Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

TIỂU LUẬN: Tăng trưởng kinh tế và công bằng Xã hội những khía cạnh lý thuyết pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (510.8 KB, 27 trang )



1












TIỂU LUẬN



Tăng trưởng kinh tế và công bằng Xã hội
những khía cạnh lý thuyết

























2









Lời Mở đầu

Loài người đang háo hức đón chờ một thiên niên kỷ mới với cuộc sống phồn vinh,
hạnh phúc. Làn sóng toàn cầu hoá đang lan nhanh, thôi thúc mọi quốc gia dân tộc vào
một cuộc đua tranh quyết liệt vì sự phát triển. Nhưng dường như không phải dân tộc nào
và những công dân của nó cũng được chuẩn bị đầy đủ để tham gia cuộc đua. Một số ít

quốc gia dân tộc sẽ vươn lên nhanh chóng và một số nhóm người sẽ trở nên giàu có, để
lại các dân tộc và những nhóm người còn phải sống trong nghèo khổ.
Theo báo cáo của Liên hợp quốc năm 1996, trong hơn ba thập kỷ qua, mặc dù nền
kinh tế thế giới có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng: thu nhập quốc dân bình quân
đầu người tăng lên 3 lần, GDP của thế giới tăng gần 6 lần, từ 4.000 tỷ USD năm 1960 lên
23.000 tỷ USD năm 1994, nhưng hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo trên thế
giới đng ngày càng sâu thêm; thu nhập của 358 nhà tỷ phú trên hành tinh lớn hơn các
khoản thu nhập tổng cộng của gần 2,3 tỷ người nghèo nhất, chiếm 45% dân số toàn thế
giới; chênh lệch về thu nhập giữa các nước côn nghiệp với các nước đang phát triển đã
tăng 3 lần.
Trong hơn 30 năm qua, thu nhập của nhóm 20% người nghèo nhất hành tinh đã giảm
xuống còn 1,4% thu nhập của thế giới. Trong khi đó phần thu nhập của nhóm 20% người
giàu nhất đã tăng lên đến 85%. Điều đáng lưu ý là từ năm 1965 đến 1980 có 200 triệu
người có thu nhập giảm dần và từ năm 1980 đến 1993 có trên 1 tỷ người rơi vào tình
trạng trên. ở Mỹ, số của cải do 1% những người giàu nhất nắm giữ đã tăng từ 20% lên
30% của cải quốc gia trong thời kỳ 1975-1990. ở các nước đang phát triển như
Goatêmala, Panama hoặc Braxin, thu nhập của những người giàu gấp 30 lần thu nhập của
những người nghèo.
Một điều hiển nhiên nữa là, không có tăng trưởng kinh tế thì không giải quyết được
nghèo đói và bất công. Nhưng phải chăng đói nghèo và bất công là tất yếu trên con
đường phát triển, là cái giá phải trả cho tăng trưởng kinh tế. Mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội luôn luôn là chủ đề thu hút sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu là hoạch định chính sách ở mọi quốc gia.
Tuy nhiên, vì sự hạn chế về hiểu biết và kiến thức nên tiểu luận của em không tránh
khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự giúp đỡ và góp ý của thầy (cô) để em có thể
hoàn thành tốt công việc nghiên cứu của mình.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Vũ Ngọc Pha – giáo viên giảng dạy bộ môn Triết
học Mác - Lênin đã giúp đỡ, giảng giải rất nhiều để em có thể hoàn thành bài tiểu luận
này





3










Chương I
Tăng trưởng kinh tế và công bằng Xã hội
những khía cạnh lý thuyết

Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là mục tiêu và ước vọng của tất cả các
dân tộc và của mọi thời đại. Tuy nhiên, việc đạt được mục tiêu kép này không dễ dàng,
và trong thực tiễn đã có nhiều bằng chứng về sự đối lập giữa tăng trưởng và công bằng.
Các chính sách dựa trên mục tiêu công bằng có thể dẫn đến triệt tiêu các động lực tăng
trưởng kinh tế. Ngược lại, một chính sách chỉ nhằm vào tăng trưởng có thể làm cho bất
bình đẳng tăng lên. Vậy thế nào là mối quan hệ hợp lý giữa tăng trưởng và công bằng?
Chương này bàn về những quan điểm lý thuyết chủ yếu về chủ đề này.
I. Tăng trưởng và công bằng: Khái niệm, thước đo
Trong các tài liệu kinh tế hiện nay, không ít các chương trình nghiên cứu về chủ
đề này. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh té và công bằng xã hội được lý giải hoặc là
dựa trên sự đối lập giữa hai phạm trù này, hoặc dựa trên sự thống nhất và tương hỗ căn
bản giữa chúng. Nhìn chung các nhà nghiên cứu đều thiên về tìm đến sự thống nhất giữa

tăng trưởng và công bằng. Tuy nhiên, trong khi luận giải, có không ít sự nhầm lẫn giữa
các phạm trù và chưa vạch ra được cơ chế đảm bảo sự thống nhất giữa tăng trưởng và
công bằng. Sau đây, sẽ là kiến giải thế nào là sự thống nhất giữa tăng trưởng và công
bằng xã hội, cơ chế nào đảm bảo cho những tương tác giữa tăng trưởng và công bằng.
Tăng trưởng kinh tế được biểu hiện một cách phổ quát theo quan điểm kinh tế học
là sự tăng sản lượng thực tế của một nền kinh tế theo thời gian. Tăng trưởng kinh tế theo
nghĩa này thường được đo lường bằng sự gia tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) theo
thời gian hoặc tăng thu nhập theo đầu người. Nói cách khác tăng trưởng kinh tế chỉ thể
hiện mặt lượng của nền kinh tế qua thời gian.
Tuy nhiên, khi xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội,
khái niệm tăng trưởng kinh tế được hiểu theo nghĩa rộng hơn. Walter Rostow đã dùng
khái niệm tăng trưởng để đưa ra một lý thuyết tổng quát về phát triển. Ông chia quá trình
phát triển của xã hội loài người thành năm giai đoạn tăng trưởng từ xã hội truyền thống
đến xã hội hiện đại. Quan niệm này rõ ràng nhấn mạnh đến nội dung kinh tế của quá trình
phát triển, hay nói cách khác, tăng trưởng kinh tế là điều kiện tiên quyết cho phát triển.
Và cũng chính vì vậy, nó bộc lộ những khuyết điểm và làm nảy sinh nhiều câu hỏi. Thứ
nhất, liệu tăng trưởng kinh tế có đưa đến phát triển hay không, nói cách khác, tăng trưởng
kinh tế có bảo đảm giải quyết tất cả các vấn đề xã hội có liên quan đến sự phát triển hay
không. Thứ hai, liệu tăng trưởng kinh tế có thể diễn ra liên tục trong những điều kiện bất
bình đẳng xã hội hay không. Những câu hỏi này đã được các nhà nghiên cứu về phát triển


4
trả lời và quan điểm khá phổ biến hiện nay là không thể đồng nhất tăng trưởng kinh tế với
phát triển. Một nội dung quan trọng của phát triển là công bằng xã hội. Vậy khái niệm
công bằng xã hội được hiểu như thế nào.
Khác với khái niệm tăng trưởng kinh tế trong kinh tế học là cái có thể xác định
bằng những con số, khái niệm công bằng xã hội mang tính chuẩn tắc, nghĩa là tuỳ thuộc
nhiều vào quan điểm của con người. Chính những quan niệm khác nhau về bình đẳng đã
dẫn đến những cách hiểu khác nhau về quan hệ giữa tăng trưởng và công bằng. Trong

kinh tế học, người ta sử dụng hai khái niệm khác nhau về bình đẳng hoặc công bằng.
Khái niệm thứ nhất là công bằng theo chiều ngang, nghĩa là đối xử như nhau với những
người có đóng góp như nhau. Khái niệm thứ hai là công bằng theo chiều dọc, nghĩa là đối
xử khác nhau với những người có những khác biệt bẩm sinh hoặc có các điều kiện xã hội
khác nhau. Nếu như công bằng theo chiều ngang được thực hiện bởi cơ chế thị trường thì
công bằng theo chiều dọc cần có sự điều tiết của chính phủ. Việc phân định và kết hợp
công bằng theo chiều dọc và theo chiều ngang sẽ đảm bảo công bằng xã hội thực sự.
Như vậy, công bằng xã hội là một khái niệm rất rộng, hoàn chỉnh gồm cả các yếu
tố kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá. Có thể có bình đẳng về phương diện kinh tế
nhưng chưa chắc có bình đẳng về phương diện khác. Trong nền kinh tế thị trường, thu
nhập được phân bổ theo mức độ tham gia của các yếu tố (vốn, kĩ thuật, lao động, tài
nguyên) vào quá trình sản xuất và do đó có thể đảm bảo sự bình đẳng về phương diện
kinh tế. Tuy nhiên, các tầng lớp xã hội khác nhau có thể không có được những bình đẳng
trong các hoạt động chính trị, xã hội.
Chính nội hàm rộng của khái niệm bình đẳng xã hội đã làm cho vấn đề của khái
niệm bình đẳng trở nên phức tạp. Cho đến nay, người ta vẫn chủ yếu sử dụng các công cụ
đo lường mức độ bình đẳng trong phân phối thu nhập để biểu đạt bình đẳng xã hội nói
chung. Thu nhập được phân phối theo các yếu tố của quá trình sản xuất (được gọi là phân
phối theo chức năng), hoặc theo các nhóm dân cư ( được gọi là phân phối theo mức độ).
Phân phối theo mức độ thường được sử dụng nhiều hơn.
Phương pháp phổ biến nhất để đo mức độ bình đẳng trong phân phối là tính tỷ lệ
thu nhập nhận được bởi nhóm 20% dân số lớp dưới cùng so với thu nhập mà nhóm 20%
dân số lớp trên cùng nhận được. Nếu tỷ lệ này càng nhỏ, mức độ bất bình đẳng càng lớn,
và ngược lại. Người ta còn có thể đo mức độ bất bình đẳng bằng cách so sánh thu nhập
của nhóm 10% hoặc nhóm 5% người nghèo nhất với thu nhập của nhóm 10% hoặc nhóm
5% người giàu nhất. Phương pháp này chỉ cho thấy sự cách biệt về thu nhập giữa số ít
thuộc tầng lớp giàu có nhất và số ít thuộc tầng lớp nghèo nhất mà không thể hiện được
trạng thái bất bình đẳng xã hội nói chung. Chẳng hạn ,ở một xã hội, có thể có sự chênh
lệch thu nhập rất lớn giữa một số nhỏ thuộc tầng lớp giàu có nhất và một số nhỏ thuộc
tầng lớp đáy, nhưng có thể đại đa số dân cư nằm ở tầng trung lưu, nghĩa là có mức thu

nhập không chênh lệch nhiều so với tầng lớp giàu có.
Một trong những công cụ để biểu đạt mức độ bất bình đẳng được sử dụng trong
kinh tế học là đường cong Lorenz mang tên nhà kinh tế học nêu lên học thuyết này.
Đường cong Lorenz được biểu thị trong một hình vuông mà cạnh bên là phần
trăm số thu nhập còn cạnh đáy biểu thị số phần trăm các nhóm dân sắp xếp theo thứ tự
mức thu nhập tăng dần. Đường cong Lorenz chỉ ra tỷ lệ phần trăm của tổng thu nhập
cộng dồn theo tỷ lệ phần trăm cộng dồn của người nhận.




