Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

2 tiểu luận môn triet hoc lớp hoàn chỉnh cao cấp lý luận chính trị mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.03 KB, 11 trang )

BÀI THU HOẠCH KẾT THÚC HỌC PHẦN
HỆ ĐÀO TẠO CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Mơn học:
Tên
chủ
đề/vấn đề bài
thu hoạch:
Ngày chấm:
SỐ PHÁCH

ĐIỂM

Giảng viên chấm 1

Giảng viên chấm 2

(Ký, ghi rõ họ, tên)

(Ký, ghi rõ họ, tên)

Bằng số:
Bằng chữ:


Môn học:
Tên
chủ
đề/vấn đề bài
thu hoạch:
SỐ PHÁCH


Họ và tên học
viên
Mã số học viên
Lớp
Ngày nộp


1

I. MỞ ĐẦU

Trong triết học Mác - Lênin, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là
một nội dung được quan tâm nhiều nhất. Kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực
trọng yếu trong đời sống của mỗi một dân tộc cũng như toàn thế giới. Trong
điều kiện của Việt Nam hiện nay, đổi mới kinh tế đất nước là điều hết sức cần
thiết để xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công. Nền kinh tế của một đất nước
là thành phần cơ bản của cơ sở hạ tầng, trên đó quyết định hình thành nên một
thể chế chính trị tương ứng phù hợp với hình thái kinh tế đó.
Việc nhận thức và xử lý mối quan hệ này trong thực tiễn đúng hay sai
có ý nghĩa quyết định đối với sự hưng vong của nền kinh tế và chế độ chính
trị của đất nước. Những thành tựu to lớn về nhiều mặt ở nước ta qua 31 năm
đổi mới đều có nguyên nhân trực tiếp sâu xa từ khả năng cũng như mức độ
nhận thức và giải quyết mối quan hệ chính trị với kinh tế trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Sự phát triển của một nền kinh tế được nhìn nhận là ảnh hưởng bởi
nhiều yếu tố đó là những yếu tố thuộc về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
và kiến trúc thượng tầng. Trong sự tác động đó, có thể nói chính trị có ảnh
hưởng sâu sắc nhất và ngày càng tăng đối với sự phát triển kinh tế bởi vì
chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế. Theo Lênin, chính trị là việc
xây dựng nhà nước về kinh tế “… là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”, “…

là kinh tế cơ động lại”. Từ những nhìn nhận trên ta có thể thấy mối quan hệ
giữa kinh tế và chính trị có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng quan trọng,
đặc biệt mối quan hệ biện chứng ấy được đặt trong công cuộc đổi mới ở Việt
Nam hiện nay.


2

II. NỘI DUNG
1. Mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị
1.1. Khái niệm kinh tế - chính trị theo quan điểm triết học Mác –
Lênin
Cơ sở lý luận và phương pháp luận khoa học của việc nhận thức và
giải quyết vấn đề quan hệ giữa kinh tế và chính trị là quan điểm duy vật lịch
sử của
chủ nghĩa Mác – Lênin về quan hệ giữa kiến trúc thượng tang với cơ sở
hạ tầng.
Kinh tế là phạm trù đóng vai trị quyết định trongn cơ sở hạ tầng. Kinh
tế có thể coi là tổng thể những yếu tố sản xuất, các điều kiện sống của con
người, các mối quan hệ trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Nói
đến kinh tế suy cho cùng là nói đến vấn đề sở hữu và lợi ích.
Chính trị là một phạm trù tư tưởng thuộc kiến trúc thượng tầng của xã
hơi. Chính trị là tất cả những hoạt động, những vấn đề gắn với mối quan hệ
giai cấp, dân tộc, quốc gia và các nhóm xã hội xoay quanh một vấn đề trung
tâm đó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước. Chính trị được
sinh ra khi bắt đầu có sự phân hóa giai cấp, hay bắt đầu có sự phân hóa về
kinh tế tức là về vấn đề sở hữu và lợi ích cá nhân trong xã hội.
Học thuyết Mac – Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị đã chỉ
rõ, với bất kỳ quốc gia nào, thời đại nào trong xã hội có giai cấp đều tồn tại và
phát triển mối quan hệ biện chứng giữa hai phạm trù đó. Mối quan hệ đó

