Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Luận văn Vấn đề đạo đức cách mạng của người cán bộ lãnh đạo quản lý ở Vĩnh Phúc trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (654.14 KB, 91 trang )

1

Luận văn
Vấn đề đạo đức cách mạng của
người cán bộ lãnh đạo quản lý ở
Vĩnh Phúc trong điều kiện kinh tế thị
trường hiện nay


2
Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đạo Đức là một hình thái ý thức xã hội, nó được bắt nguồn từ tồn tại xã
hội và phản ánh tồn tại xã hội. Đạo Đức có vị trí, vai trị cực kỳ quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia, dân tộc.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã, đang diễn ra
sâu sắc và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm thực
hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất
nước, tiến đến mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
văn minh". Từ đó địi hỏi phải có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp
có đức, có tài, vừa hồng vừa chuyên, ngang tầm, đáp ứng yêu cầu của nhiệm
vụ cách mạng.
Bác Hồ đã dạy: "Cán bộ là gốc của mọi công việc, công việc thành
công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém ". Người cách mạng phải có đạo
đức cách mạng, khơng có đạo đức cách mạng thì tài giỏi mấy cũng khơng
lãnh đạo được nhân dân. Đạo đức là nền tảng là gốc của mọi cán bộ, đảng
viên. Có đạo đức cách mạng, có lối sống giản dị trong sạch, lành mạnh, cán
bộ đảng viên sẽ có uy tín, có điều kiện hồn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Tuy nhiên, đứng trước sự thay đổi to lớn của nền kinh tế thị trường một
bộ phận cán bộ, đảng viên đã thoái hoá biến chất, làm suy giảm lòng tin của


quần chúng nhân dân với Đảng, với chế độ.
Tại Đại hội lần thứ VII, Đảng ta đã nhận định: "Sự suy thoái về phẩm
chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên rất nghiêm trọng".
Đại hội lần thứ VIII đánh giá sự sa sút về tư tưởng chính trị, đạo đức lối
sống diễn ra nghiêm trọng hơn: "Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí,


3
kém ý thức tổ chức kỷ luật, sa đoạ về đạo đức lối sống" và "Điều đáng lo ngại
khơng ít cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hoá về phẩm
chất đạo đức".
Đảng ta đã đưa ra nhiều biện pháp để khắc phục tình trạng tiêu cực nêu
trên. Song đến nay tình trạng suy thối về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối
sống của một bộ phận cán bộ đảng viên vẫn còn rất nghiêm trọng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng ta đã nhận định: "Tình
trạng suy thối về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, bệnh cơ
hội, giáo điều, bảo thủ, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí trong một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, cơng chức cịn diễn ra nghiêm
trọng" [17, tr.80-81], Đại hội Đảng lần thứ X nhấn mạnh: "Đấu tranh
phòng chống tham nhũng lãng phí là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác
xây dựng Đảng, nhiệm vụ trực tiếp, thường xun của cả hệ thống chính trị
và tồn xã hội" [20, tr.286-287].
Trước tình hình đó, việc nâng cao đạo đức cách mạng của người cán
bộ, lãnh đạo quản lý là việc cần thiết và cấp bách. Tình hình đạo đức cán bộ
lãnh đạo quản lý ở tỉnh Vĩnh Phúc cũng khơng nằm ngồi cái chung đó. Vì
thế, để góp phần nhỏ bé vào việc giải quyết vấn đề này tôi lựa chọn đề tài: "
Vấn đề đạo đức cách mạng của người cán bộ lãnh đạo quản lý ở Vĩnh
Phúc trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ".
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Vấn đề đạo đức đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của
Đảng đặc biệt quan tâm trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ
cán bộ, đảng viên. Nhiều bài viết, bài nói của Người đã trở thành những cơng
trình nghiên cứu về đạo đức cách mạng như:
- "Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng", Nxb Sự thật, Hà Nội 1976


4
- "Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề đạo đức cách mạng", Nxb Thông
tin lý luận, Hà Nội, 1986.
- "Hồ Chí Minh về đạo đức", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993.
Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh đã được một số tác giả nghiên cứu
trên cơ sở học tập đạo đức, phong cách làm việc của Người, đề xuất các giải
pháp xây dựng đạo đức mới:
- "Học tập đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh", Nxb Thông tấn, Hà Nội, 2004.
- "Đạo đức, phong cách, lề lối làm việc của cơng chức theo tư tưởng
Hồ Chí Minh", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1998 - Thang Văn Phúc chủ
biên.
- Giáo trình: "Đạo đức học Mác - Lênin" GS, TS Nguyễn Ngọc Long
và PGS.TS Nguyễn Thế Kiệt (Chủ biên) - Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh - Viện triết học - Nxb Lý luận chính trị Hà Nội 2004.
- "Kết hợp chặt chẽ giáo dục lý luận với xây dựng đạo đức mới của
người cán bộ, lãnh đạo quản lý", GS.TS Nguyễn Ngọc Long, tạp chí lý luận
chính trị, số 4-2001.
Một số tác giả có các bài viết về mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức
đồng thời khẳng định các giá trị đạo đức luôn chịu tác động hai mặt từ môi
trường kinh tế. Qua đó các tác giả cũng đã chỉ ra sự phức tạp của các vấn đề đạo
đức xã hội; đạo đức mới vừa phải đấu tranh với các hệ thống đạo đức khác, vừa
phải đấu tranh tự đổi mới trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay.
- "Quan hệ kinh tế và đạo đức trong việc định hướng các giá trị đạo

đức hiện nay". Nguyễn Thế Kiệt, Tạp chí Triết học, tháng 6/1996.
- "Sự tác động hai mặt của cơ chế thị trường đối với đạo đức người cán
bộ quản lý". Nguyễn Tĩnh Gia, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, tháng 2/1997.