5









Phần trăm dân số Phần trăm dân số
Một sự phân phối tương đối bình đẳng Một sự phân phối tương đối bất bình đẳng
Đường cong Lorenz càng lớn, mức độ bất bình đẳng càng cao
Đường chéo của hình vuông biểu thị mức độ bình đẳng hoàn toàn trong phân phối:
cứ bao nhiêu phần trăm số người nhận thì được từng ấy phần trăm trong tổng thu nhập.
Chẳng hạn, 10% dân cư được nhận đúng 10% tổng thu nhập. Đường cong Lorenz bắt đầu
từ điểm gốc của đường chéo này và kết thúc ở đầu phía trên của đường chéo: 0% người
nhận phải có được 0% thu nhập và 100% người nhận phải có 100% thu nhập. Trong
trường hợp chỉ có 1 người nhận toàn bộ thu nhập, đường cong Lorenz sẽ chạy theo cạnh

đáy và cạnh bên phải. Đó là trường hợp hoàn toàn bất bình đẳng. Nhìn chung, đường
cong Lorenz nằm ở khoảng giữa đường chéo (hoàn toàn bình đẳng) và đường hoàn toàn
bất bình đẳng. Mức độ cách xa đường chéo thể hiện mức độ bất bình đẳng.
Hệ số Gini (Gini Coeficient) hay tỷ lệ tập trung Gini mang tên nhà thống kê học
người Italia, là thước đo sử dụng phổ biến để xác định mức độ bất bình đẳng trong phân
phối thu nhập. Hệ số này được xác định bằng cách lấy diện tích hình a được xác định bởi
đường cong Lorenz và đường bình đẳng chia cho diện tích tam giác BCA. Điều này có
nghiã là khoảng cách giữa đường cong Lorenz và đường bình đẳng càng lớn thì hệ số
Gini càng cao. Hệ số này trải rộng từ 0 (hoàn toàn bình đẳng) đến 1 (hoàn toàn bất bình
đẳng). Tuy vậy, việc sử dụng phương pháp này cũng có nhiều hạn chế, bởi vì diện tích
hình a có thể như nhau (nghĩa là nhận được hệ số Gini giống nhau) nhưng được phân bổ
các nhóm dân cư có mức thu nhập khác nhau là khác nhau, do đó hình dạng của đường
cong Lorenz khác nhau.
Như vậy, việc sử dụng đường cong Lorenz hoặc hệ số Gini chỉ cho phép hình
dung một cách khái quát mức độ bất bình đẳng, còn phương pháp xem xét thu nhập của
nhóm nghèo nhất và nhóm giàu nhất chỉ cho biết chênh lệch giữa hai cực giàu nghèo của
xã hội. Mặc dù trong nhiều trường hợp các kết quả không trùng khớp với nhau, song việc
tính toán dựa trên các phương pháp này đều cho thấy xu hướng chung của mức độ bất
bình đẳng trong phân phối thu nhập.
Các phương pháp đo mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập như trên
mặc dù rất hữu dụng nhưng chưa đủ để xác định công bằng xã hội ở một nước. Có thể có
sự bất bình đẳng nhất định trong phân phối thu nhập song chưa chắc đã có công bằng xã
hội xét về nhiều khía cạnh khác. Chẳng hạn, khi người ta có mức thu nhập ngang nhau
nhưng sống trong những điều kiện khác nhau hoặc được cung cấp các dịch vụ khác nhau
thì mức độ bất bình đẳng thực sự sẽ khác nhau. Vì vậy, các nhà nghiên cứu về phát triển
đã đưa ra hàng loạt cách thức khác để xác định mức độ công bằng xã hội.
Mức độ nghèo khổ. Để xác định được mức độ nghèo khổ, người ta phải đưa ra
đường giới hạn nghèo khổ. Chẳng hạn, Liên hợp quốc đã xác định người có mức sống
dưới 1 USD/ngày ở các nước đang phát triển thì được coi là nghèo khổ. Còn đối với các



6
nước phát triển thì đường nghèo khổ được xác định là14 USD/người/ngày tính theo sức
mua tương đương. Tuy vậy, đường danh giới nghèo khổ cũng chỉ là thước đo số lượng về
mức độ bất bình đẳng. Cần bổ sung các tiêu chí chất lượng như mức độ cung ứng các
dịch vụ, môi trường sống
Mức độ thoả mãn các nhu cầu cơ bản của con người được coi là một chỉ số đánh
giá trình độ phát triển của một nước ở một thời kỳ nhất định. Những nhu cầu cơ bản này
bao gồm mức tối thiểu về dinh dưỡng, sức khoẻ, mặc, ở và các khả năng đảm bảo sự phát
triển của cá nhân. Mặc dù có thể khác nhau về nhu cầu cơ bản, nhưng nhìn chung có thể
đo lường các nhu cầu này. Một xã hội không được coi là công bằng khi đại đa số dân cư
không được thoả mãn các nhu cầu cơ bản này bất luận mức thu nhập quốc dân bình quân
đầu người có thể cao.
Chỉ số phát triển xã hội tổng hợp do Viện Nghiên cứu phát triển xã hội của Liên
hợp quốc nêu ra bao gồm một danh sách 73 chỉ tiêu kinh tế, chính trị, xã hội. Trên thực
tế, rất ít nước có thể thoả mãn các chỉ tiêu này. Vì vậy, đối với các nước đang phát triển,
mặc dù có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhưng không phải bao giờ cũng đạt được chỉ số
phát triển xã hội cao. Việc đưa vào chỉ số phát triển xã hội tổng hợp quá nhiều chỉ số đã
gây khó khăn cho việc tính toán. Vì vậy, người ta nêu ra một chỉ số khác được gọi là “chỉ
số vật chất của cuộc sống” (The Physical Quality of Life Index – PQLI). Chỉ số được tính
toán dựa trên ba tiêu chí cơ bản là tuổi thọ dự báo, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh, tỷ lệ xoá
nạn mù chữ. Các tiêu chí này hiển nhiên là quá ít và không đề cập trực tiếp đến thu nhập.
Tuy vậy, kết quả nghiên cứu cho thấy, các nước có mức thu nhập bình quân đầu người
cao không phải bao giờ cũng đạt được PQLI cao. Nói cách khác, chỉ số này phản ánh
những khía cạnh cơ bản của sự phát triển xã hội và gián tiếp nói lên mức độ công bằng xã
hội của một nước.
Một chỉ số khác tương tự được sử dụng nhiều trong thời gian gần đây là chỉ số
phát triển con người (HDI) do chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) đưa ra
và sử dụng lần đầu tiên vào năm 1990. Chỉ số này trải từ 0 (mức độ phát triển con người
thấp nhất) đến 1 (mức độ phát triển con người cao nhất) và được tính toán dựa trên ba chỉ

số về phát triển là tuổi thọ, kiến thức (đo bằng tuổi bình quân của người lớn biết chữ và
số năm đi học) và thu nhập (được đo bằng thu nhập bình quân đầu người thực tế đã được
điều chỉnh). Như vậy, so với PQLI, mặc dù HDI cũng chỉ dựa trên ba tiêu chí nhưng chỉ
tiêu này có tính bao quát hơn do nó thể hiện được ba khía cạnh quan trọng nhất của con
người về tuổi tác, trí tuệ và mức sống. Theo chỉ số này năm 1990, Ghinê là một nước có
trình độ phát triển thấp nhất (0.050) và Canađa là nước có trình độ phát triển cao nhất
(0.982), Việt Nam thuộc nhóm phát triển trung bình (0.557) vào thời điểm năm 1994.
II. Các quan điểm về quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và Công bằng xã hội
Việc xác định rõ khái niệm và các tiêu chí đo lường tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội mặc dù phức tạp nhưng vẫn chưa giải quyết được vấn đề cơ bản là giữa tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội có quan hệ với nhau như thế nào. Phải chăng đó là hai
quá trình đối nghịch? Nếu vậy, tăng trưởng không thể đưa đến phát triển xã hội. Nếu
không đối nghịch thì tự thân tăng trưởng kinh tế có tạo ra công bằng xã hội hay không và
nó có thể xảy ra đồng thời với công bằng xã hội hay không. Công bằng xã hội chỉ là hệ
quả của tăng trưởng kinh tế hay còn là điều kiện tiền đề của nó. Đó là những vấn đề đã
được thảo luận rộng rãi trong kinh tế học phát triển và kinh tế học phúc lợi cũng như
trong các ngành khoa học xã hội nhân văn khác trong nhiều thập kỷ. Những quan điểm về
vấn đề này có thể khái quát thành một số trường phái chính:


7
1. Tăng trưởng kinh tế tất yếu dẫn đến bất bình đẳng. Những người theo quan
điểm này cho rằng tăng trưởng kinh tế được đảm bảo bằng bất bình đẳng trong phân phối
và làm gia tăng sự bất bình đẳng này. Lập luận của họ là: chỉ tầng lớp có thu nhập cao
mới có khả năng tích luỹ và do đó là nguồn gốc đảm bảo đầu tư chủ yếu cho tăng trưởng
nên bất kỳ sự phân phối nào làm giảm mức độ tập trung thu nhập này đều ảnh hưởng xấu
đến tăng trưởng kinh tế. Lập luận này không phải không có cơ sở thực tiễn lịch sử của sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản. Nhờ quá trình tích tụ và tập trung tư bản kèm theo sự bần
cùng hoá một tầng lớp đông đảo trong xã hội mà cuộc cách mạng công nghiệp có được
lực đẩy phi thường. Nhà kinh tế học cổ điển Anh, David Ricardo, đã lập luận theo hướng

đó. Ông cho rằng, tăng trưởng kinh tế được đảm bảo bởi mức độ tiết kiệm cao của tầng
lớp tư sản, và do đó, ông chống lại việc phân phối lại thu nhập bất lợi cho giai cấp tư sản.
C.Mác cũng giải thích sự phát triển của chủ nghĩa tư bản bằng lập luận tương tự, mặc dù
ông phản đối trật tự hiện có của chủ nghĩa tư bản. Ông chỉ ra quá trình phát triển của chủ
nghĩa tư bản đã dẫn đến sự bất bình đẳng lớn đến mức nó trở thành lực cản đối với sự
phát triển tiếp theo.
Tháng 1-1993, khi Bill Clinton đắc cử tổng thống Mỹ và bước vào Nhà trắng, thì
trong ê-kíp của ông có một số nhân vật quan trọng là môn đồ của học thuyết Keynes, và
chính những người này đã đề xuất các chính sách nhằm lái Hoa Kỳ ra khỏi quỹ đạo của
chủ nghĩa tự do mới mà các chính quyền của R. Reagan và G. Bush đã thi hành từ 1981
đến1992. Tuy nhiên, trước sức ép của các thế lực tài chính, chính quyền Clinton đã phải
chuyển sang lập trường “trung tâm” , nghĩa là một mặt tiếp tục thực hiện tự do hoá về
kinh tế theo quan điểm của chủ nghĩa tự do mới, mặt khác thi hành một số chính sách xã
hội đã hứa hẹn trong cương lĩnh tranh cử năm 1992 (như tạo thêm việc làm, cải tiến chế
độ tiền lương và trợ cấp xã hội, chế độ bảo hiểm y tế và giáo dục, v.v.) nhằm tranh thủ lá
phiếu của đa số cử chi thuộc tầng lớp trung lưu và tầng lớp nghèo trong cuộc bầu cử lần
sau.
Sang nhiệm kỳ thứ hai, chính quyền Clinton lại đưa ra sáng kiến về việc xây dựng
“Nền kinh tế mới”, dựa trên những thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại, trước
hết là công nghệ thông tin, đồng thời tiếp tục chi từ ngân sách của nhà nước cho các
chương trình phúc lợi xã hội.
Nhờ áp dụng những chính sách nói trên, nền kinh tế Mỹ đã duy trì được 100 tháng
tăng trưởng là thời kỳ tăng trưởng dài nhất từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai; tỉ lệ thất
nghiệp giảm từ 7,1% năm 1992 xuống 4% năm 1999.
Tương tự lập trường “trung tâm” của Clinton, thủ tướng Anh Tony Blair cũng bắt đầu
ngả sang lý thuyết về “Con đường thứ ba” (The third way) do một nhà khoa học Anh là
Anthony Giddens nêu ra trong cuốn sách cùng tên xuất bản năm 1998. Lý thuyết về “Con
đường thứ ba” có tham vọng trở thành triết lý mới về mối quan hệ giữa cái kinh tế và cái
xã hội trong chủ nghĩa tư bản theo hướng kết hợp những mặt mạnh và triệt tiêu những
mặt yếu của cả mô hình Keynes lẫn mô hình chủ nghĩa tự do mới

Những lập luận đầy đủ nhất về tăng trưởng đối lập với công bằng được trình bày
trong lý thuyết của Athur Lewis bàn về các nước đang phát triển. Dựa trên giả thuyết của
Ricardo và C.Mác cho rằng, lao động có thể được sử dụng với số lượng không hạn chế ở
mức tiền lương thực tế cố định chứ không phải là một nguồn lực khan hiếm, Lewis đã
xây dựng mô hình phát triển kinh tế với nguồn lao động không có giới hạn hay mô hình
lao động dư thừa. Trong mô hình này, ông cho rằng bất bình đẳng trong phân phối thu
nhập sẽ tăng trong thời kỳ đầu và chỉ sau khi đã đạt đến một sự phát triển cao mới giảm
Comment [L1]:


8
đi. Theo Lewis, bất bình đẳng không chỉ là kết quả tất yếu của tăng trưởng kinh tế mà
đồng thời còn là nguyên nhân của tăng trưởng. Bởi lẽ phân phối có lợi cho những người
có thu nhập cao sẽ tạo mức tiết kiệm cao. Ông lập luận “vấn đề trung tâm trong lý thuyết
phát triển kinh tế đó là hiểu được quá trình mà trong đó một cộng đồng xã hội trước đây
tiết kiệm và đầu tư khoảng 4 – 5% thu nhập quốc dân chuyển thành một nền kinh tế trong
đó tiết kiệm tình nguyện tăng lên 12 đến 15% thu nhập quốc dân hoặc lớn hơn”. Nói cách
khác, sự phát triển phụ thuộc vào 10% dân số đang thu được 40% hoặc lớn kơn thu nhập
quốc dân. Tuy nhiên, Lewis không coi bất bình đẳng trong thu nhập là vĩnh viễn, mà chỉ
trong giai đoạn đầu của sự phát triển, khi lao động dư thừa chưa được chuyển hết sang
khu vực hiện đại. Mô hình Lewis mở rộng của Fei-Ranis đã giải thích điểm này: khi toàn
bộ lao động dư thừa cuối cùng bị thu hút vào các công việc của các khu vực hiện đại, trở
thành nguồn lực khan hiếm của sản xuất và nhu cầu lao động ngày càng tăng đòi hỏi tăng
lương thực tế ngoài mức sử dụng cận biên. Chính việc tăng lương này sẽ dẫn tới giảm bất
bình đẳng và nghèo khổ.
Mô hình Lewis cho rằng bất bình đẳng góp phần vào phát triển kinh tế và các cố
gắng nhằm phân phối lại “một cách hấp tấp và vội vã” sẽ có nguy cơ bóp chết tăng
trưởng kinh tế. Sự tăng thêm nhất thời của bất bình đẳng là cái giá phải trả cho thành
công và nếu tất cả mọi người biết chờ đợi phát triển đi theo tiến trình của nó, họ sẽ được
lợi đúng lúc, Mô hình Lewis đã được thừa nhận khá rộng rãi ở các nước đang phát triển

trong nhiều thập kỷ. Tuy vậy, nó cũng bộc lộ những khuyết điểm và bị phê phán từ nhiều
phía. Thứ nhất, nó dựa trên giả thuyết của mô hình tăng trưởng kinh tế cổ điển theo đó
tăng trưởng là hàm số của hai yếu tố vốn và lao động. Ngày nay, người ta thấy rằng mô
hình này chỉ giải thích được 10% mức tăng trưởng kinh tế. Thứ hai, ngay cả khi tiết kiệm
có vai trò quan trọng như Lewis giả định thì cũng chưa có gì đảm bảo cho mức tiết kiệm
đó được đầu tư (có thể đầu tư ra nước ngoài hoặc tăng mức tiêu dùng). Thứ ba, khu vực
hiện đại có khả năng thu hút hết lao động dư thừa hay không và thời gian đó kéo dài bao
lâu, liệu nó có đi liền với tăng trưởng không.
Mô hình Lewis thực ra cũng chứa đựng những yếu tố của mô hình dạng  của
Kuznets – một mô hình được xây dựng trên sự khảo nghiệm thực tế của một số nước do
nhà kinh tế học Mỹ Kuznets tiến hành vào năm 1955.
2. Ưu tiên công bằng hơn tăng trưởng. Một xã hội công bằng luôn luôn là ước muốn
của con người ở mọi thời đại. Vì vậy, thật dễ hiểu khi có không ít tư tưởng và học thuyết
nhấn mạnh đến công bằng xã hội hơn là tăng trưởng kinh tế. Một xã hội công bằng là cái
cần đạt tới, vì vậy đạt tới nó càng nhanh càng chứng tỏ xã hội phát triển nhanh. Quan
niệm này chi phối tất cả các học thuyết chú trọng công bằng mặc dù mức độ và hình thức
thể hiện không giống nhau. Có hai mô hình lý thuyết và chiến lược phát triển nhấn mạnh
đến công bằng hơn tăng trưởng.
Phân phối trước, tăng trưởng sau. Đây là quan điểm chủ đạo của đường lối phát triển
kinh tế ở nhiều nước đi theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa trong những thập kỷ sau
Chiến tranh thế giới thứ hai. Quan điểm này dựa trên lập luận là việc tập trung tài sản vào
một nhóm người là trở ngại cho quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Bất bình không
chỉ được coi là sự tha hoá cuả phát triển mà còn cản trở sự phát triển. Vì vậy, việc phân
phối lại là điều kiện tiên quyết cho tăng trưởng. Theo quan điểm này, các hình thức cách
mạng như tước đoạt người giàu, lấy của người giàu chia cho dân nghèo, tịch thu ruộng
đất của địa chủ, tiêu diệt các tầng lớp tư sản và kinh doanh giàu có đã được thực hiện.
Trong giai đoạn tiếp theo, vấn đề phân phối là nội dung quan trọng nhất của quan hệ sản


9

xuất, có tác dụng mở đường và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Cơ chế phân phối
đã được thiết lập sao cho đảm bảo thu nhập phụ thuộc vào đóng góp lao động. Tuy nhiên,
nền tảng cơ bản của các quan hệ phân phối vẫn là chủ nghĩa bình quân, duy trì bình đẳng
theo quan điểm bình quân. Nhà nước phục vụ các chính sách phúc lợi rộng rãi, bất chấp
trình độ phát triển kinh tế đã đạt được.
Mô hình này, như lịch sử đã chứng minh, mặc dù là nguồn cổ vũ tinh thần to lớn đối
với các tầng lớp nhân dân, đặc biệt trong thời kỳ đầu, đã không có cơ sở đứng vững.
Công bằng trong điều kiện như vậy hoặc đã trở thành lực cản tăng trưởng kinh tế hoặc
làm nảy sinh những bất công lớn hơn giữa một bên là những người lao động và một bên
là bộ máy quyền lực. Những nỗ lực sửa đổi mô hình này trên nền tảng nhận thức không
đúng như trên đã không thành công và các nước đi theo nó đã phải chuyển sang kinh tế
thị trường, ở đó, tăng trưởng và bất bình đẳng được xem xét từ những quan điểm tiếp cận
khác.
Lấy con người làm trung tâm. Phát triển lấy con người là trung tâm không phải là
khái niệm mới mẻ. Bản thân mô hình phân phối trước tăng trưởng cũng xuất phát từ ý
tưởng lấy con người làm trung tâm. Tuy nhiên, nội dung thực sự của chiến lược phát triển
lấy con người làm trung tâm như một hệ quan điểm phát triển phân biệt với các mô hình
khác đã được David C.Korten trình bày khá rõ trong cuốn “Bước vào thế kỷ XXI: hành
động tự nguyện và chương trình nghị sự toàn cầu”. Theo David C.Korten, hầu hết các
chiến lược phát triển được thực hiện cho đến nay đều lấy tăng trưởng làm trọng tâm và
ông đã có những phê phán gay gắt các mô hình đó. Ông định nghĩa phát triển lấy con
người làm trung tâm là “một tiến trình qua đó các thành viên của xã hội tăng được những
khả năng của cá nhân và định chế của mình để huy động và quản lý các nguồn lực nhằm
tạo ra những thành quả bền vững và được phân phối công bằng nhằm cải thiện chất
lượng cuộc sống phù hợp với nguyện vọng cuả họ”. Những định hướng giá trị của chiến
lược này là:
- Ưu tiên số một trong việc sử dụng các tài nguyên của trái đất là cung cấp cho mọi
người cơ hội tạo dựng một cuộc sống vững chắc đối với bản thân họ và gia đình họ.
- Các thế hệ hiện nay không có quyền tự cho phép mình tiêu thụ một cách không cần
thiết ảnh hưởng tới khả năng của các thế hệ tương lai.

- Quyền kiểm soát các tư liệu sản xuất phải được chia sẻ rộng rãi trong xã hội.
- Chủ quyền nằm trong dân chúng.
- Các nền kinh tế địa phương phải được đa dạng hoá và tự lực thích đáng trong việc sản
xuất phục nhu cầu cơ bản.
David C.Korten đã nêu ra 15 ưu tiên chính sách và khẳng định quan điểm lấy con
người làm trung tâm ủng hộ tính chất bền vững của cuộc sống con người và môi trường
hơn là tăng sản lượng kinh tế. Đó là cơ sở của chiến lược tăng trưởng theo hướng công
bằng là chiến lược “bắt đầu với công bằng, bằng cách phá vỡ các cơ cấu nhị nguyên và
nhờ đó lấy công bằng làm nền tảng cho sự tăng trưởng tổng thể hay tăng trưởng đơn
thức”. Chiến lược sáu giai đoạn của ông mang nặng dấu ấn của quan điểm chủ đạo trên,
trong đó công nghiệp hoá đô thị và khuyến khích xuất khẩu là những giai đoạn cuối cùng
sau khi thực hiện các cải cách về tư liệu sản xuất, hệ thống chính trị và phát triển nông
thôn.
Mặc dù tỏ ra ủng hộ các mô hình thực tế của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan trong
khi lý giải quan điểm của mình, David C.Korten đã nhấn mạnh đến khía cạnh công bằng.


10
Chiến lược mà ông nêu ra rất hấp dẫn với công chúng nhưng mang nhiều sắc thái kêu gọi
mang tính tư tưởng hơn là tính thực tiễn.
3. Tăng trưởng đi liền với công bằng. Trong những thập niên qua, người ta cũng nhận
thấy những hạn chế của việc chú ý quá mức đến tăng trưởng, hoặc ngược lại, quá chú
trọng đến công bằng. Vậy, làm thế nào để vừa có tăng trưởng mà vẫn giải quyết được
công bằng xã hội. Có hai hướng đi chính:
Một là, giải quyết các nhu cầu cơ bản của con người. Quan điểm này được thịnh
hành đặc biệt trong những năm 70 và được các tổ chức quốc tế đặc biệt quan tâm. Chiến
lược này chú trọng đến việc cung ứng các dịch vụ, coi đó là phương thức tái phân phối
lợi nhuận do tăng trưởng kinh tế mang lại và tạo điều kiện để dân chúng có thể tham gia
bình đẳng vào hệ thống kinh tế.
Lập luận của những người ủng hộ chiến lược này là thị trường không thể phân bổ

thích đáng lợi nhuận do tăng trưởng kinh tế mang lại, đặc biệt là trong giai đoạn đầu. Do
vốn xã hội hạn chế của đa số nhân dân, đặc biệt là trình độ giáo dục và y tế đã làm giảm
tiềm năng sản xuất của họ và do đó giảm khả năng tham gia vào thị trường với tư cách là
người lao động và người tiêu thụ. Để giúp họ bù đắp những khiếm khuyết này, các chính
phủ cần chuyển của cải từ những người đã được hưởng lợi nhờ tăng trưởng sang tài trợ
cho các dịch vụ bù đắp cho người nghèo. Những khoản tài trợ này vừa có tác dụng bù
đắp những nhu cầu cần được thoả mãn của chính họ về ăn, mặc, ở, sinh hoạt vừa chuẩn bị
cho họ có được một chỗ đứng trong lực lượng lao động như giáo dục, chăm sóc sức
khoẻ Để thực hiện một chiến lược như vậy, một mặt phải có được một nguồn tài chính
lớn dành cho các khoản trợ cấp này, và mặc khác, xây dựng một mạng lưới nhằm phân bổ
và thực hiện các dịch vụ cho người nghèo. Một loạt chính sách hỗ trợ cho mục tiêu này
như thực hiên thuế, lãi suất, giá cả ưu đãi.
Mặc dù ý tưởng cuả chiến lược này khá hấp dẫn và hợp lý nhằm đảm bảo giải quyết
công bằng trong điều kiện thúc đẩy tăng trưởng, song nó cũng bị phê phán về một số khía
cạnh. Thứ nhất, để có thể thực hiện trợ cấp như vậy, chính phủ cần phải có một nguồn tài
chính lớn mà trong nhiều trường hợp, đặc biệt ở giai đoạn đầu, lợi ích thu được từ tăng
trưởng còn quá nhỏ. Thứ hai, liệu những trợ cấp như vậy có đủ đảm bảo cho người dân
tham gia rộng rãi vào hệ thống kinh tế hay không, hay họ chỉ có khả tiếp cận đến giới hạn
của nghèo khổ. Nói cách khác, quan điểm hướng vào nhu cầu cơ bản của con người về cơ
bản là chương trình hành động xã hội nhiều hơn là một chiến lược tổng thể đảm bảo một
cơ chế tương hỗ thực sự giữa tăng trưởng và công bằng.
Hai là, tái phân phối cùng với tăng trưởng (Redistribution With Growth), hay được
diễn đạt hơi khác đi như tăng trưởng với phân phối thu nhập được cải thiện, hoặc tăng
trưởng cùng chia sẻ. Quan điểm này xét về mục đích giống như quan điểm trên nhưng
khác về cách thức tiếp cận để đạt được mục tiêu. Đây là ý tưởng của Ngân hàng thế giới
được thể hiện trong công trình nghiên cứu cùng tên do ngân hàng này đỡ đầu thực hiện.
Phân phối lại cùng với tăng trưởng là con đường theo đó lợi ích thu được từ tăng trưởng
kinh tế cần được phân phối lại sao cho cùng với thời gian, phân phối thu nhập dần dần
được cải thiện hoặc không bị xấu đi trong khi quá trình tăng trưởng vẫn tiếp tục. Khác
với quan điểm của những người theo mô hình hướng vào những nhu cầu cơ bản của con

người nhấn mạnh vào việc đảm bảo các dịch vụ công cộng, quan điểm tái phân phối cùng
với tăng trưởng nhấn mạnh việc tăng khả năng sản xuất và sức mua của dân chúng. Các
chính sách của chính phủ cần đảm bảo một sự phát triển sao cho người dân tìm thấy
những cơ hội kiếm tiền tốt hơn đồng thời nhận được những nguồn lợi cần thiết để tạo ra