trong một nhà nước XHCN ln lấy lợi ích cộng đồng cơng bằng xã hội,
trong đó lợi ích chính đáng của ngwoif dan ln được quan tâm làm mục tiêu
hướng tới thì chính trị hiểu theo nghĩa rộng là sự thể hiện tồn bộ các chính
sách, hoạt động của Nhà nước đó sao cho khơng chỉ bảo đảm được sự ổn định


3
chính trị đất nước mà cịn là phát triển ngày càng tốt hơn các lĩnh vực đời
sống xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế, việc làm, khoa học – công nghệ, môi
trường… khái quát lại, là sự hướng tới mục tiêu vì tất cả những vấn đề vật
chất và tinh thần liên quan đến lợi ích chính đáng của sự phát triển con người
trong cộng đồng xã hội, trong đó phát triển kinh tế ln ln là cơ sở, nền
tảng quyết định sự phát triển của chính trị - xã hội và ngược lại, chính trị - xã
hội phát triển như thế nào, tiến bộ và sẽ tác động tích cực hoặc tiêu cực trở lại
kinh tế.
1.2. Vai trị quyết định của kinh tế đối với chính trị
Lý luận triết học Mác – Lênin cho thấy: vật chất quyết định ý thức, cơ
sở hạ tầng quyết định đến kiến trúc thượng tầng. Từ cơ sở trên ta có thể nhận
thấy tư tưởng chính trị sinh ra trên cơ sở kinh tế và được quy định bởi cơ sở
kinh tế. Kinh tế là gốc, là thước đo tính hợp lý của chính trị. Sự phụ thuộc của
chính trị vào cơ sở kinh tế được biểu hiện ở những điểm sau:
- Chính trị chỉ phát sinh trên cơ sở nền kinh tế đã phát triển đến một
trình độ nhất định. Điều này đã được thể hiện rõ khi ta nghiên cứu sự ra đời
của chính trị. Trình độ kinh tế yếu kém của chế độ cộng sản nguyên thủy đã
không thể phát sinh vấn đề về chính trị. Chỉ khi xuất hiện chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất trong xã hội và bắt đầu có sự phân chia về giai cấp thì nhà nước
cùng với những vấn đề chính trị mới xuất hiện. Sự phát triển chế độ tư hữu đã
đánh dấu một bước phát triển rõ rệt của trình độ phát triển kinh tế.
- Chính trị phát triển theo sự phát triển của kinh tế. Tương ứng với một
trình độ phát triển nhất định về kinh tế có một trình độ phát triển nhất định về

chính trị. Sự thay đổi của cơ sở kinh tế sớm hay muộn cũng dấn đến sự thay
đổi về mặt chính trị. Các Mác đã viết: “Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái
kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”. Nội dung
của chính trị do cơ sở kinh tế quyết định. Chế độ kinh tế là cơ sở của chế độ


4
chính trị, cơ sở kinh tế như thế nào thì cơ cấu thể chế chính trị thích ứng thế
đấy. Chính trị khơng thể thấp hơn trình độ phát triển của kinh tế. Chế độ chính
trị phản ánh trình độ phát triển của kinh tế.
-Trong xã hội giai cấp, giai cấp nào thống trị về mặt kinh tế thì cũng
chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội. Các
mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh
vực chính trị tư tưởng. Các quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp, quan hệ
chính trị là sự phản ánh các quan hệ lợi ích kinh tế, các mâu thuẫn trong quan
hệ kinh tế. Trong các mối quan hệ trên thì kinh tế là tính thứ nhất, chính trị là
tính thứ hai, là cái phản ánh của kinh tế, thể hiện qua tư duy chính trị, đường
lối chính trị, thể chế chính trị…
1.3. Sự tác động trở lại của chính trị đối với sự phát triển kinh tế
Trong khi khẳng định vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị,
chủ nghĩa Mác – Lênin cũng nhấn mạnh tính độc lập tương đối và sự tác động
trở lại của chính trị đối với kinh tế hay cao hơn là của kiến trúc thượng tầng
đối với cơ sở hạ tầng: sự tác động của chính trị đối với kinh tế có thể theo
nhiều hướng khác nhau: thúc đẩy, kìm hãm, hoặc vừa thúc đẩy mặt này, vừa
kìm hãm mặt kia và do vậy, có thể làm thay đổi cơ sở kinh tế ở chừng mực
nhất định.
Chính trị tác động tích cực vào cơ sở kinh tế khi nội dung của các tư
tưởng quan điểm chính trị phản ánh đúng, đầy đủ điều kiện khách quan của cơ
sở kinh tế và sự phát triển kinh tế. Khi đó chính trị là động lực mạnh mẽ thúc
đẩy làm cho kinh tế phát triển với tốc độ nhanh, vững chắc. Ngược lại, chính

