HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN KINH TẾ CHÍNH TRỊ HỌC
BÀI THU HOẠCH
HỌC PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
Đề tài:
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
VIỆT NAM
Học viên
:
Mã số học viên :
Lớp :
HÀ NỘI – 2021
BÀI THU HOẠCH KẾT THÚC HỌC PHẦN
HỆ ĐÀO TẠO CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Mơn học:
Tên chủ
đề/vấn đề bài
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
thu hoạch:
Ngày chấm:
SỐ PHÁCH
ĐIỂM
Giảng viên chấm 1
Giảng viên chấm 2
(Ký, ghi rõ họ, tên)
(Ký, ghi rõ họ, tên)
Bằng số:
Bằng chữ:
Mơn học:
Tên chủ
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI
đề/vấn đề bài
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
thu hoạch:
SỐ PHÁCH
Họ và tên học
viên
Mã số học viên
Lớp
Ngày nộp
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................3
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.........................................3
1. Quan điểm của Mác về kinh tế thị trường.....................................................3
2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế thị trường...................3
3. Những đặc điểm của kinh tế thị trường.........................................................4
II. KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT
NAM..................................................................................................................6
1. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của
Việt Nam............................................................................................................6
2. Quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế - xã hội thời gian
tới.......................................................................................................................7
KẾT LUẬN.....................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................17
1
MỞ ĐẦU
Trong suốt giai đoạn từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến Đại hội Đảng lần
thứ XII, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng
được hồn thiện và được chứng minh tính đúng đắn trên thực tế khi đã giúp
đất nước ta thoát khỏi thời kỳ khó khăn về kinh tế, đạt tốc độ tăng trưởng có
lúc thuộc nhóm cao nhất thế giới. Từ nước nghèo, thu nhập thấp, Việt Nam đã
gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình, hội nhập ngày càng sâu rộng hơn
với kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới của nền kinh tế Việt Nam để đạt tốc
độ tăng trưởng nhanh, bền vững, Đảng và Nhà nước tiếp tục nghiên cứu, xem
xét những vấn đề đặt ra để hoàn thiện hơn thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI của Đảng
(tháng 1-2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội năm 2011- 2020 được
Đại hội XI thơng qua, nhất qn với các kì đại hội trước, tiếp tục khẳng định
mơ hình kinh tế nước ta trong thời kì quá độ là nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời cũng xác định đây là giai đoạn đổi mới và
hội nhập sâu sắc, toàn diện của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới. Có thể thấy
rằng, hai nhiệm vụ xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế có mối quan hệ khăng khít và làm điều kiện
cho nhau. Trong đó phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là vấn đề cốt lõi của đường lối cách mạng nước ta, có ý nghĩa quyết định đến
con đường phát triển và tương lai các dân tộc trong thế kỉ mới - một thế kỉ dự
báo sẽ có những biến đổi sâu sắc trên tất cả các mặt khoa học công nghệ, thể
chế kinh tế xã hội và mối liên hệ toàn cầu theo hướng vừa hợp tác vừa cạnh
tranh quyết liệt. Tình hình đó đang đặt dân tộc trước những cơ hội và thách
2
thức to lớn về hội nhập và phát triển. Điều chủ yếu chúng ta phải chuẩn bị là
trang bị tốt tiềm lực trí tuệ, chính sách và thể chế, lựa chọn thành cơng một
chiến lược rút ngắn và mơ hình phát triển phù hợp, vừa năng động vừa hiệu
quả, dựa trên cơ sở phát huy nội lực với thu hút ngoại lực, giữa kế thừa các
giá trị dân tộc và tiếp thu tinh hoa thời đại.
