuyến khích phát triển công nghiệp nhỏ các nước đã:
Từng bước xóa bỏ quan niệm chưa đúng về vai trò của công nghiệp nhỏ.
Tăng cường vai trò của chính phủ để hỗ trợ việc cung cấp thông tin thị trường
cho doanh nghiệp nhỏ.


Hỗ trợ đào tạo cho công nghiệp nhỏ
Tổ chức Marketing quốc tế
- áp dụng các chính sách khuyến khích doanh nghiệp nhỏ
Tăng cường sự điều tiết của Nhà nước vào CNH. Sự can thiệp của Nhà nước
vào CNH ở ASEAN là vừa phải theo chuẩn mực quốc tế. Mục tiêu của các nước này
là:
Điều tiết công nghiệp nhằm tăng tỷ lệ công nghiệp trong GDP, thay đổi cơ cấu
kinh tế và có lợi cho công nghiệp.
Phát triển công nghiệp cân đối nhằm xây dựng cơ cấu thị trường có sự cạnh
tranh, cân đối giữa các địa phương.
Giải quyết cơ bản về xã hội, cải tiến cuộc sống của người nghèo.
Giải quyết cân bằng dân tộc
Gia tăng thu nhập ngoại hối
Để thực hiện các nước này đã sử dụng biện pháp: Về tổ chức, thành lập ban đầu
từ BOI kết hợp quản lý kinh tế. Về chính sách kinh tế: có định hướng chiến lược cho
phát triển công nghiệp, can thiệp vào ngoại thương, bảo hộ kinh tế và can thiệp vào
thị trường lao động thông qua định mức lương tối thiểu, can thiệp vào thị trường vốn
thông qua ngân hàng Nhà nước quy định giá cả, thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
II/ Công nghiệp và quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam trong thời gian qua:

1. Thực trạng quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam:
Căn cứ vào sự đổi mới thực sự, toàn diện về lý luận và thực tiễn của quá trình
CNH ở nước ta thời gian qua có thể chia làm hai giai đoạn cơ bản: từ năm 1960-1986
và từ 1986 đến nay.
Giai đoạn 1960-1986:
Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là thực hiện một chiến lược nhất quán được
xác định từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9/1960). Đảng đã khẳng định “nhiệm
vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở miền Bắc nước ta là CNH XHCN mà mấu chốt


là phát triển nền công nghiệp nặng”1 và chủ trương CNH là “Xây dựng một nền kinh
tế XHCN cân đối và hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, lấy nông nghiệp
làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý đồng thời ra sức
phát triển công nghiệp và công nghiệp nhẹ”2. Chiến lược này được củng cố và bổ
sung qua các thời kỳ đại hội IV (12/1976) V(1981) và các hội nghị trung ương, đại
hội Đảng.
Để thực hiện chiến lược này, chúng ta đã tập trung mọi nguồn lực trong nước và
nước ngoài, chúng ta đã tập trung mọi nguồn lực trong nước và nước ngoài, tranh thủ
sự viện trợ và giúp đỡ của các nước bạn XHCN chú trọng một khoảng thời gian
chúng ta đã hình thành được một nền kinh tế đa ngành, có các ngành quan trọng như
cơ khí, luyện kim, điện năng, khai thác than
Trong thời kỳ 1961-1965 tốc độ tăng bình quân giá trị tổng sản lượng công
nghiệp là 13,4%, của nông nghiệp là 4,1%. Do vậy, tỷ trọng của công nghiệp trong
TNQD tăng 16% Năm 1957 lên 18,2%, năm 1960 và 22,2% năm 1965. Còn tỷ trọng
nông nghiệp giảm từ 44,3% năm 1957 xuống 42,3% (1960) và 41,7% (1965). Đến
năm 1964 miền Bắc nước ta đã căn bản giải quyết được vấn đề lương thực và đáp
ứng được 90% nhu cầu hàng tiêu dùng và đồng thời bắt đầu tạo nguồn tích lũy trong
nước. Trong những năm có chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ với chi phí phát
triển kinh tế vẫn tăng lên 5,7 lần so với năm 1955-1057, gấp 2,4 lần so với 1960 và
1,8 lần so với 1964. Nhà nước đã giành đến 80% tổng số vốn đầu tư cho công nghiệp

nặng trong năm 1960-1965. Vốn đầu tư cho công nghiệp nhóm A tăng 11,2 lần, nhóm
B: 6,9 lần trong thời kỳ 1960-1965. Giá trị xuất khẩu thấp nền kinh tế luôn ở tình
trạng nhập siêu.
Những cơ sở đầu tiên của các ngành công nghiệp nặng quan trọng đã được xây
dựng và phát triển như điện, than, cơ khí, luyện kim, hóa chất, vật liệu xây dựng. Tốc
độ phát triển của các ngành công nghiệp thuộc nhóm A nhanh hơn tốc độ phát triển