trị tác động một cách tiêu cực vào cơ sở kinh tế khi hệ thống chính trị có quan
điểm, tư tưởng thể hiện ý chí của giai cấp thống trị lỗi thời muốn duy trì quan
hệ kinh tế đã lạc hậu khơng cịn phù hợp nữa, hay khi chính trị đi quá xa đối
với sự phát triển của kinh tế. Nhưng nếu chính trị kìm hãm sự phát triển của


5
kinh tế thì sớm hay muộn, bằng cách này hay cách khác, thể chế chính trị cũ
sẽ được thay bằng thể chế chính trị mới tiến bộ để thúc đẩy kinh tế tiếp tục
phát triển. Trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị tránh tuyệt hóa hoặc
đồng nhất chính trị với kinh tế. Mắc phải khuynh hướng trên sẽ có ảnh hưởng
tiêu cực đến sự phát triển kinh tế nói riêng và sự phát triển của xã hội nói
chung.
Có thể thấy trên thực tế, khơng có đường lối chính trị đúng thì khơng
có một giai cấp thống trị nào có thể giữ vững được sự thống nhất chính trị và
do đó, cũng khong có khả năng lãnh đạo kinh tế. Chính trị đóng vai trị lãnh
đạo, định hướng tạo mơi trường chính trị - xã hội ổn định đáp ứng điều kiện
cần thiết cho sự phát triển kinh tế.
2. Quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong đổi mới ở Việt Nam - liên
hệ thực tiễn
Sau khi đất nước thống nhất, bên cạnh những thành tựu đạt được đất
nước ta phải đứng trước vơ cùng nhiều khó khăn, thách thức và đã mắc phải
nhiều sai lầm lớn trong đường lối phát triển dẫn đến xã hội bị trì trệ đất nước
khơng thể phát triển lên được. Tuy nhiên, tại đại hội Đảng VI (1986) ta đã kịp
thời nhận ra sai lầm, đó là do sự nhận thức khơng đúng đắn của Đảng về mối
quan hệ giữa chính trị và kinh tế, về sự vận động khách quan của các quy luật
kinh tế để rồi đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước.
Xét về tổng thể, công cuộc đổi mới ở nước ta bắt đầu từ đổi mới tư duy
chính trị của Đảng trong nhận thức, quan niệm về chủ nghĩa xã hội, từ đó tìm
kiếm mơ hình phát triển đất nước phù hợp với điều kiện lịch sử nước ta và

điều kiện thời đại mới. Trong q trình đổi mới tồn diện đất nước, Đảng ta
đã nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế,
giữa đổi mới hệ thống kinh tế với đổi mới hệ thống chính trị phù hợp với điều
kiện Việt Nam. Chúng ta cũng xác định đúng đắn cần phải kết hợp chặt chẽ