Đến Đại hội XII, mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta đã được khắc họa rõ nét và đầy đủ hơn, trong đó nhấn mạnh:
“Thống nhất nhận thức nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh
tế thị trường; đồng thời, bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai
đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập
quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng
bằng, văn minh”; có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực
quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình
đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật…”
3
NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Quan điểm của Mác về kinh tế thị trường
Theo C. Mác, kinh tế thị trường là một giai đoạn phát triển tất yếu của
lịch sử mà bất cứ nền kinh tế nào cũng phải trải qua để đạt tới nấc thang cao
hơn trên con đường phát triển và nền kinh tế TBCN chính là nền kinh tế thị
trường phát triển đến trình độ phổ biến và hồn chỉnh. Nấc thang cao hơn
chính là nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là nền kinh tế
XHCN. Để chuyển lên nấc thang này, nền kinh tế thị trường phải phát triển
hết mức, phải trở thành phổ biến trong đời sống kinh tế - xã hội.
2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế thị trường
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã khẳng định: sản
xuất hàng hóa khơng đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển
của nền văn mình nhân loại, tồn tại khách quan và cần thiết cho công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng.
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay cho thấy kinh tế thị
trường không phải là đặc trưng riêng có của chủ nghĩa tư bản, mà ngược lại
nó đã có ở nhiều chế độ xã hội khác nhau trong lịch sử. Sự ra đời kinh tế tư
bản chủ nghĩa chỉ đẩy kinh tế thị trường lên một giai đoạn phát triển cao hơn
về chất, về cả quy mơ, tính chất, mức độ bao qt của nó. Tiếp tục xu hướng
tất yếu đó, nền kinh tế của chủ nghĩa xã hội nói chung và thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội nói riêng là một sự phát triển mang tính phủ định biện chứng
đối với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, từ đấy ra đời nền kinh tế thị
trường mới về chất. Nếu trong chế độ tư bản, kinh tế thị trường đặt dưới sự
quản lý của Nhà nước tư sản độc quyền vì lợi ích của giai cấp tư sản, thì trong
chủ nghĩa xã hội nền kinh tế thị trường nằm dưới sự quản lý của nhà nước vô
4
sản nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân, góp phần thực hiện mục tiêu giải
phóng con người, vì con người.
Như vậy, kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao nhất của kinh tế
hàng hóa, trong đó tồn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều
thông qua thị trường. Kinh tế thị trường chỉ có thể được xác lập và phát triển
trên cơ sở đảm bảo những điều kiện sau: Thứ nhất, phải tồn tại nền kinh tế
hàng hóa. Việc đẩy mạnh phân cơng lao động xã hội và đa dạng hóa các hình
thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm được coi là điều kiện
tiên quyết để phát triển kinh tế thị trường.Thứ hai, phải dựa trên cơ sở tự do
kinh tế, tự do sản xuất, tự do kinh doanh. Đây là điều kiện hết sức cần thiết
cho q trình giải phóng sức lao động và điều hịa lợi ích giữa người mua và
người bán, đồng thời giúp cho thị trường tuân theo các quy luật kinh tế trong
sản xuất và lưu thơng hàng hóa.Thứ ba, nền kinh tế phải đạt đến một tình độ
phát triển nhất định được thể hiện ở sự phát triển các ngành kinh tế thuộc hệ
thống cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật cùng với hệ thống tiền tệ, phương
tiện để lưu thơng hàng hóa.
3. Những đặc điểm của kinh tế thị trường
Thứ nhất, độc lập của các chủ thể trong nền kinh tế: Nền kinh tế thị
trường đòi hỏi sự tồn tại của các chủ thể kinh tế độc lập dưới nhiều hình thức
sở hữu khác nhau. Các chủ thể này hoàn toàn động lập, tự chủ trong việc
quyết định: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai? Họ tự
chịu trách nhiệm đối với quyết định sản xuất kinh doanh của bản thân dựa
trên những tín hiệu thị trường.
Thứ hai, hệ thống đồng bộ các thị trường và thể chế tương ứng. Để nền
kinh tế thị trường hoạt động hiệu quả, phải bảo đảm hai yêu cầu: Sự hiện diện
đầy đủ của tất cả các thị trường nói trên. Các thị trường phải vận hành đồng
bộ. Bên cạnh đó, sự vận hành đồng bộ của các thể chế thị trường đòi hỏi phải
5
thực hiện đầy đủ các nguyên tắc cơ bản của thị trường trên cơ sở được sự bảo
đảm của luật pháp. Nếu không được bảo vệ bằng các đạo luật cơ sở như luật
cạnh tranh, luật về các quyền sở hữu, luật chống độc quyền, luật chống bán
phá giá thì nền kinh tế khơng thể hoạt động bình thường.