11
lợi nhuận. Theo một nhóm nghiêm cứu của Ngân hàng thế giới, có bảy công cụ chính
sách có thể được sử dụng là:
- Các biện pháp tạo ra sự biến đổi cả lao động và tư bản, khuyến khích sử dụng lao
động lành nghề.
- “Phân phối lại một cách năng động” tài sản bằng cách định hướng đầu tư vào các lĩnh
vực mà những người nghèo có thể là sở hữu tài sản như đất đai hoặc cửa hiệu nhỏ.
- Mở rộng giáo dục để cải thiện mức độ biết đọc, biết viết, kĩ năng lành nghề, cách tiếp
cận với nền kinh tế hiện đại.
- Chế độ thuế tiến bộ.
- Cung cấp rộng rãi các mặt hàng tiêu dùng như lương thực, thực phẩm thiết yếu cho
người nghèo.
- Can thiệp vào thị trường hàng hoá để giúp đỡ người sản xuất và tiêu thụ nghèo.
- Phát triển công nghiệp nhằm giúp cho những người có thu nhập thấp có được năng
lực sản xuất cao hơn.
Những biện pháp chính sách này là định hướng chung và được chú trọng cụ thể cho
mỗi loại nước. Chẳng hạn, những nước sản xuất công nghiệp là chủ yếu thì phát triển
nông thôn được chú trọng hơn.
Quan điểm tăng trưởng đi liền với công bằng dựa trên một giả thuyết rất quan trọng là
công bằng không đối lập với tăng trưởng, ngược lại là một yếu tố góp phần vào tăng
trưởng kinh tế. Ngay từ năm 1968, Murdal là người đầu tiên đã khẳng định rằng bất bình
đẳng có thể làm hại cho tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng ở mức thấp sẽ kích thích
tăng trưởng kinh tế. Tiếp đó, Ahluwalia (1974) đã khẳng định trong công trình nghiên
cứu thực tế của mình rằng “không có mô hình tiêu biểu cho mối quan hệ giữa những thay

đổi trong phân phối thu nhập và tốc độ tăng trưởng GDP Điều này chỉ ra rằng, có rất ít
cơ sở thực tế vững chắc để chứng minh cho quan điểm tốc độ tăng trưởng cao chắc chắn
sẽ nảy sinh bất bình đẳng lớn hơn”. Hart Mut Elseahans (1989) cũng lập luận khá đầy đủ
về tác động của công bằng đối với tăng trưởng. Nhiều nhà nghiên cứu khác như Alesina
và Perrotti (1994), Alesina và Rodrik (1994), Nancey Birdsall, David Ross vàRichard
Sobot (1995) cũng như các chuyên gia ở Ngân hàng thế giới đã tiến hành các công trình
nghiên cứu và đưa ra bằng chứng để chứng minh tại sao bất bình đẳng cao có thể hạn chế
tăng trưởng.

Chương II
Việt Nam với bài toán tăng trưởng kinh tế
và công bằng xã hội

I. Quan điểm về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam
Đề cập đến việc xử lý mối quan hệ giữa hai yếu tố cơ bản đó trong quá trình phát
triển, Đại hội VI của Đảng mới chỉ bước đầu xác định: “ Trình độ phát triển kinh tế là
điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục
đích của hoạt động kinh tế.
Phải đến Đại hội VII của Đảng (6-1991), Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung
ương khoá VI mới chính thức nêu lên các quan điểm có ý nghĩa triết lý chỉ đạo việc kết
hợp hài hoà giữa cái kinh tế và cái xã hội trong quá trình đổi mới như sau:
- Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế, đều
nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con người.


12
- Kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, giữa tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân
dân.
- Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực

hiện tốt chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) đề ra quyết tâm tiếp tục nắm vững hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Mục tiêu của công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước là xây dựng
nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế
hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh
xã hội công bằng, văn minh.
Đại hội VIII của Đảng (6-1996) lại bổ sung một quan điểm quan trọng nữa là: “Tăng
trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và
trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối tư
liệu sản xuất lẫn khâu phân phối kết quả sản xuất, ở tạo điều kiện cho mọi người đều có
cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình”.
Rõ ràng chủ nghĩa tư bản hiện đại còn tự tiếp tục tự điều chỉnh để phát triển và cũng
có khả năng phát triển mạnh về kinh tế trong những thập kỷ mới. Song dù tự điều chỉnh
như thế nào, thì nó vẫn không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn có, mà mâu thuẫn
cơ bản nhất là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng xã hội hoá cao độ, vượt ra
khỏi biên giới quốc gia, với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về những tư liệu sản xuất
chủ yếu từ trong mỗi nước tư bản và toả ra nhiều nước khác trên thế giới, qua đó làm nảy
sinh nhiều vấn đề kinh tế và xã hội nan giải.
Khi trả lời báo Yomiuri (Nhật Bản) về câu hỏi “Liệu CNTB và nền văn minh thị
trường có thoả mãn đời sống dân chúng không?”, nhà đại tài phiệt Mỹ George Soros đã
nói: “Có nhiều người cảm thấy không thoải mái với chủ nghĩa tư bản vì đó là một hệ
thống vô nhân đạo hiểu theo nhiều cách. Có những người lo ngại về sự thiếu công bằng
xã hội và tôi nằm trong số những người đó. Những người khác người khác lo ngại về sự
xâm lược chủ quyền quốc gia”.
Đại hội VIII cũng xác định rõ, trong giai đoạn đến năm 2000 và những năm tiếp sau,
nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử
thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước

theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững
đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, vượt
qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống của nhân dân.
Quan điểm của Đảng ta là tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng
xã hội ngay trong từng bước, trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể
hiện ở cả khâu phân phối kết quả sản xuất cũng như ở việc tạo điều kiện phát triển năng
lực của mọi thành viên trong cộng đồng.
Phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi chúng ta phải quan tâm hơn đến
tiến bộ xã hội và công bằng xã hội trong quá trình tăng trưởng kinh tế, nhất là trong quá
trình chuyển sang nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, vấn đề là quan niệm thế nào cho
đúng về công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.


13
Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội luôn luôn là mục tiêu cơ
bản mà Đảng ta, nhân dân ta không ngừng phấn đấu để đạt tới. Chúng ta không thể ngồi
chờ kinh tế phát triển cao, dân giàu lên, mới thực hiện sự tiến bộ và công bằng xã hội.
Chúng ta cũng không thể hi sinh sự tiến bộ, công bằng xã hội để phát triển kinh tế một
cách thuần tuý. Mỗi chính sách về kinh tế của chúng ta đều nhằm mục tiêu phát triển xã
hội, mỗi chính sách xã hội đều chứa đựng nội dung và ý nghĩa thúc đẩy kinh tế phát triển.
Công bằng xã hội trong phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ là việc
điều hoà lợi ích, điều tiết phân phối lại thu nhập của các giai tầng trong xã hội cho hợp lý
mà quan trọng hơn là phải đảm bảo cho mọi tầng lớp xã hội được hưởng các quyền lợi xã
hội như giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, đào tạo nghề nghiệp, được giúp đỡ lúc khó khăn,
hoạn nạn. Công bằng xã hội đảm bảo cho mọi thành viên trong xã hội không ngừng nâng
cao mức sống và tự khẳng định mình. Công bằng không phải là sự cào bằng, thực hiện
chủ nghĩa bình quân. Vấn đề mấu chốt để thực hiện công bằng xã hội là phải gắn nó với
sự tăng trưởng kinh tế.
Công bằng xã hội của nước ta gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là một trong những biểu

hiện đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự thống nhất và
phát triển biện chứng giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và
giải phóng con người. Chủ nghĩa xã hội sẽ tiến tới xoá bỏ mọi áp bức, bóc lột, bất công
và mưu cầu hạnh phúc cho mọi người, mọi gia đình và toàn xã hội. Đó là công bằng xã
hội lớn nhất, triệt để nhất mà chúng ta phấn đấu. Mục tiêu lâu dài đó được cụ thể hoá
trong giai đoạn trước mắt ở nước ta bằng khẩu hiệu toàn dân đoàn kết phấn đấu vì sự
nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Bằng khẩu hiệu đó, Đảng và
Nhà nước ta chủ trương khuyến khích mọi người tham gia làm giàu chính đáng. Phấn đấu
để nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì trở nên khá giả, người khá giả thì trở nên giàu có.
Chúng ta thừa nhận có một bộ phận dân cư, một số vùng giàu lên trước là cần thiết để
thúc đẩy hỗ trợ cho sự phát triển và tiến bộ chung. Đồng thời, phải có những chính sách
kinh tế, xã hội đặc biệt để trợ giúp người nghèo, vùng nghèo khá dần lên.
Có hai loại quan niệm cho rằng, thứ nhất, phát triển kinh tế nhanh nhưng phải chấp
nhập phân hoá giàu nghèo trong xã hội lớn hơn, tiêu cực nhiều hơn; thứ hai, xã hội bình
đẳng hơn, phân hoá thấp hơn nhưng tốc độ phát triển chậm.
Những quan niệm nêu trên đều sai lầm vì nó dựa trên một định đề không đúng: phát
triển nhanh nhất thiết đòi hỏi phân hoá xã hội cao.
Những phân tích ở các chương trên đã cho thấy, tăng trưởng nhanh không nhất thiết
phải ra tăng bất bình đẳng. Nhưng cũng phải thấy rằng, sự phân hoá xã hội, phân hoá giàu
nghèo là một thực tế lịch sử ở nhiều quốc gia.
Do vậy, khi chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường, chúng ta chấp nhận
sự chênh lệch giàu nghèo. Song chúng ta không đồng nhất sự phân hoá giàu nghèo với sự
bất bình đẳng và công bằng nói chung. Sự phân hoá giàu nghèo có tính hai mặt: mặt hợp
lý (tức công bằng) và mặt bất hợp lý (tức bất công). Nếu giàu nghèo là do tài năng và
phẩm chất trong lao động, do những điều kiện khách quan chưa có thể khắc phục được
thì xã hội phải chấp nhận đó là lẽ công bằng. Ngược lại nếu làm giàu do lừa đảo, lợi dụng
quyền chức, tham nhũng, làm ăn phi pháp, buôn lậu, v.v. thì đó là sự bất công cần phải
đấu tranh để từng bước xoá bỏ.
Càng ngày người ta nhận thức được một cách rõ ràng là tăng trưởng kinh tế là điều
kiện cần thiết khách quan để xoá bỏ những bất bình đẳng và bất công đã tồn tại hàng

nghìn năm lịch sử. Thế nhưng, tăng trưởng kinh tế lại làm nảy sinh những bất bình đẳng


14
mới. Những bất bình đẳng tồn tại gắn liền với sự khác nhau về trí tuệ, năng lực và phẩm
chất của cá nhân lao động, quản lý và hệ quả tất yếu là thu nhập không ngang nhau cho
các thành viên khác nhau của xã hội không ngừng tăng lên, những nhu cầu này được thoả
mãn thì những nhu cầu mới lại nảy sinh, và xã hội không thể thoả mãn như nhau cho mọi
thành viên trong xã hội. Như vậy tăng trưởng kinh tế trong nền kinh tế thị trường luôn
làm nảy sinh và tạo điều kiện để giải quyết mâu thuẫn trong vấn đề công bằng xã hội.