5
- "Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường
với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay",
Nguyễn Chí Mỳ (Chủ biên) Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
- "Nhân tố tác động và xu hướng biến đổi đạo đức, lối sống trong cán
bộ đảng viên", Tơ Huy Rứa, Tạp Chí cộng sản, số 33, (11-2003).
- "Tiêu chuẩn của người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay", Trần Văn
Phịng, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5-2003.
Dưới tác động của nền kinh tế thị trường, có ảnh hưởng rất lớn tới đạo
đức cán bộ lãnh đạo quản lý. Bởi vậy, trong những năm gần đây có nhiều tác
giả đi vào nghiên cứu vấn đề đạo đức, đạo đức của người cán bộ trong điều kiện
kinh tế thị trường (thông qua các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ triết học).
- "Xây dựng đạo đức mới cho cán bộ, lãnh đạo quản lý trong điều kiện
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay" (Qua thực tế ở tỉnh Kiên Giang),
Nguyễn Văn Quyết, Luận án Tiến sĩ triết học, Hà Nội, 2000.
- "Vấn đề đạo đức cách mạng của người cán bộ hậu cần quân đội nhân
dân Việt Nam trong điều kiện hiện nay", Hà Nguyên Cát, Luận án Tiến sĩ triết
học, Hà Nội, 2000.
- "Vấn đề đạo đức cách mạng cho người cán bộ chủ chốt ở tỉnh Đắk
Lak trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay", Nguyễn Tuyền Quang, Luận
văn triết học, Hà Nội 2003.
- "Vấn đề đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong điều kiện
kinh tế thị trường hiện nay" (Qua thực tế ở tỉnh Hưng Yên), Bùi Văn Hà,
Luận văn Thạc sĩ triết học, Hà Nội, 2004.
- "Vấn đề đạo đức cách mạng của cán bộ - Đảng viên hiện nay" (Qua

thực tế ở tỉnh Thanh Hoá), Đỗ Thị Toán, Luận văn triết học, Hà Nội, 2006...
Trong các cơng trình này, các tác giả đã đưa ra những chuẩn mực đạo
đức, những nguyên tắc và yêu cầu đạo đức cách mạng của cán bộ, lãnh đạo
quản lý. Các tác giả cũng thống nhất khi luận giải việc giáo dục đạo đức nói


6
chung và giáo dục đạo đức cách mạng nói riêng phải trên cơ sở của mơi
trường kinh tế, văn hố xã hội nhất định. Từ đó đưa ra những giải pháp chủ
yếu nhằm nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo quản lý hiện nay.
Trên thực tế, ở Vĩnh Phúc trong những năm qua cùng với sự hội nhập,
phát triển kinh tế của cả nước, Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Phúc đã gặt hái
được những thành tựu đáng kể trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hố xã
hội. Hiện thực đó đã được thơng qua các văn bản, đánh giá tổng kết của Vĩnh
Phúc và được Đảng, Nhà nước công nhận.
Song, thực tế cho thấy tình trạng suy thối đạo đức, lối sống của một bộ
phận cán bộ, đảng viên ở Vĩnh Phúc nói riêng và cả nước nói chung trong những
năm qua khơng giảm. Vấn đề đặt ra là: Nguyên nhân sâu xa nào khiến cho
những giải pháp của chúng ta đề ra chưa được thực hiện một cách có hiệu quả.
Cho nên việc nghiên cứu vấn đề đạo đức, xây dựng đạo đức cách mạng
cho cán bộ lãnh đạo quản lý nói chung, ở Vĩnh Phúc nói riêng cần tiếp tục
làm sáng tỏ thêm. Từ đó có những giải pháp chủ yếu để xây dựng đạo đức
cách mạng cho đội ngũ cán bộ này.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Qua thực tế ở Vĩnh Phúc, luận văn đã phân tích thực trạng, ngun
nhân tình hình đạo đức của cán bộ lãnh đạo quản lý, từ đó đưa ra những giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ này ở
Vĩnh Phúc hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ

- Tầm quan trọng và yêu cầu của đạo đức cách mạng ở cán bộ, lãnh đạo
quản lý trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam hiện nay.
- Làm rõ thực trạng đạo đức của người cán bộ lãnh đạo quản lý ở Vĩnh
Phúc hiện nay và nguyên nhân của thực trạng này.


7
- Đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao đạo đức cách mạng của
cán bộ lãnh đạo quản lý trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ở Vĩnh Phúc.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Đạo đức cách mạng của người cán bộ lãnh đạo quản lý ở Vĩnh Phúc
trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn chủ yếu dựa vào quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta về
đạo đức, đạo đức cách mạng, đạo đức của người cán bộ lãnh đạo quản lý.
Ngoài ra luận văn có tham khảo kế thừa các kết quả ở những cơng trình
nghiên cứu đã được cơng bố có liên quan đến nội dung của đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn có sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó tư tưởng chỉ đạo và phương
pháp của luận văn là quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Luận văn sử dụng một số phương pháp cụ thể, trong đó chủ yếu là
phương pháp lịch sử - lơgíc, phương pháp phân tích điều tra xã hội học,
phương pháp so sánh.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Làm rõ yêu cầu đạo đức cách mạng của cán bộ lãnh đạo quản lý trong
điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
- Làm rõ thực trạng đạo đức của cán bộ lãnh đạo quản lý ở Vĩnh Phúc

hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao đạo đức cách mạng
của cán bộ lãnh đạo quản lý ở Vĩnh Phúc hiện nay.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn


8
Góp phần vào việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về đạo đức, đạo
đức cách mạng của người cán bộ lãnh đạo quản lý, bổ sung thêm những cơ sở
khoa học có thể tham khảo cho việc hoạch định chiến lược và chính sách cụ
thể liên quan đến vấn đề đạo đức của cán bộ lãnh đạo quản lý ở Vĩnh Phúc
hiện nay.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy
môn: Triết học; Kinh tế chính trị; Đạo đức; Văn hố xã hội trong Trường
Chính trị tỉnh; Đại học Sư phạm; Trung học chuyên nghiệp ở tỉnh Vĩnh Phúc.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục, tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.
Chương 1
Tầm quan trọng và yêu cầu đạo đức cách mạng
của cán bộ lãnh đạo quản lý trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay
1.1. Đạo đức cách mạng và tầm quan trọng của đạo đức cách mạng ở đội ngũ cán
bộ lãnh đạo quản lý ở Việt Nam hiện nay

1.1.1. Đạo đức và đạo đức cách mạng
Lịch sử xã hội lồi người khẳng định đạo đức ln luôn là một động
lực tinh thần to lớn đối với sự phát triển tiến bộ của xã hội, các giai cấp khác
nhau đều đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức nhằm điều chỉnh các hành vi
và cách ứng xử của con người phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội.

