Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Bài thảo luận: Phân tích ảnh hưởng của môi trường kinh doanh quốc tế của Mỹ đến hoạt động kinh doanh quốc tế của các doanh nghiệp pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (489.68 KB, 46 trang )

Bài thảo Luận
Đề tài:
Phân tích ảnh hưởng của môi trường kinh doanh quốc tế của Mỹ đến hoạt
động kinh doanh quốc tế của các doanh nghiệp
Cùng với xu thế “toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập quốc tế” đang phát triển mạnh
mẽ chưa từng thấy, hoạt động kinh doanh quốc tế cũng ngày càng trở nên đa dạng, phong
phú và có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia trong nền kinh tế toàn cầu.
Mỗi quốc gia đều tìm cách thâm nhập vào thị trường nước ngoài nhằm tận dụng lợi thế so
sánh để mở rộng hoạt động kinh doanh và phát triển kinh tế.
Nói đến môi trường kinh doanh quốc tế (KDQT) ta phải nhắc đến bốn môi trường
chính có sức quyết định hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp: Môi trường chính
trị, môi trường kinh tế, môi trường luật pháp, môi trường văn hóa. Người ta nói: “Nhập
gia tùy tục”, bất kỳ một doanh nghiệp nào khi muốn xâm nhập vào một thị trường mới
trên thế giới đều phải tìm hiểu thật kỹ các môi trường kinh doanh quốc tế tại nước sở tại
để xây dựng chiến lược phát triển kinh doanh phù hợp nhất. Mỹ là một trong những thị
trường có sức tiêu thụ lớn nhất thế giới, rất nhiều các quốc gia muốn xâm nhập vào thị
trường này và ngay cả Mỹ cũng muốn mở rộng hoạt động kinh doanh quốc tế. Vậy môi
trường kinh doanh quốc tế ở đây có đặc điểm gì? Nó ảnh hưởng thế nào đến hoạt động
kinh doanh quốc tế của các doanh nghiệp? Từ những câu hỏi nêu trên, nhóm 6 quyết
định chọn đề tài: “Phân tích ảnh hưởng của môi trường kinh doanh quốc tế Mỹ đến hoạt
động kinh doanh quốc tế của các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế”
Bài thảo luận gồm 3 phần:
Chương 1: Môi trường KDQT và tác động của nó đối với hoạt động KDQT
Chương 2: Ảnh hưởng của môi trường KDQT Mỹ đến hoạt động KDQT của
doanh nghiệp
Chương 3: Một số bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp Việt Nam KDQT tại
Mỹ
Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng do hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm, nên bài
thảo luận của nhóm không tránh khỏi những thiếu sót. Nhóm rất mong nhận được sự góp
ý của cô giáo và các bạn.


Nhóm xin chân thành cảm ơn!
Chương 1
MÔI TRƯỜNG KINH DOANH QUỐC TẾ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH QUỐC TẾ
1.1. KHÁI QUÁT VỀ MÔI TRƯỜNG KDQT
1.1.1.Khái niệm môi trường kinh doanh
Môi trường kinh doanh nói chung được hiểu là tổng hợp các yếu tố, các lực lượng
xung quanh ảnh hưởng tới hoạt động và sự phát triển của doanh nghiệp. Các lực lượng
này cũng có thể được phân loại thành bên ngoài hoặc bên trong. Lực lượng không kiểm
soát được là các lực lượng bên ngoài mà các chủ thể kinh doanh phải thích ứng với nó,
nếu muốn duy trì sự tồn tại của mình.
1.1.2.Khái niệm môi trường KDQT
Môi trường KDQT là tổng thể các yếu tố môi trường thành phần như môi trường
pháp luật, chính trị, kinh tế, văn hóa, cạnh tranh, tài chính…những yếu tố này tồn tại
trong mỗi quốc gia trong nền kinh tế thế giới, chúng có tác động và chi phối mạnh mẽ đối
với hoạt động của doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải tự điều chỉnh các mục đích,
hình thức và chức năng hoạt động của mình cho thích ứng, nhằm nắm bắt kịp thời các cơ
hội kinh doanh và đạt hiệu quả cao trong kinh doanh.
Trong những điều kiện của xu hướng quốc tế hóa và khu vực hóa nền kinh tế thế
giới và nền kinh tế mỗi quốc gia, hoạt động kinh doanh quốc tê ngày càng được mở rộng
và phát triển, để thích ứng với xu hướng này, các doanh nghiệp đang từng bước tăng dần
khả năng hội nhập, thích ứng của mình với điều kiện mới của môi trường kinh doanh
trong và ngoài nước nhằm tăng cơ hội, giảm thách thức, hạn chế rủi ro và gia tăng lợi
nhuận.
Do khác nhau về điều kiện địa lý, trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, trình độ
nhận thức, tập quán…nên mỗi quốc gia tồn tại môi trường kinh doanh quốc tế không
giống nhau. Môi trường kinh doanh là tổng hợp và tương tác lẫn nhau giữa các yếu tố gây
ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nó ảnh
hưởng không chỉ đối với các hoạt động và kết quả kinh doanh của các công ty nước ngoài
đang hoạt động tại nước sở tại, mà còn ảnh hưởng đến cả kết quả hoạt động của các

doanh nghiệp kinh doanh nội địa.
1.1.3. Sự cần thiết phải nghiên cứu môi trường kinh doanh
Tại mỗi quốc gia cững như từng khu vực lãnh thổ của quốc gia mà doanh nghiệp
đang và sẽ hoạt động đều có những đặc trưng khác nhau về môi trường kinh doanh. Các
nhân tố, điều kiện của môi trường kinh doanh rất phong phú, đa dạng và luôn biến đổi
khá phức tạp. Chính vì vậy, các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế phải có sự am hiểu về
môi trường kinh doanh và đưa ra cách ứng xử cho phù hợp, nhằm đạt được hiệu quả cao
trong kinh doanh.
Sự thành công nhiều hay ít trong hoạt động kinh doanh quốc tế của các nhà kinh
doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào sự nhận thức và hiểu biết của họ về môi
trường kinh doanh mà họ vận hành các hoạt động của mình. Vì vậy, việc nghiên cứu môi
trường kinh doanh quốc tế là sự cần thiết cho mọi người, trước hết là cho những ai hoạt
động trong lĩnh vực kinh doanh quốc tế. Nó trang bị kiết thức cơ bản để các cán bộ hoạt
động trên lĩnh vực kinh doanh quốc tế có thể đưa ra được những quyết định tác nghiệp
hợp lý nhằm tối đa hoá mong muốn của họ.
Môi trường kinh doanh quốc tế tác động chi phối đến mục đích, hình thức và kết
quả hoạt động của doanh nghiệp. Hiểu biết tốt về môi trường kinh doanh mà mình hoạt
động sẽ cho phép các nhà quản lý, các nhà kinh doanh có được những đánh giá một cách
hệ thống các ý tưởng kinh doanh. Kiến thức về địa lý, về sự phân bố dân cư, hiểu biết về
lịch sử sẽ gợi mở cho các nhà kinh doanh quốc tế hiểu rõ hơn chức năng hoạt động cuả
mình. Kiến thức chính trị, luật pháp trong nước và quốc tế, những đánh giá về kinh tế
đang có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Việc
nghiên cứu môi trường cạnh tranh cũng hết sức cần thiết, môi trường này đang tác động
trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp, buộc doanh nghiệp phải có sự
điều chỉnh linh hoạt, thay đổi các biện pháp, các chức năng hoạt động của mình cho
thích ứng với các điều kiện mới.
1.2. MÔI TRƯỜNG KDQT VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN HOẠT ĐỘNG
KDQT
1.2.1.Môi trường chính trị
1.2.1.1 Khái niệm môi trường chính trị

Mội trường chính trị là môi trường liên quan đến độc lập chủ quyền, đến hệ thống
chính trị và các thiết chế xã hội của một quốc gia. Tính độc lập của mỗi quốc gia sẽ bị
thách thức bởi sự gia tăng tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia. Thẩm quyền và khả năng
hành xử theo ý chí của riêng mỗi quốc gia sẽ bị hạn chế. Sự ổn định của hệ thống chính
trị và các thiết chế xã hội sẽ luôn luôn chịu áp lực của những đòi hỏi mới để phù hợp với
quá trình tự do hóa thương mại và mở cửa. Sự lợi dụng, can thiệp của thế lực bên ngoài
vào các nước luôn luôn là vấn đề có thể xảy ra.
1.2.1.2 Các hệ thống chính trị trên thế giới
• Chế độ chuyên chế: là chế độ chính trị trong đó Nhà nước nắm quyền điều tiết hầu
như mọi khía cạnh của xã hội
• Chế độ xã hội chủ nghĩa: Chính phủ kiểm soát những phương tiện cơ bản của việc
sản xuất, phân phối và hoạt động thương mại.
Chế độ XHCN trên hầu hết các quốc gia hiện nay đều được thể hiện dưới hình
thức XHCN (Việt Nam, Trung Quốc, )
• Chế độ dân chủ
- Quyền sở hữu tư nhân: chỉ khả năng sở hữu tài sản và làm giàu bằng tích lũy tư
nhân.
- Quyền lực có giới hạn của Chính phủ: chính phủ chỉ thực hiện một số chức năng
thiết yếu cơ bản phục vụ cho lợi ích chung của nhân dân: bảo vệ quốc phòng, duy
trì pháp luật, trật tự xã hội.
1.2.1.3 Ảnh hưởng của môi trường chính trị đến hoạt động kinh doanh quốc tế
Nhân tố chính trị đã và sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong kinh doanh, đặc
biệt đối với hoạt động kinh doanh quốc tế. Tính ổn định về chính trị của các quốc gia sẽ
là một trong những nhân tố thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động trong môi trường
nước ngoài. Không có sự ổn định về chính trị thì sẽ không có điều kiện để ổn định để
phát triển kinh tế, lành mạnh hoá xã hội. Chính vì vậy, khi tham gia kinh doanh trên thị
trường thế giới, doanh nghiệp phải am hiểu môi trường chính trị ở các quốc gia, ở các
nước trong khu vực mà doanh nghiệp muốn hoạt động. Sự ổn định chính trị được biểu
hiện ở chỗ : thể chế, quan điểm chính trị có được đa số nhân dân đồng tình hay không, hệ
thống chính trị, đặc biệt là đảng cầm quyền có đủ uy tín và độ tin cậy đối với nhân dân và