1 Đảng Lao động Việt Nam . Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần III, 1960.
2 Đảng Lao động Việt Nam . Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần III, 1960.


chung của toàn ngành công nghiệp. Năm 1975 so với 1955 giá trị sản lượng ngành
điện lực gấp 22,3 lần, của ngành cơ khí gấp 59,8 lần và ngành hóa chất gấp 79,1 lần,
trong lúc toàn ngành công nghiệp chỉ tăng 16,2 lần. Một số vùng lãnh thổ đã hình
thành trung tâm công nghiệp như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Bắc, Việt Trì,
Thái Nguyên, Thanh Hóa, Vinh Dần dần hình thành nên những vùng công nghiệp
chuyên môn hóa, nhờ chủ trương kết hợp phát triển công nghiệp trung ương với công
nghiệp địa phương, nên hầu hết các tỉnh, thành phố, thị trấn đều phát triển công
nghiệp địa phương. Đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, công nhân kỹ thuật tăng khá
nhanh, là vốn quý quan trọng cho quá trình CNH ở thời kỳ này và thời kỳ sau. Năm
1975 so với năm 1955 số cán bộ có trình độ đại học và trên đại học tăng nhanh hơn
129 lần, cán bộ có trình độ trung học chuyên nghiệp tăng gấp hơn 84 lần, công nhân
kỹ thuật năm 1975 tăng gấp 6 lần năm 1960.
Chúng ta đã cố gắng lớn trong việc tăng cường trang bị kỹ thuật và ứng dụng
khoa học trong các ngành kinh tế, hầu hết đều được trang bị máy móc thiết bị của
nước ngoài. Đi liền quá trình phát triển công nghiệp hàng loạt thành phố thị trấn đã
xuất hiện quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh. Thời giani này Đảng có chủ trương ưu
tiên phát triển hệ thống y tế, văn hóa, giáo dục.

Sau năm 1975 thống nhất đất nước do vậy đòi hỏi phải có chiến lược CNH
thích hợp hơn. Nhưng thực tế, đường lối CNH do Đảng đề ra vẫn giữ nguyên.
Do chủ trương nôn nóng chủ quan duy ý chí và với sai lầm trong công tác chỉ
đạo, trong cơ chế và chính sách nền thời kỳ đầu 1974-1980 nền kinh tế lâm vào tình
trạng suy thoái, khủng hoảng, cơ cấu kinh tế ngày càng trở nên bất hợp lý và mất cân
đối nghiêm trọng. Nông nghiệp kém phát triển không đáp ứng được nhu cầu trong
nước, công nghiệp nặng không phát huy được tác dụng. Thời kỳ 1976-1980 tổng sản
phẩm xã hội chỉ tăng 1,4%; thu nhập quốc dân chỉ tăng 0,6%. Trong khi đó dân số
tăng 2,24%/năm, sản xuất công nghiệp bình quân chỉ tăng 0,6%, trong đó công
nghiệp quốc doanh giảm 2,6%; sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 1,9%. Quá trình
CNH diễn ra có nhiều khó khăn và chậm chạp vì thiếu những tiền đề kinh tế cơ bản.
Hiệu quả kinh tế rất thấp so với nguồn vốn và công sức bỏ ra. Nguồn lực bị lãng phí
nhiều, cơ cấu kinh tế mất cân đối chưa có tích lũy nội bộ.


Nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng CNH ở giai đoạn này là:
Nhận thức về CNh còn đơn giản, phiến diện và đồng nhất cách đi với thực chất
của CNH, coi phát triển công nghiệp nặng chính là CNH, dập khuôn máy móc lý luận
và mô hình CNH ở Liên Xô.
Chiến tranh kéo dài, không có điều kiện tập trung trí lực đầu tư cho nghiên cứu
lý luận và chỉ đạo thực hiện chiến lược CNH.
Chưa xác định đúng vị trí, vai trò của công nghiệp trong suốt một thời gian dài,
do đó chưa tạo được những tiền đề cơ bản cho CNH.
- Nóng vội trong cải tạo XHCN, hạn chế sự phát triển của các thành phần kinh
tế tư nhân và cá thể vì vậy không huy động được các nguồn lực trong nước tham gia
vào CNH đất nước. Trước tình hình đó Đại hội Đảng V (1981) đã xác định: “Nội
dung chính của CNH XHCN trong những năm 1981-1985 và những năm 80 là tập
trung sự phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu đưa nông
nghiệp lên sản xuất lớn XHCN, ra sức đẩy mạnh hàng tiêu dùng, tiếp tục xây dựng
một số ngành công nghiệp nặng quan trọng”1. Sự thay đổi đó bước đầu đã có tác

dụng đến phát triển kinh tế - xã hội và CNH. Bình quân hàng năm sản xuất công
nghiệp tăng 0,5%; TNQD tăng từ 20,5% năm 1980 lên 30% năm 1985.
Giai đoạn từ năm 1986 đến nay:
Đây là thời kỳ đổi mới toàn diện và đồng bộ cả về nhận thức quan điểm và tổ
chức chỉ đạo thực hiện Đại hội lần thứ VI đã xác định rõ quan điểm và chủ trương,
phương hướng đổimới kinh tế - xã hội ở nước ta trong chặng đường đầu tiên của thời
kỳ quá độ lên CNXH, Đại hội khẳng định: “Tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết
cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường tiếp theo”2 và “Trước
mắt là kế hoạch 5 năm 1986-1990, phải thật sự tập trung sức người, sức của vào việc
thực hiện cho được 3 chương trình mục tiêu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu”3.

1 Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V
2 Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V
3 Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V


Từ quan điểm và chủ trương mới trên Đảng và Nhà nước ta đã cụ thể hóa bằng
cơ chế và bằng các chính sách biện pháp thực hiện cụ thể là: chính sách kinh tế nhiều
thành phần, chính sách kinh tế đối ngoại và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chính
sách tài chính tiền tệ kiềm chế lạm phát, chuyển cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan
liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Nhờ vậy nền kinh tế đã vượt qua trạng thái suy giảm lạm phát đáng kể, điều
chỉnh cơ cấu kinh tế hợp lý hơn, tiếp tục công nghiệp hóa. Lạm phát từ mức 3 con số
năm 1986: 5887,2%; năm 1987:417,6% ; năm 1988: 410,9%; giảm xuống còn hai
con số năm 1989: 30%; năm 1990: 52,8%. Tốc độ tăng bình quân hàng năm của tổng
sản phẩm xã hội là 4,8%. Thu nhập quốc dân: 3,9%; giá trị tổng sản lượng công
nghiệp 5,2%, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp 3,5%; giá trị xuất khẩu 28%; giá trị
nhập khẩu 8%. Một số mặt hàng xuất khẩu cơ bản được hình thành như dầu mỏ, than
đá, lâm hải sản, gạo. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong tất cả các lĩnh vực tăng nhanh.

Thu nhập quốc dân năm 1991 tăng 2,4% so với năm 1990, năm 1992 tăng 5,4% so
với 1991. Sản lượng công nghiệp tăng 5,3% (1991) và 15,5% (1992).
Cơ cấu công nghiệp bước đầu có sự chuyển dịch theo hướng thích hợp và có
hiệu quả hơn. Năm 1986 cơ cấu tổng sản lượng công nghiệp, ngành điện lực chiếm
3,66%; cơ khí 9,65%; hóa chất phân bón cao su 8,26% thì năm 1990 tỷ trọng tương
ứng các ngành đó là 5,1% - 15,9% - 9,4%.
Giữa các ngành công nghiệp nhóm A và công nghiệp nhóm B đã bước đầu có sự
điều chỉnh trong sự phát triển theo hướng chú trọng thích đáng hơn đến các ngành
công nghiệp nhóm B để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước và để sử
dụng tốt hơn các nguồn lực với kỹ thuật truyền thống lao động. Công nghiệp ngoài
quốc doanh đã được phát triển chiếm 31,4% (1976) và 43% (1989) còn công nghiệp
quốc doanh năm 1989 chiếm 57%.
Để tiếp tục những quan điểm, chủ trương chính sách đổi mới, Đại hội Đảng lần
thứ VII đã chỉ rõ: “Để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh theo con đường
XHCN điều quan trọng nhất là phải cải tiến căn bản tình trạng kinh tế - xã hội kém
phát triển, phát triển lực lượng sản xuất CNH theo hướng hiện đại gắn liền với việc


phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của XHCN không ngừng nâng cao năng suất lao động xã
hội và cải thiện đời sống nhân dân”1. Đại hội Đảng VII cũng xác định mục tiêu kinh
tế của kế hoạch 5 năm (1991-1995): “Đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát, ổn định
phát triển và nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã hội, ổn định và từng bước cải thiện
đời sống nhân dân và bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế”2 .
Quá trình đổi mới đã tạo nên được những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội,
thành tựu CNH trong những năm 1991,1992,1993 cao hơn, có chất lượng hơn, đi vào
thực tế hơn so với nhiều năm trước đây - lạm phát được kiềm chế, tốc độ tăng giá trị
xuất khẩu lớn hơn tổng sản phẩm xã hội. Cán cân thanh toán chuyển từ thiếu hụt 9%
GDP giữa năm 1980 sang thặng dư 2%GDP. Tổng sản phẩm trong nước 1991 tăng
6,1% so với năm 1990. Trong đó giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng 10,4%;

nông nghiệp tăng 1,9%; xuất khẩu tăng 13,2%.
Sự phát triển công nghiệp trong những năm đổi mới không chỉ thể hiện ở tốc độ
tăng trưởng mà quan trọng hơn là ở sự chú trọng đổi mới công nghệ, tăng khả năng
cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp, và ở sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng sản
xuất gắn với thị trường trong và ngoài nước, phát triển nhanh các ngành có lợi thế so
sánh, các ngành có tác động đến sự phát triển chung của nền KTQD và đa dạng hóa
các loại hình tổ chức kinh doanh. Ngành dầu khí có sự phát triển vượt bậc, ngành
than có khối lượng xuất khẩu vượt 1,6 triệu tấn, ngành sản xuất điện phát triển mạnh,
ngành dệt và may mặc cũng phát triển phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm đã có bước tiến mới góp phần đưa sản
lượng gạo xuất khẩu đạt 2 triệu tấn.
Qua nghiên cứu hai giai đoạn phát triển của CNH ta thấy trong suốt 30 năm qu
quá trình CNH XHCN ở nước ta đã giành được thành tựu và thắng lợi. Kiên trì thực
hiện CNH không chỉ trong những năm hòa bình mà ngay cả trong thời kỳ chống
chiến tranh phá hoại. Bước đầu tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật trong các ngành KTQD

1 Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên CNXH
2 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII


nhất là trong công nghiệp (điện, dầu mỡ, xi măng, luyện kim ) thúc đẩy quá trình
thay đổi từ giản đơn, lạc hậu trì trệ kém hiệu quả, dần dần tiến tới một cơ cấu có
nhiều ngành, nhiều thành phàn trong những năm đàu của quá trình đổi mới CNH-
HĐH đã mang sắc thái mới, đã có sự điều chỉnh mục tiêu, nội dung và bước đầu
đồng bộ hóa, cụ thể bằng cơ chế và chính sách. Do vậy CNH-HĐH đã được tiến hành
phù hợp hơn với hoàn cảnh quốc tế và điều kiện khả năng trong nước, các tiềm năng
nguồn lực của đất nước bước đầu được khơi dậy, kinh tế phát triển thực chất hơn.
Tạo ra nguồn lao động và đội ngũ lao động dồi dào với trình độ dân trí được nâng
cao, tỷ trọng lao động có trình độ nghề nghiệp kỹ thuật ngày càng cao.

