Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Dữ liệu mới về liệu pháp điều trị HCV hiện thời và vai trò của nó với chiến lược điều trị ban đầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.56 KB, 15 trang )

14:42, 21/10/2022

Dữ liệu mới về liệu pháp điều trị HCV hiện thời và vai trị của nó với chiến lược điều trị ban đầu

Home Page

|

Tài liệu chuyên môn

|

Bạn cần biết
hệ

|

Thông tin hội nghị

|

Liên

 

Dữ liệu mới về liệu pháp điều trị HCV hiện thời và vai trị của nó với
chiến lược điều trị ban đầu





I.Giới Thiệu
Việc phát triển các phương pháp điều trị mới  đối với virus viêm gan C (HCV) tại đích
 đang từng bước phát triển nhanh chóng và những liệu pháp điều trị này như : ức chế
HCV protease và/hoặc ức chế polymerase được mong đợi sẽ kết hợp chặt chẽ trở
thành phương pháp trị liệu chủ yếu khi nhiễm virus HCV trong những năm tới. Trong
kỷ nguyên của những phương pháp điều trị mới, các phương pháp điều trị chuẩn hiện
thời, peginterferon và ribavirin, sẽ vẫn tiếp tục đóng vai trị quan trọng để điều trị các
trường hợp nhiễm HCV, trở thành xương sống của các liệu pháp điều trị tương lai
nhằm ngăn chặn tình trạng tăng kháng thuốc và tạo thuận lợi cho việc loại trừ hoàn
toàn nhiễm trùng HCV. Do đó, chiến lược tối đa hóa tác dụng của liệu pháp kết hợp
ribavirin và peginterferon có vai trò quan trọng trong phương pháp điều trị viêm gan C
hiện thời và trong tương lai.


Xác định rõ mức độ nhạy của virus với liệu pháp peginterferon/ribavirin chưa được
hiểu đầy đủ nhưng dường như nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố đầu vào và các yếu tố
ảnh hưởng khác trong q trình điều trị, có thể phân thành các nhóm: yếu tố của
người bệnh, yếu tố thuộc virus, yếu tố thuộc phương pháp trị liệu và yếu tố trên thực
tế lâm sàng (Bảng 1). Ví dụ, trong  số các bệnh nhân nhiễm HCV genotype 1 được
điều trị trong hai thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên đa quốc gia bằng peginterferon alfa2a và ribavirin, xác suất thu được đáp ứng siêu vi bền vững (SVR) nằm trong khoảng
7% - 97% tương ứng với các đặc trưng trước và trong điều trị (Hình 1). Mặc dù một số
yếu tố thuộc bệnh nhân và tình trạng bệnh đặc trưng như tuổi, giới, chủng tộc, và
genotype HCV khơng thể thay đổi thì các yếu tố khác như béo phì, tình trạng kháng
insulin, thiếu máu có thể kiểm sốt được trước điều trị nhằm tối đa hiệu quả điều trị
của liệu pháp peginterferon/ribavirin do tăng cường khả năng dung nạp thuốc ở bệnh
nhân và/hoặc theo sát quá trình điều trị. Những người nghiên cứu lâm sàng và bệnh
nhân nên cố gắng sửa đổi  các yếu tố có thể thay đổi này một cách có hệ thống trước
khi bắt đầu điều trị HCV.
Bảng 1. Các yếu tố ảnh hưởng đến đáp ứng  điều trị HCV
Yếu tố



thuộc người bệnh
www.drthuthuy.com/reseach/DuLieuMoiChoDRI_HCV.html

Yếu tố


thuộc virus

Yếu tố


thuộc phương

Yếu tố trên lâm
sàng
1/15


14:42, 21/10/2022

Dữ liệu mới về liệu pháp điều trị HCV hiện thời và vai trị của nó với chiến lược điều trị ban đầu

pháp
điều trị
1.Tuổi                                                 

1. Genotype 1.Loại IFN


      1.Kỹ năng

                            
2.Giới

2.Lượng HCV 2.Liều

  2.Kinh nghiệm

RNA
3.Chủng tộc

 

3.Thời gian điều  
trị

4.Cân nặng

 

4. Tuân thủ điều  
trị

5.Kháng insulin

 

5.Các tác dụng  
phụ


6.Gan nhiễm mỡ

 

 

 

  7.Tình trạng tâm tần

 

 

 

  8.Tiền sử uống rượu,  nghiện  

 

 

ma túy
  9.Xơ gan

 

 


 

 10.Đồng nhiễm HIV

 

 

 

Hình 1. Đánh giá khả năng thu được SVR theo các yếu trước điều trị

www.drthuthuy.com/reseach/DuLieuMoiChoDRI_HCV.html

2/15


14:42, 21/10/2022

Dữ liệu mới về liệu pháp điều trị HCV hiện thời và vai trị của nó với chiến lược điều trị ban đầu

Tuổi

20

20

43

43


43

60

60

60

BMI

20

20

26

26

26

30

30

30

ALT quotient*

7


2

2

2

2

2

1

1

HCV RNA,
IU/mL x 103

40

40

40

1200

9000

9000


9000

9000

Xơ gan

Không Không Khơng Khơng Khơng Khơng Khơng



*Số lần tăng ALT ban đầu  so với giá trị bình thường

II.Kiểm sốt các yếu tố trước điều trị
Mặc dù nhiễm HCV là một bệnh lý nguy hiểm nhưng việc điều trị nó hiếm khi khẩn
cấp. Bước đầu tiên của việc kiểm soát bệnh là cần phải nhận thức đầy đủ và ghi nhận
các điều kiện có thể ảnh hưởng tới xác suất thu được đáp ứng điều trị với
peginterferon/ribavirin, cần quan tâm hơn những yếu tố có thể thay đổi được, ít quan
tâm với các yếu tố đã cố định (ví dụ, chủng tộc, HCV genotype, và lượng HCV RNA).
1.Béo phì, kháng insulin, và tình trạng gan nhiễm mỡ
Dữ liệu thu được từ các thử nghiệm lâm sàng đã chứng minh rõ ràng tỷ lệ SVR thấp
hơn ở những trường hợp nhiễm HCV có tương quan với BMI, kháng insulin và/hoặc
tình trạng gan nhiễm mỡ.  Cơ sở sinh lý học của sự suy giảm đáp ứng với interferon ở
những trường hợp có các tình trạng này chưa được hiểu đầy đủ nhưng dường như
mối tương quan lớn nhất là với tình trạng béo phì. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh
những bệnh nhân béo phì (BMI>30), không mắc gan nhiễm mỡ, thu được thấp hơn
80% tỷ lệ có SVR trong q trình điều trị HCV khi so với nhóm khơng bị béo phì.  Ảnh
www.drthuthuy.com/reseach/DuLieuMoiChoDRI_HCV.html

