Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Bảo hộ thương mại trong bối cảnh Việt Nam là thành viên của WTO-thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (485.83 KB, 100 trang )

Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thanh Huyền
Lớp: A13 - K44D-KT&KDQT
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học Ngoại
Thương, Phòng đào tạo trường Đại học Ngoại Thương cùng với các thầy cô
Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho
chúng em hoàn thành khoá luận tốt nghiệp. Trong suốt quá trình hoàn thành
bài khoá luận tốt nghiệp, chúng em đã được tạo mọi điều kiện trong việc tiếp
cận các nguồn thông tin và tài liệu bổ ich cho đề tài của mình.
Em cũng xin bày tỏ sự biết ơn chân thành và sâu sắc đến Thạc sỹ Vũ
Thành Toàn-giáo viên trực tiếp hướng dẫn em trong suốt quá trình hoàn thành
bài khoá luận này. Dưới sự hướng dẫn và chỉ bảo nhiệt tình của thầy, em đã
có được những định hướng đúng đắn về đề tài, từ đó đưa ra cách thức triển
khai và tìm kiếm tài liệu cho đề tài. Em xin cảm ơn thầy đã hướng dẫn và góp
ý cho em rất nhiều về nội dung cũng như cách thức trình bày một khoá luận
tốt nghiệp.
Cuối cùng, em xin được chân thành cảm ơn các cơ quan, viện nghiên
cứu kinh tế, thư viện Quốc gia đã tạo điều kiện tốt cho em trong quá trình thu
thập tài liệu cho đề tài khoá luận tốt nghiệp này.
Sinh viên
Nguyễn Thị Thanh Huyền
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thanh Huyền
Lớp: A13 - K44D-KT&KDQT
MỤC LỤC
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thanh Huyền
Lớp: A13 - K44D-KT&KDQT
DANH MỤC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
Viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
ADA Agreement on Anti-Dumping
Practices
Hiệp định chống bán phá giá


ADB Asian Development Bank Ngân hàng phát triển châu Á
AFTA ASEAN Free Trade Area Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
AoA Agreement on Agriculture Hiệp định về nông nghiệp
APEC Asia-Pacific Economic
Corporation
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-
Thái Bình Dương
ASEAN Association of Southeast
Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
ASEM The Asia-Europe Meeting Diễn đàn hợp tác Á-Âu
ATC Agreement on Textiles and
Clothing
Hiệp định về hàng dệt may
CVA Custom valuation Agreement Hiệp định về xác định trị giá hải
quan
EU European Union Liên minh châu Âu
FDI Foreign Direct Invesment Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GATT General Agreement of Tariff
and Trade
Hiệp định chung về thuế quan và
thương mại
IMF International Monetary Fund Quỹ tiền tệ quốc tế
ITA Information Technology
Agreement
Hiệp định công nghệ thông tin
LDCs Less developed countries Nhóm các quốc gia kém phát triển
MFN Most Favoured Nations Nguyên tắc “Tối huệ quốc”
NT National Treatment Nguyên tắc “Đối xử quốc gia”
NTM Non Tariff Measures Các biện pháp phi thuế quan

SPS Sanitary and phytosanitary Hiệp định về áp dụng các biện pháp
kiểm dịch động thực vật
TRIMS Agreement on Trade Related
Investment Measures
Hiệp định các biện pháp đầu tư liên
quan đến thương mại
TRIPS Agreement on Trade Related
Aspects of Intellectual
Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ có
lien quan đến thương mại
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thanh Huyền
Lớp: A13 - K44D-KT&KDQT
Property Rights
TRQ Tariff Rate Quota Hạn ngạch thuế quan
VER Voluntary Export Restraint Hạn chế xuất khẩu tự nguyện
WEF World Economic Forum Diễn đàn kinh tế thế giới
WTO World Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thanh Huyền
Lớp: A13 - K44D-KT&KDQT
DANH MỤC BẢNG BIỂU

Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thanh Huyền
Lớp: A13 - K44D-KT&KDQT
LỜI NÓI ĐẦU
Tự do hoá thương mại, giảm dần và tiến tới xoá bỏ các rào cản bảo hộ
mậu dịch đang là xu hướng chung ở nhiều nước nhằm tạo ra các điều kiện để
hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực. Tuy nhiên, không một quốc gia
nào dù là cường quốc kinh tế như Hoa Kỳ, lại mở cửa toàn bộ nền kinh tế.
Mỗi quốc gia dựa theo những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể mà ít
nhiều đều có nhu cầu bảo hộ một số ngành sản xuất trong nước trong quá

trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Đặc biệt trong giai đoạn khủng
hoàng tài chính hiện nay đang ngày càng lấn sâu sang khu vực sản xuất, các
hàng rào bảo hộ mậu dịch đang có nguy cơ tái lập-điều mà cả thế giới đã mất
nhiều công sức để dỡ bỏ trong thời gian trước đây. Theo thống kế mới nhất
của Ngân hàng thế giới World Bank, từ tháng 10/2008 đến tháng 2/2009 các
thành viên của G20 (chiếm tới 85% thương mại toàn cầu) đã sử dụng tới 41
biện pháp bảo hộ, đi ngược lại cam kết quốc tế. Trong khi đó, có hơn chục
quốc gia trên thế giới đang gia tăng ngân sách dành cho cơ chế hỗ trợ xuất
khẩu. Argentina áp đặt chế độ cấp phép nhập khẩu đối với một số sản phẩm
như phụ tùng ô-tô, dệt may và đồ điện tử. Trung Quốc cũng giảm thuế giá trị
gia tăng đối với xuất khẩu dành cho 3.770 mặt hàng.
Ở nước ta, quá trình đổi mới kinh tế theo cơ chế thị trường đã thúc đẩy
các hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển. Các rào cản kinh tế và phi kinh tế
cản trở thương mại đã và đang dần được tháo gỡ, tạo điều kiện tự do kinh
doanh hơn cho các doanh nghiệp trong nước cũng như doanh nghiệp nước
ngoài, đặc biệt là từ khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của
tổ chức thương mại thế giới WTO (11/01/2007). Hoà vào sân chơi chung với
152 quốc gia thành viên và hơn thế nữa, Việt Nam có cơ hội mở ra “kỷ
nguyên thương mại và đầu tư mới” cho mình. Tuy nhiên, do trình độ phát
1
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thanh Huyền
Lớp: A13 - K44D-KT&KDQT
triển kinh tế của nước ta còn thấp, khả năng cạnh tranh của hầu hết sản phẩm
của ta còn yếu kém nên trong thời gian qua chúng ta đã có những chính sách,
biện pháp nhằm bảo hộ một số sản phẩm và ngành hàng nhất định. Bên cạnh
đó, dưới tác động không tránh khỏi của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu,
Việt Nam cũng đã tăng cường áp dụng các biện pháp bảo hộ thương mại trên
cơ sở thận trọng và tôn trọng các cam kết quốc tế với WTO. Cụ thể là từ khi
vấn đề kích cầu tiêu dùng hàng trong nước được đưa ra, Bộ tài chính mới chỉ
điều chỉnh tăng thuế đối với hai mặt hàng giấy và sữa theo các văn bản số