các doanh nghiệp, công ty ở trong và ngoài nước hay không
1.2.2 Môi trường luật pháp
1.2.2.1 Khái niệm môi trường luật pháp
Hệ thống pháp luật cung cấp khung pháp chế các quyết định và các quy tắc chỉ thị,
cho phép hoặc hạn chế mối quan hệ giữa người với người và các tổ chức, đưa ra hình
phạt cho những hành vi vi phạm quy định, quy tắc
1.2.2.2 Hệ thống pháp luật trên thế giới
 Luật án lệ
 Luật dân sự
 Luật tôn giáo
 Luật XHCN
 Các hệ thống luật hỗn hợp
1.2.2.3 Ảnh hưởng của môi trường luật pháp đến hoạt động kinh doanh quốc tế
• Rủi ro quốc gia nảy sinh từ môi trường pháp lý ở nước ngoài
Chính phủ của nước chủ nhà có thể áp đặt rất nhiều quy tắc luật pháp đối với
doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động kinh doanh tại nước mình.
Pháp luật đầu tư nước ngoài. Những bộ luật này có ảnh hưởng lớn đối với chiến
lược gia nhập thị trường của một doanh nghiệp, cũng như đối với cơ cấu và hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp đó.
• Kiểm soát cơ cấu tổ chức và hoạt động kinh doanh.
Chính phủ các nước thường ban hành các bộ luật cũng như nguyên tắc mà dựa
trên đó các doanh nghiệp điều tiết các hoạt động sản xuất, quảng bá, và phân phối của
mình trong phạm vi lãnh thô nước đó.
• Quy định về Marketing và phân phối.
Các bộ luật này chỉ rõ hoạt động quảng cáo, khuyến mãi, phân phối như thế nào là
hợp pháp. Ví dụ, chính phủ các nước Phần Lan, Pháp, Nga và New Zealand cấm quảng
cáo thuốc lá trên TV.
• Quy định về chuyển lợi nhuận về nước mẹ.
Chính phủ đặt ra các bộ luật hạn chế việc lưu chuyển dòng tiền như thế. Hành
động này là nhằm bảo tồn những ngoại tệ mạnh trong nội địa, như đồng Euro, đô la Hoa

Kỳ, hoặc đồng Yên Nhật.
• Quy định về bảo vệ môi trường.
Chính phủ các nước thường ban hành các bộ luật nhằm bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên, chống nạn ô nhiễm, chống lợi dụng tài nguyên không khí, đất, nước, cũng như
nhằm đảm bảo sực khỏe và an toàn.
• Pháp luật hợp đồng.
Các bản hợp đồng giao dịch quốc tế chỉ rõ những quyền hạn, nhiệm vụ, cũng như
nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng. Hiện nay các nhà làm luật đang tiến tới xây
dựng một hệ thống tiêu chuẩn quốc tế về các hợp đồng mua bán quốc tế.
• Pháp luật về Internet và thương mại điện tử.
Những quy tắc này giờ đây cũng được xem là những hạn chế mới trong hệ thống
pháp luật.
1.2.3 Môi trường kinh tế
1.2.3.1 Khái niệm môi trường kinh tế
Hệ thống kinh tế là một cơ chế liên quan đến sản xuất, phân phối và tiêu dùng
hàng hóa, dịch vụ. Nó bao gồm các cấu trúc và các quá trình hướng dẫn phân phối các
nguồn lực và hình thành nguyên tắc kinh doanh trong một đất nước. Hệ thống chính trị và
kinh tế có liên quan chặt chẽ với nhau.
1.2.3.2 Các mô hình kinh tế
 Kinh tế thị trường
Là một hệ thống trong đó các cá nhân (không gồm Chính phủ) sẽ quyết định các
vấn đề kinh tế, mọi người có quyền tự do lựa chọn làm việc gì, ở đâu, tiêu dùng hoặc tiết
kiệm như thế nào và nên tiêu dùng bây giờ hoăc sau này.
Kinh tế hoàn toàn vận động theo thị trường, không có sự can thiệp của chính phủ.
 Kinh tế tập trung
Nhà nước sở hữu và chi phối mọi nguồn lực. Nhà nước có quyền quyết định hàng
hóa, dịch vụ nào được sản xuất, số lượng bao nhiêu, chất lượng thế nào, giá cả ra sao?
Nền kinh tế tập trung tạo ra sự bị động cho thị trường và chỉ có thể hoạt động
trong thời gian ngắn đặc biệt trong quá trình tăng trưởng bởi vì Nhà nước có khả năng di
chuyển những nguồn lực chưa được khai thác hiệu quả để tạo ra sự tăng trưởng.

 Kinh tế hỗn hợp
Hầu hết do thị trường quyết đinh, sở hữu tư nhân là phổ biến nhưng vẫn có sự can
thiệp của Nhà nước.
Hầu hết các nền kinh tế có thể coi là kinh tế hỗn hợp. có nghĩa là rơi vào khoảng
cách giữa thang phân cực kinh tế tư bản chủ nghĩa – kinh tế XHCN.
1.2.3.3 Các chỉ số phân tích môi trường kinh tế
Tổng thu nhập quốc gia
Tổng thu nhập quốc gia (Gross National Income - GNI) là thu nhập tạo bởi tất cả
các hoạt động sản xuất trong nước và quốc tế của các công ty một quốc gia. GNI là giá trị
của mọi hoạt động sản xuất của nền kinh tế nội địa cộng với thu nhập ròng (như tiền thuê
lợi nhuận, thu nhập nhân công) từ nước ngoài trong vòng 1 năm.
Tổng sản phẩm nội địa (GDP)
GDP là tổng giá trị của mọi hàng hóa dịch vụ được sản xuất trong biên giới của
một quốc gia trong vòng 1 năm, không phân biệt các chủ thể kinh tế nội địa hay nước
ngoài.
Tính toán các chỉ số trên đầu người: Cách phổ biến nhất là chia GNI cũng như
nhiều chỉ báo kinh tế khác theo số người sống trong một quốc gia để tìm ra chỉ số
GNI/GDP… dựa trên đầu người. Chỉ số này và các chỉ số khác cho thấy hiệu năng của
nền kinh tế trên cơ sở số người sống trong một nước. Ví du, Luxembourg, một nước có
nền kinh tế nhỏ nhất thế giới, giá trị tuyệt đối GNI khá thấp, nhưng GNI trên đầu người
lại cao nhất thế giới.
Tỉ lệ thay đổi: các chỉ số như GNI, GDP, các chỉ số trên đầu người cho chúng ta
biết kết quả hoạt động trong năm của một quốc gia, nhưng không cho biết sự biến động
của các chỉ số này. Việc nghiên cứu tình hình hiện tại và dự đoán hiệu quả kinh tế tương
lại đòi hỏi xác định tỉ lệ của các thay đổi.
Sức mua tương đương (Purchasing Power Parity - PPP): Các nhà quản lý khi so
sánh giữa các thị trường thường chuyển đổi chỉ số GNI của nước ngoài về đồng tiền của
nước họ. Về mặt tính toán, PPP là số đơn vị tiền tệ của một quốc gia cần thiết để mua
cùng một khối lượng hàng hóa dịch vụ trong thị trường nội địa của một nước khác.
Mức độ phát triển con người (Human development Index – HDI). Chỉ số phát

triển con người bao gồm chi báo về sức mua thực tế, giáo dục và sức khỏe để có một
thước đo toàn diện về phát triển kinh tế. Sử dụng chỉ số này kết hợp các chỉ báo kinh tế
và xã hội sẽ cho phép nhà quản lý đánh giá, toàn diện hơn nữa sự phát triển dựa trên khả
năng và cơ hội mà con người được hưởng.
Chỉ số đo lường Xanh (Green Measures) của GNP
Tổng sản phẩm xanh quốc gia (Green Net National Product)
Chỉ số tiến bộ thực tế (Genuine Progress Indicator
1.2.3.4 Ảnh hưởng của môi trường kinh tế đến hoạt động kinh doanh quốc tế
Hoạt động trong môi trường kinh doanh quốc tế, các doanh nghiệp buộc phải có
những kiến thức nhất định về kinh tế. Các kiến thức về kinh tế sẽ giúp các nhà quản lý,
kinh doanh xác định được: một mặt, những ảnh hưởng của doanh nghiệp đổi với nền
kinh tế nước chủ nhà và nước sở tại; mặt khác, cũng thấy được ảnh hưởng của những
chính sách kinh tế của một quốc gia đối với hoạt động của doanh nghiệp.
Tính ổn định hay bất ổn định về kinh tế và chính sách kinh tế của một quốc gia
nói riêng, của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới nói chung có tác động trực
tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường nước ngoài. Tính ổn
định về kinh tế trước hết và chủ yếu là ổn định nền tài chính quốc gia, ổn định tiền tệ,
khống chế lạm phát. Đây là các vấn đề mà các doanh nghiệp rất quan tâm và ái ngại vì
nó liên quan trực tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ở nước
ngoài.
Nhân tố cơ bản tác động đến sự hoạt động của kinh tế thị trường là quyền tối cao
của khách hàng. Theo P. Samuelson đấy là một “ông vua”, quyền tối cao của khách
hàng là quyền tự do của người tiêu dùng, nó tác động đến sản xuất thông qua sự lựa
chọn của họ.
1.2.4 Môi trường văn hóa
1.2.4.1 Khái niệm môi trường văn hóa
Theo định nghĩa văn hoá của UNESCO, trong ý nghĩa rộng nhất, văn hoá ngày
nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm
quyết định tính cách của một xã hội hoặc một nhóm người trong xã hội. Văn hoá bao
gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người,