Thứ ba, hệ thống giá cả được xác lập thông qua tương quan cung-cầu
quyết định sự vận hành của nền kinh tế thị trường: Giá cả trên các loại thị
trường được xác định dựa trên tương quan cung và cầu của từng thị trường
đó. Tín hiện giá cả là căn cứ khách quan đối với các chủ thể kinh tế đưa ra
các quyết định sản xuất-kinh doanh của mình trong mơi trường cạnh tranh
thị trường.
Thứ tư, cơ chế căn bản vận hành của nền kinh tế thị trường là cạnh tranh
tự do: Khơng có cạnh tranh tự do, khơng thể nói đến kinh tế thị trường. Về
bản chất, cơ chế cạnh tranh thị trường là cơ chế tự điều chỉnh. Do vậy, nó cịn
được gọi là “bàn tay vơ hình”. Cơ chế này giúp nền kinh tế tạo lập sự cân
bằng mỗi khi bị trục trặc.
Thứ năm, vai trò điều tiết kinh tế của nhà nước: Thị trường có những
khuyết tật và cơ chế thị trường có thể bị thất bại trong việc giải quyết một số
vấn đề phát triển, ví dụ như khủng hoảng, đói nghèo, cơng bằng xã hội, mơi
trường... Để khắc phục chúng và tránh khỏi thất bại thị trường, nhà nước phải
tham gia quản lý, điều tiết sự vận hành nền kinh tế. Nhà nước tham gia vào
các quá trình kinh tế thị trường vừa với tư cách là bộ máy quản lý xã hội, vừa
là một yếu tố nội tại của cơ chế vận hành kinh tế. Với các tư cách đó, nhà
nước thực hiện ba chức năng: Quản lý, định hướng và hỗ trợ phát triển; Phân
phối lại thu nhập quốc dân. Bảo vệ môi trường.
6
II. KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở VIỆT NAM
1. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa của Việt Nam
Một là, nền kinh tế thị trường là cơ sở kinh tế của xã hội quá độ tiến lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đặc trưng này hàm ý khơng có một nền kinh tế
nào khác ngồi kinh tế thị trường có thể đảm nhiệm vai trị là cơ sở kinh tế để
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây là sự khẳng định trên thực tế Việt
Nam nguyên lý kinh điển của C.Mác về vai trò của kinh tế thị trường trong
tiến trình phát triển của lồi người.
Hai là, tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế - xã hội
quy định phát triển kinh tế thị trường ở nước ta nhằm “xây dựng một xã hội:
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ;
có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”1.
Ba là, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa phải có lực lượng sản xuất đạt trình
độ cao hơn về chất so với tiêu chuẩn đặt ra trong quan niệm truyền thống về
chủ nghĩa xã hội. Trong nền kinh tế này, yếu tố ngày càng có vai trị quyết
định là khoa học - kỹ thuật và trí tuệ con người2.
Bốn là, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
là nền kinh tế hỗn hợp, bao gồm nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế cùng tồn tại trong một thể thống nhất, trong đó, chế độ cơng hữu ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc. Khơng thể có nền kinh tế định hướng xã
hội chủ nghĩa nếu trong nó, chế độ cơng hữu khơng đóng vai trị nền tảng.
1 Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011)
2 Điều này đúng với dự đoán của C. Mác trước đây: sau giai đoạn đại cơng nghiệp cơ khí, tức là
sau CNTB, khoa học kỹ thuật sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
7
Năm là, kinh tế nhà nước phải nắm giữ vai trị chủ đạo ở một số lĩnh vực
then chốt. Đó là những "đài chỉ huy", là huyết mạch chính của nền kinh tế.