3/15



14:42, 21/10/2022

Dữ liệu mới về liệu pháp điều trị HCV hiện thời và vai trị của nó với chiến lược điều trị ban đầu

hưởng của tình trạng béo phì đến đáp ứng điều trị có thể do giảm hoạt động sinh hóa
của thuốc, tăng cường oxi hóa và ức chế q trình truyền tín hiệu tải nạp  interferon
kết quả của sự giảm hiệu quả của dòng gen cảm ứng . Ngồi ra, tình trạng kháng
insulin có liên quan với béo phì có thể dẫn đến gan nhiễm mỡ và xơ hóa phát triển, và
những bệnh nhân có bệnh gan tiến triển này được ghi nhận có ít đáp ứng hơn khi điều
trị bằng interferon. Cũng có khả năng kháng insulin có liên quan tới sự tăng tái phát
virus. Mặc dù các cơ chế này chưa được biết đầy đủ nhưng những can thiệp làm cải
thiện và giảm BMI và/hoặc cải thiện tình trạng kháng insulin có thể tạo ra kết quả điều
trị tốt hơn.
2.Giảm cân
Tiến hành giảm cân kết hợp với cải thiện chỉ số hóa sinh và mơ học ở những bệnh
nhân nhiễm HCV và bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu (NAFLD). Gần đây, Belletani
và đồng sự   đã tiến hành các nghiên cứu tổng quan hệ thống nhằm chứng minh hiệu
quả của việc thay đổi lối sống bằng cách giảm cân thông qua giảm lượng calo ăn vào
và tăng cường hoạt động ở những bệnh nhân nhiễm HCV có NAFLD. Phân tích đã
cho thấy cần thiết có các quy định riêng với từng cá nhân gồm lời khuyên, hướng dẫn
đến từ các nhà ăn kiêng, nhà tâm lý, và tập thể dục hoặc các chuyên gia khác đưa ra
các cách thức tiến hành phù hợp nhằm thay đổi lối sống của bệnh nhân (Bảng 2).
Thay đổi lối sống ở bệnh nhân NAFLD giúp cải thiện tình trạng men gan, giảm tính
kháng insulin và gan nhiễm mỡ.
Bảng 2. Chiến lược nhằm thay đổi lối sống ở bệnh nhân bị gan nhiễm mỡ
1. Đồng cảm và sử dụng liệu pháp tâm lý khi trao đổi với bệnh nhân về những thách
thức gặp phải khi thay đổi lối sống
2. Nhìn lại những thuận lợi và  tiềm năng của các thách thức thay lối sống
3. Phát hiện những rào cản của việc thay đổi và đưa ra các giải pháp nhằm vượt qua

những thách thức đó
4. Khuyến khích bệnh nhân bằng cách đưa ra những hy vọng và giúp họ tin rằng thay
đổi là có thể
5. Hiểu rằng béo phì là tình trạng bệnh lý và giúp những bệnh nhân với sự đồng cảm
6. Cung cấp chi tiết kế hoạch thay đổi lối sống và cung cấp những thiết bị hỗ trợ
nhằm đạt được mục đích can thiệp

www.drthuthuy.com/reseach/DuLieuMoiChoDRI_HCV.html

4/15


14:42, 21/10/2022

Dữ liệu mới về liệu pháp điều trị HCV hiện thời và vai trị của nó với chiến lược điều trị ban đầu

 
Khơng may, khơng có thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng được tiến hành
để kiểm định giả thuyết giảm cân trước khi điều trị HCV sẽ làm cải thiện đáp ứng siêu
vi thu được sau điều trị. Tuy nhiên theo những tín hiệu tích cực thu được, việc giảm
cân ở những bệnh nhân béo phì trong ngăn chặn sự phát triển hoặc cải thiện tình
trạng bệnh, điều trị béo phì nên được cân nhắc tiến hành trên tất cả các bệnh nhân
nhiễm HCV.
3.Can thiệp dược lý
Những chiến lược điều trị khác tập trung vào việc điều trị tình trạng kháng insulin bằng
các thuốc làm tăng mức nhạy cảm với insulin như thiazolidinediones, rosiglitazone và
pioglitazone hoặc metformin. Ngoại trừ một vài nghiên cứu đối chứng ngẫu nhiên nhỏ
và một vài phân tích khác có cung cấp các bằng chứng ủng hộ việc sử dụng các thuốc
này trong điều trị NAFLD, và một thử nghiệm lớn tầm quốc gia đang được tiến hành
thì khơng có dữ kiện lâm sàng nào ủng hộ giả thuyết giảm tính kháng insulin bằng

cách này trước khi điều trị HCV sẽ có thể cải thiện kết quả đầu ra. Việc thiếu dữ kiện
lâm sàng, cộng với các bằng chứng gần đây về các biến chứng trên tim mạch của
những thuốc này­­, gợi ý rằng giảm cân thông qua thay đổi lối sống vẫn là biện pháp an
toàn nhất và thu được nhiều lợi ích nhất trong điều trị tình trạng béo phì, kháng insulin,
và gan nhiễm mỡ ở những bệnh nhân nhiễm HCV.
4.Trầm cảm
Raison và cộng sự đã chứng minh rằng những người có tiền sử trầm cảm và/hoặc
trầm cảm thể động có các rối loạn về tâm thần tăng cao trong khi điều trị bằng
peginterferon/ribavirin ở những bệnh nhân nhiễm HCV. Cụ thể, 162 bệnh nhân nhiễm
HCV được điều trị bằng peginterferon/ribavirin (theo liều cố định chuẩn hoặc theo cân
nặng) được đánh giá trước và sau điều trị về các dấu hiệu trầm cảm, sử dụng thang
Zung Self-Rating Depression Scale để đánh giá. Tiền sử trầm cảm tương quan có ý
nghĩa với sự phát triển các triệu chứng trầm cảm từ trung bình đến nặng, với tỷ suất
chênh (OR) 3,3 (Khoảng tin cậy 95% [CI]: 1.3  - 8.1; P<0.1). Thêm vào đó, sử dụng
liều ribavirin theo cân nặng cũng làm tăng nguy cơ xuất hiện các dấu hiệu trầm cảm
trong quá trình điều trị (OR: 2.7 [95%CI:1.3-5.6; P<0.1). Do đó bệnh nhân nhiễm HCV
nên được tiến hành sàng lọc về tình trạng trầm cảm và điều trị chính xác  đối với trầm
cảm thể động trước khi bắt đầu liệu pháp điều trị HCV. Những bệnh nhân này cũng
cần được theo dõi và đánh giá trong suốt thời gian điều trị, đặc biệt nếu họ có nguy cơ
xuất hiện trầm cảm cao. Trong sàng lọc những hệ thống thang đo chuẩn như Centers
for Epidemiologic Studies- Depression scale, Zung Self-Rating Depression Scale,
Beck Depression Inventory, hoặc Hospital Anxiety and Depression scale nên được sử
dụng. Bất cứ thang đo nào được lựa chọn thì cũng nên được sử dụng trong suốt thời
gian điều trị để có được độ đúng nhất về sự thay đổi các nấc trầm cảm theo thời gian.
Do mối quan hệ giữa tiền sử trầm cảm, dấu hiệu trầm cảm ban đầu với sự phát triển
của trầm cảm trong điều trị hoặc các triệu chứng của trầm cảm, kiểm soát sử dụng các
www.drthuthuy.com/reseach/DuLieuMoiChoDRI_HCV.html

