Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

TIỂU LUẬN: Phân tích tính hiệu quả và công bằng của dự thảo luật thuế nhà, đất 2010 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (727.11 KB, 36 trang )








TIỂU LUẬN

Phân tích tính hiệu quả và công bằng
của dự thảo luật thuế nhà, đất 2010


Đề tài: Phân tích tính hiệu quả và công bằng của dự thảo luật thuế nhà, đất 2010

Page 1

MỤC LỤC
DANH SÁCH NHÓM 3
PHẦN MỞ ĐẦU 4
1. Mục tiêu nghiên cứu 4
2. Phương pháp nghiên cứu 4
3. Tính cấp thiết của đề tài 5
CHƯƠNG 1. THẤT BẠI THỊ TRƯỜNG NHÀ ĐẤT VIỆT NAM 6
1.1 Thực trạng thuế nhà, đất Việt Nam thời gian qua 6
1.2 Diễn biến thị trường bất động sản Việt Nam thời gian qua 10
CHƯƠNG 2. DỰ THẢO LUẬT THUẾ NHÀ, ĐẤT VÀ CÁC VĂN BẢN PHÁP
LUẬT LIÊN QUAN 12
2.1 Quyền sử dụng đất, quyền sử dụng nhà ở 12
2.1.1 Quyền sử dụng đất 12
2.1.2 Quyền sở hữu nhà ở 12


2.2 Pháp lệnh thuế nhà, đất 1991 13
2.2.1 Những quy định chung 13
2.2.2 Căn cứ tính thuế và biểu thuế nhà đất 14
2.2.3 Miễn, giảm thuế 14
2.3 Dự thảo luật thuế nhà, đất năm 2010 15
Đề tài: Phân tích tính hiệu quả và công bằng của dự thảo luật thuế nhà, đất 2010

Page 2

2.3.1 Những quy định chung 15
2.3.2 Căn cứ tính thuế, định hướng, khai, tính và nộp thuế 16
2.3.3 Miễn, giảm thuế 18
CHƯƠNG 3. PHÂN TÍCH TÍNH HIỆU QUẢ VÀ CÔNG BẰNG CỦA DỰ THẢO
LUẬT THUẾ NHÀ, ĐẤT 2010 20
3.1 Tính hiệu quả 20
3.1 20
24
3.1.3 Chưa có công cụ chống đầu cơ 24
3.2 Tính công bằng 26
3.2.1 Tác động của thuế đất đai đối với khả năng tiếp cận đất của các DN 26
3.2.2 Tác động của thuế đất đai đối với khả năng tiếp cận vốn vay của các DN 27
3.2.3 Tác động của thuế đất đai đối với việc hưởng chênh lệch giá 28
CHƯƠNG 4. GÓP Ý DỰ THẢO LUẬT THUẾ NHÀ, ĐẤT NĂM 2010 29
4.1 Góp ý dự thảo Luật thuế nhà, đất 29
4.2 Phương hướng xây dựng Luật thuế nhà, đất 29
Tài Liệu Tham Khảo 35


Đề tài: Phân tích tính hiệu quả và công bằng của dự thảo luật thuế nhà, đất 2010


Page 3

DANH SÁCH NHÓM

1. Đồng Quang Nhật K09.401.0073
2. Bùi Thị Bích Thảo K09.401.0093
3. Dương Minh Triết K09.401.0113
4. Bùi Lê Bảo Khanh K09.401.0051
5. Phạm Thị Thiên Thư K09.401.0102
6. Phạm Thị Huyền Trâm K09.401.0110











Đề tài: Phân tích tính hiệu quả và công bằng của dự thảo luật thuế nhà, đất 2010

Page 4

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Mục tiêu nghiên cứu
Thấy được thất bại thị trường nhà đất Việt Nam và sự cần thiết của sự can thiệp
của Chính phủ.
Phân tích được tính hiệu quả và công bằng của dự thảo thuế nhà, đất 2010(đây

là mục tiêu quan trọng nhất)
Qua việc phân tích tính hiệu quả và công bằng của dự thảo thuế nhà, đất 2010.
Nhóm đưa ra những góp ý để cải thiện dự thảo.
2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Dựa vào các tài liệu mà nhóm thu thập được
cả nội văn và ngoại văn, nhóm đánh giá vấn đề dưới góc độ Kinh Tế Công.
Dùng những lý luận, khái niệm của các tác giả có uy tín để làm cơ sở cho những
phân tích và đánh giá của mình. Nguồn tài liệu: sách giáo khoa, tác phẩm khoa
học trong ngành, tài liệu lưu trữ, số liệu thống kê, thông tin đại chúng (Internet,
truyền hình…)
Phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia: Tham khảo các ý kiến và đánh giá
của các chuyên gia trong ngành, từ đó tiếp thu những ý kiến có chọn lọc cho đề
tài nghiên cứu.
Phương pháp phân tích thực chứng: Đánh giá thực trạng, tình hình thực tiễn của
thị trường nhà đất Việt Nam. Làm cơ sở thực tiễn cho việc phân tích và đánh giá
của nhóm, hỗ trợ số liệu và thông tin cho phương pháp phân tích chuẩn tắc.
Phương pháp phân tích chuẩn tắc: Dựa vào các thông tin, số liệu thực tế của thị
trường nhà đất Việt Nam trước khi có Luật thuế nhà, đất. Nhóm sẽ đánh giá
được tính cấp thiết của Luật thuế nhà, đất và phân tích được tính hiệu quả và
công bằng của dự thảo luất thuế nhà, đất cũng như góp ý cho dự thảo.
Đề tài: Phân tích tính hiệu quả và công bằng của dự thảo luật thuế nhà, đất 2010

Page 5

3. Tính cấp thiết của đề tài
Việc ban hành Luật thuế nhà, đất thay thế Pháp lệnh thuế nhà, đất hiện hành giúp
khắc phục những hạn chế của Pháp lệnh cũ ban hành năm 1991 về phương pháp tính
thuế, sự bình đẳng trong việc thu thuế, đồng thời tăng cường vai trò quản lý, điều tiết
của nhà nước đối với lĩnh vực nhà đất này trong bối cảnh chuyển dịch sang nền kinh tế
thị trường. Dự thảo Luật thuế nhà, đất 2010 của Bộ Tài Chính đưa ra lấy ý kiến các bên

liên quan vì những mục tiêu đó. Tuy chỉ là bản dự thảo, nhưng nó thể hiện quyết tâm
của Chính Phủ nhằm đảm bảo tính hiệu quả và công bằng của thị trường nhà đất Việt
Nam.
Đề tài của nhóm được nghiên cứu nhằm phân tích những hạn chế trong tính hiệu
quả và công bằng của dự thảo luật thuế nhà, đất năm 2010. Bên cạnh đó, nhóm góp ý
xây dựng dự thảo với mong muốn thị trường nhà đất Việt Nam hoạt động công bằng và
hiệu quả.