6
ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm
trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị. Việc xác định đúng đắn mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị chúng ta vừa thúc đẩy được nền kinh tế của
đất nước phát triển theo quy luật khách quan, vừa tạo nên sự năng động tích
cực trong tư duy, tư tưởng góp phần tạo nên những thành tựu to lớn, tồn diện
của đất nước trong 31 năm qua.
Đổi mới chính trị khơng phải là q trình thay đổi chế độ chính trị mà
thực chất được hiểu là đổi mới tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội, đổi mới
cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị để xây dựng chế độ
xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, thực hiện tốt nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình xây
dựng Nhà nước pháp xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế - xã hội dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đổi mới kinh tế ở Việt Nam là quá trình chuyển từ nền kinh tế tập
trung, quan liêu bao cấp, sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo
của Đảng; kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, bảo vệ môi
trường sinh thái và từng bước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong thực hiện đổi mới đất nước, Đảng chủ trương phải “đổi mới toàn
diện, đồng bộ với bước đi thích hợp”. Đổi mới đồng bộ từ kinh tế, chính trị
đến tư tưởng và văn hóa, song trọng tâm là đổi mới kinh tế.
Quá trình đổi mới trong 31 năm qua đã đạt được nhiều thành tựu quan

trọng. Tuy nhiên, Đảng ta đã chỉ rõ: nền kinh tế của đất nước phát triển cịn
chưa vững chắc, hệ thống chính trị cịn nhiều bất cập, đổi mới chính trị và hệ
thống chính trị chưa theo kịp địi hỏi phát triển xã hội và đổi mới kinh tế. Việc
giải quyết vấn đề kinh tế là trọng tâm, là tiên phong và đồng thời việc giải


7
quyết các vấn đề chính trị là khơng thể thốt ly khỏi sự tăng trưởng kinh tế,
không thể vượt ra ngồi khả năng mà kinh tế cho phép nhưng khơng phải cứ
có tăng trưởng kinh tế là tự khắc giải quyết được mọi vấn đề của xã hội. Cần
phải nhanh chóng đồng thời từng bước đổi mới chính trị, khơng thể ngồi chờ
cho đến khi kinh tế phát triển rồi mới coi trọng chính trị và mới bắt đầu giải
quyết các vấn đề chính trị.
Việc coi nhẹ các chính sách chính trị hay chậm đổi mới chính trị khi mà
điều kiện xã hội, nhất là chính sách kinh tế đã thay đổi, thì chắc chắn sẽ dẫn
đến sự bất cơng, sự phân hóa xã hội quá mức và sẽ lầm vào tình trạng rối
loạn, cản trở việc đổi mới kinh tế và các lĩnh vực khác. Tuy nhiên nếu quá vội
vàng đẩy nhanh đổi mới chính trị khi chưa chuẩn bị đầy đủ các tiền đề cần
thiết sẽ dẫn đến sai lầm và phải trả giá rất đắt làm mất ổn định chính trị, thậm
chí là khơng thể cứu vãn được. Đổi mới trên lĩnh vực chính trị trước hết là tư
duy chính trị trên lĩnh vực kinh tế. Đổi mới tư duy kinh tế của thời kỳ phát
triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu từ yêu cầu phát
triển của thực tiễn nhưng lại mang tầm chỉ đạo chiến lược đối với thực tiễn
đổi mới kinh tế. Nếu khơng có được sự đổi mới về tư duy kinh tế này bắt đầu
từ Đại hội Đảng VI (1986) thì đất nước ta khơng thể vượt qua được những
hạn chế trong nhận thức và quan niệm cũ về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá
độ, không thể chủ động sáng tạo trong việc thực hiện những đổi mới khác và
sẽ càng dẫn đến sự khủng hoảng về kinh tế, từ đó dẫn tiếp đến sự khủng
hoảng về chính trị.
Có thể thấy đặc điểm nổi bật của công cuộc đổi mới ở Việt Nam (từ

năm 1986 cho đến thời điểm hiện tại) là luôn lấy sự ổn định chính trị - xã hội
là tiền đề, là điều kiện tiên quyết. Nhờ có ổn định chính trị - xã hội mà kinh tế
được phát triển thuận lợi. Việc ổn định chính trị - xã hội nâng tầm của Việt
Nam trên con đường ngoại thương với quốc tế.


