Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Thảo luận nhóm: Những biện pháp chính phủ đã sử dụng để kiềm chế lạm phát trong thời gian qua pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.15 KB, 23 trang )

Đề tài thảo luận:
Phân tích một số biện
pháp mà chính phủ đã sử
dụng để kiểm chế lạm
phát trong thời gian qua.
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
1. Lý thuyết về lạm phát:
1.1 Khái niệm về lạm phát
1.2 Quy mô lạm phát
1.3 Tác hại của lạm phát
1.4.Các lý thuyết về lạm phát
1.5 Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp
2. Tình hình lạm phát ở Việt Nam trong 5 năm gần đây:
2.1 Tình trạng lạm phát ở việt nam trong 5 năm 2008-2012.
2.1.1. Khái quát chung về lạm phát ở Việt Nam từ năm 2008-2012.
2.1.2.Tình hình lạm phát 6 tháng đầu năm 2012
2.2 Tác động của lạm phát đến nền kinh tế Việt Nam
3. Nguyên nhân, giải pháp kiềm chế lạm phát mà chính phủ sử dụng:
3.1 Nguyên nhân của lạm phát
3.2.Các giải pháp đối với lạm phát
KẾT LUẬN
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 3
STT Họ và tên Công việc Đánh
giá
1 Nguyễn Thị Hương
(nhóm trưởng)
-Làm slide
-Đóng quyển
Tốt
2 Bùi Thị Mai Linh -Mở đầu


-Khái niệm về lạm phát
-Quy mô lạm phát
Tốt
3 Nguyễn Thị Loan -Tác hại của lạm phát
-Các lý thuyết về lạm phát
-Mối quan hệ giữa lạm phát và
thất nghiệp
Tốt
4 Võ Thị Lam -Tình hình lạm phát ở Việt Nam
trong 5 năm 2007-2012
-Tình hình lạm phát 6 tháng đầu
năm 2012
Tốt
5 Đinh Thị Thu Loan -Tác động của lạm phát đến nền
kinh tế Việt Nam
-Kết luận
Tốt
6 Bùi Thị Mến -Thuyết trình Tốt
7 Trịnh Thị Huyền Nguyên nhân của lạm phát Tốt
8 Vũ Thị Liên Các giải pháp đối với lạm phát Tốt
MỞ ĐẦU
Tình hình kinh tế trong và ngoài nước dường như đang thách thức mục
tiêu kiềm chế lạm phát dưới 10% đã được xác định trong nghị quyết của Quốc
hội về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2012.
Lạm phát là một trong bốn yếu tố quan trọng nhất của mọi quốc gia (tăng
trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số dư). Tình
hình lạm phát hiện nay ở Việt Nam lên tới mức báo động là 2 con số, vượt qua
ngưỡng lạm phát cho phép tối đa là 9% của mỗi quốc gia. Điều này sẽ dẫn đến
nhiều tiêu cực trong đời sống kinh tế của chính phủ: làm suy vong nền kinh tế
quốc gia. Bên cạnh đó là sự tác động mạnh tới đời sống của người dân, nhất là

dân nghèo khi vật giá ngày càng leo thang. Phân tích, nghiên cứu lạm phát luôn
là đề tài thu hút trong nghiên cứu kinh tế. Làm thế nào để giảm lạm phát, đảm
bảo kinh tế luôn là mối lo lớn nhất của chính phủ và các nhà nghiên cứu kinh tế.
1. LÝ THUYẾT VỀ LẠM PHÁT
1.1.Khái niệm lạm phát
Lạm phát xảy ra khi mức giá chung thay đổi. Khi mức giá tăng lên được
gọi là lạm phát, khi mức giá giảm xuống được gọi là giảm phát. Vậy, lạm phát
là sự tăng lên liên tục của mức giá trung bình theo thời gian.
Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ số chung của giá cả và loại chỉ số biểu
hiện lạm phát gọi là chỉ số lạm phát hay chỉ số giá cả chung của toàn bộ hàng
hoá cấu thành tổng sản phẩm quốc dân. Nó chính là GNP danh nghĩa / GNP
thực tế.
Công thức tính có thể viết như sau :
diI
pp
.

=
Trong đó :
p
I
- Là chỉ số giá của cả giỏ hàng.
Ip – Chỉ số giá cả của từng loại hàng, nhóm hàng trong giỏ.
d – Tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại, nhóm hàng trong giỏ
( với

=
1d
). Nó phản ánh cơ cấu tiêu dùng của xã hội.
Tỷ lệ lạm phát

Tỷ lệ lạm phát là thước đo chủ yếu của lạm phát trong một thời kỳ. Quy
mô và sự biến động của nó phản ánh quy mô và xu hướng lạm phát.
Tỷ lệ lạm phát được tính như sau:
Gp = (
1−p
p
I
I
- 1 ).100
Trong đó : Gp – tỷ lệ lạm phát (%)
I
p
- Chỉ số giá cả của thời kỳ nghiên cứu
I
1

p
- Chỉ số giá cả thời kỳ trước đó.
1.2.Quy mô lạm phát
Người ta thường chia lạm phát thành ba loại tuỳ theo mức độ của tỷ lệ lạm
phát.
Lạm phát vừa phải, còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát
dưới 10% một năm. Lạm phát ở mức độ này không gây ra những tác
động đáng kể đối với nền kinh tế.
Lạm phát phi mã sảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 hoặc 3
con số trong một năm. Loại lạm phát này khi đã trở nên vững chắc sẽ gây
ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng.
Siêu lạm phát xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao vượt
xa lạm phát phi mã. Lạm phát ở Đức năm 1922- 1923 là hình ảnh siêu
lạm phát điển hình trong lịch sử lạm phát thế giới, giá cả tăng từ 1 đến 10