5/15



14:42, 21/10/2022

Dữ liệu mới về liệu pháp điều trị HCV hiện thời và vai trị của nó với chiến lược điều trị ban đầu

biện pháp sao cho giảm thiểu tối thiểu sự phát triển của trầm cảm và gia tăng tối đa cơ
hội thu được đáp ứng với liệu pháp điều trị HCV là hết sức quan trọng. Một trong
những biện pháp sử dụng gây ra nhiều tranh cãi là sử dụng các thuốc chống trầm cảm
với mục đích dự phòng cho những bệnh nhân nhiễm HCV phải điều trị. Nghiên cứu
đầu tiên chỉ ra những lợi ích thu được là nghiên cứu trên những bệnh nhân dùng liều
cao interferon để điều trị khối u ác tính, mà tại đó việc sử dụng paroxetine được cho là
có tương quan với tỷ lệ mắc trầm cảm mới thấp hơn và tỷ lệ hoàn thành điều trị cao
hơn. Tuy nhiên, sử dụng các thuốc ức chế chọn lọc serotonin dự phòng còn nhiều
tranh cãi trong điều trị viêm gan C. Gần đây, Morasco và cộng sự đã tiến hành một
nghiên cứu mù đôi, đối chứng placebo của paroxetine với giả dược (placebo) trước
khi bắt đầu liệu pháp điều trị interferon alfa/ribavirin chuẩn ở 33 bệnh nhân nhiễm HCV
và nhận thấy rằng dự phịng paroxetine khơng làm giảm tỷ lệ trầm cảm do interferon
(35.7% paroxetine vs 31.6% với placebo). Trong nghiên cứu tương tự, sự can thiệp
bằng một SSRI ở thời điểm trước khi khởi đầu cho hiệu quả tương tự. Trong một
nghiên cứu độc lập, Raison và cộng sự tiến hành trên 61 bệnh nhân nhiễm HCV phân
ngẫu nhiên thành hai nhóm khởi đầu dùng paroxetine (n=28) hoặc placebo (n=33)  2
tuần trước khi điều trị bằng interferon/ribavirin và tiếp tục theo dõi trong suốt 24 tuần
của liệu pháp điều trị HCV. Các tác giả nhận thấy tỉ lệ xuất hiện trầm cảm là 17%; tuy
nhiên tỉ lệ này không khác nhau giữa hai nhóm. Với việc sử dụng hệ thống thang đo
Montgomery Asberg Depression Rating Scale (MADRS), một mối liên quan giữa sử
dụng paroxetine  và giảm điểm các triệu chứng trầm cảm trong quá trình điều trị đã
được ghi nhận. Đặc biệt, tỷ lệ phần trăm bệnh nhân mắc trầm cảm nhẹ, trung bình,
nặng trong suốt quá trình điều trị HCV thấp hơn có ý nghĩa ở những bệnh nhân sử
dụng paroxetine (p=0.02). Với kết quả đáng lưu ý này, các nhà nghiên cứu cho rằng
có sự tương quan giữa sử dụng paroxetine với giảm điểm MADRS; Với những bệnh

nhân có điểm MADRS trên mức trung bình (ví dụ,>3) ở thời điểm khởi đầu điều trị,
paroxetine sẽ làm giảm tối đa điểm MADRS 10,3 sau 20 tuần (95% CI: 2.1 – 18.5;
P<0.1 so với Placebo). Những nghiên cứu này chỉ ra rõ ràng rằng các SSRIs có hiệu
quả trong kiểm sốt trầm cảm khi điều trị bằng interferon.
Kết hợp lại, các bằng chứng lâm sàng đều ủng hộ việc sàng lọc và điều trị với trầm
cảm thể động và các bệnh nhân có dấu hiệu bị trầm cảm ở thời điểm trước khi bắt đầu
điều trị viêm gan C. Trong trường hợp khơng có rối loạn tâm thần động hoặc dấu hiệu
trầm cảm nâng lên thì việc dự phịng SSIs có thể khơng mang lại lợi ích nhưng vẫn có
thể được cân nhắc dùng cho một vài bệnh nhân. Tuy vậy, chủ động sàng lọc trong
điều trị và sử dụng SSRIs ban đầu khi cần thiết trong liệu pháp điều trị HCV sẽ giúp
giảm tỷ lệ mắc trầm cảm mới và quá trình trị liệu HCV ít bị gián đoạn dẫn đến khơng
đáp ứng. Do đó những người làm lâm sàng nên đồng thuận việc tiến hành sàng lọc và
tiến hành điều trị trầm cảm trong thời gian trị liệu.
5.Giảm tế bào máu
Phát hiện thiếu máu trước khi điều trị HCV cần tiến hành thêm các xét nghiệm xác
định chính xác nguyên nhân gây thiếu máu như thiếu hụt sắt, vitamin B12 hoặc folat.
Thiếu hụt tiểu cầu trước điều trị ở từng bệnh nhân là chỉ số cần thiết có ý nghĩa nhất
www.drthuthuy.com/reseach/DuLieuMoiChoDRI_HCV.html