Đây là điều kiện có tính ngun tắc bảo đảm tính định hướng xã hội chủ
nghĩa. Nó thể hiện sự khác biệt về bản chất của mơ hình kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa so với các mơ hình kinh tế thị trường khác.
Sáu là, tính định hướng xã hội chủ nghĩa địi hỏi phải bảo đảm công bằng
và tiến bộ xã hội; thực hiện sự thống nhất và gắn liền hữu cơ giữa tăng trưởng
kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội ở tất cả các giai đoạn của sự phát triển
kinh tế thị trường ở nước ta. Tăng trưởng kinh tế đồng thời với phát triển xã
hội, văn hoá, giáo dục, vì mục tiêu phát triển con người và mang đậm bản sắc
của đất nước và con người Việt Nam là những nội dung cấu thành của phát
triển nhanh, hiệu quả, hiện đại và bền vững trong quá trình chuyển sang kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Bảy là, phân phối thu nhập theo hiệu quả kinh doanh và năng suất lao
động là chính, các hình thức phân phối thu nhập theo vốn, tài sản, trí tuệ và
phúc lợi xã hội cùng tồn tại và phát triển.
Tám là, hai yếu tố quyết định cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường
là nhà nước và thị trường. Khác với nhà nước của nhiều nền kinh tế thị trường
trên thế giới, Nhà nước ở nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế - xã hội
thời gian tới
2.1. Quan điểm phát triển kinh tế-xã hội
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới và sáng tạo trong lãnh đạo, quản lý phát triển
kinh tế-xã hội. Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Xây dựng nền kinh tế hiện đại, hội nhập quốc tế, có nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ, hiệu quả theo
8
quy luật thị trường, cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. Đồng thời, Nhà nước sử
dụng thể chế, các nguồn lực, cơng cụ điều tiết, chính sách phân phối và phân
phối lại để phát triển văn hóa, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội;
bảo đảm an sinh xã hội, từng bước nâng cao phúc lợi xã hội, chăm lo cải thiện
đời sống mọi mặt của nhân dân, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo.
Thứ hai, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế
vĩ mô và không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh
tranh. Phát triển hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu, chú trọng phát triển
chiều sâu; phát triển kinh tế tri thức, kinh tế xanh. Phát triển kinh tế phải gắn
kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ mơi trường, chủ động ứng
phó với biến đổi khí hậu. Bảo đảm quốc phịng, an ninh và giữ vững hịa bình,
ổn định để xây dựng đất nước.
Thứ ba, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý và định hướng phát triển của Nhà nước. Tập trung
tạo dựng thể chế, luật pháp, cơ chế, chính sách và môi trường, điều kiện ngày
càng minh bạch, an toàn, thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tự do sáng
tạo, đầu tư, kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng trong kinh tế thị trường. Phát
huy mạnh mẽ quyền dân chủ của người dân trong hoàn thiện và thực thi luật
pháp, cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Bảo đảm quyền con
người, quyền công dân. Xây dựng nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp,
năng động, trách nhiệm, lấy phục vụ nhân dân và lợi ích quốc gia là mục tiêu
cao nhất.
Thứ tư, phát huy cao nhất các nguồn lực trong nước, đồng thời chủ động
hội nhập quốc tế, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài
để phát triển nhanh, bền vững. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh
doanh nghiệp Việt Nam, nhất là doanh nghiệp tư nhân, làm động lực nâng cao
sức cạnh tranh và tính tự chủ của nền kinh tế.
9
2.2. Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu
Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng với sự phát triển kinh tế
Ở nước ta, vị thế lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong xã hội là tuyệt đối.
Đây là nhân tố đảm bảo quan trọng hàng đầu của quá trình xây dựng cơ sở
kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Mỗi một thành công của công cuộc đổi mới ở
nước ta, dù ở bất cứ lĩnh vực nào đều gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng và nó
trở thành bài học quý báu “bài học về sự giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và
quản lý của nhà nước trong q trình phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần”. Ngày nay, đây vẫn là yếu tố khởi đầu thuận lợi nhất, quyết định nhất
tiếp tục định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế nước ta.