triệu lần. Siêu lạm phát thường gây ra những thiệt hại nghiêm trọng và
sâu sắc, tuy nhiên chúng cũng ít khi xảy ra.
1.3.Tác hại của lạm phát
Khi giá cả của các loại hàng hoá tăng với tốc độ đều nhau thì loại lạm phát này
thường được gọi là lạm phát thuần tuý. Kiểu lạm phát này hầu như không xảy
ra và trong thực tế các cuộc lạm phát thông thường đều có hai đặc điểm đáng
quan tâm sau đây:
 Tốc độ tăng giá cả thường không đồng đều giữa các loại hàng.
 Tốc độ tăng giá và tăng lương cũng xảy ra không đồng thời giữa các loại
hàng.
Hai đặc điểm trên đây dẫn đến sự thay đổi tương đối về giá cả (hay là giá cả
tương đối đã thay đổi). Tác hại chủ yếu của lạm phát không phải ở chỗ giá cả
tăng lên mà ở chỗ giá cả tương đối đã thay đổi. Những tác hại đó là :
Phân phối lại thu nhập và của cải một cách ngẫu nhiên.
Có những biến dạng về cơ cấu sản xuất và việc làm trong nền kinh tế.
Để hiểu rõ hơn về tác hại của lạm phát cũng cần phải chia chúng thành
hai loại: lạm phát thấy trước và lạm phát không thấy trước.
Tác hại của lạm phát còn được đo bởi sự phản ứng mạnh mẽ của các tầng lớp
dân cư( hậu quả tâm lý xã hội) thông qua các cuộc điều tra xã hội học. Sự phản
ứng của công chúng xuất phát từ vấn đề kinh tế, nhưng có thể tác động đến sự
ổn định chính trị và do vậy, phản ứng kinh tế vĩ mô của các chính phủ là tìm
mọi biện pháp chống lạm phát, cho dù cái giá phải trả là khá cao.
1.4.Các lý thuyết về lạm phát
Lạm phát là sự tăng giá chung của toàn bộ nền kinh tế,mà các yếu tố đưa
đến tăng giá lại rất đa dạng và phức tạp,tùy thuộc vào đặc điểm cụ thể của một
nền kinh tế
1.4.1 .Lạm phát cầu kéo
Lạm phát cầu kéo xảy ra khi tổng cầu tăng lên mạnh mẽ tại mức sản
lượng đã đat hoặc vượt quá tiềm năng.trong thực tế khi xảy ra lạm phát cầu kéo
người ta thường nhận thấy lượng tiền trong lưu thông và khối lượng tín dụng

tăng đáng kể và vượt quá khả năng có giới hạn của mức cung hàng hóa.
Hình 1.1: Lạm phát do cầu-kéo
P Q’
AS
P’ E’
AD’
P E
AD
1.4.2 .Lạm phát chi phí đẩy
Các cơn sốc giá cả của thị trường đầu vào là nguyên nhân chủ yếu đẩy
chi phí lên cao, đường AS dich chuyển lên cao. Tuy tổng cầu không thay đổi
nhưng giá cả tăng lên và sản lượng giảm xuống.
Gía cả sản phẩm trung gian tăng đột biến thường do các nguyên nhân
sau: thiên tai, chiến tranh, kinh tế.
P Q’ AS'
AS
E’
P’
E
P
AD
Hình 1.2: Lạm phát chi phí đẩy
1.4.3 .Lạm phát dự kiến
Trong nền kinh tế tiền tệ,trừ siêu lam phát và lạm phát phi mã,lạm phát
vừa phải có xu hướng tiếp tục giữ mức lịch sử của nó.giá cả trong trường hợp
này tăng đều với một tỉ lệ tương đối ổn định.tỉ lệ lạm phát này gọi là tỉ lệ lạm
phát ỳ,và vì mọi người đã có thể dự tính trước mức độ của nó nên còn được gọi
là lạm phát dự kiến.
1.4.4 .Lạm phát và tiền tệ
Lượng tiền tăng càng nhanh thì lạm phát cang cao và bất kì một chính

sách vĩ mô nào giảm được tốc độ tăng tiền cũng dẫn đến giảm tỉ lệ lạm phát và
điều này dặc biệt đúng với thời kì ngắn hạn khi ngân sách thâm hụt lớn, các
chính phủ có thể in thêm tiền để trang trải, lượng tiền danh nghĩa tăng lên là
một nguyên nhân gây ra lạm phát. Và một khi giá cả đã tăng lên thì sự thâm hụt
mới lại nảy sinh đòi hỏi phải in thêm một lượng tiền mới và lạm phát tiếp tục
tăng vọt. Kiểu lạm phát xoáy ốc này thường diễn ra trong thời kì siêu lạm phát.
1.4.5 .Lạm phát và lãi suất
Lãi suất thực tế = lãi suất danh nghĩa - tỉ lệ lạm phát.
Khi tỉ lệ lạm phát tăng lên, lãi suất danh nghĩa tăng theo, tăng chi phí cơ hội của
việc giữ tiền, càng giữ nhiều tiền càng thiệt. Điều này đặc biệt đúng trong các
cuộc siêu lạm phát.
1.5 Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp
Lạm phát và thất nghiệp là hai căn bệnh nặng của nền kinh tế thị trường
Đường Philips ban đầu
Đường này cho biết mối quan hệ nghịch giữa lạm phát và thất nghiệp. Lý thuyết
này gợi ra rằng có thể đánh đổi lạm phát lấy thất nghiệp thấp. Khi thất nghiệp
thực tế thấp hơn tỉ lệ tự nhiên thì lạm phát xảy ra. Đường Philips gợi cho
những người làm chính sách lựa chọn các chính sách vĩ mô, đặc biệt là chính
sách tài khóa và tiền tệ.
Đường Philips mở rộng
Đường này cho biết khi thất nghiệp bằng tỉ lệ tự nhiên thì lạm phát bằng tỉ lệ dự
kiến. Nếu thất nghiệp thực tế cao hơn tỉ lệ tự nhiên thì lạm phát thấp hơn tỉ lệ tự
nhiên. Khi thất nghiệp và lạm phát tăng lên - không có sự đánh đổi giữa thất
nghiệp và lạm phát trong ngắn hạn - đó là thời kì đình trệ thất nghiệp. Sự điều
tiết bằng chính sách tiền tệ và tài khóa giữ cho nền kinh tế ổn định sản lượng.
Đường Philips dài hạn
Trong dài hạn tỉ lệ thất nghiệp thực tế có thể bằng tỉ lệ thất nghiệp dự kiến bởi
sự tác động của các chính sách tài khóa và tiền tệ.
Tỉ lệ thất nghiệp thực tế luôn bằng tỉ lệ tự nhiên dù tỉ lệ lạm phát thay đổi như
thế nào. Vậy trong dài hạn lạm phát và thất nghiệp không có mối quan hệ với