6/15


14:42, 21/10/2022

Dữ liệu mới về liệu pháp điều trị HCV hiện thời và vai trị của nó với chiến lược điều trị ban đầu

trong điều trị HCV – nhất là những bệnh nhân bệnh gan tiến triển. Ở những trường
hợp này, lượng tiểu cầu đếm được chỉ còn lại một phần do cường lách, giảm sản xuất
thrombopoietin gan, và virus tác động lên tủy xương ngừng sản xuất. Khả năng tái sản
xuất bị giới hạn. Eltrombopag, một phân tử nhỏ mới, khơng có cấu trúc peptide, dùng

đường uống tác động chủ vận trên thrombopoietin-receptor, có tác dụng làm tăng
lượng tiểu cầu bằng cách tăng sinh đại bào (Megakaryocyte) và biệt hóa, kết quả
lượng tiểu cầu tăng phụ thuộc vào liều. Trong một nghiên cứu gần đây, McHutchison
và đồng sự tiến hành thử nghiệm ngẫu nhiên trên 74 bệnh nhân xơ gan có giảm tiểu
cầu (lượng tiểu cầu đếm được nằm trong khoảng 20,000 – 70,000 tế bào/mm3) uống
eltrombopag (30mg, 50mg hoặc 75 mg hàng ngày) hoặc placebo trong 4 tuần. Mối
quan hệ giữa liều dùng, lượng tiểu cầu tuần 4, số lượng bệnh nhân lúc bắt đầu điều trị
HCV ban đầu, và tỷ lệ bệnh nhân hoàn tất 12 tuần điều trị HCV đã được ghi nhận
(Bảng 3). Các tác dụng phụ gặp phải trong quá trình sử dụng eltrombopag cũng gần
giống với khi sử dụng placebo, ngoại trừ trường hợp những bệnh nhân sử dụng
eltrombopag 30mg/ngày bị đau đầu nhiều hơn (36% so với 16%, 17% và 17% của
nhóm uống eltrombopag 50mg, 75mg, và placebo). Những dữ liệu này cho thấy sử
dụng eltrombopag làm giảm tình trạng thiếu hụt tiểu cầu do tác dụng tăng sinh tiểu cầu
và cho phép có thể hồn tất liệu trình điều trị HCV.
6.Kinh nghiệm trên lâm sàng
Với những tình trạng bệnh lý phức tạp, bao gồm mắc cùng nhiễm HIV và các bệnh tim
mạch, những biện pháp y tế được cung cấp bởi những nhà lâm sàng  có kinh nghiệm
tại các trung tâm lớn có liên quan chặt chẽ tới việc cải thiện kết quả sau điều trị. Do đó
khơng có gì ngạc nhiên rằng: Trong một phân tích trên 5701 những người nhiễm HCV
lâu năm, Kanwal và cộng sự nhận thấy những bệnh nhân được theo dõi bởi những
nhà lâm sàng ít kinh nghiệm chiếm tới 77%, dường như rất ít được điều trị HCV so với
nhóm những người được chăm sóc bởi những nhà lâm sàng kinh nghiệm. Khi không
được điều trị kịp thời thì việc loại bỏ hồn tồn HCV là khơng thể; do đó kinh nghiệm
điều trị đóng vai trò quan trọng để đạt hiệu quả điều trị HCV. Trong tương lai cần đào
tạo và tập huấn cho các bác sĩ điều trị và các đối tượng cung cấp dịch vụ y tế trung
gian, kiểm sốt những người tình nguyện tham gia vào liệu pháp điều trị nhằm gia
tăng cơ hội thành công sau trị liệu.
Bảng 3: Quan hệ giữa liều Eltrombopag và kết quả
Đích điều trị % (n/N)


Placebo Eltrombopag Eltrombopag Eltrombopag
30mg/ngày 50mg/ngày 75mg/ngày

Lượng tiểu cầu ở tuần 4 ≥ 0 (0/17)
100,000 tế bào/mm3

75* (9/12)

79* (15/19)

95* (20/21)

Bắt đầu liệu pháp diệt virus

71 (10/14)

74 (14/19)

91 (21/23)

www.drthuthuy.com/reseach/DuLieuMoiChoDRI_HCV.html

22

7/15


14:42, 21/10/2022

Dữ liệu mới về liệu pháp điều trị HCV hiện thời và vai trị của nó với chiến lược điều trị ban đầu


(4/18)
Kết thúc 12 tuần liệu trình diệt 6 (1/18)

36+ (5/14)

53 (10/19)

65* (15/23)

virus
*P<0.001 vs placebo
+P=0.003 vs placebo

III.Những yếu tố trong điều trị có thể thay đổi
Bổ xung ribavirin vào liệu pháp interferon gần 10 năm về trước đã thu được hiệu quả
điều trị cực kỳ ấn tượng; tỷ lệ SVR thu được tăng gấp đôi từ khoảng 20% lên hơn
40%. Từ thời điểm đó, chiến lược điều trị nhằm tăng SVR được tập trung chú trọng
phát triển, như việc gắn thêm peg vào interferon nhằm tăng cường đặc tính dược
động học và dược lực học của nó. Kết quả của sự thay đổi này làm tăng SVR có ý
nghĩa, mặc dù còn khiêm tốn, tỷ lệ SVR tăng lên khoảng 55%. Những nghiên cứu tiếp
theo tập trung vào chế độ sử dụng peginterferon/ribavirin trong điều trị bằng cách
1. Thiết kế độ dài đợt điều trị dựa vào động học virus theo từng cá thể (vd, đáp ứng
siêu vi nhanh [RVR], Đáp ứng siêu vi sớm [EVR], Đáp ứng siêu vi sớm   hoàn
toàn [ complete EVR]).
2. Tăng liều peginterferon và/hoặc ribavirin
3. Lựa chọn chế độ liều theo cân nặng hoặc chế độ liều peginterferon cố định.
1.Mối quan hệ giữa đáp ứng siêu vi trong quá trình điều trị và SVR
Mặc dù HCV genotype và lượng HCV RNA  là các chỉ số trước điều trị quan trọng dự
báo về đáp ứng điều trị, cơng cụ dự đốn có hiệu lực cao nhất về kết quả điều trị HCV