Đề tài: Phân tích tính hiệu quả và công bằng của dự thảo luật thuế nhà, đất 2010

Page 6

CHƯƠNG 1. THẤT BẠI THỊ TRƯỜNG NHÀ ĐẤT VIỆT NAM
1.1 Thực trạng thuế nhà, đất Việt Nam thời gian qua
Thứ nhất, tình hình thực thế cho thấy mức thu thuế nhà đất còn quá thấp, chưa đủ
thúc đẩy việc sử dụng đất có hiệu quả, tạo nguồn thu bền vững cho ngân sách nhà
nước. Cụ thể, thuế sử dụng đất nông nghiệp và thuế nhà đất tại VN tương tự với thuế
bất động sản ở các nước. Thuế sử dụng đất nông nghiệp được miễn giảm từ năm 2003
và tiếp tục miễn giảm đến năm 2020, nguồn thu khác chỉ phụ thuộc vào quỹ đất phi
nông nghiệp. Tuy nhiên, nguồn thu từ tiền giao đất, cho thuê đất và bán nhà thuộc sở
hữu nhà nước (chiếm phần lớn nguồn thu từ đất) lại không được xem là bền vững,
khoản thu này chỉ nhận được một lần khi giao dịch, không mang tính lâu dài do quỹ đất

nhà nước ngày càng hạn hẹp.
Còn đối với đất phi nông nghiệp, nguồn thu được xem là bền vững và ổn định cho
ngân sách nhà nước thì mức thu quá thấp. Như mức thu thuế đất hàng năm trung bình
chỉ chiếm 2, 81% trong tổng thu từ bất động sản; 0,28% trong tổng thu ngân sách nhà
nước và 0,08% GDP giai đoạn 2003-2010.











Đề tài: Phân tích tính hiệu quả và công bằng của dự thảo luật thuế nhà, đất 2010

Page 7

Mức thu thuế nhà đất:
Chỉ tiêu
2003
2004
20005
2006
2007
2008
2009
2010

Thu thuế
đất
510
568
647
705
824
999
1.531
1.325
Tổng thu
từ bất
động sản
12.513
20.390
20.891
24.35
0
42.133
47.785
51.788
51.030
Tổng thu
ngân
sách nhà
nước
158.05
7
198.614
238.687

289.1
70
336.27
3
434.761
442.34
0
461.50
0
GDP
613.44
3
715.307
839.211
974.2
66
1.143.7
15
1.477.7
17
1.679.
200
1.915.
174
Tỷ trọng
thuế/tổn
g thu từ
bất động
sản
4,08%

2,79%
3,10%
2,90
%
1,96%
2,09%
2,96%
2,60%
Tỷ trọng
thuế đất/
ngân
sách nhà
nước
0,32%
0,29%
0,27%
0,24
%
0,25%
0,23%
0,35%
0,29%
Tỷ trọng
thuế
đất/GDP
0,08%
0,08%
0,08%
0,07
%

0,07%
0,07%
0,09%
0,07%
Nguồn: Bộ Tài chính, tổng cục thống kê
Thứ hai, việc xác định diện tích đất tính thuế còn nhiều bất cập. Để đảm bảo xác
định diện tích tính thuế một cách chính xác, theo quy định tại Thông tư số 83 TC/TCT
ngày 7/10/1994 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 94/CP ngày
25/8/1994 của Chính phủ về thuế nhà, đất, yêu cầu có đủ ba loại tài liệu: giấy giao
quyền sử dụng đất, bản đồ địa chính của lô đất, số liệu đo đạc thực tế với diện tích đất
đang sử dụng. Tuy nhiên, trong thực tế, do khó hội đủ các tài liệu trên nên phần lớn các
trường hợp tính thuế đều căn cứ vào tờ khai của đối tượng nộp thuế. Điều này khó
tránh khỏi sự chênh lệch giữa diện tích đất ở thực tế với diện tích kê khai nộp thuế, dẫn
Đề tài: Phân tích tính hiệu quả và công bằng của dự thảo luật thuế nhà, đất 2010

Page 8

đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải mất nhiều chi phí cho việc thực hiện xác
minh, kiểm tra. Hơn nữa, đối tượng nộp thuế chủ yếu là các cá nhân, hộ gia đình đang
sử dụng đất để ở, nhiều khu vực dân cư chưa có quy hoạch ổn định, thậm chí có khu
dân cư nằm trong các cơ quan, đơn vị… Có những khu vực hộ khẩu biến động liên tục
do vậy tình trạng bỏ sót, tính trùng hộ, thừa hộ xảy ra phổ biến. Theo kết quả thống kê
của Tổng cục địa chính, diện tích đất thu thuế năm 2001 là 302.000 ha trên tổng diện
tích đất chịu thuế là 469.669 ha, tức chỉ chiếm 64,1% tổng diện tích đất ở.
Thứ ba, về việc phân chia hạng đất tính thuế không còn phù hợp với tốc độ phát
triển, đặc biệt là các khu đô thị. Yếu tố hạng đất theo quy định hiện hành được xác
định căn cứ vào loại đô thị (từ I đến VI), loại đường phố (dựa vào vị trí đất ở khu vực
trung tâm, cận trung tâm hay ven đô), các điều kiện có lợi trong sản xuất, kinh doanh,
sinh hoạt…Với tốc độ đô thị hóa mạnh mẽ như hiện nay, quy định này từ năm 1994 đã
không còn hoàn toàn phù hợp, nhất là gây khó khăn cho những địa phương mới được