Đổi mới và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố có tính quyết
định nhất đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường, cũng
như toàn bộ sự nghiệp phát triển đất nước. Đây là một trong những bài học
lớn nhất được rút ra trong những năm đổi mới. Càng đi vào kinh tế thị trường,
thực hiện dân chủ hóa xã hội, mở rộng hợp tác quốc tế càng phải tăng cường
và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thực tế ở một số nước cho thấy,
chỉ cần một chút mơ hồ, buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng là lập tức tạo điều
kiện cho các thế lực thù địch chống đối chính quyền, đưa đất nước đi theo con
đường khác.
Đã từ lâu, các thế lực thù địch quốc tế ln tìm cách móc nối, cấu kết
với các phần tử phản động, bất mãn, biến chất ở trong nước nhằm xây dựng
lực lượng chống đối từ bên trong, âm mưu dùng “diễn biến hịa bình” địi thực
hiện đa ngun chính trị, đa đảng đối lập, phá hoại đường lối chính sách của
Đảng Cộng sản Việt Nam, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân. Chúng thổi
phồng, xuyên tạc những khuyết điểm sai lầm trong lãnh đạo kinh tế trước đây
hòng hạ thấp và đi đến phủ nhận vai trị và khả năng lãnh đạo cơng cuộc đổi
mới kinh tế của Đảng, gạt Đảng Cộng sản ra khỏi môi trường kinh tế của đất
nước, thực hiện âm mưu: khơng có Đảng Cộng sản, khơng có đổi mới kinh tế,
10
khơng có chủ nghĩa xã hội, đúng kịch bản diễn ra ở các nước Đông Âu và
Liên Xô trước đây.
Điều mà kẻ thù không ngờ tới là Đảng ta không né tránh sai lầm,
khuyết điểm trước đây, hơn thế còn đi sâu phân tích tìm ra “những sai lầm
khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm
trong hoạt động, tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng”, “coi đây là
nguyên nhân của mọi nguyên nhân” và thừa nhận sai lầm và khuyết điểm.
Vấn đề cơ bản ở đây là Đảng không coi sai lầm khuyết điểm là tất cả, để rồi
phủ nhận mọi thành tựu, phủ nhận chính mình, mà là từ những sai lầm đó rút
ra bài học kinh nghiệm cho việc nhận thức và khẳng định lại mục tiêu, con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội, kiên quyết khắc phục từng bước những gì cũ
kỹ, lạc hậu khơng phù hợp trong sinh hoạt tư tưởng, trong công tác tổ chức,
lãnh đạo nhằm xây dựng Đảng ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới.
Cùng với việc đấu tranh khẳng định mình là sự khẳng định vai trị
của một Đảng cầm quyền: người khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi
mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa một cách tuyệt đối. Trên
lĩnh vực kinh tế vai trò của Đảng thể hiện ở việc ổn định và phát triển kinh
tế xã hội, chỉ rõ những mục tiêu cơ bản và chủ yếu cho cả thời kỳ quá độ và
được thực hiện từng bước qua kế hoạch phát triển 5 năm, 10 năm và dài
hơn. Để thực hiện các mục tiêu đó Đảng tiếp tục vạch ra một hệ thống
dường lối kinh tế xã hội cụ thể thích hợp với mỗi giai đoạn. Những đường
lối này là sự vận dụng và kết hợp một cách logic các quy luật kinh tế,
những luận điểm và tư tưởng khoa học, hiện đại với thực tiễn đất nước và
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong xu thế tồn cầu hóa kinh tế hiện nay thì việc hội nhập kinh tế
thế giới là một tất yếu, bởi vậy, Đảng ta đã chủ trương phát triển nền kinh
tế mở, trong đó có cả việc thu hút đầu tư nước ngoài là nội dung đổi mới cơ
11
bản trong lãnh đạo kinh tế của Đảng. Đây còn là bước chủ động phá thế bị
bao vây, cấm vận, đè bẹp ý đồ dùng áp lực quốc tế xóa bỏ chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam của các thế lực thù địch, trước hết là áp lực về kinh tế. Đảng và
nhân dân ta hoàn toàn nhận thức được rằng, để hội nhập thành công, để
tham gia “sân chơi” quốc tế, Việt Nam phải tuân thủ và chấp hành các luật
chơi quốc tế. Đây là điều hồn tồn khơng dễ dàng, vì nó buộc chúng ta
phải xây dựng và điều chỉnh các luật lệ, thể chế sao cho phù hợp, tạo điều
kiện để tham gia và có tiếng nói trong các vấn đề kinh tế quốc tế. Khơng ít
người lo ngại chúng ta đã “chệch hướng sang chủ nghĩa tư bản”, “đi theo
con đường tư bản chủ nghĩa”, nhưng chệch hướng hay khơng chệch hướng
là do chính ta quyết định. Trong quá trình đổi mới chúng ta cần nghiên cứu
kinh nghiệm của các nước và các dân tộc, nêu cao ý thức độc lập tự chủ,
khơng bằng lịng với những gì đã đạt được. Phải xây dựng Đảng ngang tầm
với đòi hỏi của thời kỳ phát triển mới.