chính là các đáp ứng siêu vi trong quá trình điều trị. Các kiểu đáp ứng và không đáp
ứng khác nhau đã được chỉ ra trong Bảng 4. Những bệnh nhân thu được RVR (HCV
RNA<50 UI/ml vào tuần thứ 4 của liệu trình) có khả năng cao đạt SVR (xấp xỉ 80%
đến 90%), bất kể các đặc tính ban đầu (vd, genotype, lượng HCV RNA, nhiễm đồng
thời HIV, xơ gan, và chủng tộc). Mặt khác những bệnh nhân không giảm lượng HCV
RNA 1log­­10  so với ban đầu ở tuần thứ 4 của liệu trình thì xác suất diệt sạch virus là ít
hơn 5%. Thêm vào đó, quy tắc tuần 12 dừng được sử dụng trên lâm sàng, khi xác
suất thu được SVR thấp ở những bệnh nhân khơng có sự giảm HCV RNA so với ban
đầu a≥2 log10.
Đáng lưu ý, dữ liệu thu được từ nhiều nghiên cứu lâm sàng cho thấy những bệnh
nhân nhiễm HCV genotype 2 hoặc 3 dường như được điều trị hoàn toàn, phần lớn là
do nhận thức của người bệnh và người điều trị về lợi ích của trị liệu. Ví dụ, trong
nghiên cứu do trên những người bị lâu năm do Kanwal và cộng sự thực hiện, bệnh
nhân nhiễm genotype 1 HCV, đặc biệt người da đen, ít được điều trị liệu pháp diệt
kháng virus hơn có ý nghĩa khi so sánh với nhóm nhiễm HCV genotype 2 hoặc 3 (nguy
cơ tương đối: 0.78; 95% CI: 0.71 – 0.86). Những dữ liệu lâm sàng này chỉ ra rằng
www.drthuthuy.com/reseach/DuLieuMoiChoDRI_HCV.html

8/15


14:42, 21/10/2022

Dữ liệu mới về liệu pháp điều trị HCV hiện thời và vai trị của nó với chiến lược điều trị ban đầu

những bệnh nhân và người điều trị được lựa chọn làm chậm liệu trình điều trị HCV là
những người có dự đốn ban đầu sẽ thu được tỷ lệ SVR thấp. Điều mấu chốt chính là
việc nhận ra yếu tố dự đoán kết quả điều trị thành cơng (vd, SVR) có hiệu lực cao
nhất, kể cả các trường hợp khó điều trị, chính là đáp ứng điều trị sau 4 hoặc 12 tuần
bằng peginterferon và ribavirin.

Bảng 4. Xác định loại đáp ứng điều trị ở bệnh nhân
Loại đáp

Tuần điều

ứng

trị

RVR
EVR

4
một

phần
EVR   hồn
tồn
Khơng

đáp

ứng

12

12

12


Đáp ứng siêu
vi chậm

24

Khơng có đáp
ứng siêu vi

24

Đáp ứng siêu vi

HCV RNA < 50 IU/ml (Không phát hiện được)
HCV RNA giảm > 2 log10 so với ban đầu nhưng vẫn
phát hiện được
HCV RNA < 50 IU/ml (Không phát hiện được)

HCV RNA  giảm ít  hơn
< 2log10 so với ban đầu
HCV RNA giảm > 2log10 ở tuần điều trị 12 và HCV RNA
< 50 IU/ml (Không phát hiện được ở tuần 24)
HCV RNA phát hiện được ở tuần 24

Sau điều trị HCV RNA không phát hiện được ở cuối đợt điều trị
(ở bất kỳ nhưng phát hiện được ở lần tiếp theo
Tái phát virus
thời điểm
nào)
Nói cách khác, các nhà lâm sàng khơng thể dự đốn liệu những bệnh nhân có đáp
ứng kém trước đây sẽ đáp ứng tốt với đợt điều trị mới hay không và những đáp ứng

tốt với liệu pháp trước đây có sử dụng được cho các đợt điều trị tiếp theo.
Căn cứ theo nguyên lý cơ bản này, phương pháp hiệu quả nhất để lựa chọn bệnh
nhân nhiễm HCV tham gia vào liệu pháp diệt virus được thành cơng có thể chuyển
thành liệu pháp thử của liệu pháp peginterferon/ribavirin, xác định khả năng dung nạp
cơ bản của từng cá nhân và đáp ứng với peginterferon/ribavirin. Nếu liệu pháp điều trị
kém dung nạp hoặc HCV RNA không đáp ứng đủ (lượng HCV RNA giảm <1 log­­10 so
www.drthuthuy.com/reseach/DuLieuMoiChoDRI_HCV.html

9/15


14:42, 21/10/2022

Dữ liệu mới về liệu pháp điều trị HCV hiện thời và vai trị của nó với chiến lược điều trị ban đầu

với ban đầu ở tuần thứ 4), bệnh nhân và người điều trị có thể chọn dừng điều trị liệu
pháp diệt virus. Mặt khác, nếu dung nạp ổn và thu được đáp ứng một phần (lượng
HCV RNA giảm >1 log­­10 nhưng vẫn phát hiện được), hoặc tốt hơn, thì bệnh nhân và
người bệnh có thể tiếp tục điều trị tới tuần 12 và đánh giá lại đáp ứng siêu vi tại thời
điểm đó. Cuối cùng, nếu liệu pháp điều trị dung nạp tốt và không phát hiện được HCV
RNA ở tuần thứ 4 thì bệnh nhân có tới 90% thu được SVR và trong một vài trường
hợp có thể rút ngắn được thời gian điều trị.
Một lợi ích tiềm ẩn nữa đối với bệnh nhân là “liệu pháp thử” có thể xác định đáp ứng
của từng bệnh nhân với interferon/ribavirin. Điều này giúp chỉ dẫn cho việc thêm HCV
protease và chất ức chế polymerase như một phần của chế độ điều trị tương lai. Mặc
dù cần có các nghiên cứu tiếp theo, một vài chuyên gia nhấn mạnh rằng những bệnh
nhân khơng có đáp ứng với peginterferon/ribavirin (giảm < 2log­­10 sau 12 tuần điều trị)
có thể có nguy cơ thất bại điều trị cao bởi tính kháng của HCV, đặc biệt với liệu pháp
điều trị dùng các thuốc kháng virus HCV tại đích (STAT-C), khi khơng kết hợp tác dụng
của liệu pháp peginterferon/ribavirin vào cùng với một STAT-C đơn độc. Những bệnh