28/2009/QĐ-BTC và số 39/2009/TT-BTC.
Như vậy, có thể nhận thấy bảo hộ thương mại không chỉ là mối quan tâm
của bất kỳ quốc gia nào nói riêng mà là của hầu hết các quốc gia trên thế giới
trong đó có Việt Nam. Từ khi gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới
WTO, tiến hành mở cửa nền kinh tế và hoà vào xu thế tự do hoá thương mại,
Việt Nam vẫn luôn duy trì một số biện pháp bảo hộ mậu dịch cho một số sản
phẩm và ngành hàng nội địa. Vậy thực trạng sử dụng các biện pháp bảo hộ
thương mại ở Việt Nam trong thời gian qua ra sao? Giải pháp nào nhằm sử
dụng có hiệu quả nhất các biện pháp đó? đòi hỏi phải có nhiều công trình
nghiên cứu làm sáng tỏ bởi đây được coi là một vấn đề có tính thời sự cả về lý
luận và thực tiễn. Thêm nữa, việc nghiên cứu và đúc kết kinh nghiệm cũng
như đưa ra các giải pháp hữu ích cho việc sử dụng các biện pháp bảo hộ
thương mại tại Việt Nam là hết sức cần thiết và thiết thực cho Việt Nam trong
thời gian tới. Nhận thấy tầm quan trọng của việc tìm hiểu để từ đó đề ra
những phương hướng sử dụng có hiệu quả các biện pháp bảo hộ thương mại
tại Việt Nam trong bối cảnh quốc tế hoá nền kinh tế hiện nay nên em đã quyết
định chọn đề tài “ Bảo hộ thương mại trong bối cảnh Việt Nam là thành viên
của WTO-thực trạng và giải pháp”.
1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của khoá luận là nhằm cung cấp những nội dung
2
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thanh Huyền
Lớp: A13 - K44D-KT&KDQT
cơ bản về bảo hộ thương mại cũng như thực trạng áp dụng các biện pháp bảo
hộ thương mại ở Việt Nam kể từ khi Việt Nam chính thức trở thành thành
viên của tổ chức thương mại thế giới, tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế và tự
do hoá thương mại.
Khoá luận cũng nhằm cung cấp những giải pháp đối với Việt Nam trong
việc sử dụng hợp lý và có hiệu quả các biện pháp bảo hộ thương mại trong
thời gian tới.

2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ khoá luận này, người viết nghiên cứu tìm hiểu về các
vấn đề:
- Về không gian: Bảo hộ trong lĩnh vực thương mại hàng hoá
- Về thời gian: Kể từ khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của
tổ chức thương mại thế giới WTO
3. Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu lý thuyết
Phương pháp so sánh
Phương pháp diễn dịch
Phương pháp thống kê, phân tích
4. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục
các ký hiệu viết tắt, danh mục bảng biểu, khoá luận được trình bày thành ba
chương với nội dung như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về bảo hộ thương mại
Chương 2: Thực trạng áp dụng các biện pháp bảo hộ thương mại ở Việt
Nam trong bối cảnh là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO
Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường việc sử dụng hợp lý và có
hiệu quả các biện pháp bảo hộ thương mại ở Việt Nam
Cuối cùng, em xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới Thạc sỹ Vũ
3
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thanh Huyền
Lớp: A13 - K44D-KT&KDQT
Thành Toàn, giáo viên trực tiếp hướng dẫn cho em, đã nhiệt tình chỉ bảo và
giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình hoàn thành bài khoá luận này. Đồng thời,
em cũng xin được gửi lời cảm ơn tới các thầy và cô giáo trong Khoa Kinh tế
và Kinh doanh quốc tế, Trường Đại học Ngoại Thương đã tạo điều kiện tốt
nhất cho em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
4

Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thanh Huyền
Lớp: A13 - K44D-KT&KDQT
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
BẢO HỘ THƯƠNG MẠI
I. KHÁI NIỆM, QUÁ TRÌNH RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
CHÍNH SÁCH BẢO HỘ THƯƠNG MẠI
1. Khái niệm về bảo hộ thương mại
Bảo hộ thương mại (hay còn gọi là bảo hộ mậu dịch) là chính sách ngoại
thương của các nước nhằm một mặt sử dụng các biện pháp để bảo vệ thị
trường nội địa trước sự cạnh tranh dữ dội của hàng ngoại nhập, mặt khác giúp
Nhà nước nâng đỡ các nhà kinh doanh trong nước bành trướng ra thị trường
nước ngoài (giáo trình quan hệ kinh tế quốc tế - GS.TS Võ Thanh Thu).
Nhà nước sử dụng những biện pháp thuế và phi thuế: thuế quan, hệ
thống thuế nội địa, giấy phép xuất nhập khẩu, hạn ngạch, các biện pháp kĩ
thuật…để hạn chế hàng hoá nhập khẩu.
Nhà nước cũng nâng đỡ các nhà xuất khẩu nội địa bằng cách giảm hoặc
miễn thuế xuất khẩu, thuế doanh thu, thuế lợi tức, trợ cấp xuất khẩu…..để họ
dễ dàng bành trướng ra thị trường nước ngoài.
Các nước sử dụng chính sách bảo hộ thương mại như là một công cụ bảo
vệ hữu hiệu nhằm:
•Giảm bớt sức cạnh tranh của hàng nhập khẩu
•Bảo hộ các nhà sản xuất kinh doanh trong nước, giúp họ tăng cường
sức mạnh trên thị trường nội địa
•Giúp nhà xuất khẩu tăng sức cạnh tranh để thâm nhập thị trường nước ngoài
•Giúp điều tiết cán cân thanh toán quốc tế, sử dụng hợp lý nguồn ngoại
tệ thanh toán của mỗi nước
5
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thanh Huyền
Lớp: A13 - K44D-KT&KDQT