Tuy nhiên, quá trình CNH-HĐH ở nước ta hơn 30 năm qua còn những tồn tại:
Quá trình CNH diễn ra quá chậm
Phân công lao động xã hội phát triển chậm chạp, cơ cấu kinh tế thiếu năng
động, hiệu quả thấp, chứa đựng nhiều bất hợp lý, nhiều mặt mất cân đối nghiêm
trọng chưa kết hợp tốt cơ cấu ngành với cơ cấu thành phần và cơ cấu lãnh thổ trong
một trạng thái đồng bộ, năng động có hiệu quả để thực hiện tốt các mục tiêu chung
của phát triển kinh tế xã hội.
Trình độ trang bị kỹ thuật công nghệ thấp kém, mất cân đối, đổi mới chậm.
Sự nghiệp CNH-HĐH phải đương đầu với nhiều khó khăn mâu thuẫn do sai
lầm trước đây để lại và do thử thách mới đưa tới. Đó là tỷ lệ thất nghiệp còn cao, đời
sống thấp, tỷ lệ tích lũy và đầu tư thấp, sản xuất kinh doanh gặp khó khăn về vốn và
thị trường sản xuất.
2. Thực trạng công nghiệp Việt Nam trong những năm qua:
Trong những năm gần đây, nhất là trong quá trình đổi mới, khu vực công nghiệp
phải đương đầu với những khó khăn khá gay gắt. Do những khuyết điểm, sai lầm
trong quá khứ về chính sách cơ cấu và chính sách đầu tư, đến nay công nghiệp nước
ta có trên 4584 xí nghiệp nhưng trình độ công nghệ chỉ đạt từ 60%-70% mức trung
bình của thế giới. Thậm chí có loại chỉ bằng 15-20%. Nhiều loại thiết bị sử dụng đã
làm cho mức hao phí nguyên liệu gấp 2 đến 3 lần mức trung bình của thế giới. Nét
nổi bật là thiết bị cũ, thiếu phụ tùng thay thế, thiếu bảo dưỡng và sửa chữa nên thiết


bị ngày càng xuống cấp nghiêm trọng. Theo con số kiểm kê ngày 1-1-1990 TSCĐ của
công nghiệp (chủ yếu là công nghiệp quốc doanh) lên tới gần 29.000tỷ động, giá trị
còn lại hơn 16.500 tỷ đồng. Trong đó máy móc thiết bị được sử dụng trực tiếp để làm
ra sản phẩm chỉ chiếm 26%, còn nhà cửa vật kiến trúc chiếm tỷ trọng đến 36%.
Do chưa ý thức đầy đủ về giá thành và chất lượng, nhất là chưa có quan điểm rõ
ràng trang việc nâng cao đặc tính kỹ thuật của sản phẩm và quy trình sản xuất nên
giá thành sản phẩm sản xuất thường cao, chất lượng kém, hình dáng xấu, vì thế sản
phẩm khó tiêu thụ. Trong thời gian qua chỉ có 70% sản phẩm đạt tiêu chuẩn xuất

khẩu. Nhiều xí nghiệp đòi hỏi được trang bị và HĐH nhưng lại gặp phải khó khăn về
nguồn vốn đầu tư.
Phần lớn các xí nghiệp chỉ mới hoạt động 50%-60% công suất máy. Trình độ sử
dụng tài sản thấp phổ biến là làm việc 1 ca (36%). Hệ số sinh lợi của vốn cố định (lợi
nhuận trên 1000đồng VCĐ) trong năm 1989: bình quân toàn quốc đạt 70 đồng trong
đó công nghiệp chỉ đạt 30 đồng.
Sự phát triển quá lớn về lượng của các xí nghiệp công nghiệp địa phương càng
làm gay gắt thêm tình trạng mất cân đối của nền kinh tế và gây lãng phí lớn trong sử
dụng vốn đầu tư, tài nguyên, nguyên vật liệu. Hiện nay bình quân mỗi tỉnh, thành phố
có 60%-70% xí nghiệp công nghiệp, quá khả năng cho phép của một địa phương.
Tuy nhiên cùng với chính sách chuyển dịch cơ cấu, chuyển đổi cơ chế quản lý
kinh tế theo đường lối Đại hội lần thứ VII của Đảng đề ra, nhiều cơ sở kinh tế, nhất là
các xí nghiệp quốc doanh trung ương đang thích ứng dần với môi trường kinh doanh
mới, bước đầu duy trì, ổn định và phát triển sản xuất. Nhiều loại sản phẩm công
nghiệp chủ yếu tăng nhanh và chất lượng nâng lên rõ rệt, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị
trường như điện, than, dầu thô, máy biến thế, xi măng, động cơ điezen Điểm nổi
bật là hầu hết các xí nghiệp dần dần gắn sản xuất với thị trường, chú ý đầu tư chiều
sâu, đổi mới mặt hàng, quan tâm đến chi phí giá thành. Một số xí nghiệp bắt đầu làm
ăn có lãi thực sự và tăng nhanh khoản nộp cho ngân sách Nhà nước (như liên hiệp xí
nghiệp xi măng năm 1990 nộp ngân sách gấp 19 lần năm 1991). Nhiều điển hình tốt
xuất hiện như liên hiệp xí nghiệp dệt Long An; Liên hiệp xí nghiệp giày dép xuất

×