xếp hạng lên đô thị loại cao hơn.
Thứ tư, việc xác định mức thuế đất quy định dựa vào mức thuế sử dụng đất nông
nghiệp đã dẫn đến việc xác định thuế gặp nhiều khó khăn. Điều 7 Pháp lệnh sửa đổi bổ
sung Pháp lệnh thuế nhà, đất ngày 19/5/1994 quy định: “Đối với đất ở, đất xây dựng
công trình thuộc thành phố, thị xã, thị trấn, mức thuế đất bằng 3 lần đến 32 lần mức
thuế sử dụng đất nông nghiệp của hạng đất cao nhất trong vùng… Đối với đất ở, đất
xây dựng công trình thuộc vùng ven đô thị, ven trục giao thông chính, mức thuế đất
bằng 1,5 đến 2,5 lần mức thuế sử dụng đất nông nghiệp của hạng đất cao nhất trong
vùng…”. Quy định như trên vừa không thể hiện được tính độc lập của loại thuế này
vừa không đảm bảo tính toán thuế một cách chính xác, hợp lý, không đảm bảo công
bằng bởi phải dựa vào việc xác định hạng đất theo Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Trên thực tế, quy định phân hạng đất tại Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp năm 1993
về mặt hình thức là rất khoa học, tuy nhiên trên thực tế, việc phân hạng đất thường
Đề tài: Phân tích tính hiệu quả và công bằng của dự thảo luật thuế nhà, đất 2010

Page 9

mang tính chất đối phó, áp đặt theo ý chí chủ quan của các cơ quan quản lý (ngay cả
khi muốn tính toán chính xác để phân hạng thì điều kiện kỹ thuật, nhân lực, vật lực
cũng còn nhiều hạn chế). Từ đó, khi xác định mức thuế đất cũng dẫn đến bất cập tương
tự đã thường xuyên xảy ra với đất nông nghiệp (ví dụ: trong trường hợp cùng một khu
đất nhưng thuộc hai địa phương khác nhau thì mức thuế áp dụng sẽ khác nhau do việc
xác định hạng đất nông nghiệp ở hai địa phương không đồng nhất).
Áp dụng căn cứ tính thuế nhà, đất trên cơ sở tính thuế của thuế sử dụng đất nông
nghiệp cũng là nguyên nhân chủ yếu làm cho tỷ lệ động viên thuế nhà, đất quá thấp so
với thuế sử dụng đất nông nghiệp vì quy định mức thuế đất cao nhất là bằng 32 lần
mức thuế sử dụng đất nông nghiệp, không phản ánh được giá trị thật mà đất ở, đất xây
dựng công trình mang lại. Giá đất ở, đất xây dựng công trình cao hơn rất nhiều so với
đất nông nghiệp và những lợi nhuận mà nó mang lại có khi gấp hàng trăm lần đất nông
nghiệp. Theo kết quả tổng hợp của cơ quan thuế, năm 2000, tỷ lệ động viên vào đất ở,

đất xây dựng công trình hạng cao nhất là 0,23%, đất nông nghiệp hạng cao nhất là
0,42% tức mức động viên thuế đất thấp hơn 18,2 lần so với mức động viên vào thuế sử
dụng đất nông nghiệp ở cùng hạng. Trong khi đó, mức chênh lệch giữa giá đất đô thị
loại cao nhất với giá đất nông nghiệp loại cao nhất là 595 lần. Mức động viên thực tế
càng bất hợp lý: đất vùng núi cao hơn đất đồng bằng, đất nông thôn cao hơn đất đô thị,
đất khu vực kém thuận lợi cao hơn đất ở khu vực thuận lợi.
Thứ năm, việc xác định thuế nhà, đất theo mức thuế tính bằng thóc nhưng thu bằng
tiền đã tạo tính luỹ thoái của thuế, đi ngược với chính sách thuế trực thu. Thuế nhà, đất
được tính theo hệ số so sánh với định suất thuế hạng đất nông nghiệp, kết quả tính thuế
đất theo số lượng kilogam thóc trong khi thuế đất lại thu bằng tiền nên phải quy đổi
theo giá thóc. Quy định này vừa gây thất thu cho ngân sách nhà nước vừa tạo ra tính
lũy thoái ngoài mong muốn của thuế nhà, đất với tính chất là một loại thuế trực thu, bởi
trong khi giá đất ở, đất xây dựng công trình có xu thế tăng nhanh chóng thì giá thóc
Đề tài: Phân tích tính hiệu quả và công bằng của dự thảo luật thuế nhà, đất 2010

Page 10

tăng không đáng kể, thậm chí giữ nguyên hoặc giảm đi. Do vậy việc tính thuế đất bằng
thóc theo giá thuế sử dụng đất nông nghiệp vụ cuối năm trước liền kề năm tính thuế vô
hình chung khiến cho mức thuế đất tỷ lệ nghịch với giá thực tế của đất ở, đất xây dựng
công trình.
Thứ sáu, tình hình kinh tế xã hội hiện nay đặt ra yêu cầu cần phải thu thuế đối với
nhà ở. Pháp lệnh thuế nhà, đất hiện hành có ghi nhận: “Thuế nhà, đất là thuế thu đối
với nhà và đối với đất ở, đất xây dựng công trình. Trong tình hình hiện nay, tạm thời
chưa thu thuế nhà và chưa quy định về thuế nhà”. Đặt trong thời điểm ra đời của Pháp
lệnh, quy định trên là phù hợp với điều kiện xây dựng, sử dụng cũng như đăng ký sở
hữu và quản lý nhà còn nhiều hạn chế. Tuy nhiên cho đến nay, qua 15 năm đổi mới,
tình hình kinh tế – xã hội đã có nhiều thay đổi, đời sống của đại bộ phận người dân
được cải thiện, công tác quản lý nhà cũng đã tương đối ổn định, chủ trương tạm thời
chưa thu thuế nhà đã làm mất đi một nguồn thu khá lớn cho ngân sách nhà nước đồng