Tuy có rất nhiều ưu điểm, chinh sách bảo hộ mậu dịch cũng bộc lộ một
số những nhược điểm nhất định:
•Trường hợp tiến hành bảo hộ thị trường nội địa quá chặt sẽ làm tổn
thương đến sự phát triển thương mại quốc tế, sẽ dẫn đến sự cô lập kinh
tế của một nước, đi ngược lại với xu thế của thời đại ngày nay là quốc tế
hoá đời sống kinh tế trên toàn cầu.
•Bảo hộ quá chặt thêm nữa sẽ góp phần vào sự bảo thủ và trì trệ trong
các nhà kinh doanh nội địa, kết quả là mức độ bảo hộ kinh tế ngày càng
cao, càng làm cho các ngành công nghiệp chiến lược không còn linh
hoạt, hoạt động kinh doanh và đầu tư không mang lại hiệu quả. Đây sẽ là
nguy cơ phá sản trong tương lai cho các ngành công nghiệp nếu quốc gia
này phải chịu áp lực cạnh tranh trên thị trường thế giới và yêu cầu giảm
hàng rào thuế quan khi gia nhập WTO hoặc các khu vực mậu dịch tự do
trên thế giới.
•Nhiều nước bảo hộ quá chặt dẫn tới sự thiệt hại cho người tiêu dùng
trong nước bởi thị trường hàng hoá kém đa dạng, mẫu mã, kiểu dáng,
chất lượng hàng hoá kém cải tiến, giá cả đắt…
Thực tế, trên thế giới đã tồn tại hai chính sách bảo hộ mậu dịch. Đó là
chính sách bảo hộ mậu dịch “kiểu phòng ngự” và chính sách “tân bảo hộ”
hoặc “siêu bảo hộ”
Chính sách bảo hộ mậu dịch kiểu phòng ngự thường được thực hiện ở
giai đoạn chuẩn bị chuyển sang thực hiện chính sách mậu dịch tự do với mục
tiêu nhằm bảo vệ các nhà kinh doanh nội địa đang ở thời kỳ “phôi thai” chưa
phát triển, chưa đủ sức cạnh tranh với các nhà tư bản nước ngoài.
Còn chính sách “tân bảo hộ” hoặc “siêu bảo hộ” là chính sách ngoại
thương của các nước thời kỳ đế quốc. Mục tiêu của chính sách này là Nhà
nước tư bản bằng các biện pháp nhằm một mặt giảm bớt sức cạnh tranh của
hàng nhập khẩu, mặt khác nâng đỡ các nhà xuất khẩu, đặc biệt thi hành các
6
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thanh Huyền

Lớp: A13 - K44D-KT&KDQT
biện pháp khác nhau để giúp đỡ các tổ chức lũng đoạn vừa chiếm lĩnh được
thị trường nội địa vừa chủ động tấn công xâm nhập các thị trường nước ngoài,
chính sách “siêu bảo hộ” là bước phát triển của chính sách bảo hộ mậu dịch,
biến chính sách ngoại thương kiểu này từ mang tính chất cực đoan “ngăn
chặn” sang vừa “ngăn chặn” vừa “tấn công” và “bành trướng”. Cho nên có
thể gọi chính sách “tân bảo hộ” hay “siêu bảo hộ” là chủ nghĩa bảo hộ mang
tính chất “xâm lược”. Chính sách này xuất hiện từ cuối thế kỷ 19, bắt đầu từ
nước Đức, sau đó lan rộng ra các nước khác. Ngày nay chính sách siêu bảo hộ
vẫn được duy trì dưới nhiều hình thức mới và tinh vi.
2. Quá trình ra đời và phát triển của chính sách bảo hộ thương mại
Về mặt lịch sử, chính sách bảo hộ thương mại ra đời từ rất sớm, từ thời
kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của chủ nghĩa tư bản - thời kỳ chuẩn bị của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa (bao gồm suốt từ thế kỷ XVI-XVII đến khoảng
những năm 60-70 của thế kỷ XVIII), khi thị trường thế giới bắt đầu hình
thành. Thị trường thế giới tuy chưa phát triển đầy đủ, nhưng nó đã thúc đẩy
nhanh tốc độ tích luỹ tư bản và phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Hàng hoá lưu thông trên thị trường thời kỳ này lúc đầu phần lớn của
người sản xuất nhỏ và sau đó là của các xí nghiệp nông nghiệp TBCN và do
các công xưởng thủ công sản xuất ra. Tư bản thương nghiệp-được coi là
những người môi giới trung gian - chiếm địa vị chủ yếu.
Nhà nước của giai cấp tư bản đang lên dựa vào lý thuyết trọng thương
làm chỗ dựa cho chính sách thương mại của mình. Tư tưởng chính của học
thuyết trọng thương chính là mỗi nước muốn đạt được sự thịnh vượng trong
phát triển kinh tế thì phải gia tăng khối lượng tiền tệ mà muốn gia tăng khối
lượng tiền tệ thì con đường chủ yếu phải phát triển ngoại thương, nhưng
thuyết trọng thương cũng nhấn mạnh trong hoạt động ngoại thương phải thực
hiện chính sách xuất siêu và bảo hộ sản xuất (tăng cường xuất khẩu, hạn chế
7
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thanh Huyền