những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng.
Văn hoá là những giá trị có thể học hỏi, chia sẻ và liên hệ mật thiết với nhau, nã
cung cấp những định hướng cho các thành viên trong xã hội. Những định hướng này
cung cấp những giải pháp cho những vấn đề mà xã hội cần giải quyết.
Văn hoá được hiểu là tổng thể phức tạp, bao gồm ngôn ngữ, niềm tin, nghệ thuật,
đạo đức, luật pháp, phong tục và tất cả khả năng khác mà con người có được. Văn hoá
quy định hành vi của mỗi con người, thông qua mối quan hệ giữa người với người trong
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Do có sự khác nhau về nền văn hoá đang tồn tại giữa các quốc gia, cho nên các
nhà kinh doanh phải sớm có những quyết định có hay không tham gia kinh doanh ở môi
trường đó. Điều này trong một chõng mực nhất định tuỳ thuộc vào sự chấp nhận của
doanh nghiệp đối với môi trường văn hoá nước ngoài. Sự khác nhau về văn hoá dẫn đến
sự khác nhau trong mô hình quản lý của các doanh nghiệp.
1.2.4.2 Các yếu tố văn hóa
 Ngôn ngữ
Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư duy và phong cách tư duy. Nó là sản phẩm
của văn hoá và là một nhân tố cấu thành của văn hoá. Nó cung cấp cho các nhà sản xuất
kinh doanh một phương tiện quan trọng để giao tiếp trong quá trình kinh doanh quốc tế.
Đối với các công ty đa quốc gia, hoạt động kinh doanh muốn mở rộng, trước hết đòi hỏi
phải thống nhất việc sử dụng ngôn ngữ. Thông thường hoạt động kinh doanh quốc tế tất
yếu liên quan hoặc đòi hỏi sử dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Để giải quyết tình trạng
sử dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau trong giao tiếp kinh doanh, chóng ta có thể thuê phiên
dịch và nhà giao dịch hoặc thuê cố vấn hay các chuyên gia.
 Tôn giáo
Tôn giáo cũng có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động hàng ngày
của các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Vì vậy, các doanh nghiịep kinh doanh quốc tế cần
phải hiểu biết về các tôn giáo và vai trò của chúng trong xã hội, nơi mà các doanh nghiệp
tổ chức các hoạt động kinh doanh. Thông thường, các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế
phải quan tâm đến bốn vấn đề và tôn giáo, đó là:
+ Tôn giáo thống trị.

+ Tầm quan trọng của tôn giáo trong xã hội.
+ Mức độ thuần nhất của tôn giáo.
+ Sự tự do tín ngưỡng trong xã hội.
Tôn giáo có thể ảnh hưởng đến hoạt động hàng ngày của con người và do đó ảnh
hưởng dến hoạt động kinh doanh. Ví nhthời gian mở cửa hoặc đóng cửa, ngày nghỉ, kỳ
nghỉ, lễ kỷ niệm Vì vậy, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải được tổ chức cho
phù hợp với từng loại tôn giáo.
 Lối sống và suy nghĩ của con người
Tính cách và suy nghĩ của con người Mỹ quyết định phần lớn đến hành vi của họ.
Đặc biệt, trong quan hệ kinh doanh quốc tế, hiểu biết về đối tác của mình là vấn đề cần
thiết cho bất kỳ thương gia nào muốn giao dịch, buôn bán với các đối tác nước ngoài. Nó
không những tạo ra lợi nhuận, mà còn đem lại sự đam mê thực sự cho cả hai phía.
 Thị hiếu, tập quán của người tiêu dùng
Thị hiếu, tập quán của người tiêu dùng có ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu vì hàng
hoá dù có chất lượng tốt nhưng nếu không được người tiêu dùng ưa chuộng thì cũng khó
được họ chấp nhận. Ví như nếu nhà kinh doanh nào đó mang các sản phẩm chế biế từ thịt
lợn đến tiêu thụ ở Irắc, Xiri hoặc đem thịt bò đến bán ở Ên Độ thì đó là một điều nguy
hiểm, vì những sản phẩm đó theo tập quán, tôn giáo thì các quốc gia này không tiêu
dùng. Nếu nắm bắt được thị hiếu, tập quán của người tiêu dùng, doanh nghiệp kinh doanh
có điều kiện mở rộng khối lượng cầu một cách nhanh chóng. Chính thị hiếu và tập quán
của người tiêu dùng mang đặc điểm riêng của từng vùng, từng châu lục, từng dân téc và
chịu ảnh hưởng của các yếu tố văn hoá, lịch sử, tôn giáo.
1.2.4.3 Tác động của môi trường văn hóa đối với hoạt động kinh doanh quốc tế
Mỗi nước đều có những tập tục, quy tắc, kiêng kị riêng. Chúng được hình thành
theo truyền thống văn hoá của mỗi nước và có ảnh hưởng to lớn đến tập tính tiêu dùng
của khách hàng nước đó. Tuy sù giao lưu văn hoá giữa các nước đã làm xuất hiện khá
nhiều tập tính tiê dùng chung cho mọi dân téc, song những yếu tố văn hoá truyền thống
vẫn còn rất bền vững, có ảnh hưởng rất mạnh đến thãi quen và tâm lý tiêu dùng. Có
những thị trường với bản sắc văn hoá thuần nhất (như Trung Quốc, Nhật Bản ) song
cũng có những thị trường hết sức pha tạp Về văn hoá (Hoa Kỳ) vì thế môi trường văn hoá

mà doanh nghiệp nghiên cứu sẽ giúp cho việc kinh doanh có hiệu quả.
Sự khác biệt về văn hoá sẽ ảnh hưởng đến cách thức giao dịch được tiến hành, loại
sản phẩm mà khách hàng sẽ mua và những hình thức khuếch trương có thể được chấp
nhận.
Giữa các nền văn hoá cũng có sự khác biệt về quản lý nhân lực, chính sách
Marketing và phương thức đàm phán giao tiếp. Nhân tố văn hoá có ảnh hưởng rất lớn đến
hoạt động kinh doanh quốc tế bởi nó tác động trực tiếp đến suy nghĩ và tính cách của
doanh nhân - chủ thể của hoạt động kinh doanh quốc tế.
Chương 2
ẢNH HƯỞNG CỦA MÔI TRƯỜNG KDQT MỸ ĐẾN HOẠT ĐỘNG KDQT CỦA
MỘT DOANH NGHIỆP
2.1. ẢNH HƯỞNG CỦA MÔI TRƯỜNG CHÍNH TRỊ MỸ ĐẾN HOẠT ĐỘNG
KDQT
2.1.1. Sự công bằng trong hệ thống pháp luật
Sự công bằng của hệ thống pháp luật Hoa Kỳ là một điểm mạnh của nước này. Kể
từ khi thành lập Hoa Kỳ, đất nước này đã có một vai trò độc đáo và uy tín giữa các quốc
gia. Đây là quốc gia đầu tiên được sáng lập dựa trên nguyên tắc tự trị hạn chế. Bác bỏ chế
độ quân chủ, những người sáng lập đã tạo ra một chính phủ liên bang với 3 chi nhanh
riêng biệt: hành pháp, lập pháp, tư pháp. Mỗi chi nhánh trong khi thực hiện chức năng
được giao thì vẫn chịu sự kiểm tra, giám sát của hai chi nhánh còn lại
Cả hai công ty trong và ngoài nước đều được đối xử bình đẳng tại Hoa Kỳ và phải
tuân theo cùng các định luật, quy tắc, và các thủ tục để có được hoặc quản lý một khoản
đầu tư. Các nhà đầu tư nước ngoài được hưởng lợi từ một môi trường đầu tư thông
thoáng, minh bạch và không phân biệt đối xử. Tại Hoa Kỳ, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ
tìm thấy tự do chuyển nhượng vốn, lợi nhuận, cơ sở hạ tầng vật chất và tài chính tiên tiến,
và truy đòi hợp pháp, không phân biệt đối xử trong trường hợp có tranh chấp liên quan
đến đầu tư. Ngoài ra, không có cơ quan kiểm tra bắt buộc để xem xét và phê duyệt đầu tư
nước ngoài tại Hoa Kỳ. Không giống như các nước khác, không có quy định "đầu tư tối
thiểu cần thiết" hoặc các quy định khác tại Hoa Kỳ.
2.1.2. Sự ổn định về chính trị