nhân như vậy có thể bắt buộc phải dùng nhiều hơn 1 STAT-C để thu được SVR.
2.Thời gian điều trị tùy theo động học virus của từng bệnh nhân
Mặc dù liệu trình điều trị peginterferon/ribavirin rút gọn được khuyến cáo cho những
bệnh nhân có một RVR song lại chưa đạt được đồng thuận trong thực hành điều trị
chuẩn của nhiều nhà lâm sàng, bởi một vài nghiên cứu lại cho rằng liệu trình kéo dài
hơn có thể có nhiều lợi ích hơn đối với bệnh nhân có dung nạp và đáp ứng chậm với
liệu pháp điều trị. Đặc biệt, nhiều nghiên cứu cho thấy khoảng thời gian HCV RNA âm
tính là chìa khóa quyết định thành cơng điều trị. Thí dụ, một nghiên cứu của Frenci và
cộng sự đã chỉ ra rằng 91% bệnh nhân có RVR và hồn thành đủ q trình điều trị (vd,
20 tuần HCV RNA âm tính với bệnh nhân nhiễm HCV genotype 2 – 3, 44 tuần HCV
RNA âm tính với bệnh nhân nhiễm HCV genotype 1) thu được SVR. Ngược lại, 45%
bệnh nhân có HCV RNA dương tính tới tuần điều trị thứ 24  âm tính sau đó vẫn thu
được SVR( bảng 5). Trong số những bệnh nhân nhiễm HCV RNA genotype 1 thất bại
trong việc thiết lập một EVR hồn tồn ( HCV RNA âm tính ở tuần thứ 12), liệu trình
điều trị dài hơn có liên quan với tỷ lệ tái bản virus thấp hơn và tỷ lệ SVR cao hơn; theo
đó liệu trình kéo dài tới 72 tuần cho những bệnh nhân nhỉễm HCV genotype1 có đáp
ứng chậm được xem là chiến lược điều trị tốt nhất (Bảng 6). Ngoài ra, những bằng
chứng mới ghi nhận cho thấy với những bệnh nhân khó điều trị thì liệu trình 72 tuần có
thể hữu ích. Trong nghiên cứu của Pearl và cộng sự, tỷ lệ SVR ở những bệnh nhân
nhiễm HCV genotype 1, đáp ứng chậm là 21% cao khi kéo dài thời gian điều trị lên 72
tuần cao  gần gấp đôi so với BN dừng điều trị sau 48 tuần( 12%, P=0.2)
Bảng 5. Mối quan hệ giữa thời gian HCV RNA âm tính-Đáp ứng cuối điều trị và SVR
Lượng HCV RNA
Tại tuần 4
www.drthuthuy.com/reseach/DuLieuMoiChoDRI_HCV.html

Âm

>2 log


<2 log

>2 log

<2 log Bất kỳ
10/15


14:42, 21/10/2022

Dữ liệu mới về liệu pháp điều trị HCV hiện thời và vai trị của nó với chiến lược điều trị ban đầu

tính
Tại tuần 12

Âm
tính

Tại tuần 24

Âm
tính

Tỷ lệ bệnh nhân có đáp ứng
tương ứng, %

drop

drop


Âm tính Âm tính

drop

drop

>2 log

>2 log

drop

drop

Bất kỳ

Âm tính Âm tính Âm tính Âm tính

(n=33) (n=93)

(n=20)

(n=21)

Âm
tính

(n=30) (n=63)

Đáp ứng EOT


91

94

90

86

90

13

SVR

91

72

60

48

43

2

EOT: Kết thúc điều trị
Bảng 6. Những nghiên cứu ủng hộ việc sử dụng liệu trình điều trị kéo dài ở người có đáp ứng
siêu vi chậm

Nghiên

Xác định

Thời gian điều

SVR,

trị, tính theo tuần

%

Peginterferon alfa – 2a + ribavirin
Jensen et HCV RNA + 1000 – 1200/ngày
al
ở tuần 4

24

23

48

44

Peginterferon alfa – 2a + ribavirin

48

32


72

45

Peginterferon alfa – 2a + ribavirin
HCV RNA + 800/ngày
Berg et al
ở tuần 12

48

17

72

29

Peginterferon alfa – 2b + ribavirin

48

18

72

38

cứu


SanchezTapias et
al

đáp ứng
chậm

HCV RNA +
ở tuần 4

Pearlman HCV RNA +
et al

ở tuần 12

Điều trị

800/ngày

800-1400 mg/ngày

www.drthuthuy.com/reseach/DuLieuMoiChoDRI_HCV.html

11/15


14:42, 21/10/2022

Dữ liệu mới về liệu pháp điều trị HCV hiện thời và vai trị của nó với chiến lược điều trị ban đầu

Shiffman

et al

HCV RNA + Peginterferon alfa – 2a + ribavirin
ở tuần 4

16

26

24

45

48

37

72

63

800/ngày

Peginterferon alfa – 2a hoặc 2b +
Mangia et HCV RNA + ribavirin 1000 -1200 mg/ngày
al
ở tuần 12

Còn nhiều tranh cãi trong việc xác định một đáp ứng chậm, một vài nghiên cứu định
nghĩa “đáp ứng chậm” là thất bại trong việc đạt được một RVR (HCV RNA < 50 IU/mL