Lớp: A13 - K44D-KT&KDQT
nhập khẩu). Học thuyết cũng đã đề cao vai trò của nhà nước trong điều khiển
kinh tế, khuyến khích can thiệp sâu vào hoạt động kinh tế như: lập hàng rào
thuế quan để bảo hộ mậu dịch, đánh thuế suất nhập khẩu cao đối với nhập
khẩu hàng tiêu dùng, duy trì hạn ngạch…Chính sách này đã có tác dụng khá
quan trọng trong việc mở mang công nghiệp và phát triển ngoại thương của
các quốc gia Tây Âu thời bấy giờ.
Tính đến thế kỷ XVIII, các cuộc cách mạng thương mại và chính trị đã
thành đạt. Những phát minh về máy hơi nước đầu thế kỷ XVIII và các máy
móc khác đã tạo đà cho cuộc CMKHKT từ đó dẫn đến cách mạng trong lĩnh
vực kinh tế xã hội. Máy móc ra đời và phương pháp chế tạo mới muốn có
hiêụ quả phải đặt trong khung cảnh hợp tác và chuyên môn hoá giữa những
người sản xuất trong nước và quốc tế.
Vào thời kỳ này, lần đầu tiên trong lịch sử các học thuyết kinh tế, tư
tưởng kinh tế tự do ra đời, mà người đề xướng là Adam Smith - đại diện xuất
sắc nhất của Kinh tế chính trị học cổ điển Anh. Tư tưởng này đề cao tự do
kinh doanh, sự tự điều tiết của thị trường và phản đối sự can thiệp của Nhà
nước vào thị trường. Học thuyết này đã được mọi giới chấp nhận và đã điều
tiết chính sách kinh tế của các quốc gia trong suôt thời kỳ tự do cạnh tranh
của CNTB. Các quốc gia bắt đầu bãi bỏ những trở ngại và giảm bớt các rào
cản trong thương mại với các quốc gia khác, nhờ đó mà buôn bán quốc tế
nhanh chóng phát triển. Năm 1860, Nghị viện Anh xoá bỏ 340 trong 400 loại
hàng hoá chịu thuế nhập khẩu và sau đó bỏ hẳn thuế quan để cho phép nhập
khẩu tự do vào năm 1914. Ở Pháp, Napoleon III đã thay thế hệ thống thuế
quan bảo hộ bằng hệ thống thuế quan ôn hoà hơn vào năm 1860. Ngay cả Hoa
Kỳ từng theo đuổi chính sách bảo hộ từ năm 1816 cũng đã giảm thuế quan rất
nhiều vào năm 1857.
Tuy nhiên chúng ta cần nhận thấy một đặc điểm cơ bản của thời kỳ tự do
8
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thanh Huyền

Lớp: A13 - K44D-KT&KDQT
cạnh tranh là tuy sự kiểm soát của chính phủ giảm dần nhưng chính sách bảo
hộ vẫn còn, chỉ có điều những chính sách bảo hộ thời kỳ này có tính chất ôn
hoà hơn, hướng vào nâng đỡ các ngành công nghiệp non trẻ để chúng có sức
cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, sự chuyển biến mạnh mẽ của CNTB tự
do cạnh tranh sang CNTB độc quyền ở các nước tư bản phát triển đã làm nảy
sinh nhiều hiện tượng kinh tế, xã hội mới, cùng những mâu thuẫn khó khăn
vốn có của CNTB. Các cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra (đặc biệt là cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933) đã chứng tỏ các lý thuyết “bàn tay
vô hình”, “tự điều tiết” của thị trường mà trường phái cổ điển và tân cổ điển
nêu ra không còn hiệu nghiệm trước việc khắc phục những hậu quả của tự do
cạnh tranh.
Độc quyền ra đời có nghĩa là chấm dứt thời kỳ tự do cạnh tranh. Tổ chức
độc quyền nắm quyền thống trị thị trường, liên minh quốc tế những nhà tư
nhằm phân chia thị trường thế giới. Bản thân sự tồn tại hiện tượng này cũng
có nghĩa là mậu dịch tự do bị phá hoại.
Chính sách thuế quan siêu bảo hộ được coi là đặc trưng của chính sách
thương mại của các nước tư bản phát triển. Nó là công cụ tối quan trọng để tư
bản tài chính nắm độc quyền thị trường nội địa và mở rộng thị trường ngoài
nước.
Cùng với bước quá độ sang giai đoạn độc quyền, nhất là vào khoảng
những năm 1890-1910, hầu hết các nước tư bản phát triển nhất (trừ Anh và
Hà Lan) đều áp dụng thuế suất bảo hộ rất cao, đánh thuế nhập khẩu rất cao
đối với nhiều loại hàng. Sau đó tất cả các nước tư bản đều đã không ngừng
nâng cao mức thuế và mở rộng diện những mặt hàng phải nộp thuế. Thời kỳ
khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933, nước Anh cũng thi hành chính sách
thuế quan bảo hộ. Mức thuế quan của Mỹ lúc bấy giờ là cao nhất. Theo thống
kê, thuế nhập khẩu (chiếm tỷ lệ % giá cả hàng hoá) đánh vào hàng công nghệ
9

Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thanh Huyền
Lớp: A13 - K44D-KT&KDQT
năm 1925 tại Mỹ cao tới 35-40%, Pháp và Ý 25-30%, Bỉ và Thuỵ Sĩ 10-15%,
chỉ có Anh và Hà Lan là chưa tới 10%.
Chính sách thuế nhằm bảo hộ hàng sản xuất trong nước thời kỳ tư bản
độc quyền chẳng những về mức thuế mà còn về tính chât cũng rất khác với
chính sách thuế quan bảo hộ của nhiều nước ở thời kỳ CNTB trước độc
quyền.
Ở thời kỳ trước độc quyền, chính sách bảo hộ thường là che chở cho
những ngành công nghiệp non trẻ không đủ sức cạnh tranh với hàng hoá nước
ngoài, giúp chúng phát triển. Chính sách bảo hộ mới (bảo hộ thời kỳ độc
quyền) thì trái lại, nó bảo hộ cho các ngành công nghiệp phát đạt nhất, có đủ
sức cạnh tranh để giữ vững một giá độc quyền thật cao trên thị trường nội địa
và tránh được sự cạnh tranh của nước ngoài. Đặc điểm cơ bản nhất của chính
sách bảo hộ mới này là nó mang tính chất tấn công và xâm lược, nó trở thành
một công cụ quan trọng nhất để tổ chức độc quyền độc chiếm thị trường ngoài
nước.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhằm khắc phục các biện pháp bảo hộ
được duy trì từ trước và đầu những năm 1930 và nhanh chóng đẩy mạnh tự do
hoá thương mại, các cuộc thương lượng về thuế quan đã được tiến hành giữa
các thành viên của GATT.
Trong 47 năm tồn tại (1948- 1995) dưới sự bảo trợ của GATT đã có 8
vòng đàm phán về mậu dịch đa phương. Thuế quan được cắt giảm liên tục
cùng một loạt những nhượng bộ kinh tế trong những năm của thập niên 70 và
80 là một trong những thành công của GATT. Tuy nhiên chính điều này đã
khiến các chính phủ đưa ra các hình thức bảo vệ khác cho các lĩnh vực kinh tế
phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng từ bên ngoài. Tỷ lệ thất nghiệp
cao và sự đóng cửa thường xuyên của các nhà máy đã buộc chính phủ các
nước châu Âu và Bắc Mỹ tìm kiếm các thoả hiệp song phương phân chia thị
trường với các đối thủ cạnh tranh, tiếp tục trợ giúp cho ngành nông nghiệp

10
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thanh Huyền
Lớp: A13 - K44D-KT&KDQT
của mình.
Vào những năm cuối thế kỷ XX, bước sang thế kỷ XXI, khi mà tự do
hoá thương mại đang là trào lưu mạnh mẽ thì chế độ bảo hộ mậu dịch gắt gao
đối với các sản phẩm nông nghiệp (lương thực, thực phẩm) vẫn tồn tại ở Mỹ,
Nhật Bản, các nước EU. Các quốc gia đang phát triển vẫn còn rất thận trọng
trước những đòi hỏi tự do hoá sâu hơn, đầy đủ và mạnh mẽ hơn nữa thị
trường cho các hàng hoá, dịch vụ và đầu tư của các nhà đầu tư và doanh
nghiệp của các nước tư bản phát triển nhằm khai thác lợi nhuận từ lợi thế
cạnh tranh của họ trên thị trường toàn cầu. Do vậy việc áp dụng các biện pháp
bảo hộ ở các quốc gia này vẫn được coi là cần thiết.
II. CÁC BIỆN PHÁP BẢO HỘ THƯƠNG MẠI THEO QUY ĐỊNH
CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO
1. Biện pháp về thuế quan
1.1 Khái niệm, vai trò và phân loại thuế quan
Thuế quan là khoản thu do nhà nước đặt ra đối với hàng xuất khẩu và
nhập khẩu khi hàng hoá đó làm thủ tục thông quan tại cửa khẩu hải quan hoặc
đánh vào các khoản chuyển khoản để thanh toán hàng xuất nhập khẩu.
Trong bài khoá luận này, người viết muốn nhấn mạnh vào thuế nhập
khẩu nói riêng với ý nghĩa là một trong những công cụ bảo hộ thương mại.
Hiện nay, thuế quan là công cụ bảo hộ được sử dụng rộng rãi trên thế
giới. Tổ chức WTO coi thuế quan là một biện pháp hợp lệ và cho phép các
nước thành viên duy trì do tính minh bạch và dễ dự đoán trong thương mại
quốc tế. Tuy nhiên, thông qua các vòng đàm phán, WTO luôn hướng tới mục
tiêu cắt giảm thuế quan và tăng mức độ ràng buộc thuế (các nước thành viên
không được phép tăng thuế lên mức trần đã cam kết trong biểu).
Thuế quan có một số vai trò như sau:
- Thuế nhập khẩu có vai trò điều tiết nhập khẩu: điều tiết lượng hàng hoá

11
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thanh Huyền
Lớp: A13 - K44D-KT&KDQT
được nhập khẩu vào thị trường nội địa bởi thông qua đánh thuế nhập khẩu có
thể tác động đến sức cạnh tranh của hàng hoá. Hàng hoá có mức thuế suất cao
sẽ ảnh hưởng đến giá của hàng hoá và tác động đến sức mua của người tiêu
dùng.
- Thuế nhập khẩu được sử dụng như là công cụ để bảo hộ thị trường
trong nước
- Thuế nhập khẩu góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước
- Thuế nhập khẩu được xem là các công cụ phân biệt đối xử trong quan
hệ thương mại và gây áp lực đối với các bạn hàng phải nhượng bộ trong đàm
phán. Chẳng hạn năm 2001, để trả đũa Nhật Bản tăng thuế nhập khẩu đánh
vào các mặt hàng rau củ của Trung Quốc nhập khẩu vào Nhật Bản, Trung
Quốc thông báo đánh thuế tăng gấp hai lần đối với mặt hàng xe hơi và điện tử
của Nhật Bản nhập khẩu vào Trung Quốc. Cuối cùng, cả hai bên đã phải ngồi
vào bàn đàm phán để giái quyết tranh chấp và thực hiện nhượng bộ lẫn nhau.
Có rất nhiều cách phân loại thuế, nhìn chung căn cứ vào phương pháp
tính thuế có thể phân ra:
- Thuế tính theo giá trị: là thuế tính tỷ lệ phần trăm so với giá trị hàng
hoá nhập khẩu (được áp dụng nhiều nhất vì dễ áp dụng trong cách tính và
quản lý thuế và theo kịp tốc độ lạm phát). Tuy nhiên hạn chế của phương
pháp này là việc phân loại sản phẩm tính thuế và xác định giá của sản phẩm
khó thực hiện. Để hạn chế nhược điểm của phương pháp tính thuế theo giá trị,
tại vòng đàm phán Tokyo của GATT thông qua Hiệp định về việc thực thi
Điều khoản VII hay còn gọi là “thể lệ định giá”. Hiệp định Điều VII điều tiết
thủ tục định giá hải quan của các nước thành viên WTO nhằm giảm thiểu sự
ảnh hưởng phức tạp của việc định giá hải quan đến hoạt động thương mại
quốc tế.
Nội dung của điều khoản VII thể hiện thông qua các phương pháp xác