thời hạn chế đáng kể vai trò phân phối lại thu nhập của loại thuế này. Thực tế, cùng với
sự tăng trưởng kinh tế, phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ nét hơn, thể hiện ở việc có
rất nhiều biệt thự, ngôi nhà giá trị được xây dựng. Nếu có sự phân hoá hợp lý, việc thu
thuế đối với nhà không những đem lại nguồn thu cho ngân sách mà còn đảm bảo thực
hiện mục tiêu công bằng xã hội.
Thêm vào đó, thuế nhà, đất mới chỉ được tồn tại dưới hình thức pháp lý là Pháp
lệnh, chưa thể hiện được đầy đủ tầm quan trọng của sắc thuế này. Chế độ miễn giảm
quy định trong văn bản pháp luật cũng tạo nên những tiêu cực, chủ quan khi đánh giá,
xem xét. Chi phí quản lý thuế nhà, đất được đánh giá là khá cao trong khi công tác
hành thu lại không hiệu quả, kết quả thu thấp, đóng góp không nhiều vào tổng số thu
thuế chung của nhà nước.

Đề tài: Phân tích tính hiệu quả và công bằng của dự thảo luật thuế nhà, đất 2010

Page 11

1.2 Diễn biến thị trường bất động sản Việt Nam thời gian qua
Như đã thấy ở trên, mức thu thuế đối với đất đai tại Việt Nam thấp và do nhiều bất
cập nên hiệu quả sử dụng BẤT ĐỘNG SẢN tại Việt Nam chưa cao. Hiện tượng đất bỏ
hoang, quy hoạch treo, dự án kéo dài còn phổ biến, đặc biệt là đất đô thị. Tại các thành
phố lớn như Hà Nội và TP.HCM, do bị tác động bởi hiện tượng đầu cơ nên dẫn đến
nhiều nhà bỏ hoang, không đưa vào sử dụng, gây lãng phí quỹ đất. Đến nay vẫn chưa
có cơ quan thống kê hoặc đề tài nghiên cứu nào đưa ra số nhà, đất và dự án bất động
sản bị bỏ hoang, chưa đưa vào khai thác. Tuy nhiên, theo khảo sát của Bộ Tài Chính
năm 2008, cho biết 38%-70% các căn hộ mới tại Hà Nội được thực hiện bởi các nhà
đầu cơ, nhiều chuung cư, căn hộ và biệt thự bỏ trống trong thời gian dài, có khi lên đến
10 năm. Tại TP.HCM, giai đoạn 2004-2010, thành phố đã thu hồi 80/1437 dự án do
không triển khai hoặc triển khai chậm, chiếm 10% diện tích đất được giao.
Bên cạnh đó, thị trường bất động sản phát triển không ổn định, giá cả bất động sản
tăng giảm bất thường làm ảnh hưởng đến phát triển chung của nền kinh tế. Các chỉ số

đo lường sự phát triển của thị trường nhà đất như chỉ số giá (RPI), chỉ số giao dịch của
thị trường (RAI), chỉ số đánh giá chung thị trường (ARMI)… đến nay vẫn chưa được
công bố tầm quốc gia. Theo nghiên cứu tại một số tập đoàn kinh doanh bất động sản
cho thấy, giá bất động sản đã qua ba “cơn sốt” giá vào năm 1994, năm 2001, và đỉnh
điểm là con sốt thứ ba vào cuối năm 2007 đầu 2008 dã đẩy giá bất động sản lên mức
cao kỷ lục. Sau cơn sốt thứ ba, giá căn hộ và đất nền khu vực Hà Nội và TP.HCM tăng
từ 50%-300% so với cuối năm 2006, cao gấp 4-6 lần so với Trung Quốc, Thái Lan, và
các nước có thu nhập bình quân đầu người gấp 10 lần Việt Nam.



Đề tài: Phân tích tính hiệu quả và công bằng của dự thảo luật thuế nhà, đất 2010

Page 12

CHƯƠNG 2. DỰ THẢO LUẬT THUẾ NHÀ, ĐẤT VÀ CÁC VĂN BẢN PHÁP
LUẬT LIÊN QUAN
2.1 Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
2.1.1 Quyền sử dụng đất
Theo điều 105 (Luật Đất Đai 2003), người sử dụng đất có các quyền chung sau đây:
1. Được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
2. Hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất;
3. Hưởng các lợi ích do công trình của Nhà nước về bảo vệ, cải tạo đất nông nghiệp;
4. Được Nhà nước hướng dẫn và giúp đỡ trong việc cải tạo, bồi bổ đất nông nghiệp;
5. Được Nhà nước bảo hộ khi bị người khác xâm phạm đến quyền sử dụng đất hợp
pháp của mình;
6. Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về những hành vi vi phạm quyền sử dụng đất hợp pháp
của mình và những hành vi khác vi phạm pháp luật về đất đai.
Theo điều 106 (Luật Đất Đai 2003), quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho
thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; quyền thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng

quyền sử dụng đất; quyền được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất:
1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê,
cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng
quyền sử dụng đất theo quy định khi có các điều kiện sau đây:
a) Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
b) Đất không có tranh chấp;
c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;
d) Trong thời hạn sử dụng đất.
2. Người sử dụng đất được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định.
2.1.2 Quyền sở hữu nhà ở
Theo điều 21 (Luật Nhà ở 2005), quyền của chủ sở hữu nhà ở là:
Đề tài: Phân tích tính hiệu quả và công bằng của dự thảo luật thuế nhà, đất 2010