Để đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ mới, công tác chỉnh đốn Đảng,
đổi mới và nâng cao vai trò của Đảng cần được được đặc biệt coi trọng và trở
nên cấp bách.Cần có biện pháp phát huy những ưu điểm, kinh nghiệm đã có,
kiên quyết đấu tranh khắc phục những khuyết điểm, yếu kém, củng cố Đảng
về mọi mặt. Đặc biệt là về chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống, công tác cán
bộ để Đảng thực sự trong sạch vững mạnh, thực hiện tốt vai trị lãnh đạo tồn
bộ xã hội, lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước, phát triển nền kinh tế theo
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở nước ta thành
công hay không trước hết phụ thuộc vào sự lãnh đạo của Đảng trong phát
triển kinh tế. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay
một số biện pháp cụ thể luận văn đưa ra như sau:
12
Trước hết, Đảng phải đề ra cương lĩnh, đường lối, quan điểm, chiến
lược và sách lược kinh tế trên cơ sở căn cứ khoa học, phù hợp thực tiễn nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Sự hình thành
đường lối quan điểm chính sách kinh tế cũng như sự cụ thể hóa định hướng xã
hội chủ nghĩa trong lĩnh vực kinh tế của Đảng trên cơ sở phát triển trí tuệ,
nhận thức các quy luật kinh tế khách quan, xuất phát từ nhận thức sâu sắc và
đánh giá đúng thực trạng nền kinh tế xã hội đất nước, từ ý nguyện của đông
đảo quần chúng, từ việc tìm ra những khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế.
Cương lĩnh, chiến lược kinh tế của Đảng có đúng hay khơng do thực tiễn
kiểm nghiệm, vì thế Đảng phải kết hợp tư duy lý luận khoa học với tổng kết
thực tiễn sinh động của nền kinh tế. Phải bám sát thực tiễn, đánh giá tình hình
thực tiễn trên cơ sở phân tích các mâu thuẫn kinh tế xã hội và kinh nghiệm,
tổng kết thực tiễn để kiểm chứng, hoàn thiện cương lĩnh, chiến lược để dự báo
một cách khoa học, chính xác về sự phát triển kinh tế thị trường nước ta.
Thứ hai, phải thường xuyên lãnh đạo nhà nước cụ thể hóa, thể chế
hóa các quan điểm, đường lối, chính sách kinh tế thành thể chế, pháp luật,
cơ chế, chính sách kinh tế. Cương lĩnh, đường lối của Đảng tự nó khơng
thể hiện thực được mà phải thông qua hoạt động của Nhà nước, thể hiện
trong Hiến pháp, pháp luật và các quyết định, thông tư, chỉ thị... và hoạt
động quản lý điều hành của Nhà nước. Đó là lý do tồn tại, là chức năng cực
kỳ quan trọng của Đảng cầm quyền. Nhà nước với tư cách là cơng cụ
quyền lực chính trị tối cao để thực hiện cụ thể hóa đường lối của Đảng, ý
chí của nhân dân lao động thành những chuẩn mực để quản lý và điều tiết
kinh tế xã hội. Vì vậy các cấp các ngành, nhân dân và chủ thể kinh tế...