định “giá giao dịch” sau đây:
12
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thanh Huyền
Lớp: A13 - K44D-KT&KDQT
Thứ nhất, các thành viên WTO phải cam kết sử dụng “giá giao dịch” làm
cơ sở tính thuế hải quan (giá thể hiện trên hoá đơn hoặc hợp đồng nhưng giá
đó phải đúng là giá giao dịch thực tế)
Thứ hai, nếu không xác định được “giá giao dịch” là trung thực, thì hải
quan của nước nhập khẩu có quyền căn cứ vào “giá giao dịch” của món hàng
giống hệt như món hàng trên và được xuất khẩu trong cùng một thời gian và
địa điểm xuất xứ của hàng hoá.
Thứ ba, nếu “giá trị giao dich” không thể xác định theo cách thứ nhất và
thứ hai kể trên thì hải quan có thể sử dụng giá trị giao dịch của mặt hàng
tương tự.
Thứ tư, hải quan nước nhập khẩu thuộc thành viên WTO có thể tự xác
định “giá giao dịch” trên cơ sở lấy giá bán của mặt hàng y hệt hoặc tương tự
đang tiêu thụ trên thị trường nhập khẩu trừ đi các khoản hoa hồng, chi phí vận
chuyển và phí bảo hiểm tại quốc gia nhập khẩu.
Thứ năm, các thành viên WTO có thể thẩm định “giá giao dịch” trên cơ
sở xác định giá thành bao gồm các chi phí chế tạo và các chi phí khác có liên
quan đến nhập khẩu hàng hoá, tuy nhiên giá tính theo cách này phải được đối
chiếu so sánh với giá giao dịch được xác định theo các cách kể trên.
- Thuế tính theo số lượng: là thuế được tính ổn định dựa theo khối lượng
hoặc trọng lượng hàng hoá nhập khẩu (số tiền thuế phải nộp không phụ thuộc
vào giá cả hàng hoá nhập khẩu do đó tránh được hiện tượng gian lận liên quan
đến kê khai giá trị hàng hoá)
- Thuế hỗn hợp: thuế tính theo cả hai cách trên
1.2 Cam kết thuế quan trong WTO
Thuế quan được coi là biện pháp bảo hộ thương mại cổ điển nhất và
thông thường được áp dụng đầu tiên để tăng thu ngân sách cho chính phủ.

Tuy nhiên thuế quan cũng được áp dụng vì những mục đích khác như ngăn
13
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thanh Huyền
Lớp: A13 - K44D-KT&KDQT
chặn hàng nhập khẩu và bảo vệ hàng trong nước, trả đũa một quốc gia khác,
bảo vệ một ngành công nghiệp quan trọng hoặc non trẻ….Thuế quan được
WTO coi là hợp lệ và cho phép các nước thành viên duy trì, nhờ sự minh
bạch và tính dễ dự đoán trong việc áp dụng biện pháp này. Tuy nhiên, thông
qua các vòng đàm phán, WTO luôn hướng tới mục tiêu cắt giảm thuế quan và
tăng mức độ ràng buộc thuế (các nước thành viên không được phép tăng thuế
lên trên mức trần đã cam kết trong biểu). Thuế suất đã được giảm đáng kể qua
tám vòng đàm phán trong khuôn khổ Hiệp định thuế quan (GATT) trước đây,
đặc biệt là sau Vòng đàm phán U-ru-goay, các thành viên WTO đã cam kết
ràng buộc tới 98% số dòng thuế đối với hàng công nghiệp và 100% đối với
hàng nông nghiệp. Như vậy, số dòng thuế ngoại lệ là rất ít. Mặt khác, qua
nhiều vòng đàm phán căng thẳng, mức thuế suất đối với hàng công nghiệp chỉ
còn trung bình 3,8%; với các sản phẩm nông nghiệp thì các nước phát triển,
đang phát triển đều phải cắt giảm thuế quan tương ứng 36% và 24%, ), tỷ lệ
ràng buộc số dòng thuế trong cả biểu thuế với các nước phát triển đạt 99%,
với các nước đang phát triển đạt 73% và với các nền kinh tế chuyển đổi đạt
98%. Bên cạnh đó, trong WTO còn xuất hiện các mô hình cắt giảm thuế
quan mạnh mẽ như “cắt giảm thuế quan theo ngành” và “hài hoà hoá thuế
quan” theo đó thuế quan của các sản phẩm liên quan đều được cam kết ở
mức rất thấp, chủ yếu là bằng 0%. Các ngành chủ yếu đã được giảm thuế
theo mô hình này là sản phẩm công nghệ thông tin, dược phẩm, hoá chất,
thiết bị xây dựng, thiết bị y tế, máy móc nông nghiệp, đồ gia dụng, bia, rượu
màu và thép….
Như vậy, có thể thấy rằng những cam kết ràng buộc về thuế quan đã tạo
thành nghĩa vụ của các thành viên WTO trong việc giảm đáng kể thuế suất
nhập khẩu và duy trì ổn định.