II.Thực trạng tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta
Thời kỳ 1976-1985, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm ở nước ta chỉ đạt
2% trong khi tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm là 2,4%; nền kinh tế tăng trưởng
thấp, làm không đủ ăn và dựa và nguồn bên ngoài ngày càng lớn.
Trong thời kỳ này, chế độ phân phối vẫn mang nặng tính chất bình quân do đó làm
triệt tiêu động lực của người lao động, công bằng xã hội bị vi phạm nghiêm trọng, kinh tế
xã hội rơi và khủng hoảng nặng nề kéo dài.
Tại Đại hội VI (năm 1986), Đảng ta đã khởi xướng công cuộc đổi mới. Những nội
dung quan trọng của đường lối đổi mới kinh tế là thực hành dân chủ hoá đời sống kinh tế,
chuyển cơ chế quản lý kế hoạch tập trung cao độ sang cơ chế thi trường có sự quản lý của
nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chuyển việc phát triển kinh tế quốc doanh và
tập thể ồ ạt sang phát triển kinh tế nhiều thành phần, chuyển việc cấp phát hiện vật và bao
cấp sang sử dụng quy luật giá trị của sản xuất hàng hoá, mở cửa nền kinh tế, thu hút đầu
tư nước ngoài, chuyển quan hệ kinh tế đối ngoại từ đơn phương sang đa phương theo
hướng nền kinh tế mở, đa dạng hoá hình thức và đa phương hoá quan hệ.
Thời kỳ 1986-1996, tốc độ tăng trưởng kinh tế đã được nâng lên đáng kể. Từ năm
1992 đến năm 1995, tăng trưởng kinh tế hàng năm đều vượt trên 8%. Nền kinh tế nước ta
đang trên đà cất cánh.
Trong 5 năm 1986-1990, thu nhập quốc dân tăng 4,2%, thu nhập bình quân đầu người

tăng với nhịp độ 1,65% trong điều kiện dân số vẫn tăng cao với nhịp độ 2,2%. Cơ chế
mới đi vào thực tiễn từ năm 1989, chế độ tem phiếu được xoá bỏ, lạm phát phi mã đã
được kìm lại, đời sống người dân được cải thiện một bước.
Trong thời kỳ 1991-1995, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng trung bình hàng
năm 8,2%, nhịp độ tăng thu nhập đầu người đạt 6,0%. Cơ cấu kinh tế đã có bước chuyển
đổi: tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22,6% năm 1990 lên 29,1% năm
1995, tỷ trọng dịch vụ từ 38,6% lên 41,9%, tỷ trọng nông nghiệp (gồm cả lâm, ngư
nghiêp) từ 38,7% giảm xuống còn 29%. Nền kinh tế bắt đầu có tích luỹ nội bộ. Vốn đầu
tư cơ bản toàn xã hội năm 1990 chiếm 15,8% GDP, năm 1995 tăng kên 27,4%, trong đó
nguồn đầu tư trong nước chiếm 16,7% GDP.
Đời sống vật chất của số đông nhân dân được cải thiện, tuy mức độ cải thiện không
đều giữa các tầng lớp, giữa các vùng. Mỗi năm thêm 1 triệu lao động có việc làm. Trong
5 năm, khối lượng hàng hoá tiêu thụ trên thị trường đã tăng gấp đôi (bình quân mỗi năm
tăng 7,4%). Số lượng đáng kể nhà ở và đường giao thông được cải tạo và xây dựng mới
cả ở thành thị và nông thôn đã nâng cao hơn điều kiện ăn ở, đi lại và hưởng thụ văn hoá
của nhân dân.

Các chỉ tiêu dân số, tăng trưởng kinh tế (1976-1996)


Dân s


T

c
đ


t

ă
ng tr
ư

ng (%)



15
N
ă
m

(1000
người)
Toàn b


nền kinh tế
Nông
nghiệp
Công
nghiệp
Xu

t
khẩu
Nh

p

khẩu
1976

1977
1978
1979
1980
1981
1982
1983
1984
1985
1986
1987
1988
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1996/1975(%)

49.160

50.413
51.421
52.462

53.722
54.921
56.170
57.373
58.653
59.872
61.109
62.452
63.727
64.774
66.233
67.774
69.405
71.026
72.510
74.000
75.520
153,7


2,8

2,3

-2,0

-1,4

2,3


8,8

7,2

8,3

5,7

6,5

3,4

4,6

2,7

5,1

6,0

8,6

8,1

8,8

9,5

9,4


280,5

14,3

-5,2

-1,8

8,7

7,5

4,4

11,3

3,3

5,3

2,5

4,8

0,4

4,3

7,4


1,4

2,9

8,1

6,2

3,9

4,7

4,8

248,9




10,8

8,2

-4,7

-10,3

1,0

8,7


13,0

13,2

9,9

6,2

10,0

14,3

-3,3

3,1

10,4

17,1

12,7

13,5

14,0

14,2

398,5




44,8

1,4

-0,2

5,5

18,5

31,2

17,1

5,4

7,5

12,9

3,8

21,6

87,4

23,5


-13,2

23,6

15,7

20,6

35,0

37,5

278,5



18,9

6,9

17,1

13,9

5,2

6,5

3,7


14,3

6,4

16,0

13,9

12,3

-6,9

7,3

-17,1

8,7

33,8

27,4

33,0

46,6

768,7



Nguồn: Tổng cục Thống kê. Tạp chí Con số và dữ kiện, 2-1995; 10-1996;1-1997

Tuy nhiên, quá trình tăng trưởng kinh tế nước ta trong nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa vẫn còn tồn tại tình trạng phân hoá giàu nghèo ngày càng mở rộng giữa
các vùng, giữa thành thị và nông thôn và giữa các tầng lớp dân cư. Đời sống của một bộ
phận nhân dân, nhất là ở một số vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến trước đây, vùng
đồng bào dân tộc, còn quá khó khăn. Chất lượng phục vụ y tế, giáo dục, đào tạo ở nhiều
nơi rất thấp. Người nghèo không đủ tiền để chữa bệnh và cho con em đi học. Tệ nạn xã
hội gia tăng. Tệ quan liêu, tham nhũng, buôn lậu, sử dụng lãng phí ngân sách và tài sản
công phổ biến và nghiêm trọng. Tiêu cực trong bộ máy nhà nước, đảng và đoàn thể, nhất
là trên các lĩnh vực nhà đất, xây dựng cơ bản, hợp tác đầu tư, thuế xuất nhập khẩu và cả
trong hoạt động của các cơ quan thi hành pháp luật nghiêm trọng kéo dài. Tình trạng đó
kéo căng thêm sự bất bình đẳng xã hội.
Tại buổi gặp mặt trao đổi về vấn đề vận động công nhân trong tình hình mới do Tổng
Liên đoàn lao động Việt Nam tổ chức ngày 11-10-2000 ở Hà Nội, Chủ tịch Cù Thị Hậu
thẳng thắn thừa nhận: “Nền kinh tế thị trường tạo ra sự gay gắt trong nhiều lĩnh vực, phân
hoá giàu nghèo ngày càng lớn, tình trạng thất nghiệp không thể tránh khỏi; lối sống cá
nhân, thực dụng, vụ lợi, ích kỷ làm xói mòn truyền thống nhân ái của dân tộc, làm suy
giảm tình hữu ái và đoàn kết giai cấp”.


16
ở một phương diện nhất định, phân hoá giàu nghèo thể hiện rõ nhất sự bất bình đẳng
xã hội. Nghèo đói không phải là vấn đề xã hội ở các nước lạc hậu mà có tính toàn cầu.
Ngay tại các nước công nghiệp phát triển cũng tồn tại một bộ phận dân cư nghèo đói.
Hội nghị về chống đói nghèo ở khu vực châu á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức
tháng 9-1993 tại Bangkok đã đưa ra khái niệm nghèo như sau: “Nghèo là tình trạng một
bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người, mà
những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế-xã hội và

phong tục tập quán địa phương”. Để diễn đạt mức độ rất nghèo khổ của một bộ phận dân
cư có thể mức độ nghèo và đói theo đó, đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có
mức sống dưới mức tối thiểu, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thu nhập không đảm
bảo duy trì cuộc sống.
Nhìn chung, không có mâu thuẫn giữa các tổ chức quốc tế và các cơ quan, các ngành
của Việt Nam về cách tiếp cận khái niệm nghèo đói. Song do sự khác nhau trong việc xác
định số nhu cầu cơ bản cần được ưu tiên trong đánh giá nghèo đói, mức độ thỏa mãn và
khả năng thích ứng của hệ thống chính sách nhà nước về xoá đói giảm nghèo nên dẫn đến
sự khác nhau trong việc đưa ra những ranh giới nghèo đói, số lượng và tỷ lệ đói nghèo.
Năm 1995, theo Ngân hàng thế giới, tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam là 51%, còn theo Tổng
cục thống kê Việt Nam thì tỷ lệ đó khoảng 20%. ở đây, chuẩn mực đói nghèo được xác
định trên ba yếu tố cơ bản là:
- Nhu cầu cơ bản tối thiểu của con người.
- Thu nhập bình quân đầu người của các tầng lớp dân cư phân chia theo hộ.
- Điều kiện và khả năng kinh tế, chính sách của nhà nước trong từng thời kỳ.
Mức sống dân cư ở nông thôn luôn thấp hơn nhiều so với khu vực thành thị. Nông
dân bị hạn chế hơn rất nhiều so với dân thành thị về nhiều phương diện, trước hết là vấn
đề việc làm và thu nhập, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ và giáo dục, đào tạo. Vì vậy, 90% hộ
đói nghèo nước ta tập trung ở nông thôn. Tính đến cuối năm 1996, nước ta còn khoảng
2,8 triệu hộ gia đình với gần 15 triệu nhân khẩu (chiếm gần 20% tổng số hộ gia đình cả
nước) thuộc diện nghèo đói.
Vùng Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên có tỷ hộ đói nghèo cao nhất, xấp xỉ 30%; vùng
Đông Nam Bộ có tỷ lệ đói nghèo thấp nhất:6,47%. Như vậy chênh lệch giữa tỷ lệ đói
nghèo cao nhất và thấp nhất là gần 5 lần.
Miền Tây Nam Bộ, còn gọi là vùng đồng bằng sông Cửu Long, có hơn 1,9 triệu ha
đất lúa, cung cấp cho đất nước hơn 13 triệu tấn thóc (năm 1996), trong đó có hơn một
nửa hàng hóa là thóc. Lúa gạo miền Tây Nam Bộ nhiều và tăng nhanh nhưng nông thôn
vùng này vẫn rất nghèo, cả về vật chất lẫn văn hoá tinh thần. Nhiều hộ nông dân không
có ruộng hoặc ít ruộng, phải đi làm thuê gần như quanh năm. ở giữa miền Tây đầy lúa
gạo mà có hơn nửa triệu hộ nghèo thu nhập bình quân từ 25kg – 35kg/tháng. Cái nghèo ở

nông thôn đồng bằng sông Cửu Long còn thể hiện rõ về nhà ở và môi trường sống. Đến
nay, toàn vùng còn 56,7% số hộ ở nhà tạm, trong đó 3,7% ở nhà lều chòi và chỉ có 23,5%
số hộ dùng điện, 25,8% số hộ có nước sạch, 12,9% số hộ có hố xí hợp vệ sinh. Đời sống
vật chất đã vậy, đời sống tinh thần còn nghèo hơn. Khoảng 40% dân nghèo miền Tây mù
chữ. ở vùng sâu, vùng xa, cơ sở vật chất trường học còn yếu kém, một phần do lũ lụt triền
miên, nhưng chủ yếu do đầu tư ít, chỉ 1,65% số trường cấp một, 9,9% trường cấp hai
được xây dựng kiên cố. Theo ước tính, số người có trình độ đại học và cao đẳng nông
nghiệp toàn vùng chỉ chiếm 0,4% số dân.



17

Hộ nghèo năm 1996 theo các vùng kinh tế



Số hộ
T


l


(%)
1.