Cùng với sự vận động, biến đổi của tồn tại xã hội, đạo đức cũng có
những biến đổi, đã tồn tại nhiều những quan niệm đạo đức khác nhau, thậm
chí đối lập nhau.
Quan điểm duy tâm, tơn giáo cho rằng: Đạo đức là những nguyên tắc,
quy tắc, chuẩn mực rút ra từ những lực lượng siêu nhiên hay những bản tính


9
trừu tượng "ý niệm tuyệt đối", "thượng đế"… rồi đem áp dụng vào đời sống
hiện thực của con người mà không xuất phát từ điều kiện sinh hoạt vật chất
của xã hội.
Đến các nhà duy vật trước Mác, khi đi vào nghiên cứu những vấn đề
đạo đức họ cũng chưa thoát khỏi những quan điểm duy tâm hoặc lại rơi vào
quan điểm siêu hình.
Mặc dù, các quan niệm về đạo đức của các nhà triết học trước Mác còn
nhiều hạn chế nhưng họ cũng có những đóng góp nhất định cho quan niệm
đúng đắn, khoa học về phạm trù đạo đức sau này.
Đạo đức học mác xít cho rằng: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội,
là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và
đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã
hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh
dư luận xã hội.
ở Việt Nam, theo từ điển tiếng Việt (Hà Nội 1997) thì: "Đạo đức là
những tiêu chuẩn, quy tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi,
quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội".
Theo Trần Hậu Kiêm: "Đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc,
chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình vì
lợi ích xã hội, hạnh phúc của con người trong mối quan hệ giữa con người và
con người, giữa cá nhân và tập thể hay toàn xã hội" [29, tr.7].
Đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã

hội, phản ánh hiện thực đời sống đạo đức xã hội.
Theo Mác - Ăng ghen, con người hoạt động tức là đã sản xuất ra các tư
liệu vật chất cần thiết cho đời sống sinh hoạt trước khi sáng lập ra các thứ lý
luận và nguyên tắc bao gồm cả triết học và luân lý học. Chế độ kinh tế xã hội
là nguồn gốc của quan điểm về đạo đức con người. Sự phát sinh, phát triển


10
của đạo đức xét đến cùng là một quá trình do sự phát triển của phương thức
sản xuất quyết định.
Đạo đức chính là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người,
sự đánh giá hành vi con người theo khuôn chuẩn mực và quy tắc đạo đức biểu
hiện thành những khái niệm về: Thiện - ác; Vinh - Nhục; Chính nghĩa - Phi
nghĩa. Những khn phép và quy tắc đạo đức là yêu cầu của cả xã hội hoặc
của một giai cấp nhất định để đề ra cho hành vi mỗi cá nhân.
ở đây, trách nhiệm cá nhân về mặt đạo đức biểu hiện trước hết là gánh
chịu sự đánh giá của dư luận xã hội về sự tự lựa chọn các hành vi đạo đức của
mình. Sau nữa, nó cịn được phán xử bởi chính lương tâm con người về
những mục đích động cơ thầm kín của bản thân mình. Trên cơ sở đó mà nhận
thức được những giá trị đạo đức chân thực và định hướng hoạt động của mình
phù hợp với lợi ích của xã hội và người khác.
Một con người được giáo dục để có những phẩm chất tốt đẹp, có thái
độ hành vi cư xử phù hợp các chuẩn mực đạo đức của xã hội được coi là
người có đạo đức.
Đạo đức là vấn đề thường xuyên được đặt ra và giải quyết nhằm đảm
bảo cho các cá nhân, cộng đồng tồn tại và phát triển. Là một thành viên của
xã hội, mỗi chúng ta phải suy nghĩ và tìm ra những con đường, cách thức và
phương tiện về chuẩn mực, giá trị đạo đức nhất định nhằm kết hợp chặt chẽ
giữa lợi ích cá nhân với lợi ích của cộng đồng. Từ đó đảm bảo cho sự tồn tại,
phát triển của chính mình và của cộng đồng. Đạo đức trở thành mục tiêu đồng

thời cũng là động lực để phát triển xã hội.
Đạo đức có các chức năng cơ bản sau:
Thứ nhất: Chức năng điều chỉnh hành vi:
Loài người sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh hành vi trong đó
có chính trị, pháp quyền và đạo đức.


11
Chính trị điều chỉnh hành vi giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia
bằng các biện pháp đặc trưng như: ngoại giao, kinh tế, hành chính, bạo lực.
Pháp quyền và đạo đức điều chỉnh hành vi trong quan hệ giữa các cá
nhân với cộng đồng bằng các biện pháp đặc trưng là pháp luật và dư luận xã
hội, lươgn tâm. Sự điều chỉnh này có thể thuận chiều, có thể ngược chiều.
Đạo đức địi hỏi từ tối thiểu đến tối đa đối với các hành vi cá nhân
phương thức điều chỉnh là bằng dư luận xã hội và lương tâm. Những chuẩn mực
đạo đức bao gồm cả chuẩn mực ngăn cấm và cả chuẩn mực khuyến khích.
Vậy: Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức bằng dư luận xã hội và
lương tâm đòi hỏi từ tối thiểu tới tối đa hành vi con người đã trở thành đặc
trưng riêng để phân biệt đạo đức với các hình thái ý thức khác, các hiện tượng
xã hội khác và lâm thành cái không thể thay thế của đạo đức.
Thứ hai: Chức năng giáo dục:
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể của lịch sử.
Con người tạo ra hồn cảnh đến mức nào thì hồn cảnh cũng tạo ra con người
đến mức ấy.
Trong xã hội có giai cấp hình thành và tồn tại nhiều hệ thống đạo đức
khác nhau luôn tác động đến các cá nhân. Môi trường đạo đức tác động đến
các cá nhân bằng nhận thức đạo đức và thực tiễn đạo đức. Nhận thức đạo đức
để chuyển hoá đạo đức xã hội thành ý thức đạo đức cá nhân. Thực tiễn đạo
đức là hiện thực hoá nội dung giáo dục bằng hành vi đạo đức. Các hành vi
đạo đức lặp đi lặp lại trong đời sống xã hội và cá nhân làm cho cả đạo đức cá

nhân và xã hội được củng cố, phát triển trở thành thói quen, truyền thống, tập
quán đạo đức.
Hiệu quả giáo dục đạo đức phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội,
cách thức tổ chức, đào tạo mức độ tự giác của chủ thể và đối tượng giáo dục
trong quá trình giáo dục.
Giáo dục đạo đức gắn với tiến bộ đạo đức ở chỗ:


12
Sự hoàn thiện của cấu trúc đạo đức và mức độ phổ biến nhân đạo hoá
các quan hệ xã hội, nó sẽ giúp chủ thể lựa chọn, đánh giá đúng hiện tượng xã
hội, tự đánh giá đúng bản thân mình. Khi đã có sự tự nhận thức, tự đánh giá
đúng thơng qua mục đích, u cầu, nhiệm vụ, nội dung, phương thức, hình
thức của quá trình giáo dục sẽ giúp mỗi cá nhân và cả cộng đồng tạo ra các
hành vi và thực tiễn đạo đức đúng. Bởi vì con người luôn luôn vươn tới Chân
- Thiện - Mỹ.
Như vậy: Chức năng giáo dục của đạo đức cần được hiểu một mặt
"Giáo dục lẫn nhau trong cộng đồng"; giữa cá nhân và cá nhân, giữa cá nhân
và cộng đồng. Mặt khác, là sự "tự giáo dục" ở cả cấp độ cá nhân lẫn cấp độ
cộng đồng.
Thứ ba: Chức năng nhận thức:
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có chức năng nhận
thức thơng qua sự phản ánh tồn tại xã hội.
Đạo đức phản ánh hiện thực có đặc điểm riêng khác với các hình thái ý
thức khác. Vì đạo đức là phương thức đặc biệt của sự chiếm lĩnh thế giới con
người. Nếu xét dưới góc độ bản thể luận, đạo đức là hệ thống tinh thần được
quy định bởi tồn tại xã hội. Nhưng xét dưới góc độ xã hội học thì hệ thống
tinh thần (nhận thức đạo đức) không tách rời thực tiễn - hành động của con
người. Do vậy, đạo đức là hiện tượng xã hội vừa mang tính tinh thần, vừa
mang tính hành động hiện thực.

Sự nhận thức của đạo đức có đặc điểm:
Hành động đạo đức tiếp liền sau nhận thức giá trị đạo đức, trong đa số
trường hợp quá trình đó có sự hồ quyện ý thức đạo đức với hành động đạo
đức. ở hình thái ý thức xã hội khác, chẳng hạn như khoa học thì việc ứng
dụng các thành tựu khoa học có khoảng cách về khơng gian và thời gian.


13
Nhận thức của đạo đức là quá trình vừa hướng ngoại và vừa hướng nội.
Nhận thức hướng ngoại ấy chuẩn mực, giá trị, đời sống đạo đức của xã hội
làm đối tượng. Đó là hệ thống giá trị thiện và ác, trách nhiệm và nghĩa vụ,
hạnh phúc và ý nghĩa cuộc sống…, những "cách thức và phương tiện" tạo ra
các giá trị đạo đức. Nhờ sự nhận thức này mà chủ thể nhận thức đã chuyển
hoá được những chuẩn mực đạo đức của xã hội như là cái chung thành ý thức
đạo đức của cá nhân như là cái riêng.
Nhận thức hướng nội (tự nhận thức), lấy bản thân mình - chủ thể đạo
đức - làm đối tượng nhận thức. Đây là quá trình tự đánh giá, tự thẩm định, tự
đối chiếu những nhận thức, hành vi, đạo đức của mình với những chuẩn mực
giá trị chung của cộng đồng. Từ cách nhận thức này mà chủ thể hình thành,
phát triển thành các quan điểm và nguyên tắc sống: sáng tạo hay thụ động, hy
sinh hay hưởng thụ, vị tha hay vị kỷ, hướng thiện hay sa vào cái ác…
Trong q trình tự nhận thức, vai trị của dư luận xã hội và lương tâm là
rất lớn. Dư luận xã hội là sự bình phẩm, đánh giá từ phía xã hội đối với chủ
thể, còn lương tâm là sự tự phê bình. Cả hai đều giúp chủ thể tái tạo lại giá trị
đạo đức của mình - giá trị mà xã hội mong muốn.
Tự nhận thức giúp chủ thể ý thức được trách nhiệm của mình và sẵn
sàng để hồn thành trách nhiệm đó. Trong cuộc sống có vơ số những trách
nhiệm như vậy. Nó ln tự đặt ra trong quan hệ phong phú giữa chủ thể đạo
đức với xã hội, gia đình, bạn bè, đồng chí, đồng đội, tập thể, dân tộc, giai cấp,
tổ quốc.

Tóm lại: Đạo đức là yếu tố cốt lõi của nhân cách con người, nó có vai
trị rất quan trọng trong đời sống xã hội, nó là phương thức cơ bản để điều
chỉnh hành vi của con người, làm cho cá nhân và xã hội cùng tồn tại và phát
triển. Vì vậy mà các giai cấp, các tập đoàn xã hội tiến bộ bao giờ cũng sử


14
dụng đạo đức như là một trong những công cụ, động lực để thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
Về mặt lịch sử, đạo đức mới đã tồn tại và phát triển trước khi tồn tại xã
hội XHCN, nó được hình thành từ cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân
chống lại giai cấp tư sản, nhằm thiết lập địa vị thống trị của mình. Chính nội
dung của cuộc đấu tranh đó quy định sự phát triển nội dung của đạo đức cộng
sản. Trong quá trình xây dựng CNXH, đạo đức mới hình thành và phát triển
từ đạo đức cách mạng của giai cấp vô sản và ngày càng trở thành đạo đức
chung của nhân dân, và trong tương lai trở thành đạo đức chung của nhân loại
là đạo đức cộng sản sau khi đã đi qua giai đoạn trung gian của nó là đạo đức
XHCN.
Để nhấn mạnh vai trị nhân tố tinh thần của đạo đức mới góp phần vào
thắng lợi của cách mạng XHCN; để phù hợp với thực tiễn cách mạng XHCN
trong thời đại ngày nay, trong luận văn này chủ yếu sử dụng khái niệm "đạo
đức cách mạng" theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đạo đức cách mạng khi xác định được chủ thể của nó, đặc trưng, vị trí,
chức năng cơ bản của nó ta có thể quan niệm như sau:
Đạo đức cách mạng là đạo đức của giai cấp công nhân phản ánh lợi
ích cơ bản của họ trong q trình vận động của lịch sử tiến lên xã hội XHCN,
góp phần đoàn kết tất cả những lực lượng cách mạng thủ tiêu tận gốc mọi sự
bóc lột và áp bức, xây dựng xã hội mới - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Đạo đức cách mạng không ngừng được củng cố và phát triển cùng với
sự thắng lợi ngày càng to lớn của cách mạng XHCN, của phương thức sản
xuất XHCN, trở thành nền đạo đức chung của loài người. Tuy nhiên nó cũng

khơng phải là nền đạo đức tuyệt đối chân chính cuối cùng, nhưng hiện nay nó
đang tiêu biểu cho sự lật đổ hiện tại, biểu hiện cho lợi ích của tương lai… là
thứ đạo đức có một số lượng nhiều nhất những nhân tố hứa hẹn một sự tồn tại
lâu dài.