2. Các biện pháp bảo hộ phi thuế quan
Ngoài biện pháp thuế quan ra, tất cả các biện pháp khác, dù được quy
14
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thanh Huyền
Lớp: A13 - K44D-KT&KDQT
định cụ thể trong hệ thống chính sách luật pháp hay phát sinh từ thực tiễn
quản lý hoạt động thương mại, có ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu thì đều
được coi là các biện pháp phi thuế quan (NTM). Mỗi biện pháp phi thuế quan
NTM có một hoặc nhiều thuộc tính như áp dụng biên giới hay nội địa, được
duy trì một cách chủ động hay bị động, phù hợp hoặc không phù hợp với
thông lệ quốc tế, nhằm bảo hộ hay không bảo hộ…
2.1 Các biện pháp hạn chế định lượng
Các biện pháp hạn chế định lượng được coi là những biện pháp có tính
chất bảo hộ mạnh mẽ hơn các biện pháp thuế quan và trực tiếp bóp méo
thương mại quốc tế. Do vậy, WTO không cho phép các nước thành viên áp
dụng các biện pháp này và coi đây là một nguyên tắc cơ bản dành cho các
quốc gia đã và đang muốn gia nhập WTO. Tuy nhiên, cũng có một số ngoại lệ
đối với nguyên tắc này, cho phép các nước thành viên được áp dụng theo
những điều kiện nghiêm ngặt nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ sức khoẻ
con người, bảo vệ động thực vật, môi trường…Sau đây là một số những biện
pháp hạn chế định lượng được áp dụng phổ biến nhất:
2.1.1 Cấm nhập khẩu (Prohibitions)
Cấm nhập khẩu là biện pháp bảo hộ cao nhất, gây ra hạn chế lớn nhất đối
với thương mại quốc tế. Trong thương mại quốc tế có nhiều trường hợp cấm
nhập khẩu như: cấm hoàn toàn, cấm theo mùa, cấm tạm thời, cấm vận, cấm
sản phẩm nhạy cảm, tạm dừng cấp phép nhập khẩu…Nói chung WTO không
cho phép các nước thành viên sử dụng biện pháp này trừ một số trường hợp
được quy định tại điều XX và XXI -GATT 1994 là cần thiết để đảm bảo an
ninh quốc gia, đạo đức xã hội; bảo vệ con người, động vật và thực vật; bảo vệ
các tài nguyên thiên nhiên khan hiếm (Điều XX của Hiệp định GATT 1994

quy định các thành viên WTO có thể được phép áp dụng các biện pháp về
môi trường mà không mâu thuẫn với những quy định trong các Hiệp định của
WTO, nếu việc áp dụng các biện pháp này "là cần thiết để bảo vệ sức khoẻ,
15
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thanh Huyền
Lớp: A13 - K44D-KT&KDQT
cuộc sống của con người, động thực vật" (Mục XX.b) hoặc "có liên quan tới
việc bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên có thể bị cạn kiệt" (Mục XX.g); bảo
vệ các tài sản quốc gia về nghệ thuật, lịch sử hay khảo cổ, với điều kiện là các
biện pháp này cần phải thực hiện kèm theo việc hạn chế sản xuất hay tiêu
dùng nội địa liên quan tới chúng; và liên quan tới nhập khẩu hay xuất khẩu
vàng và bạc.
2.1.2 Hạn ngạch nhập khẩu (Quota)
WTO cũng không cho phép áp dụng các biện pháp này vì nó ảnh hưởng
nhiều đến thương mại quốc tế. Tuy nhiên, tại điều XVIII - GATT 1994, WTO
cho phép áp dụng trong những trường hợp đặc biệt như: bảo vệ tình hình tài
chính đối ngoại, cán cân thanh toán, bảo vệ một số ngành công nghiệp của
nước đang phát triển…WTO cũng yêu cầu khi sử dụng hạn ngạch nhập khẩu,
các quốc gia phải thực hiện các điều kiện kèm theo.
2.1.3 Hạn ngạch thuế quan (Tariff rate quota)
Để đảm bảo mở cửa thị trường ở mức độ nhất định, WTO cho phép áp
dụng biện pháp hạn ngạch thuế quan TRQ. Hạn ngạch thuế quan TRQ cho
phép sử dụng hai mức thuế suất, một mức thấp cho khối lượng trong hạn
ngạch, mức thứ hai có thể cao hơn cho nhập khẩu ngoài hạn ngạch, tuy nhiên
phải dựa trên nguyên tắc không phân biệt đối xử. Hạn ngạch có thể được tính
bằng mức chênh lệch giữa tiêu dùng và sản xuất trong nước. Việc quản lý hạn
ngạch thuế quan TRQ tuy khó khăn nhưng sẽ đáp ứng được người tiêu dùng
muốn sử dụng hàng nhập khẩu giá rẻ, đồng thời bảo vệ được người sản xuất
trong nước.
2.1.4 Giấy phép nhập khẩu (Import Licence)

Giấy phép nhập khẩu được xác định như là các thủ tục hành chính được
sử dụng để thực hiện chế độ cấp phép nhập khẩu - đòi hỏi đệ trình đơn hay
các tài liệu khác (không liên quan tới mục đích hải quan) tới các cơ quan hành
chính thích hợp - và là điều kiện tiên quyết để được phép nhập khẩu. Tuy
16
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thanh Huyền
Lớp: A13 - K44D-KT&KDQT
nhiên, thủ tục hành chính để thực hiện chế độ cấp phép không được bóp méo
thương mại do sử dụng không thích hợp các thủ tục đó. Các qui tắc đối với
thủ tục cấp phép nhập khẩu phải được áp dụng trung lập (neutral) và được
quản lý theo một cách thức công bằng và hợp lý. Mặt khác, cần phải công
khai các thông tin liên quan tới thủ tục nộp đơn, tiêu chuẩn của nhà nhập
khẩu, cơ quan tiếp nhận, danh sách các sản phẩm đòi hỏi giấy phép trong thời
hạn 21 ngày trước khi chúng có hiệu lực. Người nộp đơn chỉ cần tiếp cận tới
một cơ quan hành chính. Trường hợp đặc biệt không được quá ba cơ quan.
Nhà nhập khẩu hàng cần giấy phép có thể tiếp cận ngoại tệ cần thiết trên cùng
một cơ sở với hàng nhập khẩu không cần giấy phép.
Giấy phép nhập khẩu được chia làm hai loại :
- Giấy phép nhập khẩu tự động : được cấp trong khoảng thời gian tối đa
là 10 ngày sau khi nhận được đơn xin cấp giấy phép nhập khẩu, không hạn
chế khối lượng nhập khẩu trong phạm vi điều chỉnh, không đặt ra hạn chế với
nhà nhập khẩu.
- Giấy phép nhập khẩu không tự động : thường được dùng để quản lý các
hạn chế số lượng, phải được cấp trong khoảng thời gian tối đa là 30 ngày kể
từ khi nhận được đơn xin cấp giấy phép theo nguyên tắc ''đến trước - cấp
trước'', và 60 ngày nếu tất cả các đơn xin cấp giấy phép được xem xét cùng
một lúc.
Trước đây, cấp phép nhập khẩu là một biện pháp được sử dụng rất rộng
rãi nhằm hạn chế nhập khẩu. Hiện nay, các quy định về cấp phép nhập khẩu
của một nước thành viên phải tuân thủ Hiệp định về thủ tục cấp giấy phép