Trung du và mi

n núi phía B


c

2. Đồng bằng sông Hồng
3. Bắc Trung Bộ
4. Duyên hải miền Trung
5. Tây Nguyên
6. Đông Nam Bộ
7. Đồng bằng sông Cửu Long
Cả nước
695.503

330.519
609.372
413.660
188.878
116.728
502.912
2.857.122
27,24

11,01
30,80
23,14
29,45
6,47
16,25
19,23



III. Giải pháp cho mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam
1. Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân
phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, cũng như ở việc tạo
điều kiện phát triển năng lực của mọi thành phần trong cộng đồng. Thực hiện nhiều hình
thức phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phôi
dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác, như vốn, tài sản, tri thức công nghệ, sáng
kiến kỹ thuật vào kết quả sản xuất - kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội,
đi đôi với chính sách điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợi người lao động.
Nhà nước điều tiết qua các sắc thuế, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân để giảm bớt
chênh lệch thu nhập giữa cá tầng lớp dân cư và huy động đóng góp của những người có
thu nhập cao vào sự phát triển xã hội.
Các chính sách kinh tế vĩ mô phải phối hợp đồng bộ thúc đẩy tăng trưởng và đảm bảo
quyền lợi của người lao động. Chẳng hạn, chính sách của nhà nước tìm mọi biện pháp
mua hết số lượng thóc hàng hoá của nông dân với giá cả hợp lý, không để lúa rớt giá quá
thấp là chính sách đúng đắn, vừa đảm bảo yêu cầu thúc đẩy sản xuất lương thực và yêu
cầu đảm bảo công bằng xã hội trong phân phối thu nhập. Tuy nhiên, biện pháp thực có
khi không đáp ứng được các yêu cầu trên. Chẳng hạn, bù giá mua lương thực lại lợi bất
cập hại, chỉ đưa lại lợi ích cho tầng lớp trung gian, tiểu thương thu gom lương thực và
một số doanh nghiệp kinh doanh lương thực.
ở nhiều nơi, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhiều nông dân không có
đất – tư liệu sản xuất chủ yếu của nông dân, để sản xuất. Điện, một hàng hoá thiết yếu
cho cả sản xuất và đời sống dân cư, được bán với giá khác nhau ở nông thôn và thành thị,
trong đó dân cư nông thôn thường phải trả gấp hai, ba lần hoặc hơn so với dân thành phố.
Những thực tế này đặt ra vấn đề, chính sách của Nhà nước cần quán triệt sâu sắc hơn nữa
nguyên tắc đảm bảo công bằng xã hội đến mức tối đa trong giới hạn có thể.
2. Tăng cường hơn nữa công tác kế hoạch hoá gia đình. Một nguyên nhân quan
trọng dẫn đến nghèo đói và nhiều người dân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, không được
chăm sóc y tế và học hành làm dân số tăng nhanh, quy mô gia đình lớn. Đặc biệt, những
gia đình quá nhiều con phải chịu rất nhiều thiệt thòi. Vì vậy, làm cho các gia đình trở nên



18
ít con là một điều kiện một yếu tố cực kỳ quan trọng để có tăng trưởng kinh tế gắn liền
với tiến bộ và công bằng xã hội.
Đến năm 1997, dân số nước ta là 77,5 triệu người. Với tốc độ gia tăng dân số tự nhiên
2% như hiện nay, nước ta vẫn là nước có tỷ lệ tăng dân số cao nhất trong khu vực.
Nhận thức rõ ràng tầm quan trọng của công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình, Đảng
và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chỉ thị, nghị quyết, tập trung nhiều nguồn lực nhằm hạ tỷ lệ
phát triển dân số. Nhờ đó, phong trào thực hiện kế hoạch hoá gia đình trong nhân dân cả
nước đang có những chuyển biến mạnh mẽ, ngày càng có thêm nhiều thôn, xã, kể cả ở
miền núi, liên tục trong nhiều năm không có người sinh con thứ ba trở lên. Số con trung
bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đã giảm từ 3,8 con năm 1989 xuống 3,1 con
năm 1994. Tuy vậy, kết quả và hiệu quả của công tác dân số – kế hoạch hoá gia đình còn
thấp. Theo dự tính, nếu nước ta đạt được mục tiêu mức sinh thay thế (mỗi phụ nữ trung
bình có hai con) vào năm 2015 thì đến giữa thế kỷ XXI dân số nước ta sẽ ổn định ở mức
145 triệu người. Do vậy, phải áp dụng các biện pháp quyết liệt hơn nữa để vào khoảng
năm 2005 đạt được mức sinh thay thế và ổn định dân số nước ta ở mức 120 triệu người.
3. Xoá đói, giảm nghèo
Xoá đói, giảm nghèo là chính sách và lĩnh vực hoạt động thực tiễn cụ thể và thiết thực
nhất để giảm bớt bất công xã hội trong quá trình tăng trưởng kinh tế.
Các cuộc điều tra của Tổng cục Thống kê phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư có sự
tài trợ của UNDP đã đưa ra 5 nguyên nhân cụ thể của các hộ đói nghèo là:
- Sự cách biệt, cả về địa lý, xã hội và tri thức.
- Rủi ro, mất mùa, bệnh tật, chết chóc, sinh con ngoài ý muốn.
- Thiếu các nguồn lực sản xuất: đất đai, vốn hoặc lao động khoẻ mạnh.
- Thiếu khả năng duy trì bền vững do không có khả năng quản lý môi trường.
- Thiếu cơ hội tham gia vào quá trình phát triển kinh tế của xã hội.
Với quan điểm coi con người là trung tâm và là động lực của sự phát triển, từ khi tiến
hành đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra quyết tâm và nỗ lực xoá đói, giảm nghèo,

tiến tới xoá bỏ hoàn toàn nghèo đói. Trong các chính sách kinh tế vĩ mô có liên quan trực
tiếp đến người nghèo, phải kể đến các chính sách như Chỉ thị 100, Nghị quyết 10, Luật
đất đai năm 1993, chính sách hỗ trợ tín dụng cho nông dân, lập ngân hàng cho người
nghèo… Các nỗ lực này đã tạo điều kiện đa dạng hoá sản xuất, đổi mới hình thức hợp tác
xã nông nghiệp, tự do hoá thương mại, giá cả, thị trường lao động, vốn… Trong báo cáo
quốc gia về phát triển xã hội trình bày tại Hội nghị thượng đỉnh về phát triển xã hội ở
Copenhagen tháng 3-1995, Việt Nam đã nêu ra chiến lược phát triển lành mạnh, cân đối
và bền vững, trong đó nêu lên mục tiêu đến năm 2010 xoá bỏ toàn bộ tình trạng đói
nghèo. Từ năm 1995, chúng ta đã bắt đầu thực hiện “Chương trình quốc gia về xoá đói
giảm nghèo”. Tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII), một
trong những chủ trương, giải pháp mà Đảng ta đề ra để hoàn thành những mục tiêu kinh
tế – xã hội đến năm 2000 là tích cực giải quyết việc làm và xoá đói, giảm nghèo.
Trong những năm qua, hệ thống các dịch vụ ở nông thôn nước ta đã có những bước
cải thiện đáng kể như hệ thống dịch vụ kế hoạch hoá gia đình, giáo dục tiểu học, giao
thông, chợ, cung cấp nước sạch, tín dụng, khuyến nông… trong đó quan trọng nhất là hệ
thống dịch vụ tín dụng hỗ trọ người nghèo tiếp cận và vay vốn sản xuất. Đến hết năm
1996, đã có trên 2 triệu lượt hộ nghèo đói được vay vốn sản xuất, trong đó 1,2 triệu lượt
hộ vay từ nguồn ngân hàng phục vụ người nghèo với lãi suất thấp (1%/tháng) không phải
thế chấp với tổng số tiền 1.900 tỷ đồng, khoảng 600 ngàn lượt hộ nghèo vay từ nguồn


19
ngân sách ở các cấp chính quyền địa phương nhập quỹ xoá đói giảm nghèo với tổng số
tiền hơn 3 tỷ đồng, trên 600 nghìn lượt hộ nghèo vay vốn từ quỹ của các tổ chức đoàn thể
và một số lượng đáng kể được vay vốn xoá đói, giảm nghèo từ các dự án hợp tác quốc tế.
Muốn giải quyết vấn đề đói nghèo một cách có hiệu quả, cần tập trung vào các hướng
chủ yếu sau:
- Xoá đói giảm nghèo gắn với tăng trưởng kinh tế. Thực tiễn hơn 10 năm đổi mới cho
thấy, tăng trưởng kinh tế là cái nền cơ bản nâng cao thu nhập cho các tầng lớp dân cư,
góp phần quan trọng giảm tỷ lệ hộ đói nghèo. Vì vậy, duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế

cao và ổn định là yếu tố quan trọng hàng đầu. Nền kinh tế suy thoái hoặc mất ổn định thì
người chịu nhiều nhất, gặp khó khăn nhất vẫn là nhóm người nghèo, và tỷ lệ người nghèo
sẽ gia tăng, thậm chí đột biến vì có thể một bộ phận người giàu sẽ rơi xuống nhóm nghèo
và tình trạng tái nghèo đói của bộ phận mới thoát khỏi đói nghèo.
- Tạo môi trường cơ sở cho xóa đói, giảm nghèo. Tập trung giải quyết đồng bộ trên cả
hai phương diện: chính sách kinh tế vĩ mô liên quan đến xoá đói, giảm nghèo và kiện
toàn tổ chức thực hiện xoá đói, giảm nghèo từ trung ương tới huyện xã. Các chính sách
về đất đai, tín dụng, chuyển giao công nghệ, dịch vụ y tế, giáo dục, đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng v.v. phải hướng vào người nghèo, tạo điều kiện cho người nghèo vươn lên tự
khẳng định mình, hoà nhập với cuộc sống đi lên của cộng đồng, xã hội hoá công tác xoá
đói, giảm nghèo.
Để tăng cường và nâng cao hiệu quả hỗ trợ các vùng nghèo, Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khoá VIII) chỉ rõ: “ Nhà nước có kế hoạch hỗ trợ thiết thực cho các
vùng nghèo, đặc biệt là 1.300 xã nghèo, chủ yếu là đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thiết
yếu và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực. Nhà nước và xã hội tăng cường trợ giúp vốn,
kiến thức làm ăn cho các hộ nghèo, nhất là ở nông thôn, vùng núi, hải đảo… Nghiên cứu
chính sách học tập và chữa bệnh đối với các hộ nghèo. Bổ sung chính sách đối với các
nạn nhân chiến tranh
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn quỹ của các chương trình quốc gia. Giao Hội đồng
nhân dân tỉnh quyết định việc sử dụng và tổ chức kiểm tra việc thực hiện các quỹ này trên
địa bàn; các ngành trung ương chủ yếu làm chức năng hướng dẫn thanh tra”.
4. Chống tham nhũng và buôn lậu
Tình trạng tham nhũng và buôn lậu đang phát triển ở nước ta dưới rất nhiều hình thức
khác nhau.
Nạn tham nhũng không chỉ hoàn hành ở các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc mọi
thành phần kinh tế, ở các ngành, các cấp mà còn len lỏi vào các cơ quan quản lý hành
chính và các cơ quan chức năng thực thi pháp luật.
Tham nhũng và buôn lậu là các hành động ảnh hưởng tiêu cực rất lớn tới công bằng
xã hội, góp phần tăng nhanh sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội. Nhiều người đã giàu
lên nhanh chóng nhờ tham nhũng. Sự giàu lên của họ gắn liền với hiện tượng ngân sách

nhà nước bị thất thoát, khả năng tài trợ cho các dịch vụ giáo dục, y tế giảm sút v.v Tham
nhũng và buôn lậu đánh thẳng vào pháp luật, xói mòn kỷ cương, lung lay phép nước…
Tham nhũng và buôn lậu cũng hạn chế tốc độ tăng trưởng kinh tế. Buôn lậu, trốn thuế
làm cho hàng hoá sản xuất trong nước không cạnh tranh được phải thu hẹp sản xuất,
nhiều ngành sản xuất non trẻ bị thui chột. Tham nhũng làm thất thoát vốn đầu tư phát
triển của nhà nước và làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài trong việc đầu tư vào Việt
Nam.