ở tuần thứ 4) trong khi các nghiên cứu khác lại định nghĩa “đáp ứng chậm” là thất bại
trong việc đạt được một EVR hoàn toàn (HCV RNA < 50 IU/mL ở tuần thứ 12). Tuy
nhiên, một sự đồng thuận đang được nhiều ủng hộ cho rằng thất bại trong việc đạt
được một complete EVR được xem như là dấu hiệu xác định đáp ứng chậm ở những
bệnh nhân nhiễm HCV genotype 1, còn thất bại trong việc đạt được một RVR được
xem là dấu hiệu xác định đáp ứng chậm ở những bệnh nhân nhiễm HCV genotype 2
hoặc 3. Theo đó, những người có đáp ứng chậm bởi tiêu chuẩn này nên cân nhắc mở
rộng thời gian điều trị lên 72 tuần với HCV genotype 1 và 48 tuần với HCV genotype 2
hoặc 3.
3.Thay đổi liều điều trị của Peginterferon hoặc Ribavirin
Liều cao Interferon được mở rộng nghiên cứu như một bước cảm ứng hoặc hướng
điều trị tiếp theo. Liều cao peginterferon được ghi nhận có mối tương quan với tỷ lệ
đạt HCV RNA âm tính cao trong quá trình điều trị. Trong nghiên cứu của Chariot trên
những bệnh nhân được điều trị bằng giai đoạn cảm ứng với peginterferon alfa – 2a
360 µg/tuần và ribavirin 1000 – 1200 mg/ngày trong 12 tuần, sau đó điều trị tiếp tục
bằng peginterferon liều chuẩn trong 36 tuần vs peginterferon liều chuẩn trong 48 tuần,
kết quả sơ bộ cho thấy rằng sử dụng liều cao peginterferon và ribavirin thu được tỷ lệ
EVR hoàn toàn (HCV RNA < 15 IU/mL ở tuần thứ 4) cao hơn ở những bệnh nhân
nhiễm HCV genotype1 so với những bệnh nhân được điều trị bằng peginterferon liều
chuẩn (tỷ lệ tương ứng là 74%  vs 60%; P<0.001). Mặc dù những phát hiện này rất
khả quan, song những  nghiên cứu khác lại cho thấy việc sử dụng peginterferon liều
cao trên những bệnh nhân không dùng ribavirin liều cao có thể làm tăng tỷ lệ tái phát
sau dừng điều trị. Ví dụ, Fried và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu liều dùng trên
những bệnh nhân nhiễm HCV genotype1 có HCV RNA ban đầu cao (HCV RNA >
800,000 IU/mL) và cân nặng trên 85 kg điều trị bằng peginterferon alfa – 2a 180 hoặc
270 µg  cùng với ribavirin liều 1200 hoặc 1600 mg/ngày. Trong 4 nhóm điều trị, nhóm
bệnh nhân được điều trị bằng peginterferon liều cao và ribavirin liều cao có tỷ lệ SVR
cao nhất (46,8%) so với những nhóm cịn lại được điều trị bằng peginterferon, ribavirin
liều chuẩn (28,3%). Mặc dù tỷ lệ đáp ứng kết thúc điều trị là tương tự nhau ở nhóm
điều trị bằng peginterferon liều cao cùng ribavirin liều cao và nhóm điều trị bằng

www.drthuthuy.com/reseach/DuLieuMoiChoDRI_HCV.html

12/15


14:42, 21/10/2022

Dữ liệu mới về liệu pháp điều trị HCV hiện thời và vai trị của nó với chiến lược điều trị ban đầu

peginterferon liều cao kết hợp ribavirin chuẩn (đều là 55,3%), tuy nhiên tỷ lệ tái phát  ở
nhóm bệnh nhân điều trị bằng ribavirin chuẩn cao hơn so với nhóm bệnh nhân điều trị
bằng ribavirin liều cao (46% vs 19% tương ứng). Trong một nghiên cứu độc lập khác,
Shiffman và cộng sự nhận thấy bệnh nhân nhiễm HCV genotype1 điều trị bằng
peginterferon alfa – 2b với ribavirin liều cao 15,2 mg/kg/ngày (1000 – 1600 mg/ngày)
có bổ sung Epoetin alfa dường như thu được tỷ lệ SVR cao hơn những bệnh nhân
điều trị bằng ribavirin liều chuẩn (13,3 mg/kg/ngày [800 – 1400 mg/ngày]) có bổ xung
Epoetin alfa (49% vs 29%, tương ứng; P < 0,05).
Cuối cùng, vai trò của ribavirin trong việc thu được SVR được đánh giá cụ thể hơn
trong một thử nghiệm ngẫu nhiên, có đối chứng, so sánh giữa nhóm điều trị bằng liệu
pháp kết hợp peginterferon và ribavirin trong 24 tuần sau đó điều trị bằng
Peginterferon đơn độc với nhóm điều trị kết hợp cả hai trong 48 tuần. Kết quả thu
được đáng chú ý, việc tạm dừng điều trị có mối tương quan với tỷ lệ virus sống sót và
tái phát cao. Những dữ liệu trên cho thấy liều dùng ribavirin có thể đóng vai trị quan
trọng khơng kém liều dùng peginterferon nhằm tối đa hóa tỷ lệ SVR thu được trong
liệu pháp kết hợp peginterferon/ribavirin.
4.Lưạ chọn Peginterferon alfa – 2b
Peginterferon alfa – 2a liều cố định.

liều


theo

cân

nặng

hoặc

Nhiều nghiên cứu lâm sàng chỉ ra rằng với những bệnh nhân nhiễm HCV genotype1
được điều trị bằng peginterferon alfa – 2a hay alfa - 2b kết hợp với ribavirin ( liều thay
đổi), tỷ lệ SVR dao động trong khoảng 42% - 46%. Tuy nhiên sự khác nhau này một
phần ảnh hưởng bởi thiết kế nghiên cứu, chế độ liều và quần thể bệnh nhân nghiên
cứu. Gần đây, dữ liệu từ nghiên cứu Lợi Ích Của Chế Độ Liều Cá Nhân và Liều Chung
Nhằm Tối Ưu Hóa Liệu Pháp Điều Trị Pegylated Interferon (IDEAL) cung cấp một thử
nghiệm so sánh hai chế độ liều này của peginterferon khi dùng cùng ribavirin liều tính
theo cân nặng đã cho thấy tỷ lệ SVR và khả năng dung nạp là tương đương nhau. Tổ
chức nghiên cứu đa trung tâm này tiến hành song song một thử nghiệm lâm sàng pha
IIIb trên 3070 bệnh nhân nhiễm HCV genotype 1 điều trị lần đầu theo một trong 3 cách
dùng peginterferon alfa – 2b 1,5 µg/kg/ngày kết hợp ribavirin 800 – 1400 mg/ngày,
peginterferon alfa – 2b 1,0 µg/kg/ngày kết hợp ribavirin 800 -1400 mg/ngày hoặc
peginterferon alfa – 2a 180 µg/tuần kết hợp ribavirin 1000 – 1200 mg/ngày. Ribavirin
được phân liều theo 4 nhóm cân nặng. Tiêu chuẩn lựa chọn là những bệnh nhân18 –
70 tuổi, trừ những người có cân nặng ≥ 75kg, những người bị trầm cảm nặng hoặc
những bệnh nhân xơ gan giai đoạn mất bù.
Tỷ lệ SVR khác biệt khơng có ý nghĩa ở những bệnh nhân nhiễm HCV genotype 1
được điều trị ngẫu nhiên bằng peginterferon alfa – 2b liều theo cân nặng 1.5 hoặc 1.0
µg/kg/tuần kết hợp cùng ribavirin với nhóm điều trị bằng peginterferon alfa-2a liều cố
định 180 µg/tuần kết hợp với ribavirin( bảng 7). Mặc dù biểu đồ biểu diễn liều ribavirin
có sự khác nhau với các nhóm sử dụng peginterferon, song những bệnh nhân điều trị
bằng peginterferon – 2a sử dụng liều ribavirin tính theo milligram trên kilogram cân

nặng theo ngày cao hơn độc lập với đáp ứng siêu vi một phần (biểu đồ 2a) và do đó
giảm liều ribavirin là cần thiết (biểu đồ 2b).
www.drthuthuy.com/reseach/DuLieuMoiChoDRI_HCV.html