15
1.1.2. Tầm quan trọng của đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo quản lý hiện nay ở Việt Nam
Danh từ "cán bộ" có gốc Hán - Việt xuất hiện trong đời sống xã hội
nước ta, đã để lại dấu ấn tốt đẹp trong lịch sử cách mạng Việt Nam đặc biệt từ
khi có Đảng lãnh đạo.
Vậy "Cán bộ" có thể định nghĩa là: "Người làm cơng tác có chức vụ
trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người thường, khơng có
chức vụ".
Chế độ xã hội nào cũng chú ý, quan tâm đến cán bộ, vì nó liên quan
đến vận mệnh và sự hưng thịnh của mỗi chế độ, mỗi quốc gia. ở nước ta,
trong các thời kỳ cách mạng, cán bộ luôn là vấn đề nổi lên hàng đầu và giữ
một vai trò hết sức trọng yếu. Nó chẳng những có ý nghĩa quyết định đối với
công tác xây dựng Đảng và việc tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng mà còn
là nhân tố quyết định trực tiếp sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận
mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, cán bộ "vừa là người lãnh đạo, lại
vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân".
Đảng muốn lãnh đạo cách mạng phải có đường lối chính trị đúng đắn.
Nhưng để xây dựng được đường lối chính trị đúng đắn và làm cho đường lối
trở thành hiện thực sinh động trong cuộc sống thì nhất thiết phải có đội ngũ
cán bộ vững vàng, đủ sức giúp Đảng hoạch định đường lối và tổ chức thực
hiện đường lối. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Cán bộ là cái dây truyền của bộ
máy, nếu dây truyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy tồn
bộ máy cũng bị tê liệt" [47, tr.275].

Cán bộ là người định ra đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước; đồng thời là người đưa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước đến với nhân dân; vận động tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi các
mục tiêu đề ra, đưa đất nước ngày càng phát triển và tiến bộ. Nhấn mạnh vấn


16
đề này, Đảng ta đã chỉ rõ, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng
Đảng là nhiệm vụ then chốt, trong Đảng, công tác cán bộ là một lĩnh vực quan
trọng nhất, là khâu then chốt của vấn đề then chốt. Và, việc nâng cao đạo đức
cách mạng cho cán bộ lãnh đạo quản lý hiện nay là vấn đề vơ cùng quan trọng
và cấp bách. Vì:
Thứ nhất: Đạo đức của người cán bộ lãnh đạo quản lý có có tầm quan
trọng trong việc giáo dục, nêu gương - góp phần xây dựng nếp sống mới, các
quan hệ xã hội mới ở cơ quan đơn vị. Và, vai trị tấm gương đạo đức là hình
thức sản xuất và tái sản xuất ra các giá trị đạo đức, các giá trị đó truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác. Hồ Chí Minh thường dạy cán bộ đảng viên: Trước
mắt quần chúng không phải ta cứ viết lên trán hai chữ "cộng sản" mà ta được
họ yêu mến. Quần chúng chỉ yêu mến những người có tư cách đạo đức. Muốn
hướng dẫn nhân dân mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước. Do
đó, người cán bộ phải phấn đấu là con người mới, phải tiêu biểu mẫu mực
trước quần chúng, trước nhân dân.
Thứ hai: Nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo quản lý
khơng chỉ có ý nghĩa cấp bách mà cịn là vấn đề chiến lược của quá trình thực
hiện dân chủ hố ở Việt Nam hiện nay. Q trình dân chủ hố nó bắt nguồn từ
nhu cầu khách quan thực hiện vai trò ngày càng tăng của quần chúng nhân
dân. Dân chủ hố là q trình có tính cách mạng nhằm khẳng định bản chất
ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa hướng tới con người và vì con người, tạo
ra những điều kiện tốt nhất để con người phát triển hài hoà toàn diện, là chủ
thể thực sự của xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Bài học lấy dân làm gốc thực

hiện phương châm: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra đã được Đảng ta
đề ra và thấm nhuần sâu sắc nội dung, ý nghĩa của dân chủ đó.
Bằng tấm gương đạo đức của mình, người cán bộ lãnh đạo quản lý là
người dẫn dắt quần chúng nhân dân khắc phục khó khăn trong đời sống kinh tế -


17
xã hội, phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, từng bước thực hiện
mục tiêu "dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Thứ ba: Đạo đức của người cán bộ lãnh đạo quản lý có vai trị quan
trọng, tích cực trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng và tệ nạn xã hội.
Trong cơ chế thị trường hiện nay, bên cạnh những mặt tốt, mặt tích cực khẳng
định con đường phát triển của đất nước, song mặt trái của cơ chế thị trường là
mảnh đất tốt cho tham nhũng của một bộ phận cán bộ thoái hoá biến chất tăng
nhanh. Tham nhũng phổ biến hầu như trên tất cả các lĩnh vực và "đang gây
nguy cơ trực tiếp quan hệ đến sự sống còn của hệ thống chính trị" trên thực tế
khơng ít cán bộ, đảng viên sa ngã thối hố, tham ơ tham nhũng, chiếm đoạt
của cơng, làm thất thốt, thiệt hại tài sản, tiền của Nhà nước hoặc tham gia
bảo kê cho các băng nhóm xã hội đen, nhà hàng khách sạn trá hình… Đảng ta
chỉ rõ trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội có 4 nguy cơ trong đó nguy
cơ tham nhũng trở thành "quốc nạn". Vì vậy, trong điều kiện kinh tế thị
trường hiện nay việc giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên nói
chung và cán bộ lãnh đạo quản lý nói riêng là vấn đề cơ bản nhất trong cuộc
chống tham nhũng và tệ nạn xã hội. Bởi vì đạo đức là gốc của người cách
mạng, nó là phương thức điều chỉnh hành vi làm cho cá nhân và xã hội cùng
tồn tại và phát triển.
Thứ tư: Việc nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo quản lý
còn xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của bản thân đội ngũ này trong điều kiện
kinh tế thị trường hiện nay.
Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát thấp nền kinh tế

nghèo nàn lạc hậu, lực lượng sản xuất lại hết sức thấp kém, trình độ tổ chức
quản lý xã hội còn nhiều hạn chế. Vậy đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ lãnh
đạo quản lý ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng mà công cuộc xây
dựng và đổi mới đất nước đòi hỏi. Thực tế trong những năm qua quá trình đổi