Một vấn đề hết sức quan trọng đối với hoạt động kinh doanh quốc tế của các
doanh nghiệp là sự ổn định về chính trị của các quốc gia. Chính trị và kinh tế có liên quan
mật thiết với nhau. Ổn định chính trị là cơ sở để phát triển kinh tế và kinh tế phát triển là
điều kiện quan trọng cho chính trị ổn đinh.
Hoa Kỳ có một hệ thống chính trị ổn định và một hệ thống pháp lý mạnh mẽ. Điều
này tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia kinh doanh quốc tế tại đây.
Hoa Kỳ là một nước cộng hoà liên bang thực hiện chế độ chính trị tam quyền phân
lập. Hiến pháp Hoa Kỳ quy định quyền lập pháp thuộc về Quốc hội, quyền hành pháp
thuộc về Tổng thống và quyền tư pháp thuộc về Toà án tối cao. Mỗi bang có hệ thống
hiến pháp và pháp luật riêng nhưng không được trái với Hiến pháp của Liên bang.
Hệ thống của chính phủ Hoa Kỳ được xây dựng dựa trên kiểm tra và cân bằng để
đảm bảo rằng không có một người có quá nhiều quyền lực, do đó đảm bảo hòa bình,
chính phủ ổn định. Hoa Kỳ được hưởng gần 150 năm ổn định chính trị kể từ khi kết thúc
cuộc nội chiến (1861 – 1865) đến nay. Không có quốc gia nào khác có thể tự hào về tuổi
thọ như vậy. Trong khi đó, Đức, Ý, Nga, Trung Quốc có nền văn hóa hàng nghìn năm
nay nhưng hệ thống chính trị của họ thì tương đối biến động.
• Hoa Kỳ có một hệ thống hai đảng
Đảng Dân chủ: đảng chính trị lâu đời nhất trên thế giới với một triết học, lớp học
làm việc tự do (được thành lập trong thập niên 1820); Đảng Dân chủ đại diện cho lập
trường nới rộng hoạt động của chính phủ liên bang, muốn có một kế hoạch chăm sóc sức
khỏe quy mô giúp đỡ những người không có bảo hiểm y tế, đồng thời phải tăng cường
các luật để điều tiết hoạt động của các nhà tài chính tại Phố Wall.
Đảng Cộng Hòa: được thành lập vào năm 1854, xã hội bảo thủ nhưng kinh tế tự do
hơn, ủng hộ nền kinh tế thị trường tự do và chủ nghĩa tư bản. Ngoài cắt giảm thuế, Đảng
Cộng hòa muốn bỏ kế hoạch chăm sóc sức khỏe cho toàn dân, giảm các quy định liên
bang áp đặt trên các tập đoàn, và loại bỏ nhiều chương trình khác, chẳng hạn như chương
trình hỗ trợ một hệ thống phát thanh truyền hình được chính phủ tài trợ.
o Các nhà lãnh đạo chính trị hiện tại
Tổng thống: Barack Obama (kể từ tháng 1 năm 2009): Đảng Dân chủ
2.1.3. Sự thay đổi của các triết lý

Ông John Gilmour, giáo sư về chính sách công tại Đại học William and Mary ở
Virginia, cho biết các triết lý về chính quyền của hai phe đã thay đổi qua thời gian: "Đảng
Dân chủ từ lâu vẫn hậu thuẫn các chương trình lớn như các bảo hiểm xã hội, an sinh xã
hội và Medicare, là các chương trình cung cấp tiền hưu cho người già, hoặc bảo hiểm y tế
cho người cao niên, hoặc chương trình chăm sóc sức khỏe cho người nghèo. Trong khi đó
thì các thành viên của đảng Cộng hòa tương đối cũng có ủng hộ các chương trình này, thế
nhưng bây giờ có lẽ ít hơn lúc trước."
Cả ba học giả được trích dẫn ở trên đã chỉ ra: những thay đổi pháp lý và xã hội ở
Hoa Kỳ trong nửa thế kỷ qua đã góp phần tạo ra những khác biệt giữa hai đảng, ít khi
chồng lấn với nhau. Phong trào dân quyền trong những năm 1960 ở miền nam Hoa Kỳ đã
đẩy nhiều thành viên bảo thủ trong đảng Dân chủ về phía đảng Cộng hòa. Thành phần
cấp tiến ủng hộ sự bình đẳng giới tính và quyền phá thai thì thường gia nhập đảng Dân
chủ; trong khi những người ủng hộ các giá trị bảo thủ xã hội, giảm thuế và ít can thiệp
của chính quyền thường gia nhập nhóm người có đồng quan điểm trong đảng Cộng hòa.
Tóm lại, Mỹ là một quốc gia có nền chính trị khá ổn định, rất ít bạo loạn.Tuy có sự
khác nhau về triết lý của hai đảng Dân chủ và Cộng hòa nhưng mỗi đảng lại đi theo con
đường riêng nên ít xung đột nhau nên các doanh nghiệp nước ngoài có thể khá yên tâm
khi tiến hành thâm nhập thị trường lớn mạnh này.
2.2. ẢNH HƯỞNG CỦA MÔI TRƯỜNG LUẬT PHÁP MỸ ĐẾN HOẠT ĐỘNG
KDQT
Trước trào lưu hội nhập, các doanh nghiệp đã có nhiều cơ hội để phát triển song
cũng gặp không ít khó khăn. Một doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường quốc tế
phải đối mặt với vô số những yếu tố nằm ngoài tầm kiểm soát của mình. Một trong
những yếu tố nan giải nhất là pháp luật. Sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp
trong kinh doanh quốc tế phụ thuộc phần lớn vào doanh nghiệp có am hiểu các chính
sách, các luật lệ của nước sở tại hay không. Cho dù doanh nghiệp đóng ở đâu cũng bị ảnh
hưởng của hệ thống luật pháp và các chính sách của chính phủ nước đó.
Thất bại trong việc nghiên cứu yếu tố môi trường pháp luật và các ảnh hưởng của
nó đến các hoạt động kinh doanh của mình sẽ dẫn đến những hậu quả không lường trên
thị trường quốc tế. Trên thực tế đã có nhiều bài học đau đớn xảy ra đối với các doanh

nghiệp làm công tác xuất khẩu không nghiên cứu kỹ môi trường pháp luật:
Thời báo Kinh tế Việt Nam số ra ngày 12.1.2001 đưa tin: Đêm ngày 5.1.2001 cảnh
sát Indonesia đã bắt giữ 3 giám đốc điều hành của công ty bột ngọt lớn nhất của Nhật
đóng tại Indonesia PT Ajinomoto vì đã sử dụng một loại enzim của lợn để sản xuất mì
chính, vi phạm quy định về thực phẩm của đạo Hồi. Công ty này đã bị đình chỉ hoạt động
trong 3 tuần. Chính phủ Indonesia và Hội đồng Hồi giáo Ulamad Indonesia (MUI) đã
quyết định buộc công ty PT Ajnomoto phải mua lại toàn bộ số mì chính đang lưu hành
trên thị trường (khoảng 3.000 tấn). Vụ này đã gây thiệt hại cho công ty hàng chục tỷ
Rupiad và còn bị đe doạ rút giấy phép hoạt động tại Indonesia và vào thời điểm đó giá cổ
phiếu của hãng Ajinomoto tại thị trường chứng khoán Tokyo đã sụt tới 30 điểm.
Một bài học khá đau đớn đối với một công ty XNK Đà Nẵng là khi xuất khẩu một
lô hàng mây tre đan sang Australia mà không biết quy định về pháp lý là hàng hoá phải
được hun trùng trước khi đưa vào cảng Australia. Kết quả là toàn bộ lô hàng không được
chấp nhận và bị bắt huỷ tại chỗ. Thiệt hại ở đây không chỉ đối với hàng hoá mà doanh
nghiệp còn phải chịu toàn bộ chi phí huỷ lô hàng. Chi phí này lớn hơn trị giá lô hàng.
Những quy định về pháp lý đối với hàng hoá đưa vào Australia rất nghiêm ngặt nhất là
hàng tươi sống.
Một xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu ở TP.HCM trong nhiều năm cố gắng mà
vẫn chưa khai thông được xuất khẩu vịt đông lạnh sang Hàn Quốc cho dù có sự can thiệp
của nhiều bộ, nhiều ngành. Khi nghe tin vịt ở Việt Nam bị mắc dịch bệnh, phía Hàn Quốc
đã cho người kiểm tra và phát hiện một số con vịt bị dính bệnh. Hàn Quốc lập tức không
cho nhập khẩu vịt đông lạnh từ Việt Nam do những quy định rất nghiêm ngặt về vệ sinh
thực phẩm ở Hàn Quốc. Sau đó, mặc dù cơ quan thú y Việt Nam đã có thông báo xác
nhận không còn tình trạng dịch bệnh gia súc, gia cầm tại TP.HCM và Xí nghiệp chế biến
vịt đông lạnh này đã đạt tiêu chuẩn vệ sinh song phía Hàn Quốc vẫn không chấp nhận
nhập khẩu trở lại.
Trường hợp 480 tấn dưa hấu của Việt Nam xuất khẩu sang Indonesia bị trả lại
cũng là do không biết về quy định pháp lý đối với hàng hoá tươi sống nhập khẩu vào
Indonesia. Hàng hoá tươi sống nhập khẩu vào Indonesia phải có giấy chứng nhận của
Công ty giám định Thuỵ Sĩ (SGS). Nhưng khi đưa dưa hấu vào Indonesia, Việt Nam lại