Page 13

1. Chiếm hữu đối với nhà ở.
2. Sử dụng nhà ở.
3. Bán, cho thuê, cho thuê mua, tặng cho, đổi, để thừa kế, cho mượn, cho ở nhờ, uỷ
quyền quản lý, thế chấp nhà ở thuộc sở hữu của mình theo quy định của pháp luật.
4. Bảo trì, cải tạo, phá dỡ hoặc xây dựng lại nhà ở và sử dụng không gian của nhà ở
phù hợp với quy hoạch xây dựng, kiến trúc và các quy định của pháp luật có liên quan.
5. Khiếu nại, tố cáo những hành vi vi phạm quyền sở hữu nhà ở hợp pháp của mình.
6. Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp mới, cấp đổi, cấp lại Giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở, xác nhận những thay đổi sau khi cấp giấy chứng nhận theo quy
định của Luật này.
7. Thực hiện các quyền khác theo quy định của pháp luật.
2.2 Pháp lệnh thuế nhà, đất 1992
2.2.1 Những quy định chung
Tổ chức, cá nhân có quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất ở, đất xây dựng công
trình, gọi chung là chủ nhà đất, đều phải nộp thuế nhà đất. Trong trường hợp còn có sự

tranh chấp hoặc chưa xác định được quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng nhà đất, thì tổ
chức, cá nhân đang sử dụng nhà phải nộp thuế nhà đất. Tổ chức, cá nhân, kể cả xí
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thuê nhà, đất ở, đất xây dựng công trình thì chỉ trả
tiền thuê nhà, đất, còn thuế nhà đất thì do tổ chức, cá nhân cho thuê nhà, đất nộp theo
quy định của Pháp lệnh này.
Không thu thuế đối với:
1- Nhà ở thuộc vùng nông thôn, trừ nhà ở nơi có hoạt động kinh doanh, dịch vụ
ven đường quốc lộ, tỉnh lộ thuộc vùng đồng bằng, trung du;
2- Đất làm đường sá, cầu cống, công viên, sân vận động, đê điều, công trình thuỷ
lợi, nghĩa trang;
3- Nhà, đất dùng làm trụ sở cơ quan hành chính, sự nghiệp, tổ chức xã hội, công
trình văn hoá, doanh trại đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân;
Đề tài: Phân tích tính hiệu quả và công bằng của dự thảo luật thuế nhà, đất 2010

Page 14

4- Nhà, đất chuyên dùng vào việc thờ cúng của tôn giáo;
5- Nhà, đất sử dụng vì lợi ích công cộng mà chủ nhà đất không thu tiền thuê.
2.2.2 Căn cứ tính thuế và biểu thuế nhà đất
Căn cứ tính thuế nhà đất là diện tích nhà, diện tích đất, giá tính thuế mỗi mét
vuông đối với từng hạng nhà, hạng đất và thuế suất.
Giá tính thuế nhà đất được quy định như sau:
1- Giá tính thuế nhà được quy định căn cứ vào giá thị trường đối với từng hạng nhà;
2- Giá tính thuế đất được quy định căn cứ vào khả năng sinh lợi và giá trị sử dụng
của đất trong từng khu vực.
Căn cứ vào quy định tại điểm 1 và điểm 2, Điều này Hội đồng bộ trưởng quy định
việc phân hạng nhà, hạng đất, việc định khung giá tiêu chuẩn và định giá tính thuế nhà
đất.
Thuế suất thuế nhà đất được quy định như sau:
1- Đối với nhà: 0,3% giá tính thuế/năm

2- Đối với đất: 0,5% giá trị thuế/năm
Đối với đất ở thuộc vùng nông thôn, mức thuế đất ở được quy định như sau:
1- Ở vùng đồi trọc, đá sỏi, mức thuế đất ở bằng mức thuế nông nghiệp cùng hạng
trong vùng;
2- Ở vùng trung du, đồi núi, mức thuế đất ở bằng 1,5 lần mức thuế nông nghiệp
cùng hạng đất trong vùng;
3- Ở vùng đồng bằng, mức thuế đất ở bằng 2 lần mức thuế nông nghiệp cùng
hạng đất trong vùng; riêng ở vùng đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long và
ven các đường quốc lộ, tỉnh lộ, mức thuế đất ở bằng 3 lần mức thuế nông nghiệp cùng
hạng đất trong vùng.
4- Đất ở mà sử dụng vào sản xuất nông nghiệp thì được tính thuế đất bằng mức
thuế nông nghiệp cùng hạng đất trong vùng.
2.2.3 Miễn, giảm thuế
Đề tài: Phân tích tính hiệu quả và công bằng của dự thảo luật thuế nhà, đất 2010

Page 15

Những người thuộc diện được phân phối nhà ở theo chế độ của Nhà nước,
nhưng chưa được phân phối mà có nhà thuộc quyền sở hữu của mình, thì được miễn
thuế nhà đất đối với phần diện tích nhà, đất tương đương với tiêu chuẩn quy định của
Nhà nước.
Những trường hợp sau đây được xét miễn, giảm thuế nhà đất:
1- Nhà xây dựng bằng vật liệu dễ hư hỏng;
2- Nhà hư hỏng phải sửa chữa mà chi phí vượt quá một nửa giá tính thuế nhà;
3- Nhà mới xây dựng trong vòng 3 năm đầu;
4- Nhà xưởng của các xí nghiệp quốc doanh;
5- Nhà đất cơ quan Nhà nước quản lý cho cán bộ, công nhân viên chức Nhà nước thuê;
6- Nhà đất của các đối tượng nộp thuế khó khăn do thiên tai, dịch hoạ, tai nạn bất ngờ.
Thủ tục, thẩm quyền quyết định việc xét giảm thuế, miễn thuế nhà đất do Hội
đồng bộ trưởng quy định.