nhau.
2.TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TRONG 5 NĂM GẦN ĐÂY
2.1 tình trạng lạm phát ở việt nam trong 5 năm 2007-2012.
2.1.1. Khái quát chung về lạm phát ở Việt Nam từ năm 2007-2012.
Trong 5 năm gần đây Việt Nam luôn phải chịu lạm phát rất cao. Đặc biệt
lạm phát bùng nổ dữ dội trong năm 2008 và 2011. Trong những năm gần
đây,Việt nam ấn tượng bởi tốc độ tăng trưởng kinh tế cao liên tục. Tuy nhiên thì
Vệt Nam đang phải chịu tác động từ chính thành công quá lớn và quá nhanh
chóng của mình. Cái giá phải trả cho tốc độ tăng trưởng cao là mất ổn định kinh
tế vĩ mô ít nhất là trong trung hạn. Năm 2007 chỉ số CPI tăng đến 12,6% và đặc
biệt tăng cao vào những tháng cuối năm. Năm 2008 đã đi vào lịch sử Việt Nam
như một năm đầy biến động và sóng gió trên tất cả các thị trường. Từ thị trường
trong nước đến thị trường nước ngoài, từ thị trường hàng hóa dịch vụ thông
thường , cao cấp đến thị trường tài chính và thị trường bất động sản.
Thị trường giá cả lạm phát năm 2009 đặc trưng bởi sự đan xen của các
yếu tố mang tính qui luật với không ít yếu tố bất thường, vượt ra khỏi những dự
tính ban đầu. Năm 2009 là năm kiềm chế lạm phát thành công, có thể nói lạm
phát năm 2009 nằm trong dự tính và kiểm soát được lạm phát là một thành
công của Việt Nam trong năm này. Thành công đó càng đặc biệt hơn khi đi đôi
với tốc độ tăng trưởng kinh tế 5,2% và thất nghiệp không tới mức nguy hiểm
như dự đoán những tháng đầu năm trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu
tác động tiêu cực tới nền kinh tế nước ta, đặc biệt hoạt động xuất khẩu và thu
hút vốn đầu tư nước ngoài.
Lạm phát năm 2010 tăng lên so với năm 2009,với mức lạm phát 2 con số
11,75% tuy không quá bất ngờ nhưng vẫn vượt so với chỉ tiêu Quốc hội đề ra ra
hồi đầu năm gần 5%.
Trong những năm 2011, lạm phát trtương ứng của năm trung bình 12
tháng tăng 18,58% so với giai đoạn tương ứng của 2010 và 18,13% so với
tháng 12/2010. Mức lạm phát tăng cao trong 4 tháng đầu năm lên tới mức
3,32%trong tháng 4 do sức ép từ tỉ giá, giá cả hàng hóa năng lượng và cung

tiền. Từ tháng 5 trở đi, nhờ những nổ lực ổn định hóa quyết liệt của chính phủ,
CPI đã liên tục giảm tốc và rơi xuống dưới 1% kể từ tháng 8/2011.
Năm 2012 tình hình lạm phát đang có những chuyển biến tích cực.Tổng
cục thống kê Việt Nam vừa công bố Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cả nước tháng 6.
Không nằm ngoài dự đoán của các chuyên gia, CPI tháng 6 có mức giảm 0,26%
so với tháng 5/2012. Đây là tháng đầu tiên CPI cả nước có chỉ số âm sau 38
tháng dương liên tiếp. So với tháng 6 năm 2011, CPI tháng 6 năm 2012 tăng
6,9% và so với tháng 12 năm 2011 tăng nhẹ 2,52%. Bình quân 6 tháng đầu năm
2012 tăng 12,2% so với cùng kỳ.
( Vietbao.vn)
2.1.6. Tình hình lạm phát năm 2012
Trong những tháng đầu năm, làn sóng tăng giá hàng thiết yếu đã đẩy
người dân vào một mặt bằng giá mới khá bất lợi. Những làn sóng tăng giá các
hàng thiết yếu nêu trên - vốn chiếm tỷ trọng lớn trong rổ tính CPI của Việt Nam
- đang và sẽ làm cho mục tiêu an sinh xã hội bị đe dọa, mức sống thực tế của
người dân bị hạ thấp. Hơn nữa, chúng còn gây áp lực tăng lạm phát chi phí đẩy
khiến CPI tháng 3-2012 sẽ khó bắt đầu chu kỳ giảm theo thông lệ, mà ngược
lại, có thể sẽ tiếp tục tăng với mức cao.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 3 năm 2012 tăng nhẹ ở mức 0,16% so với
tháng trước; tăng 2,55% so với tháng 12/2011; tăng 14,15% so với cùng
kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân quý I năm nay tăng 15,95%
so với bình quân cùng kỳ năm 2011.
Tăng trưởng kinh tế tuy không cao nhưng là mức tăng hợp lý trong điều kiện cả
nước tập trung thực hiện mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát. Chỉ số giá tiêu
dùng có xu hướng tăng chậm lại. Xuất khẩu hàng hóa tăng khá. Những khó
khăn trong vấn đề thanh khoản của các ngân hàng đang dần được khắc
phục.Tuy nhiên, kinh tế-xã hội nước ta tiếp tục phải đối mặt với không ít khó
khăn, thách thức.Tình hình thế giới biến động phức tạp, thị trường giá cả hàng
hóa thay đổi khó lường. Việc thực hiện lộ trình điều chỉnh giá một số mặt hàng
như: Điện, than, xăng dầu theo cơ chế thị trường sẽ ảnh hưởng đến cả chỉ số giá