lấy chứng nhận của Công ty giám định Việt Nam VINACONTROL.
Ví dụ về những bài học thất bại nêu trên của các doanh nghiệp Việt Nam cho
chúng ta thấy tầm quan trọng của yếu tố pháp luật trong kinh doanh quốc tế. Việc nghiên
cứu và hiểu rõ môi trường pháp luật trong nước, môi trường pháp luật ngoài nước, môi
trường pháp luật quốc tế và đặc biệt là việc nghiên cứu ảnh hưởng của nó đến các hoạt
động kinh doanh quốc tế trở nên cấp thiết đối với các nhà hoạt động kinh doanh muốn
thành công trên thương trường quốc tế.
Nói đến Mỹ, một quốc gia có hệ thống luật pháp nghiêm ngặt với các quy định
khắt khe. Không chỉ có bộ luật chung mà Mỹ còn có các bộ luật của từng bang. Vì thế để
có thể thâm nhập vào thị trường này việc hiểu biết về pháp luật là yếu tố tối quan trọng.
Các doanh nghiệp cần phải quan tâm đặc biệt đến điều này. Dưới đây là một số luật của
Mỹ ảnh hưởng trực tiếp đến kinh doanh quốc tế của các doanh nghiệp tại đây.
2.2.1. Luật thành lập doanh nghiệp tại Mỹ
Ở Hoa Kỳ không có quy định chung cho việc thành lập doanh nghiệp áp dụng cho
tất cả các bang. Quy định này ở mỗi bang một khác. Luật của các bang về các loại hình
doanh nghiệp có thể không hoàn toàn giống nhau; tuy nhiên, ở tất cả các bang đều tồn tại
bốn loại hình doanh nghiệp cơ bản. Hầu hết các bang đều không yêu cầu vốn tối thiểu để
thành lập doanh nghiệp.
2.2.1.1 Thủ tục đăng ký và công chứng giấy tờ
Công ty nước sở tại phải có đầy đủ giấy tờ thành lập công ty tại nước mình: điều
lệ thành lập công ty, danh sách cổ đông, sáng lập viên, giấy phép hành nghề.
Có các giấy tờ kèm theo: xác nhận hoạt động kinh doanh tốt, có hiệu quả do các
công ty kiểm toán độc lập, có uy tín cấp, do các ngân hàng có uy tín cấp, do các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cấp (những giấy tờ này do mỗi bang yêu cầu khác nhau).
Mỗi bang có những yêu cầu công chứng giấy tờ khác nhau.
2.2.1.2 Lệ phí nộp đơn xin thành lập công ty
Tại Hoa Kỳ, quy định thu lệ phí khi nộp đơn không thực hiện thống nhất, có bang
không thu lệ phí khi nộp đơn như ở Washington DC, hoặc lệ phí 225USD như ở New
York nhưng cũng thường phát sinh một số chi phí khác. Tổng lệ phí thường không vượt
quá 500USD.

Thông thường công ty xin thành lập tự nộp đơn cho các cơ quan hữu quan Hoa Kỳ
và hoàn chỉnh các giấy tờ khi có yêu cầu. Tuy nhiên để tránh những tốn phí mất thời
gian, hồ sơ chưa có kinh nghiệm nên khó hoàn chỉnh, có thể thuê công ty luật hướng dẫn
thủ tục, nộp hồ sơ và lệ phí. Tốt nhất là thuê công ty luật tại tiểu bang chúng ta muốn
thành lập công ty. Phí cho công ty luật làm thủ tục từ vài trăn đến 1000USD.
Thời gian cấp phép kể từ khi nhận hồ sơ hoàn chỉnh khoảng 30 ngày.
2.2.1.3 Hình thức thành lập công ty
Các công ty nước ngoài có thể thành lập các loại hình công ty như chi nhánh công
ty nước ngoài, công ty con của công ty nước ngoài, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
cổ phần, công ty liên doanh, công ty liên doanh TNHH tuỳ theo luật mỗi bang cho phép
và tuỳ theo loại hình kinh doanh. Nhưng thông thường người ta chọn công ty cổ phần do
trách nhiệm hữu hạn, cơ cấu tổ chức ổn định tương đối lâu dài và có khả năng hùn vốn
bằng cách bán cổ phiếu và trái phiếu. Hầu hết các công ty của Mỹ đều mang danh viết tắt
Corp. (công ty cổ phần) hay Inc. (trách nhiệm hữu hạn) như một phần của tên giao dịch.
Viết tắt của các công ty trách nhiệm hữu hạn ở các nước khác nhau thường được biểu thị
khác nhau. Ở Anh là Ltd. ở Pháp là SARL. ở Đức, Thuỵ Sĩ ký hiệu AG là công ty cổ
phần, GmbH là công ty hữu hạn…
Việc lựa chọn loại hình doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng đến thuế phải nộp sau này.
Mỗi bang quy định riêng cho mình các loại thuế công ty và cá nhân phải nộp.
Sau khi thành lập doanh nghiệp phải khai báo với sở thuế tại địa phương đóng trụ
sở và phải tuân thủ các quy định về khai báo thuế hàng năm.
2.2.1.4 Đăng ký giữ tên công ty
Công ty có thể đăng ký giữ tên công ty mình tại một số bang của Hoa Kỳ (trong
lúc công ty thấy chưa tiến hành hoạt động ngay được và phải đăng ký sớm tên công ty
của mình, tránh trường hợp có công ty khác đăng ký trước tên công ty của mình ). Thủ
tục gần tương tự với việc đăng ký thành lập, nhưng không phải đăng ký tiếp với sở thuế,
không bị tính thời hạn hoạt động (một số bang cho phép giảm miễn thuế công ty ). Thời
hạn bảo lưu tên công ty khoảng 6 tháng và được gia hạn thêm 6 tháng tới 2 năm, tuỳ theo
bang. Lệ phí giữ tên không cao, chỉ vài chục USD /tháng.
2.2.1.5 Nội dung cấp phép hoạt động

Sau khi có giấy phép kinh doanh tại Hoa Kỳ, doanh nghiệp phải đăng ký với các
sở Tài chính, sở thuế và các sở phụ trách chuyên ngành nếu hoạt động trong lĩnh vực có
quản lý chuyên ngành.
Những yêu cầu về đăng ký kinh doanh cho các bang quy định và công bố danh
mục mặt hàng phải có giấy phép kinh doanh mới được hành nghề. Người nước ngoài đầu
tư ở Hoa Kỳ chiếm trên 10% cổ phần của công ty phải báo cáo cho Vụ kinh tế Bộ
Thương mại và phải tuân thủ quy định 22 USC 3101-3108 về thương mại và dịch vụ, 15
CFR nếu vi phạm quy chế báo cáo sẽ bị phạt từ 2500-25000 USD. Có bang không cho
phép người nước ngoài được sở hữu một số loại tài sản cố định như đất đai nông nghiệp,
rừng v.v…
2.2.1.6 Thành lập các công ty mới ở bang khác
Công ty nước ngoài được thành lập tại một bang mà muốn mở thêm công ty mới
tại bang khác, phải làm thủ tục như khi bắt đầu từ nước ngoài vào bang đó. Tuy nhiên thủ
tục sẽ đơn giản hơn (Công ty Hoa Kỳ từ bang này muốn thành lập công ty/chi nhánh ở
một bang khác cũng có những luật lệ riêng áp dụng cho họ).
2.2.1.7 Thủ tục nhập cảnh cho thương nhân
Thị thực nhập cảnh vào Hoa Kỳ có thể cấp cho một năm, nhiều lần; tuy nhiên việc
gia hạn tiếp tại Hoa Kỳ chưa có tiền lệ hoặc thoả thuận cụ thể giữa chính phủ 2 nước.Thị
thực thương được xếp loại B1. Nếu có công ty chi nhánh tại Hoa Kỳ thì loại thị thực là
L1và thời hạn tới 3 năm. Tuy nhiên việc xin thị thực cho lãnh đạo công ty, cán bộ đến
Hoa Kỳ làm việc thương khó khăn phức tạp về thủ tục, giấy tờ do chính sách quản lý
nhập cảnh chung, chính sách quản lý hoạt động và nhân sự của Hoa Kỳ. Thông thường
nếu thuê luật sư để xin thị thực thì chi phí rất lớn; từ 1500 đến 3000USD cho việc hoàn
thiện hồ sơ xin thị cho tới lúc được cấp (phí nộp cho chính quyền chỉ khoảng hơn
100USD 1 thị thực).
2.2.1.8 Thuế dịch vụ tư vấn luật, thuế, mở tài khoản ngân hàng và lệ phí
Không nhất thiết phải có luật sư giúp khai thủ tục và nộp đơn. Phí thuê luật sư để
thành lập công ty không đắt, nhưng trong quá trình hoạt động có những vướng mắc thì sẽ
được tính theo giờ, vụ việc và tổng chi phí thường là khá cao và tuỳ theo uy tín của các
công ty luật và trình độ ,thâm niên của chính luật sư làm việc với khách hàng.