18
mới đất nước, đời sống nhân dân đã được cải thiện một cách rõ rệt, kinh tế xã
hội đang ngày càng phát triển, chính trị ổn định, an ninh quốc phòng được
củng cố và giữ vững xã hội chủ nghĩa. Song xã hội đã và đang xuất hiện nhiều
loại tệ nạn xã hội như: tham ô, tham nhũng, hối lộ, trốn thuế, buôn lậu, mại
dâm, ma tuý và phá hoại những giá trị truyền thống dân tộc… Đặc biệt tệ nạn
xã hội xâm nhập ngày càng nhiều vào tầng lớp thanh thiếu niên, cán bộ cấp
cao, cán bộ chủ chốt ở cơ sở… Thậm chí đe doạ sự tồn vong của giống nịi.
Vì thế phải tăng cường tun truyền giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ
nhân dân một cách thường xuyên liên tục, tăng cường thực hiện pháp luật một
cách nghiêm minh. Sự tiên phong gương mẫu của cán bộ lãnh đạo quản lý,
năng lực tổ chức của họ có ý nghĩa rất lớn.
1.2. Nội dung, yêu cầu đạo đức cách mạng của lãnh đạo quản lý trong điều kiện
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay

1.2.1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và ảnh
hưởng của nó đến đạo đức người lãnh đạo quản lý
1.2.1.1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Trong lịch sử nhân loại, nền kinh tế thị trường ra đời, tồn tại và phát
triển như một tất yếu kinh tế. Nó là sự phát triển cao của kinh tế hàng hoá.
Thực chất, kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường,
trong nền kinh tế này sản xuất cái gì ? sản xuất như thế nào ? sản xuất cho ai
do thị trường quyết định.
Kiểu tổ chức kinh tế này tồn tại ở các nước tư bản từ cuối thế kỷ XV và

ngày nay nó là hình thức kinh tế chung của tất cả các quốc gia trên thế giới.
Việt Nam lựa chọn mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là một tất yếu khách quan và hoàn tồn hợp quy luật. Bời vì: Nền kinh
tế nước ta đi lên từ điểm xuất phát thấp, nền kinh tế dựa vào nông nghiệp là
chủ yếu (>80%) với phương thức sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, công cụ sản


19
xuất cũ kỹ lạc hậu; trình độ khoa học cơng nghệ thấp kẽm. Hơn nữa đất nước
ta lại phải gánh chịu hậu quả của những cuộc chiến tranh kéo dài nên mất
nhiều thời gian để khắc phục hậu quả chiến tranh.
Vì vậy, cần phải tổ chức một phương thức sản xuất mới, một nền kinh
tế mới thì mới có thể đáp ứng được yêu cầu của thời đại. Kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ra đời là tất yếu.
Sau khi đất nước thống nhất (1975) cho tới Đại hội đại biểu toàn quốc
lấn thứ VI (1986), ở Việt Nam vẫn duy trì một nền kinh tế tự tức, tự cấp làm
việc theo lối mệnh lệnh, hành chính, quan liêu. Thực tế đất nước đã rơi vào
cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội khá trầm trọng, sản xuất đình đồn, lạm phát
tăng vọt, đất nước bị bao vây kinh tế, đời sống nhân dân hết sức khó khăn,
lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng giảm sút.
Trước tình hình đó, việc đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới mơ hình phát
triển kinh tế trở thành địi hỏi bức thiết của tồn xã hội. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI (1986) của Đảng, đánh dấu bước ngoặt trong công cuộc đổi
mới ở Việt Nam, bắt đầu của thời kỳ sự hình thành và phát triển kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với tư tưởng chỉ đạo, xoá bỏ chế độ
tập trung quan liêu bao cấp về kinh tế, chuyển sang phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đến đại hội lần thứ IX của Đảng lại khẳng định "thực hiện nhất quán và
lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động

theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" [17,
tr.86]. Đó là sự kết luận, là sự khẳng định qua thực tiễn sau gần 20 năm đổi
mới.


20
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, đi lên từ điểm xuất phát thấp, khép kín nay chuyển
sang thương trường với "sân bởi" rộng lớn, ngoài những mặt mạnh, mặt tích
cực của nền kinh tế thị trường, chúng ta không thể không tránh khỏi những
mặt trái của cơ chế ấy. Chính mặt trái của kinh tế thị trường tạo điều kiện cho
tệ quan liêu, tham ô, tham nhũng gia tăng. Khơng ít cán bộ, đảng viên thối
hố, biến chất, suy đồi về đạo đức, lối sống.
Bên cạnh đó, tình trạng phân hố giàu nghèo trong xã hội có xu hướng
tăng dần. Theo số hiệu thống kê của tổng cục thống kê năm 2001, nếu chia
dân số nước ta thành từng nhóm. 20% số hộ có thu nhập cao nhất và 20% số
hộ có thu nhập thấp nhất thì sự chênh lệch giữa hai nhóm này trên phạm vi cả
nước liên tục tăng.
Năm 1994: Tăng 6,5 lần
Năm 1995: Tăng 7,0 lần
Năm 1996: Tăng 7,3 lần
Năm 1999: Tăng 8,9 lần…
Vấn đề đặt ra ở đây là chúng ta cần phải nhận thức đúng và có những
giải pháp phù hợp để phát huy tối đa mặt tích cực, ngăn chặn và từng bước
đẩy lùi mặt tiêu cực. Muốn vậy, kinh tế thị trường ở Việt Nam phải phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế này được biểu hiện cụ thể như
sau:
Thứ nhất: Đa dạng hoá sở hữu và phát triển các hình thức kinh tế ở
Việt Nam.