tiêu dùng và chi phí đầu vào của hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I năm 2012 theo giá so sánh 1994
ước tính tăng 4,00% so với cùng kỳ năm 2011, thấp hơn mức tăng 5,57% của
cùng kỳ năm trước. Tăng trưởng kinh tế quý I năm nay đạt mức thấp do hầu hết
các ngành, lĩnh vực gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh và tiêu thụ
sản phẩm, đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Tốc độ tăng của
ngành này chậm hơn cùng kỳ năm trước và hoạt động xây dựng giảm, dẫn đến
tốc độ tăng của khu vực công nghiệp và xây dựng tăng chậm so với cùng kỳ
năm trước, từ đó ảnh hưởng đến mức tăng trưởng chung của nền kinh tế.
2.2. Tác động của lạm phát đến nền kinh tế Việt Nam
Tăng trưởng bền vững và ổn định lạm phát ở mức thấp đó là những mục
tiêu hàng đầu của điều tiết vĩ mô ở tất cả các nước. Không có gì đáng ngạc
nhiên khi câu hỏi có sự tồn tại và bản chất của mối quan hệ giữa lạm phátvà
tăng trưởng kinh tế đã được các nhà kinh tế hoạch định đặc biệt quan tâm và trở
thành trung tâm của nhiều cuộc tranh luận về chính sách. Vậy lạm phát có
những ảnh hưởng như thế nào với nền kinh tế Việt Nam?
Tác hại chủ yếu của lạm phát không phải ở chỗ giá cả tăng lên mà ở chỗ
giá cả tương đối đã thay đổi. Những tác hại đó là tác động phân phối lại thu
nhập và của cải, việc làm, thị trường chứng khoán, hoạt động đầu tư, ngân
hang, lãi suất, đời sống của nhân dân……
Tác động phân phối lại thu nhập và của cải
Tác động chính của lạm phát về mặt phân phối phát sinh từ những loại khác
nhau trong các loại tài sản và nợ nần của nhân dân. Khi lạm phát xảy ra, những
ngươi có tài sản, những người đang vay nợ là có lợi vì giá cả của các loại tài sản
nói chung đều tăng lên, con giá trị đồng tiền thì giảm xuống. Ngược lại, những
người làm công ăn lương, những người gửi tiền, những người cho vay là bị thiệt
hại. Rõ ràng, ta có thể thấy lạm phát đóng vai trò phân phối lại của cải giữa các
cá nhân một cách độc đoán. Vì vậy người cho vay và người đi vay phải bảo vệ
mình bằng cách “thỏa thuận trong hợp đồng” là lãi suất, tiền lương, lương hưu
phải thay đổi theo tỷ lệ lạm phát.

Tác động đến phát triển kinh tế và việc làm
Trong điều kiện nền kinh tế chưa đạt đến mức toàn dụng, lạm phát vừa
phải thúc đẩy sự phát triển kinh tế vì nó có tác dụng làm tăng khối tiền tệ trong
lưu thông, cung cấp thêm vốn cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, kích thích sự
tiêu dùng của chính phủ và nhân dân.
Giữa lạm phát và thất nghiệp có mối quan hệ nghịch biến: khi lạm phát
tăng lên thì thất nghiệp giảm xuống và ngược lại khi thất nghiệp giảm xuống thì
lạm phát tăng lên. Nhà linh tế học A.W. Phillips đã đưa ra “Lý thuyết đánh đổi
giữa lạm phát và việc làm”, theo đó một nước có thể mua một mức độ thất
nghiệp thấp hơn nếu sẵn sàng trả giá bằng một tỷ lệ lạm phát cao hơn.
Tranh luận ở trên sẽ kéo theo tranh luận khác rằng liệu con số lạm phát cao hơn
sẽ thúc đẩy nền kinh tế. Trên lý thuyết tiền lương gắn liền với năng suất lao
động, nhưng người lao động thường miễn cưỡng chấp nhận bị giảm lương điều
này đôi khi góp phần duy trì quan hệ sản xuất. Với một tỷ lệ lạm phát hợp lý có
thể biến mọi thứ dễ dàng hơn khi điều chỉnh tiền lương tương đối.
Với lĩnh vực lưu thông
Trong điều kiện lạm phát cao và không dự đoán được, cơ cấu nền kinh tế dễ bị
mất cân đối vì khi đó các nhà kinh doanh thường hướng đầu tư vào những khu
vực hàng hóa có giá cả tăng lên cao, nhưng ngành sản suất có chu kỳ ngắn, thời
gian thu hồi vốn nhanh, hạn chế đầu tư vào những ngành sản suất có chu kỳ dài,
thời gian thu hồi vốn chậm vì có nguy cơ gặp phải nhiều rủi ro.
Lạm phát tăng lên cao thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan
hiếm hàng hoá. Lúc này những người thừa tiền và giàu có dùng tiền của mình
để vơ vét và thu gom hàng hoá, tài sản, tình trạng này càng làm mất cân đối
nghiêm trọng quan hệ cung - cầu hàng hoá trên thị trường giá cả hàng hoá tăng
lên nhiều hơn. Ngoài ra khi tỷ lệ lạm phát khó phán đoán thì việc đầu cơ vốn
vào lĩnh vực sản xuất sẽ gặp phải rủi ro cao. Do có nhiều người tham gia vào
lĩnh vực lưu thông nên lĩnh vực này trở lên hỗn loạn. Tiền vừa ở trong tay
người bán hàng xong lại nhanh chóng bị đẩy vào kênh lưu thông ,tốc độ lưu
thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm thúc đẩy lạm phát gia tăng.

Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng
Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng thương mại và ngân hàng bị thu hẹp.
Số tiền người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều do giá trị đồng tiền bị
giảm xuống. Về phía hệ thống ngân hàng giảm mạnh nên không đáp ứng được
nhu cầu người đi vay, cộng với việc sụt giá quá nhanh của đồng tiền, sự điều
chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an tâm những cá nhân, doanh nghiệp hiện
đang có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay. Như vậy ngân hàng gặp khó khăn
trong việc huy động vốn,hệ thống ngân hàng phải luôn cố gắng duy trì mức lãi
suất ổn định.
Trong khi đó người đi vay là người có lợi lớn nhất nhờ sự mất giá đồng
tiền nhanh chóng. Do vậy hoạt động của hệ thống ngân hàng không còn bình
thường nữa. Chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế không còn nguyên vẹn bởi
khi có lạm phát thì chẳng có ai tích trữ tiền mặt dưới hình thức tiền mặt
Tác động đến cán cân ngân sách - chính sách tài chính của nhà nước
Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá khi
lạm phát xảy ra thì những thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động của
giá cả và làm cho thị trường bị rối loạn. Khi đó người ta khó phân biệt được
những doanh nghiệp làm ăn tốt và kém. Đồng thời làm cho nhà nước thiếu vốn,
các khoản thu cho ngân sách nhà nước không còn đủ sức cung cấp tiền cho các
khoản dành cho phúc lợi xã hội , các ngành các lĩnh vực dự định được chính
phủ đầu tư hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại hoặc không có gì . Một khi ngân sách nhà
nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã hội
sẽ không có điều kiện để thực hiện.
Tiêu dùng
Người VN nổi tiếng thế giới về mức độ lạc quan ở bất cứ hoàn cảnh nào. Song,
gần đây đã có 95% người tiêu dùng (NTD) thừa nhận lạm phát ảnh hưởng lớn
đến cuộc sống của họ, nhất là chỉ có 1/3 người lao động được tăng lương, trong
khi giá cả của các loại hàng hóa đều tăng vọt, buộc 75% NTD phải thay đổi thói
quen mua sắm theo túi tiền”.
Lạm phát làm giảm sức mua thực tế của nhân dân về hàng hóa tiêu dùng

và buộc nhân dân phải giảm số lượng về hàng hóa tiêu dùng đặc biệt là đời sống
cán bộ công nhân viên càng khó khăn. Mặt khác hiện tượng mọi người thích
tháo chạy khỏi đồng tiền tức là không muốn cất giữ đồng tiền mất giá bằng cách
họ sẽ tìm mua bất kỳ hang hóa dù không có nhu cầu cất giữ từ đó làm giàu cho
những người có đầu cơ tích trữ.
Hành vi tiêu dùng của người dân thời lạm phát cũng thay đổi. Khi có tiền nhàn
rỗi, người tiêu dùng thích gửi tiền vào quỹ tiết kiệm của ngân hàng, sau đó là
mua vàng. Kết quả điều tra cũng cho biết, những lĩnh vực người tiêu dùng phải
cắt giảm chi tiêu trong thời lạm phát là du lịch, hàng xa xỉ, thời trang, dịch vụ
thẩm mỹ, mua sắm điện máy, giải trí, thông tin liên lạc (điện thoại, Internet).
Nhóm ngành hàng thiết yếu là nhóm mà họ không thể cắt giảm, bao gồm: giáo
dục, đi lại, ăn uống, điện nước, chăm sóc sức khỏe
Tác động khác
Tuy nhiên, lạm phát cũng có tác động làm gia tăng số thuế nhà nước thu
được trong những trường hợp nhất định. Nếu hệ thống thuế tăng dần (thuế suất
lũy tiến) thì tỷ lệ lạm phát cao hơn sẽ đẩy người ta nhanh hơn sang nhóm phải
đóng thuế cao hơn, và như vậy chính phủ có thể thu được nhiều thuế hơn mà
không phải thông qua luật. Trong thời kỳ lạm phát giá cả hàng hóa – dịch vụ
tăng lên một cách vững chắc, bên cạnh đó tiền lương danh nghĩa cũng theo xu
hướng tăng lên, vì vậy thu nhập thực tế của người lao động nói chung có thể
vững hoặc tăng lên, hoặc giảm đi chứ không phải bao giờ cũng suy giảm.
Lạm phát cao làm giảm giá trị đồng tiền trong nước. Khi các mức giá cả
trong tương lai khó dự đoán hơn thì các kế hoạch chi tiêu và tiết kiệm hợp lý sẽ
trở nên khó thực hiện hơn. Người dân ngày càng lo ngại về việc sức mua trong
tương lai của họ bị giảm xuống và mức sống của họ cũng vì vậy mà kém đi.
Lạm phát cao khuyến khích các hoạt động đầu tư mang tính đầu cơ trục
lợi hơn là đầu tư vào các hoạt động sản xuất (ví dụ: khi có lạm phát, nếu ngân
hàng không tăng lãi suất tiền gửi thì dân chúng sẽ không gửi tiền ở ngân hàng
mà tìm cách đầu cơ vào đất đai khiến giá cả đất đai tăng cao). Lạm phát cao đặc
biệt ảnh hưởng xấu đến những người có thu nhập không tăng kịp mức tăng của