Nếu thuê công ty luật giúp thủ tục đăng ký thành lập công ty thì họ cũng chấp
nhận làm địa chỉ liên lạc khi cần thiết. Dịch vụ này thường là không tính tiền vì coi như
làm địa chỉ liên hệ, khi nào có vụ việc phát sinh thì sẽ thoả thuận tính tiền theo vụ việc
đó.
Sau khi có giấy phép thành lập thì một số ngành nghề còn phải đăng ký với các cơ
quan quản lý chuyên ngành cấp một giấy phép đăng ký kinh doanh và hành nghề luôn.
Tiếp theo là đăng ký với sở thuế và mở tài khoản ngân hàng.
Trong quá trình hoạt động việc khai thuế chính xác không chậm trễ là một trong
những yêu cầu quan trọng đảm bảo hoạt động kinh doanh hiệu quả, tránh những trở ngại
không cần thiết. Việc thuê công ty kiểm toán viên trong trường hợp này cũng tuỳ theo
quy mô kinh doanh vì việc thuê kiểm toán viên giống như thuê luật sư, khá tốn kém và
mức độ làm quyết toán báo cáo tài chính khác nhau thì mức tiền thuê cũng khác nhau để
đảm phù hợp với yêu cầu của công ty và giảm thiểu các chi phí cần thiết.
2.2.2 Luật lao động
2.2.2.1 Hợp đồng lao động
Dạng thứ nhất là "At-Will": tức là hợp động lao động tự nguyện giữa hai bên và
đây là dạng hợp đồng chính được sử dụng tại nước Mỹ cho đa số các công ty và xưởng.
Dạng "At-Will" này cho phép người chủ cho công nhân nghỉ việc, hay khai trừ nhân viên
không cần lý do.
Dạng hợp đồng thứ hai "Just-Cause": thì chỉ cho phép người chủ sa thải nhân viên
nếu có lý do chính đáng. Loại hợp đồng này thường thấy ở những công ty lớn và lâu đời
tại Mỹ, hoặc cũng có thể thấy trong những hợp đồng lao động do công đoàn đại diện ký.
Khi vào những hợp đồng lao động với công đoàn, chủ hay quản lý công ty hoàn toàn
không thể sa thải người nếu như không có lý do chính đáng.
Ngoài hai dạng hợp đồng trên, thì những dạng lao động khác là lao động theo hợp
đồng được thỏa thuận trước giữa hai bên, cung cấp dich vụ và bên nhận dịch vụ. Những
hợp đồng này, không coi là hợp đồng thuê mướn, mà chỉ là dịch vụ dành cho các người
làm independent contractor, (cung cấp dịch vụ độc lập).
2.2.2.2 Quy định về lương bổng
Tại Mỹ, để hạn chế sự bóc lột của giới chủ đối với công nhân và nhân viên, luật

lương tối thiểu được đưa ra, yêu cầu toàn bộ các doanh nghiệp phải trả lương bằng hay
trên mức tối thiểu này. Mức lương tối thiểu hiện nay ở Mỹ do chính phủ liên bang quy
định là $5.151 giờ (tính từ năm 1997), và ở tiểu bang California hiện nay là $6.751 giờ.
Theo chương trình tăng lương của Mỹ đến năm 2007, mức lương của liên bang sẻ là
$7.25, còn của California là $8.001 giờ.
Theo luật lao động liên bang Mỹ, một tuần người công nhân làm việc 40 tiếng là
tiêu chuẩn. Sau số giờ này, thì những giờ còn lại sẽ tính phụ trội. Luật Lao động
California quy định bắt buộc về việc trả lương phụ trội cho những công nhân làm việc
trên 8 tiếng không cần biết số giờ của cả tuần là bao nhiêu. Ở những cơ xưởng đòi khỏi
phải tăng ca, họ có thể yêu cầu công nhân làm việc 3 ngày liên tục với mỗi ngày 12 tiếng
và cuối tuần thì trả tiền theo giá 36 tiếng cơ bản. Nhưng ở California nếu làm như vậy thì
8 tiếng đầu là trả theo cơ bản, 4 tiếng còn lại, thì trả gấp rưỡi. Như vậy 1 tuần làm 3 ngày
12 tiếng, ở California sẽ phải trả 42 tiếng tiền công. Ngoài ra, nếu công nhân làm việc
trên 60 tiếng 1 tuần, thì từ tiếng thứ 61 trở đi, họ được trả gấp đôi mức lương cơ bản.
Điều khoảng trả gấp đôi lương cơ bản này còn dược ứng dụng khi làm việc vào những
ngày lễ lớn. Còn khi làm vào cuối tuần thì thông thường được trả gấp rưỡi lương cơ bản.
2.2.3 Một số luật bảo vệ người tiêu dùng
Mỹ có rất nhiều luật để bảo vệ người tiêu dùng. Những luật này được áp dụng cho
gần như mọi sản phẩm sản xuất, phân phối hay bán trên thị trường này. Các công ty kinh
doanh tại Mỹ cần nắm được điều này để hiểu rõ trách nhiệm của mình đối với sản phẩm
hay dịch vụ cung cấp và tránh các rắc rối pháp lý.
Thị trường Mỹ với kim ngạch nhập khẩu khổng lồ lên đến trên 1300 tỷ USD là rất
hấp dẫn với bất cứ nước nào.
2.2.3.1 Luật trách nhiệm đối với sản phẩm
Theo thông luật bảo vệ người tiêu dùng (Common Law Consumer Protection) hay
còn gọi là Luật về trách nhiệm đối với sản phẩm (Products Liability Law), cơ quan luật
pháp Hoa Kỳ yêu cầu các nhà sản xuất, phân phối và bán lẻ phải có trách nhiệm đối với
thương tật và thiệt hại do những khuyết tật của sản phẩm gây ra cho người sử dụng hoặc
những người ở gần sản phẩm đó. Trách nhiệm sản phẩm thường dựa trên các nguyên tắc
pháp lý về sự bất cẩn, vi phạm bảo hành hoặc trách nhiệm tuyệt đối.

Ví dụ: Bồi thường và nộp phạt gần 370 triệu USD do lỗi thiết kế kỹ thuật
Một bồi thẩm đoàn ở hạt San Diego (Hoa Kỳ) ngày 3/6/2004 đã ra phán quyết
buộc một hãng xe hơi Hoa Kỳ phải trả cho một phụ nữ bị tai nạn khi lái xe do hãng này
sản xuất số tiền kỷ lục là gần 369 triệu USD, gồm 246 triệu tiền phạt và 122,6 triệu tiền
bồi thường.
Theo luật sư của bên nguyên trong vụ kiện này, một trong những nguyên nhân dẫn
đến tai nạn thuộc về lỗi kỹ thuật thiết kế xe. Chiếc xe có trọng tâm cao, có khoảng cách
giữa bánh xe trước và sau hẹp khiến người lái khó kiểm soát được tay lái trong những lúc
quẹo cua gắt.
Vào tháng 1 năm 2002, trên xa lộ liên bang phía đông San Diego, chủ nhân chiếc
xe bị tai nạn này đã tránh một chướng ngại vật trên đường và bị mất kiểm soát tay lái dẫn
đến xe bị lật mấy vòng. Khi xe bị lật mui xe đã sụp xuống đè lên người nạn nhân làm bà
ta bị liệt nửa người.
2.2.3.2 Luật an toàn sản phẩm tiêu dùng
Theo định nghĩa trong CPSA, các sản phẩm tiêu dùng là những vật phẩm hay các
bộ phận của những vật phẩm đó được sản xuất, phân phối hoặc có công dụng để sử dụng
lâu dài hoặc tạm thời trong và xung quanh hộ gia đình hay khu cư xá, trường học, nơi vui
chơi hay những nơi khác. Những sản phẩm không nằm trong phạm vi điều chỉnh của
CPSA bao gồm máy bay, động cơ và thiết bị máy bay, một số loại tàu và thuyền, mỹ
phẩm, dược phẩm, súng đạn, thực phẩm, xe động cơ và thiết bị xe động cơ, các loại thuốc
trừ sâu và các sản phẩm thuốc lá.
Hình thức chủ yếu để trừng phạt việc không tuân thủ các quy định của CPSA là từ
chối không cho nhập hàng vào Hoa Kỳ. Ngoài ra, CPSC có thể tiến hành các thủ tục bắt
giữ hoặc cảnh báo sản phẩm nếu sản phẩm đó được coi là có thể gây nguy hiểm. Khi
CPSC xác định một sản phẩm nguy hiểm, CPSC có thể yêu cầu nhà sản xuất thông báo
cho công chúng biết khuyết tật hoặc sự không phù hợp của sản phẩm đó và yêu cầu nhà
sản xuất hoặc phải sửa chữa, thay thế sản phẩm hoặc trả lại tiền cho người tiêu dùng.
Ngoài ra, nhà sản xuất vi phạm luật lệ và có sản phẩm gây tổn thương cho người sử dụng
có thể bị phạt về dân sự hay hình sự.
Ví dụ: Thu hồi lò sưởi điện

Ngày 17 tháng 3 năm 2004, CPSC và nhà sản xuất ở Chicago, bang Illinois đã ra
thông báo số 04-098 thu hồi 150.000 lò sưởi điện do hãng này sản xuất đã được tiêu thụ ở
Hoa Kỳ với giá từ 30 đến 40 USD/chiếc trong giai đoạn từ tháng 8 năm 1996 đến tháng 2
năm 2004.
Mặc dù chưa có trường hợp tai nạn nào liên quan đến sản phẩm này được phản
ảnh, song CPSC và Công ty đã quyết định thu hồi sản phẩm sau khi phát hiện các mối nối
điện bên trong lò sưởi có thể bị lỏng dẫn đến các bộ phận kim loại của lò sưởi có thể bị
nhiễm điện gây nguy hiểm cho người dùng. Người tiêu dùng được khuyến cáo không nên
tiếp tục dùng sản phẩm này, và liên hệ với Công ty để được sửa chữa miễn phí hoặc thay
thế sản phẩm mới.
2.2.4 Một số quy định về hàng nhập khẩu vào Mỹ
2.2.4.1 Quy định về xuất sứ hàng nhập khẩu đưa vào Mỹ
Việc xác định xuất sứ rất quan trọng vì hàng nhập khẩu ở những nước đang phát
triển hoặc những nước đã ký kết hiệp định thương mại với Mỹ sẽ được hưởng thuế xuất
thấp hơn.
Xuất sứ của mặt hàng được xác định theo nguyên tắc biến đổi phần lớn về giá trị
và được định nghĩa như sau: sản phẩm được xác định vào nước gốc là nơi cuối cùng sản
xuất ra sản phẩm với du lịch sản phẩm đã biến dạng để mang tên mới và có đặc tính sử
dụng mới. Ví dụ khi Việt Nam nhập khẩu vải để may thành áo xuất khẩu sang Mỹ thì sản
phẩm mang xuất xứ Việt Nam, vì khi ấy tên của sản phẩm mới là áo và để mặc khác với
sản xuất đặc tính ban đầu của vải. Hoặc Việt Nam nhập khẩu da về may mũ giày, rồi đưa
đi nước khác để gắn với đế thành giầy hoàn chỉnh, trường hợp này xuất xứ của sản phẩm
được ghi là Việt Nam .
Khi xuất khẩu vào Mỹ, muốn được hưởng thuế xuất ưu đãi theo nước xuất xứ, luật
Mỹ quy định trên sản phẩm phải ghi nhãn của nước xuất xứ. Sản phẩm xuất xứ từ Việt
Nam thì phải ghi “made in Việt Nam”. Quy định này chỉ bắt buộc với sản phẩm hoàn
chỉnh, khi nhập vào Mỹ có thể bán thẳng cho người tiêu dùng.
Có một quy định đặc biệt là hàng hoá gốc từ Mỹ đưa sang nước khác để sắp xếp
lại, gia công thêm và đóng gói khi nhập khẩu trở lại Mỹ sẽ không phải đóng thuế nhập
khẩu cho phần nguyên liệu có gốc từ Mỹ. Dựa vào quy định này, các doanh nghiệp có thể