thực hiện chính sách luật pháp kinh tế của Nhà nước tức là thực hiện đường
lối kinh tế của Đảng. Song cần nhận thức đúng, sự lãnh đạo của Đảng và
hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước, không phải là cơ quan nhà nước cao
13
nhất, cũng không phải là một tổ chức “siêu nhà nước”. Đảng lãnh đạo
nhưng khơng phải cái gì cũng trực tiếp làm. Tình trạng “Đảng biến thành
Nhà nước” làm cho Đảng trở thành trung tâm hành chính phục vụ, biến cán
bộ thành những người nắm quyền lực nhà nước sẽ dẫn đến hậu quả là Đảng
không thực hiện tốt vai trò lãnh đạo, cơ quan nhà nước ỷ lại, thụ động,
khơng sáng tạo, làm cho vai trị của Đảng và Nhà nước đều suy giảm. Vì
vậy cần thiết phải xây dựng đúng, thống nhất nhận thức về vai trò nhà nước
trong nền kinh tế thị trường trong toàn bộ đời sống xã hội, làm cho các chủ
thể kinh tế nhận thức đúng và làm theo pháp luật của Nhà nước.
Thứ ba, Đảng phải định hướng rõ trong quá trình phát triển kinh tế theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghĩa là các hình thức và phương pháp quản lý
nền kinh tế thị trường được Nhà nước sử dụng như một công cụ, phương tiện
để đạt tới nền kinh tế tăng trưởng cao, bền vững, ổn định nhằm mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thực hiện nhiều hình
thức phân phối nhưng phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là
chủ yếu. Nhà nước phải điều tiết thu nhập một cách hợp lý nhằm thu hẹp
khoảng cách chênh lệch giàu - nghèo, vừa khuyến khích lao động vừa đảm
bảo phúc lợi xã hội. Nền kinh tế thị trường ở nước ta phải là nền kinh tế
hướng tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa, hạn chế, khắc phục những thất bại của
thị trường, thực hiện các mục tiêu xã hội và nhân đạo. Nhà nước đó phải là
Nhà nước xã hội chủ nghĩa pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
Thứ tư, Đảng phải là một lực lượng có trình độ trí tuệ cao, nắm vững
các quy luật khách quan của kinh tế thị trường vận dụng sáng tạo vào điều
kiện cụ thể ở nước ta. Để có trình độ trí tuệ cao, nắm vững các quy luật khách
quan của kinh tế thị trường, vận dụng sáng tạo chúng, vừa có năng lực lãnh
đạo làm cho các quy luật vận động có hiệu quả vào lĩnh vực kinh tế. Đảng
phải có tri thức, kinh nghiệm mới trong q trình định hướng chính trị nền
14
kinh tế thị trường, nâng cao năng lực tổ chức để khơng ngừng hồn thiện
đường lối, chiến lược về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đảng phải là người kết tinh, đồng thời phát huy, tập hợp được mọi tiềm năng
trí tuệ các nhà khoa học, các trí thức giỏi trong và ngồi Đảng, sử dụng các
chun gia giúp mình chọn được phương án tối ưu trong lãnh đạo kinh tế,
lãnh đạo nhà nước. Những quyết định chiến lược của Đảng phải là những sản
phẩm của khoa học có thơng tin, cố vấn, phản biện. Kinh tế thị trường và xu
hướng dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội khơng chấp nhận vào vị
trí lãnh đạo những người kém hiểu biết về kinh tế thị trường, chỉ biết ra chỉ thị
mà không biết cách tổ chức cơng việc một cách khoa học và có hiệu quả.