giá cả, đặc biệt là những người sống bằng thu nhập cố định như là những người
hưởng lương hưu hay công chức. Phúc lợi và mức sống của họ sẽ bị giảm đi.
Chính vì tác hại trên của lạm phát nên việc kiểm soát lạm phát và giữ lạm
phát ở mức độ vừa phải đã trở thành một trong những mục tiêu lớn của mọi nền
kinh tế hàng hóa.Tuy nhiên một quốc gia nào đó có thể duy trì được mức lạm
phát vừa phải và kiềm chế,có lợi cho nền kinh tế thì ở quốc gia đó lạm phát
không còn là mối nguy hại cho nền kinh tế nữa mà đã trở thành một công cụ
đắc lực giúp điều tiết và phát triển kinh tế một cách hiệu quả
3.NGUYÊN NHÂN, GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT MÀ CHÍNH
PHỦ SỬ DỤNG
3.1 Nguyên nhân của lạm phát
Lạm phát xảy ra dưới nhiều hình thức và quy mô khác nhau nên những
nguyên nhân của lạm phát cũng rất đa dạng, không giống nhau. Lạm phát luôn
luôn bị chấn động bởi các trào lưu kinh tế.
3.1.1 Năm 2008:
Khái quát những tác động chính đến chỉ số giá của năm nay, có nguyên
nhân từ tăng tổng phương tiện thanh toán, từ cầu kéo, chi phí đẩy và diễn biến
tâm lý.Những nguyên nhân này đã gây áp lực tăng giá lên nhiều nhóm hàng hóa
quan trọng, tiêu biểu là gạo, thực phẩm, xăng dầu, gas, sắt thép, xi măng trong
phần lớn thời gian trong năm, sau đó giảm nhanh, kéo chỉ số giá đi xuống.
Tháng 12/2008, chỉ số giá của nhóm Hàng ăn và dịch vụ ăn uống đã tăng
31,86%, trong đó lương thực tăng 43,25%, thực phẩm tăng 26,53%, ăn uống
ngoài gia đình tăng 33,62%. Tăng trên 10% còn có các nhóm: Đồ uống và thuốc
lá, May mặc, mũ nón, giầy dép, Thiết bị và đồ dùng gia đình, và Văn hoá, thể
thao, giải trí. Duy nhất có Bưu chính viễn thông (thuộc nhóm Phương tiện đi
lại, bưu điện) giảm 15,07%. So với tháng 12/2007, chỉ số giá vàng tháng cuối
năm nay đã tăng 6,83%, chỉ số giá USD tăng 6,31%. Còn so với tháng trước,
đóng góp vào mức tăng âm của tháng 12/2008 là các Nhóm hàng ăn và dịch vụ
ăn uống giảm 0,13%; Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng cũng giảm tới 2,36%;
Nhóm phương tiện đi lại, bưu điện giảm 6,77%.

Năm 2008 khép lại với mức lạm phát kỷ lục 19.89% - nếu so với tháng
12/2007, và xấp xỉ 23% - nếu so với giá tiêu dung bình quân của năm 2007.
3.1.2 Năm 2009:
Đỉnh điểm là vào tháng 12/2009. Nguyên nhân có thể do kỳ vọng về một
quy mô thị trường tiêu thụ lớn dịp Tết Nguyên đán, đang khiến nhiều nguồn
hàng tiêu dùng thiết yếu bị “găm” lại để chờ thời. Trở lại với diễn biến giá cả
tháng này, động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy CPI tăng mạnh đến từ mặt hàng
lương thực, với mức tăng tới 6,88%. Được sự tiếp sức của hàng thực phẩm
(tăng 0,89%) và ăn uống ngoài gia đình (tăng 0,69%), nhóm hàng ăn và dịch vụ
ăn uống “cầm cờ” trong các nguyên nhân tác động đến CPI tháng 12/2009, với
mức tăng tới 2,06%. Dù quyền số thấp hơn nhưng mức tăng cao hơn, nhóm
giao thông tháng này xác lập mức tăng cao nhất, với 2,47%. Nguyên nhân chủ
yếu đến từ đợt tăng giá xăng dầu cuối tháng 11/2009. Những hàng hóa, dịch vụ
có chu kỳ tăng cuối năm cũng đang rục rịch tăng giá. Chỉ số giá nhóm nhà ở,
vật liệu xây dựng tháng này cũng tăng mạnh tới 1,4% do giá sắt thép, vật liệu
xây dựng tiếp tục xu hướng tăng và thị trường bước vào mùa hoàn thiện công
trình xây dựng.Tương tự là nhóm đồ uống, thuốc lá tăng tới 0,97%; nhóm may
mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,81%; các nhóm còn lại tăng không nhiều trong
tháng 12/2009. Trong 11 nhóm hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng thiết yếu, duy nhất
chỉ số giá tháng 12/2009 nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,11% so với tháng
trước đó. Trong một tháng qua, chỉ số giá vàng đã tăng 10,49%; chỉ số giá USD
tăng 3,19%. So với một năm trước, các con số tương ứng là 64,32% và 10,7%.
Bình quân cả năm 2009 so với năm 2008 tương ứng tăng 19,16% và 9,17%.
Năm 2009 khép lại với mức tăng CPI trong vòng kiểm soát, nhưng gạo
và xăng dầu, hai mặt hàng có quyền số lớn trong rỏ hàng hóa, dịch vụ tính CPI
vẫn luôn là yếu tố bất định trong năm qua. Nhìn về phía trước, cung hàng hóa
và dịch vụ đang vào chu kỳ tăng; trong khi đó, giá thế giới đang phục hồi cùng
với độ trễ chính sách tài chính, tiền tệ là những nhân tố tác động đến CPI.
3.1.3 Năm 2010:
Nguyên nhân chính là do nhiều mặt hàng thiết yếu giảm như: giá gạo