nhận vải cắt sẵn của công ty Mỹ cung cấp, về may thành áo quần… rồi xuất khẩu trở lại
Mỹ sẽ chỉ phải chịu thuế nhập khẩu đối với phần phí gia công.
2.2.5.2. Quy định về nhãn hiệu hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ
Quy định: Mọi hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ ngoại quốc, phải ghi rõ ràng, không
tẩy xoá được, ở chỗ dễ nhìn thấy được trên bao bì xuất nhập khẩu. Tên người mua cuối
cùng ở Mỹ, tên bằng tiếng Anh nước xuất xứ hàng hoá đó. Hàng đến tay người mua cuối
cùng thì trên các bao bì, vật dụng chứa đựng bao bì tiêu dùng của hàng hoá cũng phải ghi
rõ nước xuất xứ của hàng hoá bên trong.
Luật pháp Mỹ quy định: Các nhãn hiệu hàng hoá phải được đăng ký tại cục Hải
Quan Mỹ. Hàng hoá mang nhãn hiệu giả hoặc sao chép, bắt chước một nhãn hiệu đã đăng
ký bản q uyền của một công ty Mỹ hay một công ty nước ngoài đã đăng bản quyền đều bị
cấm nhập khẩu vào Mỹ. Bản sao đăng ký nhãn hiệu hàng hoá phải nộp cho cục Hải Quan
Mỹ và được lưu giữ theo quy định hàng nhập khẩu vào Mỹ có nhãn hiệu giả sẽ bị tịch thu
sung công.
Theo "Copyrigh Revíion Act" của Mỹ, hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ theo các bản
sao chép các thương hiệu đã đăng ký mà không được phép của người có bản quyền là vi
phạm luật bản quyền, sẽ bị bắt giữ và tịch thu, các bản sao các thương hiệu đó sẽ bị huỷ.
Các chủ sở hữu bản quyền muốn được cục Hải Quan Mỹ bảo vệ quyền lợi thì cần đăng
ký khiếu nại bản quyền tại văn phòng bản quyền theo các thủ tục hiện hành.
Xử lý vi phạm
* Hàng nhập vào Mỹ không tuân thủ quy định trên sẽ bị phạt mức 10% giá trị lô
hàng và phải thực hiện thêm một số yêu cầu nữa. Tuy nhiên, không phải có nghĩa là
người nhập khẩu được miễn thi hành nghĩa vụ đã quy định.
* Hàng nhập khẩu không đáp ứng đúng yêu cầu về ghi mác mã sẽ bị giữ lại ở khu
vực Hải Quan Mỹ cho tới khi người nhập khẩu thu xếp tái xuất trở lại, phá huỷ đi hoặc
tới khi hàng được xem là bỏ để chính phủ định đoạt toàn bộ hoặc từng phần.
* Phần 304(h) Luật thuế của Mỹ quy định ai cố tình vi phạm, cố tình che dấu sẽ bị
phạm tiền 5000 USD hoặc bỏ tù dưới 1 năm.
Trường hợp có sự phối hợp với nước ngoài để thay đổi tẩy xoá mác mã về xuất xứ
hàng hoá thị bị phạm 100000USD với lần đầu và các vi phạm sau đó là 250000USD.

2.2.5 Luật thuế
Mỹ có hệ thống luật pháp chặt chẽ, chi tiết và phức tạp hàng đầu thế giới. Luật
pháp được xem là một vũ khí thương mại lợi hại của Mỹ. Người ta nói rằng có hiểu biết
về luật pháp xem như bạn đã đặt được một chân vào thị trường Mỹ. để bảo hộ nền sản
xuất trong nước, Mỹ đặt ra rất nhiều quy định về thương mại tạo ra rào cản rất lớn với
các doanh nghiệp nước ngoài mà tiêu biểu là 3 luật thuế đối kháng, thuế chống bán phá
giá và thuế bù giá
2.2.6.1. Luật thuế đối kháng
Mục đích của luật này là làm vô hiệu hoá ưu thế cạnh tranh không bình đẳng của
nhà sản xuất/xuất khẩu nước ngoài đối với nhà sản xuất/xuất khẩu Hoa Kỳ nhờ có trợ cấp
của nước họ. Thuế đối kháng đúng bằng trị giá tịnh của phần trợ cấp và được thu khi
nhập khẩu vào Hoa Kỳ
Phần A Chương VII Luật thuế quan 1930, bổ sung bằng Luật Hiệp định thương
mại 1979, bổ sung bằng Luật thuế quan và thương mại 1984, OTCA 1988 và luật về các
hiệp định thương mại vòng đàm phán Uruguay 1994 nêu rõ: ngoài các lọai thuế, phí
khác, thuế đối kháng sẽ được đánh tương đương với trợ giá tịnh của phần trợ cấp, nếu
thoả mãn hai điều kiện: một là Bộ Thương mại Hoa Kỳ- cần phải làm rõ là có trợ cấp đối
kháng, trực tiếp hay gián tiếp, liên quan đến sản xuất, xuất khẩu của nhóm/loại hàng nhập
khẩu hoặc được bán vào Hoa Kỳ và phải xác định trị giá của phần trợ cấp tịnh. Hai là, ủy
ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ-ITC-phải xác định được là ngành công nghiệp Hoa Kỳ
bị thiệt hại vật chất, hoặc có nguy cơ bị thiệt hại vật chất, hoặc việc hình thành một ngành
công nghiệp Hoa Kỳ bị đẩy lùi, vì lý do nhập khẩu mặt hàng đó hoặc việc bán (hoặc
tương tự như bán) hàng đó vào Hoa Kỳ- gọi là việc kiểm tra thiệt hại-injury test. Luật
được áp dụng cho nhập khẩu từ các nước WTO (theo Hiệp định trợ cấp và các biện pháp
chống đối kháng-gọi là HD trợ cấp, hoặc với các nước mà Hoa Kỳ có hiệp định MFN vô
điều kiện. Hiệp định trợ cấp quy định các loai trợ cấp bị cấm-trợ cấp vi phạm- “đèn đỏ”
như: 1- trợ cấp dựa trên năng lực xuất khẩu, 2- trợ cấp dựa trên sử dụng nhiều hàng nội
hơn hàng nhập.
Hiệp định cho phép 3 loại trợ cấp “đèn xanh”-không gây phản ứng đối kháng: 1-
một số trợ cấp nghiên cứu (ngoại trừ trợ cấp cho ngành hàng không, 2- trợ cấp cho khu

vực kém phát triển, 3- trợ cấp cho phương tiện hiện thời đáp ứng yêu cầu mới về môi
trường.
2.2.6.2. Luật thuế bù giá (CVD)
Luật thuế bù giá quy định một khoản bồi thường dưới dạng thuế nhập khẩu phụ
thu để bù vào phần trợ giá của sản phẩm nước ngoài, mà việc bán sản phẩm đó ở Mỹ gây
thiệt hại các nhà sản xuất những hàng hoá giống hoặc tương tự của Mỹ. Trong hầu hết
các trường hợp, phần trợ giá phải bù lại có thể do chính phủ nước ngoài trực tiếp trả,
nhưng luật này cũng áp dụng đối với loại trợ giá gián tiếp bị phát hiện sau khi điểu tra
theo luật thuế bù giá.
Luật thuế bù giá còn đề cập đến cả các loại “trợ giá ngược chiều” — những hình
thức trợ giá cho sản xuất các yếu tố đầu vào được tính vào sản phẩm cuối cung xuất khẩu
sang Mỹ.
2.2.6.3. Luật chống phá giá
Luật chống phá giá được sử dụng rộng rãi hơn luật thuế bù giá. Thuế chống phá
giá được ấn định vào hàng nhập khẩu khi người ta xác định được là hàng nước ngoài
được bán “phá giá”, hoặc sẽ bán phá giá ở Mỹ với giá “thấp hơn giá trị thông thường”.
Thấp hơn giá trị thông thường có nghĩa là giá của hàng nhập khẩu vào Mỹ — tức là giá
mua hoặc giá bán của nhà xuất khẩu- thấp hơn mức giá của hàng hóa đó ở nước xuất xứ.
Thuế chống phá giá sẽ được ấn định đối với sản phẩm khi việc bán phá giá và thiệt hại
được xác định bằng mức chênh cao hơn của “giá trị bình thường” của hàng hoá đó với
mức giá xuất khẩu, tức là giá bán tại Mỹ.
Luật chống phá giá còn cho phép các ngành của Mỹ được đệ trình khiếu nại về
hoạt động bán phá giá ở nước thứ ba. Ngành công nghiệp của Mỹ có thể đệ trình một đơn
khiếu nại, trong đó phải giải thích tại sao việc phá giá lại gây thiệt hại cho các công ty
của Mỹ, lên văn phòng Ðại diện Thương mại Mỹ, yêu cầu cơ quan này bảo vệ những
quyền lợi của Mỹ theo quy định của WTO. Nếu Ðại diện Thương mại Mỹ xác định là có
đủ cơ sở để viện cớ, họ sẽ đệ trình một yêu cầu lên các cơ quan có thẩm quyền ở nước
thứ ba yêu cầu họ phải thay Mỹ tiến hành việc chống phá giá.
Trên đây chỉ là một số quy định cho các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế tại Mỹ,
muốn kinh doanh tại đây thì các doanh nghiệp chỉ có một cách đó là “nhập gia tùy tục”.