20
Về hình thức bên ngoài, tham nhũng và buôn lậu nước ta bùng nổ trong quá trình đổi
mới kinh tế, chuyển sang kinh tế thị trường và mở cửa với bên ngoài. Nhiều người cho đó
là mặt trái của kinh tế thị trường, là biểu hiện đối đầu, mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế
và công bằng xã hội. Nếu không có biện pháp kiên quyết hạn chế tham nhũng và buôn
lậu sẽ tạo ra những căng thẳng xã hội. Nếu không ngăn chặn được hàng nhập lậu thì
không những mọi chính sách đòn bẩy về kinh tế sẽ bị vô hiệu hoá mà còn làm cho lòng
tin của nhân dân ngày càng giảm sút đối với công tác quản lý nhà nước.
5. Xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn
a. Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn ngày càng được chú trọng ở nhiều
nước và đã trở thành một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển quốc gia. Kinh
nghiệm nhiều nước cho thấy, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn là một điều kiện quan
trọng để đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Đối với nước ta, xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn là tiền đề quan
trọng để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn và cả nước, nhanh chóng đưa
đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, nâng cao đời sống của đại đa số dân sống ở nông
thôn, nhất là những người nghèo, và vì vậy, góp phần ổn định chính trị và giải quyết vấn
đề công bằng xã hội, đưa nông thôn lên cuộc sống mới phồn vinh theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn sẽ có tác dụng lớn là lâu dài sau
đây:

Một là, dân cư nông thôn được chia sẻ những thành quả của quá trình phát triển kinh
tế xã hội chung của đất nước.
Hai là, tạo điều kiện để nông dân và dân cư nông thôn nói chung được tham gia đóng
góp tích cực vào quá trình phát triển chung của đất nước; kinh tế nông nghiệp nông thôn
phát triển, từ đó đảm bảo an ninh lương thực cho đất nước, cung cấp nguyên liệu phong
phú và đa dạng cho công nghiệp, là thị trường tiêu thụ rộng lớn hàng hoá công nghiệp.
Kết cấu hạ tầng nông thôn phát triển sẽ làm tăng mức sống và thu nhập của dân cư
nông thôn, đem lại sự công bằng xã hội và tránh được làn sóng người tràn về các đô thị
sinh sống gây khó khăn cho nhà nước về kinh tế – xã hội và quốc phòng.
5.2. Thực trạng kết cấu hạ tầng nông thôn nước ta hiện nay.
Tính đến cuối năm 1995 cả nước đã có 92,8% xã có đường giao thông tới trung tâm
xã, 60% xã có điện thắp sáng, nhiều xã có đã có liên lạc điện thoại nối mạng quốc gia,
98% xã có trường cấp một, 76% xã có trường cấp hai, 76% xã có lớp mẫu giáo, 36% xã
có nhà trẻ, 91% xã có trạm y tế. Tuy nhiên, nhìn chung kết cấu hạ tầng ở nông thôn nước
ta còn trong tình trạng thấp kém và lạc hậu, chất lượng các công trình giao thông, thuỷ
lợi, y tế, giáo dục, nước sinh hoạt, hệ thống cấp điện chưa đạt yêu cầu tối thiểu, đặc biệt ở
những vùng miền núi xa xôi hẻo lánh và vùng đồng bằng sông Cửu Long, các công trình
phần lớn mới ở dạng thô, những công trình đã cũ hoặc làm mới không được bảo dưỡng
đã xuống cấp. Việc quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng yếu kém.
Về đường giao thông, cả nước hiện có 150.100 km đường bộ, trong đó có 31.200 km
đường huyện, 91.200 km đường xã ôtô có thể đi được và 35.700 km đường sông. Trong
61 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, mới chỉ có 20 tỉnh, thành phố có đường ôtô tới
100% xã. Bình quân mật độ đường giao thông nước ta mới đạt 1,3 km trên 1.000 người
dân. Đó là mức thấp so với Thái Lan, Malaixia và Philippin (khoảng 3km/1.000 người
dân). Đến nay, cả nước hiện còn 607 xã chưa có đường giao thông tới trung tâm xã với
tổng chiều dài 9.000 km.


21
Những năm vừa qua, trong số vốn đầu tư phát triển nông thôn, nhân dân đã đóng góp

65%, ngân sách các cấp đóng góp 35%.
Về thuỷ lợi, hiện nay cả nước có 75 hệ thống thuỷ lợi vừa và lớn gồm 650 hồ đập và
rất nhiều hệ thống nhỏ với trên 35.000 hồ đập, khoảng 1.000 cống tới tiêu lớn, trên 2.000
trạm bơm điện với công suất lắp đặt 23.000 kw cho tưới và 250.000 kw cho tiêu. Hệ
thống công trình nói trên hàng năm tưới cho 5,8 triệu ha lúa, 56 vạn ha hoa màu và cây
công nghiệp, tiêu úng cho 92 vạn ha và cải tạo 70 vạn ha đất ven biển.
Về cấp nước sinh hoạt nông thôn, cả nước mới có 3,9 triệu giếng đào và giếng khoan,
khoảng 150.000 các công trình cấp nước khác bao gồm công trình nước ăn tự chảy có
thiết bị lọc nước, bể nước gia đình, bể nước công cộng các loại với hàng trăm kilômét
đường ống dẫn nước. Theo ước tính, số người cần nước sinh hoạt hợp vệ sinh lên tới
hàng chục triệu người và cần số vốn đầu tư hàng trăm tỷ đồng.
Về y tế, hiện vẫn còn 606 xã chưa có trạm y tế, trong đó có 55 “xã trắng” không có
trạm y tế và không có cả cán bộ y tế, 461 xã không có y bác sĩ, 5.322 xã không có nữ hộ
sinh hoặc y sĩ sản nhi. Các cơ sở y tế đã xuống cấp, nguồn kinh phí ngân sách cấp quá
hạn hẹp, nguồn hỗ trợ của kinh phí tập thể không còn nên phần lớn các trạm y tế xã hoạt
động khó khăn, cầm chừng.
5.3.Đai hội VIII của Đảng đã đề ra mục tiêu xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn đến
năm 2000 như sau:
“Phát triển kết cấu hạ tầng vùng miền núi, nông thôn, trước hết là đường xá, thông
tin, điện, nước sạch, trường học, trạm xá. Tập trung sức giải quyết nước cho các tỉnh
miền Trung, đường giao thông cho vùng núi và đồng bằng sông Cửu Long”.
6. Phát triển giáo dục và đào tạo ở nông thôn
Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng và tiếp theo đó Nghị quyết Hội nghị Trung
ương lần thứ hai (khoá VIII) đã chỉ rõ “Giáo dục cùng khoa học công nghệ là quốc sách
hàng đầu”. “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” với nguyên tắc “quy
mô, chất lượng và hiệu quả”. Một số mục tiêu cụ thể của giáo dục nước ta đến năm 2000
là:
- Thanh toán nạn mù chữ cho những người trong độ tuổi 15-35, thu hẹp diện mù chữ ở
các độ tuổi khác.
- Phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước, phổ cập trung học cơ sở ở các thành phố đô

thị, các vùng kinh tế trọng điểm và những nơi có điều kiện. Mở rộng và nâng cao chất
lượng dạy kỹ thuật tổng hợp – hướng nghiệp, ngoại ngữ, tin học ở trường trung học.
- Tăng quy mô học nghề bằng mọi hình thức để đạt 22,25% đội ngũ lao động được qua
đào tạo vào năm 2000. Tăng cường đầu tư, củng cố và phát triển các trường dạy nghề,
xây dựng một số trường trọng điểm, đào tạo đủ công nhân lành nghề cho các khu
công nghiệp, khu chế xuất có tính đến nhu cầu xuất khẩu lao động.
- Nâng quy mô giáo dục đại học, cao đẳng lên 1,5 lần so với năm 1995 với cơ cấu đào
tạo hợp lý. Xây dựng một số trường đại học trọng điểm, một số trường cao đẳng cộng
đồng.
- Mở rộng các hình thức học tập thường xuyên, đặc biệt là hình thức học từ xa.
Giáo dục nông thôn ở nước ta tuy có phát triển nhưng vẫn còn rất nhiều khó khăn.
Bên cạnh khó khăn về giáo viên thì khó khăn về tài chính để giải quyết lương, hoạt động
dạy và học, trường sở, thiết bị là khó khăn lớn nhất. Kinh phí ngân sách nhà nước dành
cho giáo dục, đào tạo những năm qua dao động trong khoảng 6%. Nghị quyết Hội nghị
Trung ương lần thứ hai chỉ rõ: phải nâng tỷ lệ ngân sách cho giáo dục, đào tạo lên 15%


22
tổng chi ngân sách vào năm 2000. Nhưng GDP và ngân sách nhà nước của ta quá nhỏ
nên tỷ lệ đó không đưa lại sự cải thiện mạnh mẽ cho ngành giáo dục, đào tạo nông thôn.
Giải pháp là đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, đào tạo.
Một số xu hướng phát triển giáo dục nông thôn đã được nảy sinh và được theo dõi,
thử nghiệm, thực hiện trong vài năm gần đây cho thấy mặt tích cực của chúng trong phát
triển giáo dục phục vụ cộng đồng nông thôn. Đó là:
- Xuất hiện ngày càng nhiều các trường phổ thông dân tộc nội trú dành cho con em dân
tộc ở vùng núi và vùng dân tộc thiểu số nhằm mục đích nâng cao dân trí và tạo nguồn
đào tạo cán bộ người dân tộc thiểu số. Đến nay, đã có 149 trường được xây dựng mới
cho trên 50.000 học sinh dân tộc ít người.
- Đã thành lập hơn 300 trung tâm học tập thường xuyên.
Loại hình này chủ yếu nằm ở trung tâm các huyện và cụm xã nông thôn. Hình thức

này vừa góp phần nâng cao dân trí vừa góp phần tìm việc làm cho số lao động nhàn
rỗi ở nông thôn.
- Đã hình thành hơn 350 trung tâm dạy nghề góp phần bồi dưỡng và đào tạo công nhân
kỹ thuật.
- Cả nước hình thành mạng lưới 71 trường chuyên biệt cho trẻ khuyết tật nặng với số
học sinh được thu nhận là 3.714 người, ngoài ra, đã huy động trên 3 vạn trẻ em
khuyết tật nhẹ hoà nhập cộng đồng trong gần 1.000 trường tiểu học ở trên 40 tỉnh,
thành phố.
7. Phát triển y tế nông thôn
Việt Nam có khoảnh 80% dân số ở nông thôn và hơn 70% lao động nông nghiệp.
Người dân nông thôn đặc biệt là những người sống ở vùng núi, vùng cao, vùng sâu xa xôi
hẻo lánh có trình độ văn hoá thấp hơn thành thị và ít có điều kiện giao lưu về văn hoá, xã
hội. Họ thiếu tiện nghi sinh hoạt, thu nhập thấp, cường độ lao động nặng nhọc, chủ yếu là
lao động chân tay, dinh dưỡng thiếu và tập quán ăn uống sinh hoạt còn lạc hậu, thiếu vệ
sinh, tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi hiện nay chiếm trên 40%. ở nông thôn,
bệnh tật thường xảy ra nhiều nhưng ít có điều kiện chữa trị.
Chuyển sang cơ chế thị trường y tế nông thôn gặp rất nhiều khó khăn, các trạm xá
xuống cấp trầm trọng. Nghịch lý của các ngành y tế Việt Nam là phát triển theo hình tháp
ngược: y tế cơ sở không phát triển, hầu như chỉ tập trung cho bệnh viện tuyến trung ương
và cấp tỉnh. Bà con nông dân không có điều kiện đi khám chữa bệnh ở các tuyến trên. Bất
bình đẳng trong chăm sóc sức khoẻ ban đầu và khám chữa bệnh cũng thể hiện rõ.
Giải pháp là phát triển y tế cơ sở, củng cố, mở rộng, nâng cấp các trạm y tế xã. Muốn
thế, phải có vốn đầu tư lớn và chính sách thoả đáng cho cán bộ y tế. Hiện nay, hàng nghìn
bác sĩ ra trường không có việc làm nhưng không ai muốn trở về nông thôn phục vụ. Do
đó, cơ chế chính sách là giải pháp cơ bản. Cùng với giáo dục, y tế cũng phải được xã hội
hoá mới có điều kiện phát triển. Tuy nhiên, kinh phí nhà nước cho y tế trong giai đoạn
trước mắt vẫn là yếu tố quyết định.
Trong 5 năm 1991-1995, ngân sách nhà nước đã dành khoảng từ 6-7% tổng số chi
cho dịch vụ y tế. Năm 1996, chi dịch vụ y tế đạt 2.400 tỷ đồng cho tổng số chi thường
xuyên là 40.700 tỷ đồng. Năm 1995, ngân sách đã chi trên 600 tỷ đồng cho các chương

trình quốc gia về y tế. Chương trình quốc gia về y tế năm 1996 đã đạt được nhiều kết quả
tốt: giảm tỷ lệ người mắc bệnh sốt rét xuống còn 20 %, giảm 15% số người chết do mắc
bệnh sốt rét so với năm 1995; nâng số người dùng muối i ốt lên gần 100% ở miền núi và
khoảng 60% ở vùng trung du và đồng bằng; thực hiện tiêm chủng văcxin cho 2 triệu trẻ