Thứ hai: Phân công lao động xã hội và đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Thứ ba: Phát triển đồng bộ hệ thống thị trường ở Việt Nam và hướng
phát triển các loại thị trường trong những năm tới.


21
Thứ tư: Đổi mới cơ chế, chính sách quản lý phù hợp với nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Thứ năm: Đổi mới về phân phối thu nhập và đảm bảo bình đẳng xã hội
trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Như vậy, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, phải có sự quản lý của Nhà nước, sự điều hành của Nhà nước xã hội
chủ nghĩa. Tuy nhiên, Nhà nước không thể chủ quan, tuỳ tiện can thiệp và các
quan hệ kinh tế mà phải tôn trọng, nhận thức và vận dụng đúng các quy luật
kinh tế thị trường để quản lý nền kinh tế đó theo mục tiêu đã định.
1.2.1.2. ảnh hưởng của kinh tế thị trường đến đạo đức người lãnh
đạo quản lý
Cơ chế thị trường đang là hiện tượng có tính tồn cầu. Ngày nay, khơng
thể nói tới phát triển nếu như khơng chuyển sang nền kinh tế thị trường. Nó
tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vừa có tính tích cực
vừa có tính tiêu cực.
ảnh hưởng của cơ chế thị trường đối với đạo đức nói chung và đạo đức
người cán bộ lãnh đạo quản lý nói riêng là một hiện tượng hết sức phức tạp.
Cơ chế thị trường được thực hiện với những dạng thức khác nhau, ở những
quốc gia khác nhau, đồng thời mỗi quốc gia khi đi vào kinh tế thị trường có
một trình độ phát triển kinh tế - xã hội với điểm xuất phát cũng khác nhau,
nền văn hố cũng khác nhau.
* Mặt tích cực:
Một là: Nền kinh tế thị trường đề cao trách nhiệm cá nhân. Nói đến đạo
đức của lãnh đạo quản lý trước hết là nói đến trách nhiệm cá nhân của họ.

điều đó biểu hiện ở trách nhiệm đối với cơng việc được giao phó, trách nhiệm
đối với đơn vị mà mình lãnh đạo quản lý. Đảm bảo tốt trách nhiệm cá nhân đó
là một chuẩn mực đạo đức của người cán bộ lãnh đạo quản lý. Chuẩn mực giá


22
trị này khơng phải là điều gì mới mẻ nhưng điều muốn nói ở chỗ, trong nền
kinh tế thị trường chuẩn mực đó trở nên cụ thể hơn, rõ ràng hơn. Tinh thần
trách nhiệm của người cán bộ lãnh đạo quản lý phải được biểu hiện ở công tác
lãnh đạo quản lý. Hiệu quả trong nền kinh tế thị trường được biểu hiện ra một
cách rõ ràng, được cân đong, đo đếm một cách cụ thể. Từ đó, một mặt khắc
phục được cách xem xét đánh giá tinh thần trách nhiệm của người cán bộ lãnh
đạo quản lý một cách chung chung trừu tượng, mặt khác làm cho "đức" và
"tài" gắn bó với nhau, hồ quyện vào nhau, địi hỏi có nhau. Nói đến tiêu
chuẩn của người cán bộ lãnh đạo chính trị trong xã hội ta là nói đến "đức" và
"tài", trong đó "đức" là gốc. Nhưng có "đức" mà khơng có "tài", khơng đủ
năng lực điều hành cơng việc, hoặc không phấn đấu nâng cao năng lực đáp
ứng nhu cầu của cơng việc, thì sớm muộn cũng bị kinh tế thị trường đào thải.
Kinh tế thị trường do đó có khả năng ngăn ngừa hiện tượng chạy chọt chức vụ
của những kẻ hám danh vị, nó sắp đặt con người vào đúng vị trí cơng việc
hợp với sở trường của mình.
Hai là: Kinh tế thị trường làm cho động cơ và hiệu quả quản lý gắn
liền với nhau, thống nhất với nhau. Gắn liền động cơ và hiệu quả là một
chuẩn mực giá trị của hoạt động lãnh đạo quản lý trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN.
Để phán xét một hành vi nào đó có phải là hành vi đạo đức hay không,
trước hết phải xem xét động cơ, mục đích của hành vi đó. Điều đó là hồn
tồn đúng đắn. Tuy nhiên, nếu chỉ xuất p hát từ động cơ, mục đích của hành
vi để phán xét con người, mà thiếu đến sự cân nhắc đến hiệu quả của hành vi
đó thì lại rơi vào duy tâm, chủ quan ý chí. Trước đây, ở mức độ nhất định khi

đánh giá phẩm chất đạo đức của cán bộ nói chung, của cán bộ lãnh đạo chính
trị nói riêng, chúng ta có phần quá nhấn mạnh động cơ, mục đích. Vì nước, vì
dân, vì CNXH đó là động cơ lý tưởng tốt đẹp.


23
Ba là: Kinh tế thị trường tạo điều kiện cho người cán bộ lãnh đạo chính
trị năng động, nhạy bén sáng tạo thôi thúc họ tự giác - tự rèn luyện trong lao
động, trong lãnh đạo chính trị.
Bốn là: Nền kinh tế thị trường lành mạnh địi hỏi sự cơng bằng và
thành thực, đó là hạt nhân của mối quan hệ đạo đức giữa người và người.
Như vậy, đứng về phương diện đạo đức cán bộ nói chung, cán bộ lãnh
đạo quản lý nói riêng, ảnh hưởng tích cực của nền kinh tế thị trường là từng
bước hình thành nhân cách tự chủ, tự lập trong con người, rèn luyện con
người ý thức lao động và sáng tạo. Đó là những phẩm chất đạo đức về nghĩa
vụ, ý chí, lịng dũng cảm, tính nguyên tắc, tính trung thực và tính khiêm tốn ở
mỗi cán bộ lãnh đạo quản lý trong đời sống xã hội hiện nay.
* Mặt tiêu cực:
Kinh tế thị trường ở nước ta có những điều khác với kinh tế thị trường
trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, cũng khác với kinh tế thị
trường trong thời kỳ hiện đại. Sự chuyển biến sang kinh tế thị trường ở nước
ta được tiến hành một cách tự giác… Đó là một nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước và định hướng CNXH. Tuy nhiên, vẫn là kinh tế thị
trường nên nó có những mặt mâu thuẫn với bản chất tốt đẹp của xã hội
XHCN. Sự tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đến đạo đức người cán bộ
lãnh đạo quản lý thể hiện ở những khía cạnh sau:
Một là: Nền kinh tế thị trường lấy lợi ích (nhấn mạnh lợi ích kinh tế,
coi trọng lợi ích cá nhân) làm động lực của sự phát triển. Nhân tố này tự bộc
lộ hai mặt: Mặt tích cực và sự khơi dậy tính sáng tạo của tư duy. Nhưng cũng
chính q trình này đã khơi lên nguồn lợi ích, một chất men kích thích làm