2.3. ẢNH HƯỞNG CỦA MÔI TRƯỜNG KINH TẾ MỸ ĐẾN HOẠT ĐỘNG
KDQT
2.3.1. Vài nét về nền kinh tế Mỹ
Mỹ là một trong những cường quốc kinh tế, khoa học, công nghệ và quân sự hàng
đầu thế giới, đồng thời cũng là một trong ba trung tâm kinh tế và tài chính quốc tế lớn
nhất thế giới.
Với diện tích 9.363.364 km
2
, với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa
dạng (dầu mỏ, khí đốt, than, quặng Uran, thủy điện ) nước Mỹ đã đạt tới trình độ của
một quốc gia phát triển về công nghiệp. Những ngành mũi nhọn của Mỹ là chế tạo hàng
không , điện tử, tin học, nguyên tử , vũ trụ , hoá chất. Ngoài ra, công nghiệp luyện kim,
dệt, chế tạo xe hơi cũng đạt trình độ phát triển cao. Ngành nông nghiệp Mỹ có trình độ
phát triển cao với ưu thế chính về cơ giới hoá, kỹ thuật canh tác tiên tiến, giống có năng
suất cao, sử dụng hiệu quả phân bón, hệ thống thuỷ lợi hoàn hảo.
Ngành dịch vụ Mỹ (dịch vụ đời sống, vận tải, thông tin, thương mại, ngân hàng,
tài chính, bảo hiểm ) rất phát triển chiếm tới 70% thu nhập quốc dân và thu hút 70% lao
động cả nước.
Hệ thống giao thông vận tải Mỹ hiện đại với hơn 3 triệu người làm việc. Cả nước
có gần 150 triệu chiếc xe ô tô (gấp 2 lần ở Nhật Bản ), có tổng chiều dài đường sắt là
310.000 km, khối lượng vận tải đường không chiếm 40% tổng khối lượng vận tải hàng
không thế giới.
Mỹ là nước có trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến trong hầu hết các lĩnh vực
và luôn luôn có nhu cầu và khả năng trao đổi khoa học, kỹ thuật và chuyển giao công
nghệ. Lực lượng nghiên cứu khoa học kỹ thuật và công nghệ có tới 95 vạn người, chưa
kể số nhân viên kỹ thuật.
Mỹ có nền đại học đa dạng, với 1200 cơ sở đào tạo trong đó có 891 trường đại
học, đặc biệt có 35 trường đại học nổi tiếng nhất đào tạo cả cho người nước ngoài.
Về ngoại thương, Mỹ là nước nhập siêu. Năm 1999, tổng kim ngạch nhập khẩu là
1.156,106 tỷ USD, năm 2000 là 1.314,493 tỷ USD chủ yếu từ các nước Canada, Nhật

Bản, Mehico, Trung Quốc, Đức, Đài Loan, Anh, Hàn Quốc, Singapore Trong khi đó,
tổng kim ngạch xuất khẩu đạt trị giá 888,027 tỷ USD (năm 1999) và 978,606 tỷ USD
(năm2000) chủ yếu sang các nước như Canada, Nhật Bản, Mehico, Anh, Hàn Quốc, Hà
Lan Hầu như hàng hoá mọi quốc gia đều có mặt trên thị trường siêu khổng lồ này. Một
ví dụ điển hình là Trung Quốc, sau hơn 20 năm tích cực và liên tục thâm nhập thị trường
Mỹ, năm 1999, Trung Quốc đã đạt mức xuất siêu với Mỹ lên đến hơn 50 tỷ USD, đem lại
nguồn ngoại tệ to lớn cho đất nước này, thúc đẩy nhiều ngành sản xuất và dịch vụ phát
triển mạnh tạo ra rất nhiều công ăn việc làm.
Một điểm khác đặc trưng của nền kinh tế này khác so với các nước khác là dai
phân loại thị trườngrộng, vì thế nó có thể thu hút và tiêu thụ vô số chủng loại hàng hoá
khác nhau với số lượng rất lớn thuộc đủ mọi chất lượng từ trung bình đến cao. Hơn nữa,
với mục tiêu “sản xuất những gì ngưòi khác không sản xuất nổi”, Mỹ chủ trương tập
trung vào các ngành dịch vụ và công nghệ cao trong khi khuyến khích nhập khẩu hàng
hoá về cần nhiều lao động như quần áo, giày dép, đồ gia dụng từ các nước khác khiến
cho sức mua của nền kinh tế ngày càng lớn và mức sống của người dân ngày càng cao.
Một đặc điểm khác nữa của nền kinh tế Mỹ, luôn thu hút mọi nhà xuất khẩu trên
khắp thế giới là họ có thể bán hàng với quy mô lớn. Một khi đã qua được giai đoạn giới
thiệu sản phẩm và thâm nhập được vào hệ thống phân phối, các nhà xuất khẩu ngoại quốc
sẽ nhận được những đơn đặt hàng rất lớn, ổn định và lâu dài, đem lại những nguồn doanh
thu ổn định và ngày càng tăng, giúp nhà sản xuất tăng cường đầu tư tái sản xuất mở rộng,
liên tục phát triển. Chính sách thương mại của Mỹ nói chung là sự tự do và mở rộng. Trừ
một số ít mặt hàng có hạn ngạch và một số mặt hàng phải đạt được những yêu cầu về vệ
sinh an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường, còn lại đều tự do về nguồn hàng lẫn
thương nhân, mọi công ty của Mỹ đều có quyền xuất nhập khẩu trực tiếp.
Với sức mạnh kinh tế , khoa học, kỹ thuật và công nghiệp, quân sự, Mỹ đang chi
phối đời sống kinh tế và chính trị quốc tế. Là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế tài
chính quốc tế cũng như các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hiệp Quốc, Mỹ có vị trí quan
trọng và ở nhiều nơi có tiếng nói quyết định .
Mỹ có hệ thống pháp luật về thương mại vô cùng rắc rối và phức tạp. Bộ luật
Thương mại (Uniform Commercial Code ) được coi như xương sống của hệ thống pháp

luật về thương mại. Các doanh nghiệp khi thâm nhập vào thị trường này cần phải nhờ đến
sự trợ giúp của các chuyên gia và luật sư.
Một điểm đáng chú ý đối với các doanh nghiệp khi xâm nhập vào thị trường Mỹ
đó là những chính sách ưu đãi. Bởi nếu được hưởng ưu đãi này thì hàng hoá sẽ có sức
cạnh tranh lớn hơn rất nhiều so với khi không được hưởng. Các chính sách ưu đãi như
sau:
o Quy chế tối huệ quốc (MFN: Most Favoured Nations ) là chính sách thương mại truyền
thống quan trọng của Mỹ. Chính sách này cho phép hàng hoá của bạn hàng nhập vào Mỹ
được hưởng tỷ lệ thuế thấp hơn so với mức thuế của các bạn hàng không được hưởng quy
chế này và ngược lại họ cũng phải giành cho hàng hoá của Mỹ những ưu đãi tương tự.
o Chế độ thuế quan phổ cập (GSP : Generalised System of Preferences) là chế độ ưu đãi
thuế quan mà Mỹ và 17 nước công nghiệp phát triển dành cho các nước đang phát triển,
nếu đạt được sẽ còn có lợi hơn cả quyền được hưởng MFN. Hầu hết các nước được
hưởng đều là thành viên của WTO. Nội dung chính của GSP là miễn thuế hoàn toàn hoặc
ưu đãi thuế thấp cho các mặt hàng nhập từ các nước đang phát triển được họ cho hưởng
GSP mà không có điều kiện có đi có lại và mặt hàng được hưởng ưu đãi GSP phải đáp
ứng tiêu chuẩn mà Mỹ đề ra.
2.3.2. Một số chỉ số đặc điểm của môi trường kinh tế Mỹ tác động đến hoạt động
KDQT
2.3.2.1. Môi trường kinh tê có tính mở cao.
Hoa Kỳ là quốc gia tiên phong trong việc ủng hộ tự do hóa thương mại vì vậy các
quy chế xuất nhập khẩu mà quốc gia này đã và đang áp dụng đều phù hợp với những
nguyên tắc cơ bản của WTO, đây là quốc gia nhập khẩu với khối lượng lớn các mặt hàng
có hàm lượng lao động cao: dệt may, giày dép…trong đó có nhiều mặt hàng tiêu dùng
thông thường mà Hoa Kỳ hầu như không sản xuất. Một thực tế là sự phát triển của nền
kinh tế Hoa Kỳ đã liên tục đóng góp cho sự phát triển toàn cầu nhờ duy trì chính sách mở
cửa thị trường. Thông qua chính sách mở cửa của mình, các nhà sản xuất cũng như người
tiêu dùng Hoa Kỳ có thể tiếp cận với hàng hóa dịch vụ từ nước ngoài với những điều kiện

×