Nhập khẩu của WTO - ILP, tức là đáp ứng các tiêu chí như đơn giản, minh
bạch và dễ dự đoán. Trình tự, thủ tục xin cấp phép cũng như lý do áp dụng
giấy phép phải được thông báo rõ ràng, đặc biệt là với các loại giấy phép
không tự động.
2.1.5 Hạn chế xuất khẩu tự nguyện (VER- Volutary Export Restraint)
17
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thanh Huyền
Lớp: A13 - K44D-KT&KDQT
Hạn chế xuất khẩu tự nguyện là một thoả thuận song phương giữa hai
chính phủ, hay giữa ngành xuất khẩu tư nhân với ngành tương tự ở nước nhập
khẩu, hoặc giữa chính phủ ở nước nhập khẩu với ngành xuất khẩu ở nước có
hàng xuất. Nước xuất khẩu giới hạn xuất khẩu một số sản phẩm nhất định tới
nước nhập khẩu. Nói chung, ngành công nghiệp đang phải cạnh tranh gay gắt
với hàng nhập khẩu tương tự gây áp lực với chính phủ đàm phán về hạn chế
xuất khẩu với nước xuất khẩu để giảm bớt áp lực cạnh tranh. Các nhà xuất
khẩu bị "bắt buộc" chấp nhận số lượng đó và bị đe doạ nhận được các hành
động khắc nghiệt hơn nếu không chấp nhận thoả thuận tự nguyện hạn chế số
lượng xuất khẩu. Trong khi hạn ngạch được áp dụng chung thì hạn chế xuất
khẩu tự nguyện chỉ áp dụng với một số nước xuất khẩu chủ yếu, do đó tạo ra
sự phân biệt đối xử giữa các thành viên và rõ ràng vi phạm nguyên tắc tối huệ
quốc (MFN). Do vậy mà các nhà lãnh đạo của WTO đã xây dựng văn kiện
đưa ra các điều khoản cấm áp dụng VER kèm theo những điều kiện và các
ngoại lệ.
2.2 Các biện pháp quản lý giá
2.2.1 Trị giá tính thuế hải quan (Custom valuation)
WTO cho phép một số cách xác định trị hải quan như sau: Trị giá giao
dịch, Trị giá giao dịch của hàng giống hệt, Trị giá giao dịch của hàng tương
tự, Trị giá khấu trừ, Trị giá tính toán, Phương pháp dự phòng. WTO không
cho phép xác định trị giá tính thuế hải quan theo các cách sau
- giá nhập khẩu tối thiểu

- giá bán trong nước của hàng hoá tương tự được sản xuất tại nước mà
hàng hoá cần xác định trị giá hải quan được nhập khẩu
- một hệ thống cho phép chấp nhận giá cao hơn trong hai loại giá sử
dụng để xác định trị giá tính thuế quan của hàng hoá
- giá bán của hàng hoá tại thị trường nước xuất khẩu
- định giá trên có sở giả định hay tuỳ tiện
18
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thanh Huyền
Lớp: A13 - K44D-KT&KDQT
WTO có Hiệp định về xác định trị giá tính thuế hải quan (CVA). Mục
tiêu của CVA là tất cả các nước thành viên của WTO cần áp dụng các quy
định một cách đồng bộ, rõ ràng và công bằng trong lĩnh vực trị giá hải quan.
Các nước đang phát triển được hưởng lợi từ CVA vì hiệp định này tạo ra sự
minh bạch hơn, khả năng dự báo cao hơn và khách quan hơn trong tính toán
trị giá hải quan. Tuy nhiên, nhiều nước đang phát triển như Việt Nam gặp
phải các vướng mắc khi thực hiện CVA vì đòi hỏi phải có nhiều nguồn lực,
đòi hỏi phải có các thể chế có hiệu quả, các cơ quan hải quan hiện đại và có
năng lực, phải có các chương trình giáo dục và đào tạo cho những công chức
nắm giữ các vị trí chủ chốt, cần áp dụng công nghệ mới.
2.2.2 Giá bán tối đa (Maximum selling price)
Giá bán tối đa trong nước đối với một hàng hoá nào đó có thể hạn chế
nhập khẩu, đặc biệt là đối với những nhà xuất khẩu không có khả năng cạnh
tranh cao. Các thành viên thừa nhận là các biện pháp quản lý giá tối đa dù cho
có phù hợp với nguyên tắc không phân biệt đối xử quốc gia (NT) cũng có thể
có tác động xấu tới lợi ích của các thành viên đang cung cấp hàng nhập khẩu.
Do đó các thành viên đang áp dụng các biện pháp quản lý giá tối đa cần phải
tính đến lợi ích của các thành viên xuất khẩu nhằm tránh mở rộng các tác
động xấu đó.
2.2.3 Phí thay đổi (Variable import levies)
Những loại phí thay đổi cản trở đáng kể thương mại do tính không minh

bạch của chúng. Hiệp định nông nghiệp qui định phải thuế hoá các loại phí
thay đổi.
2.2.4 Phụ thu (Surcharges)
Phụ thu được coi là một biện pháp làm bóp mép thương mại, vì vậy điều
VIII- GATT 1994 quy định tất cả các loại phí và phụ thu (không phải là thuế
xuất nhập khẩu và các loại thuế nội địa khác) đánh vào hàng xuất nhập khẩu
chỉ được giới hạn ở mức tương ứng chi phí dịch vụ thực sự bỏ ra và không
19

×