khá nhiều cán bộ lãnh đạo chính trị và một số cán bộ khác "lao vào" và có
những quyết định sai, bất chấp pháp luật, bất chấp lương tâm, đạo lý để làm
giàu bất chính. Thực tế cho thấy, cuộc đấu tranh giữa hai lối sống: lối sống có


24
lý tưởng, lành mạnh, trung thực sống bằng lao động của mình, có ý thức tơn
trọng và bảo vệ của cơng, chăm lo lợi ích của tập thể và của đất nước, với lối
sống thực dụng, dối trá, ích kỷ, ăn bám, cơ hội, chạy theo đồng tiền trong đời
sống xã hội đang diễn biến phức tạp.
Hai là: Kinh tế thị trường là môi trường xã hội thuận lợi nảy sinh phát
triển chủ nghĩa cá nhân. Đi vào kinh tế thị trường là tất yếu khách quan, song
kinh tế thị trường kích thích hoạt động tích cực của cá nhân bằng sự thúc đẩy
sự quan tâm tới lợi ích riêng của mình. Nhưng nếu khơng chú ý nó sẽ đề cao
quá mức tự do cá nhân, lợi ích cá nhân, do đó rất dễ nảy sinh chủ nghĩa cá
nhân, chủ nghĩa lợi kỷ cực đoan. Kinh nghiệm cho thấy, không ít người trong
cán bộ lãnh đạo quản lý, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa lợi kỷ cực đoan đã đẩy
họ rơi vào tình trạng tha hố bản chất: lợi dụng chức quyền mưu lợi ích riêng;
dùng quyền lực mưu tư lợi. Nếu như trong cơ chế quản lý tập trung quan liêu,
bao cấp, những hiện tượng lợi dụng chức quyền, lợi dụng địa vị cơng tác để
mưu lợi ích riêng chỉ là những hiện tượng cá biệt, mức độ, quy mơ cịn hạn
chế, thì ở giai đoạn đầu của kinh tế thị trường - như thực tế mấy năm qua đã
chỉ ra - tình trạng này trở nên nghiêm trọng và phổ biến hơn. Triết lý nhân
sinh "sống chết mặc bay" ăn mòn đạo đức được xây dựng trên nền tảng của
cái thiện. Vì thế, việc ngăn chặn, xố bỏ chủ nghĩa cá nhân trong nền kinh tế
thị trường là yêu cầu cấp bách hiện nay.
Ba là: Kinh tế thị trường tạo cơ sở cho việc kích thích sự tha hoá về lối
sống của một bộ phận cán bộ lãnh đạo quản lý. Cùng với sự tăng lên của sản
xuất hàng hoá, khối lượng tiền và uy lực đồng tiền cũng tăng gấp bội. Khả
năng tích trữ huy động tiền, vàng rất lớn. Đó là bước phát triển của đời sống

kinh tế của xã hội. Tiền là vật vô tri, vơ giác nhưng khi được thần thánh hố
và được coi là giá trị duy nhất thì sẽ biến thành tai hoạ, trở thành lực lượng
thống trị làm tha hoá con người. Khơng ít cán bộ đã bị tha hố về phong cách


25
lối sống nô lệ cho đồng tiền, đặt đồng tiền lên trên hết. Do sẵn có đồng tiền
làm ra khơng mấy vất vả (lợi dụng chức quyền tham ô, tham nhũng…) họ tiêu
xài lãng phí theo kiểu "vứt tiền qua cửa sổ", sa đoạ, trụy lạc. Những hiện
tượng này đã gây tác động xấu đến đời sống xã hội, làm nhân dân bất bình.
Bốn là: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mở cửa ở nước ta đã
làm cho kinh tế sinh động, phát triển rất mạnh mẽ và tiếp cận được với công
nghệ sản xuất tiên tiến của nhiều nước trên thế giới. Nhưng cùng với điều đó
là ảnh hưởng tiêu cực của văn hoá phương Tây, của lối sống thực dụng tư sản.
Bằng nhiều con đương, ngõ ngạch, thơng qua mở cửa, các hình thức như:
phim, băng hình, đĩa compact, sách, báo, tranh ảnh dâm ơ đồi truỵ, bạo lực,
tuyên truyền cho sức mạnh đồng tiền, cho lối sống thực dụng đã "ồ ạt" vào
nước ta. Chúng trực tiếp hay gián tiếp "gặm nhấm, ăn mòn" những nguyên tắc
đạo đức xã hội chủ nghĩa, những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc.
Đây là một thách thức lớn, gây tác động xấu đến đạo đức người cán bộ lãnh
đạo quản lý ở Việt Nam hiện nay.
Với cách nhìn như vậy thì giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc đã
và đang "sói mịn" trong bước chuyển mình của nền kinh tế thị trường. Vậy
vấn đề đặt ra cho tất cả các cấp, các ngành, mọi thành viên trong xã hội cần
phải làm gì? làm như thế nào ? để chúng ta vừa phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa phải phát huy gìn giữ giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc, vừa xây dựng các quan hệ phẩm chất mới, đạo đức
cách mạng phù hợp với thời đại mới, thời đại của văn minh, trí tuệ.
1.2.2. Nội dung yêu cầu đạo đức cách mạng của người cán bộ lãnh
đạo quản lý ở Việt Nam hiện nay

Đạo đức là sản phẩm tổng hợp của các yếu tố khách quan và chủ quan,
là sản phẩm của hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người. Những quan
hệ giữa người với người; cá nhân và xã hội càng có ý thức tự giác, ý nghĩa và


×