2.3 Dự thảo luật thuế nhà, đất năm 2010
2.3.1 Những quy định chung
Đối tượng chịu thuế
1. Nhà ở;
2. Đất ở;
3. Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp.
Đối tượng không thuộc diện chịu thuế
1. Nhà ở, đất sử dụng vào các mục đích, lĩnh vực hoạt động sau đây không vì mục đích
kinh doanh:
a) Nhà ở, đất sử dụng vào mục đích công cộng, công trình sự nghiệp, phúc lợi xã hội
hoặc từ thiện; Nhà ở công vụ;
b) Nhà ở, đất do các cơ sở tôn giáo sử dụng;
c) Đất làm nghĩa trang, nghĩa địa;
d) Đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối;
Đề tài: Phân tích tính hiệu quả và công bằng của dự thảo luật thuế nhà, đất 2010

Page 16

đ) Đất có công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ;
2. Đất xây dựng trụ sở cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đất sử dụng vào mục đích
quốc phòng, an ninh.
Người nộp thuế
1. Người nộp thuế là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có quyền sở hữu nhà ở, quyền sử
dụng đất thuộc đối tượng chịu thuế quy định tại Điều 2 Luật này;
2. Trường hợp chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi là Giấy chứng nhận) thì người đang sử
dụng đất, nhà ở là người nộp thuế. Việc nộp thuế không phải là công nhận quyền sở
hữu nhà ở, quyền sử dụng đất hợp pháp của người nộp thuế.
3. Trường hợp người có quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất đem góp vốn bằng
quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất mà hình thành pháp nhân mới có quyền sở hữu

nhà ở, quyền sử dụng đất thuộc đối tượng chịu thuế quy định tại Điều 2 Luật này thì
pháp nhân mới là người nộp thuế.
2.3.2 Căn cứ tính thuế, định hướng, khai, tính và nộp thuế
2.3.2.1 Giá tính thuế
1. Giá tính thuế đối với nhà ở được xác định bằng diện tích nhà ở chịu thuế nhân với
giá tính thuế của 1m2 nhà ở. Trong đó:
a) Diện tích nhà ở chịu thuế là toàn bộ diện tích sàn xây dựng (kể cả diện tích công
trình phụ, diện tích ban công kèm theo nếu có) của một căn hộ chung cư hoặc nhà ở
theo Giấy chứng nhận, trường hợp chưa được cấp Giấy chứng nhận thì diện tích nhà ở
chịu thuế là diện tích thực tế xây dựng.
b) Giá tính thuế của 1m2 nhà ở được xác định theo tỷ lệ phần trăm trên đơn giá 1m2
nhà ở xây dựng mới của nhà ở cùng loại (kể cả trường hợp sử dụng nhà ở để cho thuê
hoặc kinh doanh) do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định.
Chính phủ quy định cụ thể tỷ lệ phần trăm đối với từng loại nhà ở.
Đề tài: Phân tích tính hiệu quả và công bằng của dự thảo luật thuế nhà, đất 2010

Page 17

c) Trường hợp có quyền sở hữu nhiều nhà ở thì giá tính thuế là tổng giá trị các nhà ở
chịu thuế.
2. Giá tính thuế đối với đất được xác định bằng diện tích đất chịu thuế nhân với giá của
1m2 đất:
a) Diện tích đất chịu thuế là diện tích đất ghi trong Giấy chứng nhận, trường hợp chưa
được cấp Giấy chứng nhận thì diện tích đất chịu thuế là diện tích đất thực tế đang sử
dụng.
Trường hợp có quyền sử dụng nhiều thửa đất ở thì diện tích chịu thuế là tổng diện tích
các thửa đất ở có quyền sử dụng.
b) Giá của 1m2 đất chịu thuế là giá đất theo mục đích sử dụng đất do Uỷ ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định, cụ thể như sau:
- Trường hợp đã có Giấy chứng nhận (kể cả trường hợp sử dụng đúng mục đích hoặc

không đúng mục đích trên Giấy chứng nhận) thì giá của 1m2 đất chịu thuế là giá đất
theo mục đích sử dụng được ghi trong Giấy chứng nhận.
- Trường hợp chưa được cấp Giấy chứng nhận thì giá của 1m2 đất chịu thuế là giá đất
theo mục đích đang sử dụng.
c) Đối với đất ở nhà nhiều tầng nhiều hộ ở, nhà chung cư (bao gồm cả trường hợp vừa
để ở vừa để kinh doanh), giá tính thuế được xác định bằng việc áp dụng hệ số phân bổ
cho các tầng theo quy định của Chính phủ.
3. Giá tính thuế đối với đất, nhà ở được ổn định theo chu kỳ 5 năm kể từ năm đầu tiên
Luật này có hiệu thi hành.
2.3.2.2 Thuế suất
Thuế suất đối với nhà ở, đất được quy định như sau:
1. Nhà ở: Áp dụng thuế suất theo biểu thuế luỹ tiến từng phần tính theo năm như sau:


Đề tài: Phân tích tính hiệu quả và công bằng của dự thảo luật thuế nhà, đất 2010

Page 18

Bậc thuế
Giá tính thuế của nhà ở
Thuế suất (%)
1
Đến 500 triệu đồng
0
2
Phần trên 500 triệu đồng
0.03

2. Đất ở: Áp dụng thuế suất theo biểu thuế luỹ tiến từng phần tính theo năm như sau
Bậc

thuế
Diện tích đất chịu thuế
(m2)
Thuế suất
(%)
1
Diện tích trong hạn mức
0.03
2
Phần diện tích vượt hạn mức nhưng không quá 3 lần hạn
mức
0.06
3
Phần diện tích vượt trên 3 lần hạn mức
0.09

3. Đất ở nhà nhiều tầng nhiều hộ ở, nhà chung cư: Áp dụng mức thuế suất là 0,03%.
4. Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp: Áp dụng mức thuế suất là 0,03% đối với
đất được sử dụng và 0,06% đối với đất sử dụng sai mục đích và chưa sử dụng.
2.3.3 Miễn, giảm thuế
2.3.3.1 Miễn thuế
Miễn thuế cho các trường hợp sau:
1. Đất của dự án đầu tư thuộc lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư; dự án đầu tư tại
địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; dự án đầu tư thuộc lĩnh vực
khuyến khích đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
2. Đất của cơ sở thực hiện xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục,
dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao, môi trường.
Đề tài: Phân tích tính hiệu quả và công bằng của dự thảo luật thuế nhà, đất 2010