giảm 1.38%, giá sắt thép trong nước giảm từ 3-5%, giá gas giảm 3.37%, giá
xăng dầu giảm. Bên cạnh đó một số nhóm hàng có mức tăng trưởng âm như:
giao thong (-0.94%) bưu chính viễn thông (-0.07%) nhà ở và vật liệu xây dựng
(0.47%). Nhưng có một số mặt hàng vẫn tăng cao trong tháng nay: nhóm hàng
ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0.21%, thực phẩm tăng 0.5%, ăn uống ngoài gia
đình tăng 0.53% nguyên nhân là trong tháng này có kỳ thi tuyển sinh cao đẳng
và dại học, do thời tiết nắng nóng nên nhu cầu du lịch và ăn uống cũng tăng.
Nếu so sánh với tháng 12-2009, thì tháng 12- 2010 nhiều nhóm hàng đã
có mức tăng rất mạnh như chỉ số giá vàng đã tăng 30%, USD Mỹ tăng 9,68%,
giáo dục tăng 19,38%, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 16,18% , thực
phẩm tăng 16,69%, hàng hóa và dịch vụ khác tăng 11,83%
3.1.4 Năm 2011:
Lạm phát đỉnh điểm vẫn là thời điểm cuối năm khi nhu cầu các mặt hàng
đều tăng cao. Đây là tháng cuối năm nên có đến 10/11 nhóm hàng trong rổ tính
toán chỉ số giá tiêu dùng của Tổng cục Thống kê đều có mức tăng so với tháng
trước. Trong đó thủ phạm chính vẫn là nhóm hàng lương thực, với mức tăng
cao nhất 1,4% khiến cho chỉ số của nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng lên
0,69% so với tháng trước.
Tháng cuối năm nhu cầu đi lại chưa nhiều nhưng cũng ghi nhận mức tăng
giá so với tháng trước với 0,16%.Nhu cầu sửa nhà và sắm sửa các vật dụng gia
đình để đón Tết tăng mạnh khiến cho mức giá của nhóm nhà ở và vật liệu xây
dựng và nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tháng này cũng tăng so với tháng
trước lần lượt là 0,51% và 0,68% (đứng thứ 3 và 4 trong nhóm có mức tăng
mạnh nhất).
Không được tính vào nhóm hàng tính chỉ số lạm phat nhưng giá vàng là
một trong những sự kiện đáng chú ý của năm 2011 khi liên tiếp đạt những kỷ
lục mới.
3.1.5 Năm 2012:
Nguyên nhân chủ yếu là do giá các mặt hàng thiết yếu tăng mạnh. Giá gas
liên tiếp tăng và giá xăng cũng tăng 2100đ/lít. Giá sữa của nhiều hãng nhập

ngoại từ đầu tháng 3-2012 sẽ tăng từ 10 – 12%. Giá của một số mặt hàng hóa
mỹ phẩm, nhất là xà bông cục, nước rửa tay, chăm sóc cơ thể, tẩy rửa, băng vệ
sinh, một số đồ dùng và thực phẩm giành cho trẻ em cũng bị ép tăng từ 5-10%.
Giá nước sinh hoạt ở nhiều đô thị lớn cũng tăng mạnh, như từ ngày 1-1-2012
TP.HCM tiếp tục tăng10%, còn TP.Hải Phòng tăng khoảng 40%. Đặc biệt, theo
dự thảo thông tư về khung giá nước sạch sinh hoạt do Bộ Tài chính xây dựng
đầu năm 2012, giá nước sạch có thể lên tới 18.000 đồng/m3. Giá thành điện
2012 dự kiến sẽ là 1.242 đồng mỗi kWh, tăng 4,6% so với 2011.
3.2.Các giải pháp đối với lạm phát ở Việt Nam
Phải kết hợp đồng bộ các chính sách về tiền tệ với chính sách tài khoá và
chính sách tỉ giá để nâng cao hiệu quả đầu tư của kinh tế nhà nước, giảm bớt
sức ép của chính sách tiền tệ đến hoạt động của các ngân hàng thương mại và
doanh nghiệp, bảo đảm các doanh nghiệp có nguồn tín dụng để mở rộng đầu tư,
làm cho việc chống lạm phát không ảnh hưởng nhiều đến tăng trưởng và việc
làm.
Thắt chặt tiền tệ: Các biện pháp dành cho chính sách thắt chặt tiền tệ
hiện nay cần phải được áp dụng một cách linh hoạt. Xuất phát từ nhận định lạm
phát thường xuất hiện khi lượng tiền trong lưu thông tăng, chúng ta cần hạn chế
lượng tiền trong lưu thông bằng cách: Tăng lãi suất cho vay vốn và lãi suất tái
chiết khấu và hạn chế mức tăng tín dụng. Quy định dự trữ bắt buộc hợp lí để
vừa bảo đảm an toàn hệ thống đồng thời nâng cao được khả năng thanh khỏan
trong hoạt động ngân hàng. Thêm nữa là việc phát hành tín phiếu và phân hạn
sức mua cho các NHTM để rút bỏ bớt tiền trong lưu thông.
Về mặt tiền tệ - tín dụng, cần khắc phục các hạn chế, bất cập trong năm trước
để dự báo đúng, dự báo sớm, tránh bị động, lúng túng, chậm trễ. Trong đó
có một số biện pháp đáng lưu ý.
* Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng. Theo đó Chính phủ sẽ điều
hành thắt chặt lại, kiềm chế tốc độ tăng trưởng tín dụng tối đa là 20%, nếu cần
thiết thì có thể là 17-19%; tổng phương tiện thanh toán khoảng 15-16%. Giảm
tốc độ và tỉ trọng cho vay vốn tín dụng của khu vực phi sản xuất, nhất là lĩnh