8
Các quan hệ đối ngoại nói chung và kinh tế đối ngoại nói riêng vì thế
ngày càng có thêm điều kiện để phát triển mạnh cả về chiều rộng lẫn chiều
sâu. Trong đó có những sự kiện nổi bật nhất như: tổ chức thành công hội nghị
APEC, gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO… Từ những sự kiện đó,
kinh tế đất nước mới có cơ hội để phát triển, để hòa nhập theo xu hướng phát
triển của nền kinh tế thế giới. Bên cạnh đó có thể thấy rõ trên thực tế các nhà
đầu tư nước ngoài sẽ không thể đầu tư vào Việt nam nếu Việt Nam khơng có
một sự ổn định tương đối về mặt chính trị.
Đến lượt mình, thành cơng của q trình đổi mới kinh tế là nền tảng
vững chắc để góp phần nâng cao trình độ và chất lượng cuộc sống của các
tầng lớp dân cư trong xã hội, đảm bảo sự ổn định về mặt chính trị. Quan trọng
hơn cả chính trị có thể đưa ra những quyết định ảnh hưởng trực tiếp đến mọi
người, con người là nhân tố cấu thành nên xã hội, vì vậy vần thật thận trọng,
cân nhắc kỹ lưỡng. Sự sai lệch về mặt chính trị sẽ khiến cho một nền kinh tế xã hội có thể bị sụp đổ bất cứ lúc nào.
Vai trò của đổi mới chính trị đối với đổi mới đổi mới kinh tế còn thể
hiện ở việc giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trong q trình đổi mới hệ
thống chính trị và đổi mới kinh tế - một nhân tố quyết định để giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa của đổi mới kinh tế; nhờ nâng cao hiệu lực và hiệu
quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trị làm chủ của nhân dân trong q
trình đổi mới kinh tế mà những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường được hạn
chế tới mức tối đa, làm cho nền kinh tế đó phát triển thực sự vì lợi ích của
nhân dân.



9

III. KẾT LUẬN
Giữa kinh tế và chính trị có mối quan hệ chặt chẽ và tác động biện
chứng với nhau trong đó kinh tế là gốc, chính trị là sự biểu hiện tập trung của
kinh tế. Chính trị được sinh ra từ xã hội bắt đầu có mâu thuẫn về kinh tế, phụ
thuộc vào kinh tế nhưng chính trị cũng có những tác động tương đối đối với
sự phát triển kinh tế. Nếu khơng có một chính sách chính trị đúng đắn thì sẽ
kìm hãm sự phát triển của kinh tế, ngược lại chính sách chính trị phù hợp sẽ
thúc đẩy kinh tế phát triển.
Những thành tựu tăng trưởng và phát triển bền vững trong lĩnh vực
kinh tế đã là tiền đề nền tảng vật chất đưa lại những thành tựu phát triển bền
vững khác trong lĩnh vực chính trị xã hội và ngược lại do chính trị xã hội ổn
định và phát triển đã thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và phát triển hơn.
Đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, vai trị của chính trị là nền
tảng mấu chốt cho sự phát triển kinh tế. Từ sự đổi mới tư duy chính trị về lĩnh
vực kinh tế, chấp nhận có tư duy hợp hữu giữa q trình đi lên CNXH với
tính tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thì xã
hội đã khơng thể phát triển như ngày nay, thậm chí có thể bị xóa bỏ.
Chính trị của Việt Nam hiện nay là mơi trường chính trị tương đối ổn
định, đó là cơ sở để các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam và đồng
thời tầng lớp dân cư trong xã hội yên tâm làm việc, học hành nâng cao trình
độ dân trí, nâng cao nhận thức góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.


10

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Giáo trình cao cấp lý luận chính trị, Tập 1, Triết học Mác-Lênin,
Nxb Lý luận chính trị, H.2017.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2001, tr.44-59; 83-46; 188-221.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2006, tr.25-31; 125-229.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, tr.84-90;144-181; 191-264.
5. Giáo trình chủ nghĩa duy vật lịch sử (hệ cao cấp), Nxb. Lý luận
chính trị, H.2006, tr.7-24.



×