Page 19


3. Đất xây dựng nhà tình nghĩa, trại trẻ mồ côi, trại cai nghiện, viện dưỡng lão.
4. Nhà ở, đất ở của người dân tộc thiểu số tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc
biệt khó khăn.
5. Nhà ở, đất ở của: Người hoạt động cách mạng trước ngày 19/8/1945; thương binh
hạng 1/4, 2/4; người hưởng chính sách như thương binh hạng 1/4, 2/4; bệnh binh hạng
1/3; Bà mẹ Việt Nam anh hùng; thân nhân liệt sỹ được hưởng trợ cấp hàng tháng;
người hoạt động cách mạng bị nhiễm chất độc màu da cam; người bị nhiễm chất độc
màu da cam mà hoàn cảnh gia đình khó khăn.
6. Nhà ở, đất ở của người tàn tật, người chưa đến tuổi thành niên và người già cô đơn
không nơi nương tựa không có khả năng nộp thuế; nhà ở, đất ở của đối tượng là hộ
nghèo theo quy định của Chính phủ.
7. Hộ gia đình, cá nhân trong năm thuộc diện thu hồi đất, nhà ở theo quy hoạch, kế
hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì được miễn thuế trong năm thực tế có thu
hồi đất, nhà ở tại nơi bị thu hồi nhà ở, đất và nơi ở mới.
8. Người nộp thuế gặp khó khăn do sự kiện bất khả kháng được miễn thuế nếu giá trị
thiệt hại về đất, nhà ở trên 50% tổng giá trị đất, nhà ở chịu thuế.
9. Các trường hợp khác theo quy định của Chính phủ.
2.3.3.2 Giảm thuế
Giảm 50% thuế trong các trường hợp sau:
1. Đất của dự án đầu tư thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư; dự án đầu tư tại địa bàn có điều
kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
Đề tài: Phân tích tính hiệu quả và công bằng của dự thảo luật thuế nhà, đất 2010

Page 20

2. Nhà ở, đất ở của thương binh hạng 3/4, 4/4; người hưởng chính sách như thương
binh hạng 3/4, 4/4; bệnh binh hạng 2/3, 3/3; thân nhân liệt sỹ không được hưởng trợ
cấp hàng tháng; anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, anh hùng lao động.
3. Người nộp thuế gặp khó khăn do sự kiện bất khả kháng nếu giá trị thiệt hại về đất,

nhà ở từ 20% đến 50% tổng giá trị đất, nhà ở chịu thuế.
4. Nhà ở, đất ở của hộ gia đình, cá nhân tại các xã, phường, thị trấn thuộc địa bàn có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn ngoài đối tượng quy định tại khoản 4 Điều
9 Luật này; Nhà ở, đất ở của người dân tộc thiểu số ở các xã, phường, thị trấn thuộc địa
bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
5. Đất sử dụng để sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã;
6. Các trường hợp khác theo quy định của Chính phủ.
2.3.3.3 Nguyên tắc miễn thuế, giảm thuế
1. Người nộp thuế được hưởng cả miễn thuế và giảm thuế thì được miễn thuế; trường
hợp người nộp thuế được hưởng nhiều mức giảm thuế khác nhau thì được hưởng mức
giảm cao nhất.
2. Người nộp thuế chỉ được miễn thuế hoặc giảm thuế tại một nơi duy nhất (nơi người
nộp thuế lựa chọn).
3. Nhà, đất thuộc dự án đầu tư được miễn thuế, giảm thuế thì thực hiện theo từng dự án
đầu tư.
4. Miễn thuế, giảm thuế chỉ áp dụng trực tiếp đối với người nộp thuế và chỉ tính trên số
tiền thuế phải nộp theo quy định của Luật này.

Đề tài: Phân tích tính hiệu quả và công bằng của dự thảo luật thuế nhà, đất 2010

Page 21

CHƯƠNG 3. PHÂN TÍCH TÍNH HIỆU QUẢ VÀ CÔNG BẰNG CỦA DỰ
THẢO LUẬT THUẾ NHÀ, ĐẤT 2010
3.1 Tính hiệu quả
3.1
-
hiện nay cơ quan quản lý nhà, đất chưa xác định được mỗi hộ gia đ
công chứng và lúc đó cơ quan thuế mới kiểm soát được. Hiệ
khích giao dịch ngầm và khiến các chủ đầu tư, người mua BĐS trì hoãn làm giấy tờ sở

hữu để lách thuế.
Quyết toán thu ngân sách Nhà nước Tỷ đồng

2000
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
Thuế sử dụng
đất nông nghiệp
1776
772
151
130
132
111
113
98
67
Các khoản thu
về nhà đất
2823
5486
10546
17463
17757

20536
33925
38202
41712
Nguồn: Tổng cục Thống kê
- Tại Điểm b khoản 1 Điều 6 của Dự thảo luật quy định giá tính thuế của 1m
2
nhà
ở được xác định theo tỷ lệ phần trăm trên đơn giá 1m
2
xây dựng của nhà mới cùng loại
Đề tài: Phân tích tính hiệu quả và công bằng của dự thảo luật thuế nhà, đất 2010

Page 22

do UBND cấp tỉnh quy định. Có ý kiến cho rằng, cách tính thuế đối với nhà như quy
định của Dự thảo luật: giao toàn quyền cho UBND cấp tỉnh quyết định dựa trên đơn giá
xây dựng mà không quy định trong luật các tiêu chí định giá như tiêu chí về vị trí, địa
thế là chưa đầy đủ và chưa phù hợp với thực tế vì: Thứ nhất, việc xác định giá tính thuế
đối với nhà ở ngoài việc dựa vào đơn giá xây dựng, cần tính đến các yếu tố cấu thành
giá trị nhà như vị trí, địa thế của từng căn nhà. Thứ hai, hiện nay trong quá trình định
giá nhà để đền bù, giải phóng mặt bằng thì giá đền bù cũng được xác định dựa trên các
yếu tố như vị trí, địa thế của nhà. Vì vậy, nếu quy định như Dự thảo luật sẽ không bảo
đảm tính nhất quán trong việc định giá nhà. Và dễ tạo cơ hội xảy ra tiêu cực tham
nhũng…
-
Nhà ở: Áp dụng thuế suất theo biểu thuế lũy tiến từng phần như sau:




Đất ở: Áp dụng thuế suất theo biểu thuế luỹ tiến từng phần như sau:

Bậc
thuế
Diện tích đất chịu thuế
(m
2
)
Thuế suất
(%)
1
Diện tích trong hạn mức
0,05
2
Phần diện tích vượt hạn
mức
0,1

Bậc
Thuế
Giá tính thuế của nhà ở
(triệu đồng)
Thuế suất
(%)
1
Đến 600
0
2
Trên 600 đến 1.200
0,05

3
Trên 1.200
0,1
Đề tài: Phân tích tính hiệu quả và công bằng của dự thảo luật thuế nhà, đất 2010

Page 23

Trong đó: Hạn mức diện tích đất làm căn cứ tính thuế là hạn mức công nhận đất ở theo
quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp: Áp dụng một mức thuế suất là 0,05%/năm.
- Theo quy định trên : Thứ nhất việc chia 3 bậc (trong hạn mức và vượt hạn mức) đối với
nhà ở sẽ không áp dụng triệt để nguyên tắc nhà giá trị càng cao phải chịu thuế càng
cao, và như vậy NSNN sẽ mất một khoản tiền mà đáng lẽ ra phả ừ những
người giàu có. Ví dụ khoản thuế phải nộp của ngôi nhà có giá trị 1,2 tỷ bằng thuế phải
nộp của ngôi nhà có giá trị 15 tỷ , 100 tỷ. Sẽ không hiệu quả nếu không thu thuế cao
hơn đối với những ngôi nhà có giá trị cao hơn nhiều…Thứ hai việc chia 2 bậc (trong
hạn mức và vượt hạn mức) đối với đất ở theo diện tích làm cho thuế phải nộp của đất
mặt tiền bằng thuế phải nộp của miếng đất trong hẻm cùng diện tích. NSNN lại mất
thêm một khoản thu từ việc thu thuế cao hơn đối với đất mặt tiền. Và cũng tương tự
như đối với thuế suất đất nhà ở thì tiền thuế thu được của người có diện tích đất gấp
100 lần hạn mức cũng bằng thuế ừ người có diện tích bằng hạn mức.
- Mặt khác về vấn đề thuế suất áp dụng đối với nhà ở: dự thảo đưa ra áp dụng mức thuế
suất 0% đối với nhà giá trị 600 triệu, còn trên 600 triệu là 0.03%. Trong điều kiện hiện
nay, mức 600 triệu đồng có thể phù hợp với loại nhà dành cho người có thu nhập thấp,
nhưng về lâu dài thì mức này không phù hợp với sự thay đổi của giá thị trường do
những yếu tố như lạm phát, thay đổi về thu nhập trong tầng lớp dân cư; sự khác biệt
mang tính khu vực khu vực và vùng miền v.v. Tại các thành phố lớn nơi tập trung
nhiều dự án nhà ở, chung cư v.v. thì mức thuế suất 0.03% là tương đối nhỏ so với nhà
chung cư có giá trị thương mại lớ ện nay thường có mức giá
sàn 10 triệu/m

2
).
- Ngoài ra, dự thảo Luật chưa quy định rõ cơ quan hay tổ chức có thầm quyền định giá
nên rất khó thi hành trên thực tế. Bởi mức dưới 600 triệu sẽ được áp dụng mức thuế
suất 0 %. Do vậy, đây có thể là cơ sở dẫn đến tham nhũng hoặc các hành vi trốn thuế.
Đề tài: Phân tích tính hiệu quả và công bằng của dự thảo luật thuế nhà, đất 2010

Page 24

Bên cạnh đó đánh thuế nhà và đất ở như trên thì trong nhiều trường hợp sẽ làm mất
động lực đầu tư. Ví dụ: nhà mà đánh đồng loạt theo diện tích và lũy tiến theo giá trị
nhà thì người ta chỉ muốn xây nhà một tầng với chi phí thấp. Không bao giờ có được
một khu dân cư hiện đại. Như vậy, thuế đất cũng như thuế nhà đều có điểm chung là
cần đi theo hướng khuyến khích tiết kiệm đất và đầu tư có hiệu quả trên. Đối với thuế
đất, mục tiêu là tạo động lực để sử dụng đất có hiệu quả, cần quy định thuế suất thấp
trong trường hợp đầu tư trên đất có hiệu quả cao, suất đầu tư lớn; đồng thời quy định
thuế suất cao trong trường hợp sử dụng đất không hiệu quả, nhất là khi có đất nhưng
không sử dụng hoặc chỉ sử dụng chiếu lệ.
- Dự thảo luật quy định áp dụng biểu thuế lũy tiến theo giá trị căn nhà. Đây là cách làm
thường thấy ở các nước phát triển, nhưng ở nước ta việc áp dụng thuế suất như vậy
chắc là chưa phù hợp. Cách đánh thuế này không khuyến khích đầu tư vào nhà hiện đại
với suất đầu tư cao trên đất. Người có nhà cũng không muốn đầu tư thêm để cuộc sống
tốt đẹp hơn.

- ực thi và tuân thủ các thuế nhà, đất rất thấp. Chi phí thực thi
bao gồm chi phí để duy trì hệ thống địa chính, tiến hành đánh giá thường xuyên và
minh bạch, gửi hóa đơn và xử lý hiệu quả các trường hợp vi phạm (trong đó chỉ có một
vài trường hợp). Chi phí thực thi tuân thủ thuế đất đai có thể so sánh với chi phí thanh
toán hóa đơn điện. Đối với đất đô thị và đất thương mại, nộp thuế hàng tháng có lẽ là
cách thuận tiện nhất. Việc này có thể được thực hiện bằng cách tự động trừ từ tài khoản

ngân hàng của người nộp thuế.
3.1.3 Chưa có công cụ chống đầu cơ
Mức thuế suất thuế đất đai càng cao bao nhiêu thì việc đầu cơ đất càng ít đem
lại ít lợi nhuận bấy nhiêu. Do thuế suất thuế đất đai gần bằng 100% giá trị thuê đất,
việc đầu cơ đất có lợi nhuận là điều không thể có, vì giá bán đất ngày càng giảm đi

×