vực bất động sản, chứng khoán. Chính phủ sẽ tăng cường quản lý ngoại hối.
Trong quý 2-2011, trình nghị định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo
hướng tập trung đầu mối nhập khẩu vàng, tiến tới xóa bỏ việc kinh doanh vàng
miếng trên thị trường tự do
* Thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi
ngân sách nhà nước xuống dưới 5% GDP.
Tạm dừng trang bị mới ôtô, điều hòa nhiệt độ, thiết bị văn phòng, giảm tối đa
chi phí điện, nước, điện thoại, văn phòng phẩm, xăng dầu Giám sát chặt chẽ
việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp.
Bộ Kế hoạch và đầu tư phối hợp với các bộ ngành liên quan không ứng trước
vốn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ năm 2012 cho các dự án; không
kéo dài thời gian thực hiện các khoản vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, trái
phiếu Chính phủ kế hoạch năm 2011.
Ngân hàng Phát triển Việt Nam giảm tối thiểu 10% kế hoạch tín dụng đầu tư từ
nguồn vốn tín dụng nhà nước.
*Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập siêu
(không quá 16%), sử dụng năng lượng tiết kiệm.
Ngân hàng Nhà nước bảo đảm ngoại tệ nhập khẩu hàng hóa thiết yếu mà sản
xuất trong nước chưa đáp ứng.
* Điều chỉnh giá điện, xăng dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo.
* Tăng cường bảo đảm an sinh xã hội. Tập trung chỉ đạo hỗ trợ giảm nghèo tại
các địa phương, nhất là các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn; hỗ trợ hộ nghèo,
địa phương nghèo xuất khẩu lao động; cho vay học sinh, sinh viên
* Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền.
Chính sách tài khóa: Cần phải thực hiện từng bước kế hoạch giảm thâm
hụt để tiến tới cân bằng ngân sách, vì đây cũng là một chỉ tiêu kinh tế vĩ mô
quan trọng. Thắt chặt chi tiêu của chính phủ; kiểm soát chặt chẽ đầu tư công và
đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước; giảm mạnh chi phí hành chính trong các
cơ quan nhà nước nhằm giảm bớt sức ép về cầu nhất là các loại cầu không tạo
ra hiệu quả. Với các dự án, cần loại bỏ những dự án đầu tư kém hiệu quả, thắt

chặt những khoản chi chưa thực sự cần thiết nhưng tạo mọi điều kiện cho đầu tư
tư nhân và đầu tư nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng.
Sử dụng công cụ tỉ giá: Nên điều chỉnh tăng nhẹ VND so với USD. Điều này
cũng phù hợp với việc đồng đô la Mỹ liên tục bị giảm giá so với các đồng tiền
khác. Tăng nhẹ giá trị VND tuy có ảnh hưởng đến xuất khẩu nhưng không quá
lớn. Tăng giá VND sẽ làm giá hàng nhập khẩu giảm, tăng nguồn cung, có tác
dụng giảm mức tăng giá trên thị trường nội địa, nhất là trong điều kiện nhập
khẩu hiện chiếm tỉ lệ cao trong GDP của nước ta. Tăng giá VND cũng góp phần
kìm giữ giá luơng thực hiện đang tăng tăng cao và có khả năng còn tiếp tục tăng
trước nhu cầu của thị trường thế giới.
Năm 2012, nước ta chịu nhiều sức ép từ các nhân tố truyền thống đến các nhân
tố phi truyền thống, từ các nhân tố bên ngoài đến các nhân tố bên trong. Nền
kinh tế phát triển của Việt Nam còn nhiều yếu kém, chất lượng, hiệu quả, sức
cạnh tranh còn thấp, nợ xấu của hệ thống ngân hàng tăng, thanh khoản của một
số ngân hàng thương mại ……. Mục tiêu ưu tiên của Việt Nam năm 2012 là
kiềm chế lạm phát dưới 10%, các năm sau thấp hơn, đến năm 2015 lạm phát
khoảng 5 đến 7%, đây là mục tiêu cần thiết, nhưng không dễ đạt được, nếu
thiếu các nỗ lực và sự phối hợp đồng bộ từ nhiều phía và nhiều loại công cụ,
giải pháp, mà nổi bật là:
* Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ
* Tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ
* Tăng cường quản lý nhà nước về giá
* Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền và quản lý thị trường để hạn chế
thấp nhất các tác động tăng giá do yếu tố tâm lý và đầu cơ.
* Tiểm soát chặt chẽ hơn việc nhập khẩu các mặt hàng không khuyến khích để
giảm nhập siêu và cải thiện cán cân thanh toán.
* Thúc đẩy trên thực tế quá trình tái cấu trúc kinh tế vĩ mô và vi mô
* Cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển sản
xuất, kinh doanh và mở rộng thị trường.
KẾT LUẬN

Trên đây là những giải pháp mà chính phủ có thể áp dụng để kiềm chế
lạm phát trong nền kinh tế, tăng trưởng kinh tế. Kinh tế VN năm 2012 đứng
trước những cơ hội, thách thức vừa cũ vừa mới đan xen, không dễ dàng vượt
qua nếu chúng ta không có tư duy đổi mới thật sự về chính sách, chiến lược để
có cách làm khác. Nếu chúng ta không kịp thời nắm bắt cơ hội, thay đổi tư duy,
chính sách, các chính sách, biện pháp kinh tế phù hợp thay cho các biện pháp
hành chính đơn thuần thì sẽ khó vượt qua những thách thức và đạt được kết quả
mong muốn. Cơ hội lớn nhất, bao trùm trong năm 2012 là: ổn định kinh tế vĩ
mô, thay đổi tư duy và chính sách. Vì vậy cần hiểu rõ thực trạng, nắm bắt cơ
hội để có thể đưa Việt Nam thoát khỏi khó khăn, hướng tới ổn định, tăng trưởng
bền vững.
Bài thảo luận của nhóm còn nhiều thiếu sót do hiểu biết còn hạn chế về
kinh tế học vi mô, kinh tế học vĩ mô. Mong cô và các bạn góp ý để bài thảo
luận của nhóm được hoàn thiện và chất lượng hơn!
Danh mục tài liệu tham khảo:
 Tài liệu kinh tế trên Tailieu.vn, Vietbao.vn
 Giáo trình Kinh tế học vi mô, Kinh tế học vĩ mô dùng cho các trường Đại
học, Cao đẳng khối kinh tế, giáo trình kinh tế học vĩ mô Đại Học Quốc
Gia Tp Hồ Chí Minh.
 Tạp trí Nguyên cứu kinh tế, viện khoa học xã hội và nhân văn.

×