Thứ năm, xây dựng hệ thống tổ chức Đảng vững mạnh trong các cơ
quan nhà nước và chính quyền địa phương. Sự lãnh đạo của Đảng được đảm
bảo thông qua tổ chức Đảng và những đảng viên giữ chức vụ trong các cơ
quan nhà nước, có trách nhiệm đem nghị quyết của Đảng trình bày, thuyết
phục, lãnh đạo các cơ quan nhà nước để cơ quan này có trách nhiệm thể chế
hóa đúng đắn đường lối chính sách của Đảng theo thẩm quyền của mình, biến
nó thành pháp luật của Nhà nước. Ở địa phương, các cấp ủy Đảng lãnh đạo
chính quyền hoạch định những chủ trương cụ thể thi hành đường lối, chính
sách của Trung ương Đảng, Chính phủ sát với tình hình, đặc điểm của địa
phương. Sự lãnh đạo của Đảng bằng hệ thống tổ chức Đảng trong cá cơ quan
Nhà nước và chính quyền địa phương, do vậy phải tăng cường xây dựng các
tổ chức Đảng trong sạch là yêu cầu bảo đảm cho tăng cường vai trò Nhà nước
từ trung ương đến cơ sở.
Thứ sáu, để tăng cường được vai trò của nhà nước trong kinh tế thị
trường hiện nay, Đảng phải đào tạo và sử dụng đội ngũ cán bộ lãnh đạo kinh
tế giỏi. Đảng chỉ có thể lãnh đạo kinh tế thắng lợi nếu đào tạo và sử dụng
được một đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý kinh tế giỏi, thiếu đội ngũ này thì
15
quá trình thực hiện nền kinh tế thị trường ở nước ta dù có định hướng đúng
đắn cũng khơng thể thành cơng. Việc nâng cao vai trị nhà nước trong kinh tế
thị trường phụ thuộc cốt lõi vào việc sắp xếp, sử dụng đội ngũ cán bộ công
chức nhà nước có đủ phẩm chất và năng lực hiện nay là yêu cầu cấp bách.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế phải được đào tạo bồi dưỡng toàn diện cả về
lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn và năng lực thực
tiễn trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nói tóm lại, những đề xuất trên đây sẽ góp phần đổi mới và nâng cao
vai trò lãnh đạo của Đảng với sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, đảm bảo giữ vững tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá
trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
16
KẾT LUẬN
Đại hội Đảng lần thứ XII khẳng định: “Ba đột phá chiến lược được tập
trung thực hiện và đạt kết quả tích cực”. Thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa được xác định cụ thể hơn, từng bước thực thi có hiệu quả và
tạo được sự đồng thuận trong xã hội. Các yếu tố thị trường và các loại thị
trường được vận hành khá đồng bộ và gắn kết hiệu quả hơn với thị trường nước
ngồi;...Phát triển nguồn nhân lực và khoa học, cơng nghệ đạt được những kết
quả tích cực;…huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ
tầng kinh tế-xã hội đạt kết quả quan trọng, tạo được nhiều chuyển biến.
Đại hội XII của Đảng xác định nhiệm vụ quan trọng: “phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi
trường và động lực cho phát triển kinh tế - xã hội”. Tập trung hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường đồng bộ, hiện đại trên cơ sở tuân thủ đầy đủ các quy
luật của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế sâu rộng. Tiếp tục hoàn thiện
khung pháp lý, cơ chế, chính sách, thực hiện đồng bộ các giải pháp để phát
triển, vận hành thông suốt, hiệu quả, đồng bộ và khả thi các loại thị trường và
bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch.
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Hiến pháp 2013
2.
Luật Doanh nghiệp
3.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII
4.
Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020
5.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X
và XI.
6. Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP). Báo cáo phát triển
thường niên.
7. Đào Nguyên Cát “Bàn thêm về kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa”, Thời báo kinh tế Việt Nam, (26), tr.10.
8. Nguyễn Trọng Chuẩn (1997), Những quan điểm cơ bản của MácĂngghen-Lênin về Chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
9. Vũ Hồng Cơng (2009), Xây dựng và phát triển nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
Nxb Chính trị Hành chính, Hà Nội.
10 Hồng Đình Cúc (2009), Chủ nghĩa xã hội và sự nghiệp cơng
nghiệp hóa - hiện đại hóa ở việt Nam, Nxb Chính trị Hành chính, Hà Nội.