23
em. Ngoài ra, còn có nguồn viện trợ không hoàn lại cho y tế khoảng 40-50 triệu
USD/năm.
Luật ngân sách ra đời có hiệu lực từ ngày 1-1-1997 đã quy định rõ nội dung phân cấp
nhiệm vụ chi cho y tế các cấp, trong đó y tế nông thôn sẽ được đảm bảo và ổn định. Tuy
nhiên, cần phải thực sự chú trọng công tác quản lý nguồn tài chính cho y tế một cách có
hiệu quả thì mới có thể cải thiện được tình hình hoạt động y tế ở nông thôn.
8. Phát huy hơn nữa vai trò của nhà nước trong giải quyết mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta
Kinh nghiệm các nước Đông á cho thấy, khu vực nông thôn có vai trò to lớn và nó
biến đổi mạnh mẽ nhờ các biện pháp tăng thu nhập ở nông thôn (giảm đói nghèo và cải
thiện phúc lợi xã hội, thể hiện rất rõ ở Hàn Quốc, Đài Loan, Malaixia, Trung Quốc). Quá
trình biến đổi nông thôn liên quan đến một loạt yếu tố như tăng năng suất lao động nông
nghiệp, đẩy mạnh các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn và phát triển cơ sở hạ tầng,
đưa thanh niên nông thôn đến những nơi có cơ hội làm việc, cải thiện y tế, xây dựng
trường học và cung cấp nước sạch. Động lực để biến đổi nông thôn là sự thích ứng của
các hộ gia đình với những cơ hội đang thay đổi. Tuy nhiên, việc nhà nước cung cấp các
dịch vụ cơ bản ở nông thôn cũng có vai trò thiết yếu, nhất là trong giai đoạn đầu.
Một trong những vai trò dễ thấy nhất của nhà nước là cung cấp các dịch vụ nông thôn
cơ bản như giáo dục tiểu học, chăm sóc sức khoẻ ban đầu, xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở
và cứu trợ xã hội. Những dịch vụ này, khi đến được những người có nhu cầu, sẽ làm tăng
lợi ích cho xã hội. Hơn nữa, các hộ gia đình nhiều khi không thể tự bảo vệ trước những
rủi ro như thiên tai, ốm đau nặng. Vì vậy, nhà nước có vai trò quan trọng trong việc tạo ra
một mạng lưới bảo hiểm để bảo vệ các hộ gia đình trước những rủi ro, giữ cho họ không

lâm vào tình trạng khốn cùng và tạo điều kiện để họ đóng góp vào sự phát triển của đất
nước. Bảo đảm việc cung cấp các dịch vụ cơ bản này một cách bình đẳng không những
mang lại công bằng mà còn đưa lại hiệu quả đích thực.
Cải thiện việc cung cấp dịch vụ cơ bản ở nông thôn đã khuyến khích phát triển nông
thôn có vai trò cực kỳ quan trọng đối với các chiến lược nhằm mục đích tăng trưởng lâu
bền và giảm đói nghèo. Đầu tư vào giáo dục và y tế làm tăng đầu tư vào vốn con người.
Đầu tư vào cơ sở hạ tầng như đường xá và cấp nước là những đầu tư cơ bản do con người
thực hiện. Cả hai loại vốn con người và vốn nhân tạo đó làm nên cơ cở tăng trưởng kinh
tế. Thêm nữa, khi được bổ sung bằng cứu trợ xã hội nhằm vào những tầng lớp dễ bị ảnh
hưởng nhất trong xã hội, việc phân bổ chúng một cách công bằng sẽ góp phần thoả mãn
các nhu cầu về xã hội và chính trị.
Các nhà nước ở Đông á đạt được thành công trong tăng trưởng kinh tế và thực hiện
công bằng xã hội đã phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn (đường xá, cầu cống, hệ thống
vận tải, mạng lưới điện, nước và vệ sinh) trong những năm đầu của quá trình phát triển
nông thôn. Họ cũng đầu tư nhiều vào con người (giáo dục, y tế, kế hoạch hoá gia đình) ở
khắp các vùng nông thôn. Tỷ lệ chi tiêu công cộng dành cho giáo dục ở khu vực Đông á
cao hơn rất nhiều khu vực khác. Trong khi tính trung bình, tất cả các nước đang phát triển
dành 13% chỉ tiêu công cộng cho giáo dục (Nam á chỉ có 9%), thì các nước Đông á đã
dành cho giáo dục khoản chi chiếm hơn 20% chi tiêu cộng trong hai thập kỷ tăng trưởng
mạnh mẽ vừa qua. Hơn nữa, ở Đông á, phần lớn chi tiêu cho giáo dục bậc cao do khu vực
tư nhân tài trợ còn chính phủ tập trung vào tiểu học và trung học. Sự kết hợp giữa đầu tư
vào cơ sở hạ tầng nông thôn và đầu tư vào nguồn nhân lực đã cải thiện năng suất lao
động, tăng cường các cơ hội phi nông nghiệp, hình thành những mối liên hệ thành thị -


24
nông thôn rộng lớn hơn và tiến hành công nghiệp hoá nông thôn. Do sự gia tăng năng
suất nông nghiệp đã diễn ra trên những vùng địa lý rộng lớn, và chính phủ cung cấp dịch
vụ cơ bản không mất tiền hoặc được trợ cấp rất nhiều, số việc làm phi nông nghiệp đã gia
tăng mạnh mẽ. Kết quả là, các nước Đông á không những đạt được thành tựu tăng trưởng

kinh tế mạnh mẽ trong 20 đến 30 năm qua mà còn giảm đói nghèo một cách nhanh
chóng.
Tài trợ của nhà nước cho các dịch vụ kinh tế và các dịch vụ xã hội có vai trò rất quan
trọng đối với việc bảo đảm cung cấp đầy đủ các dịch vụ này. Các dịch vụ kinh tế - nhất là
giao thông vận tải, thuỷ lợi và khuyên nông - đều quan trọng. Các cá nhân dân cư thiếu
sự khuyến khích và các cộng đồng thường không có hệ thống tổ chức và nguồn lực để
thực hiện các hoạt động mang lại lợi ích cho tất cả các vùng. Do vậy, chính phủ thường
phải tài trợ toàn bộ từ nguồn thu của nhà nước. Cách tốt nhất để duy trì được cơ sở hạ
tầng nông thôn, chẳng hạn như thuỷ lợi, là sự đóng góp trực tiếp của các cá nhân và cộng
đồng địa phương dưới hình thức phí sử dụng hay bằng lao động. Về các dịch vụ xã hội,
có lý do rất chính đáng để thực hiện một phương hướng phổ cập rộng rãi đảm bảo cung
cấp các dịch vụ xã hội cơ bản được trợ giá đáng kể. Những dịch vụ quan trọng nhất là
giáo dục tiểu học, y tế cộng đồng , chữa bệnh cơ bản cho người nghèo và nước sạch.
Ngân sách nhà nước có vai trò chính yếu đối với cả hai loại dịch vụ này, dù các hộ gia
đình có thể đóng góp một phần, đặc biệt là các dịch vụ xã hội.
Thực tế cho thấy, các dịch vụ nông thôn ở Việt Nam, cũng giống như ở các nước
Đông á khác, có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, giảm đói nghèo và đảm
bảo công bằng xã hội. Nhìn chung ở nông thôn Việt Nam, những hộ gia đình tham gia
vào các hoạt động kinh tế đa dạng thường có mức sống cao hơn các gia đình khác. Việc
đa dạng hoá này đòi hỏi có thông tin kiến thức, cũng như khả năng tiếp cận với công
nghệ và thị trường.
Các dịch vụ do nhà nước cung cấp có vai trò quan trọng tạo môi trường thuận lợi cho
phát triển nông thôn.
Để đáp ứng được những thách thức của việc tăng trưởng kinh tế nhanh và rộng khắp,
giảm đói nghèo và đảm bảo công bằng xã hội đòi hỏi phải tăng đầu tư cộng đồng vào
những dịch vụ cơ bản ở nông thôn. Chi tiêu công cộng thường bị dàn trải ra nhiều dịch vụ
và lĩnh vực khác nhau. Nhà nước cần tập trung chi tiêu công cộng vào những danh mục
đầu tư mà xét về toàn xã hội, nếu để cho khu vực tư nhân đảm nhận hoặc tài trợ toàn bộ
sẽ không đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội và sẽ dẫn đến việc không khai thác
hết được các dịch vụ đó. Các dịch vụ cơ bản cần được quan tâm hàng đầu ở nông thôn là

giáo dục, y tế và cung cấp nước.





Kết luận

Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là một trong những mối quan hệ cơ bản của
quá trình phát triển. Có thể nói, thực chất của quan điểm phát triển hiện đại là tăng trưởng


25
kinh tế đi liền với công bằng xã hội. Tăng trưởng là điều kiện tiên quyết, quan trọng nhất
của phát triển, nhưng tự mó không đưa đến phát triển. Phát triển chỉ có được khi tăng
trưởng kinh tế tạo ra những biến chuyển trong cơ cấu kinh tế và cấu trúc xã hội, ở đó mỗi
người dân được hưởng những thành quả của tăng trưởng và nhờ đó phát triển cá nhân
mình.
Công bằng trong phân phối thu nhập không hàm nghĩa đầy đủ sự công bằng xã hội.
Công bằng xã hội chỉ có thể đạt được trong điều kiện ở đó mỗi cá nhân có các điều kiện
như nhau tham gia vào các hoạt động cộng đồng. Tuy nhiên, trên thực tế, có sự khác biệt
về các điều kiện tuỳ theo giai đoạn lịch sử, điều kiện sinh sống, tố chất cá nhân. Do đó,
công bằng xã hội luôn thể hiện ra như một xu hướng hơn là một trạng thái hiện thực.
Trên thực tế, người ta chỉ có thể giảm bất bình đẳng và bất công chứ chưa thể đạt được
công bằng tuyệt đối. Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội do vậy phải
được hiểu là mức độ giảm bất bình đẳng đạt được cùng với tăng trưởng.
Song sẽ sai lầm khi cho rằng, cần đạt được tăng trưởng bằng mọi giá và công bằng
chỉ là kết quả một chiều tăng trưởng. Mức độ bất bình đẳng thấp cũng là điều kiện và
khuyến khích tăng trưởng.
Kết luận trên đây được rút ra từ nghiên cưu mô hình Đông á, trong đó vẫn tồn tại sự

khác biệt giữa các nền kinh tế. Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan đã đạt những thành tựu
cao trong tăng trưởng kết hợp với công bằng, trong khi ở các nước Đông Nam á, thành
tựu này thấp hơn… Điều này được giải thích bởi trình độ phát triển kinh tế mà các nước
và vùng lãnh thổ đạt được, các chính sách được thực hiện và một loạt các yếu tố thuộc về
thể chế.
Kinh nghiệm thành công ở các nền kinh tế Đông á cho thấy, không nên và không thể
tách rời các chính sách khuyến khích tăng trưởng và các chính sách tạo lập công bằng.
Điều quan trọng nhất là tạo được một cơ chế mà tăng trưởng và giảm bất bình đẳng là kết
quả đồng thời và là điều kiện hỗ trợ lẫn nhau.
Nền kinh tế thị trường hiện đại với đặc trưng cơ bản là đời sống kinh tế dân chủ kết
hợp với vai trò hướng dẫn và điều tiết của nhà nước là cơ chế đảm bảo giải quyết tốt nhất
mối quan hệ giữa tăng trưởng và công bằng xã hội. Tuy nhiên, vai trò điều tiết của nhà
nước trên thực tế là một vấn đề hết sức phức tạp. Vai trò đó phải được hiểu là sự hỗ trợ
những khiếm khuyết của thị trường thông qua các chính sách điều chỉnh vĩ mô hơn là làm
thay đổi hoặc can thiệp trực tiếp vào các quan hệ thị trường.
Các chính sách mà chính phủ các nước đạt được thành tựu cao trong tăng trưởng và
giảm bất bình đẳng là một tổ hợp các biện pháp điều tiết. Tổ hợp này khác nhau theo từng
nước và trong thời kỳ ở mỗi nước. Vì vậy, khi xem xét kinh nghiệm của các nước này
phải chú ý đặc biệt đến hoàn cảnh lịch sử và điều kiện cụ thể của mỗi nước. Không có
một khuôn mẫu chung cho tất cả các nước.
Cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ ở khu vực châu á bắt đầu từ nửa cuối năm 1997
đã đặt ra nhiều vấn đề đối với mô hình Đông á. Vì vậy, không nên tuyệt đối hoá những
thành quả mà các nền kinh tế này đã đạt được trong ba thập niên qua. Song cũng không
nên cho rằng những thần kỳ đó là ảo ảnh mặc dù giờ đây bản thân các nền kinh tế này
phải được điều chỉnh mạnh mẽ và từ bỏ một số biện pháp vốn đã đưa chúng tới thành
công. Đó là do những điều kiện lịch sử mới đòi hỏi.
Việt Nam đã đạt được những thành tựu cao trong tăng trưởng kinh tế qua hơn 10
năm đổi mới, đời sống số đông nhân dân được cải thiện rõ rệt, giải quyết việc làm và xoá
đói, giảm nghèo có tiến bộ, trong công bằng xã hội đang từng bước được xoá bỏ. Chế độ

×