13/15


14:42, 21/10/2022

Dữ liệu mới về liệu pháp điều trị HCV hiện thời và vai trị của nó với chiến lược điều trị ban đầu

Tính an tồn và khả năng dung nạp điều trị là giống nhau giữa các nhóm khi đánh giá
về các sự cố bất lợi nghiêm trọng và tỷ lệ gián đoạn điều trị. Những kết quả trên cho
thấy peginterferon alfa – 2a hay 2b đều mang lại hiệu quả giống nhau trên những bệnh
nhânnhiễm HCV genotype 1.

IV.Kết luận:
Mặc dù liệu pháp kháng virus tác dụng tại đích thu được kết quả nhanh trên lâm sàng,
nhưng điều lạ là liệu pháp kết hợp peginterferon và ribavirin hiện thời ngày càng đóng
vai trị quan trọng bởi vì nó sẽ đóng vai trị là xương sống của các liệu pháp tương lai
nhằm ngăn chặn tình trạng kháng thuốc bùng phát và dễ dàng loại trừ hoàn toàn virus.
Chiến lược tối ưu hóa hiệu quả của liệu pháp peginterferon kết hợp ribavirin sẽ đóng
vai trị trung tâm trong điều trị điều trị HCV.
Các liệu pháp điều trị hiện thời vẫn chưa phát huy được hết hiệu quả trên nhiều bệnh
nhân nhiễm HCV nguyên nhân xuất phát từ sự ảnh hưởng của các yếu tố trước và
trong điều trị. Từ các dữ liệu thu được cho thấy đáp ứng HCV RNA với liệu pháp trị
liệu là yếu tố dự đoán kết quả điều trị tốt nhất, tạo ra sự đồng thuận trong việc kiểm
soát điều trị ở bệnh nhân. Các yếu tố khác như béo phì, kháng Insulin, trầm cảm hay
thiếu máu có thể điều chỉnh bằng các biện pháp can thiệp y học trước khi bước vào
quá trình điều trị. William Osler nói:

“ Thầy thuốc giỏi điều trị bệnh
Thây thuốc vĩ đại cứu người bệnh”.
 

Bảng 7. Kết quả về tính hiệu quả và an toàn của nghiên cứu IDEAL
Kết quả, %

Peginterferon alfa- Peginterferon alfa- Peginterferon alfa2b 1.5µg/kg/tuần
2b 1.0µg/kg/tuần
2a 180µg /tuần
+ Ribavirin

+ Ribavirin

 

 

 

1. SVR

40

38

41

1. Tái phát


24

20

32

      Khả năng dung
nạp

 

 

 

1.Tác dụng
nguy hiểm

9

9

12

1. Đáp ứng

phụ

www.drthuthuy.com/reseach/DuLieuMoiChoDRI_HCV.html


+ Ribavirin

14/15


14:42, 21/10/2022

Dữ liệu mới về liệu pháp điều trị HCV hiện thời và vai trị của nó với chiến lược điều trị ban đầu

2.Tạm dừng điều trị

13

10

13

do tác dụng phụ
Xét đến các yếu tố điều trị, những nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng peginterferon alfa –
2a hay 2b đưa lại xác suất diệt virus như nhau với tác dụng không mong muốn tương
tự. Mặc dù một vài nghiên cứu ủng hộ việc dùng liều cao hơn hoặc chế độ liều cảm
ứng peginterferon cho những bệnh nhân khó điều trị, song hầu hết các nghiên cứu
đều khuyến khích tăng liều ribavirin (đích là 15 mg/kg); Tuy nhiên, việc ribavirin gây ra
hiện tượng thiếu máu sẽ đóng vai trị quan trọng trong xác định liều tới hạn gây độc
của liệu pháp điều trị ribavirin liều cao. Cuối cùng, kinh nghiệm và quá trình thực hành
của đội ngũ nhân viên y tế có thể tác động mạnh đến kết quả điều trị. Chất lượng đội
ngũ y bác sỹ điều trị cấu thành một bộ phận quan trọng trong thành công của liệu pháp
điều trị dùng tác nhân STAT – C.
Tóm tắt: Khuyến cáo cho thực hành lâm sàng
1. Tối ưu hoá chế độ điều trị peginterferon/ribavirin sẽ cịn là một đích hướng tới

quan trọng sau liệu pháp STAT – C được sử dụng.
2. Kiểm soát các yếu tố trước điều trị như béo phì, trầm cảm và thiếu máu là cần
thiết cho thành công liệu pháp peginterferon/ribavirin ở những bệnh nhân nhiễm
HCV.
3. Theo dõi các đáp ứng điều trị trong liệu trình điều trị cho phép hiệu chỉnh thời
gian điều trị.
4. RVR là yếu tố tin cậy chẩn đốn SVR.
5. Liệu trình kéo dài 72 tuần được khuyến cáo sử dụng cho bệnh nhân nhiễm HCV
genotype 1 hoặc người da đen có đáp ứng chậm.
6. Liệu trình kéo dài 48 tuần được khuyến cáo sử dụng cho bệnh nhiễm HCV
genotype 2 hoặc 3 có đáp ứng chậm.
7. Khả năng loại trừ hồn toàn virus và dung nạp điều trị là như nhau khi dùng
peginterferon alfa – 2b liều tính theo cân nặng và peginterferon alfa – 2a liều cố
định.
 

Home Page

|

Tài liệu chuyên mơn

|

Bạn cần biết

|

Thơng tin hội nghị


|

Liên hệ

Copyright © 2005 Dr. Phạm Thị Thu Thủy - Khoa gan - Trung tâm Y khoa Tp. Hồ Chí Minh

www.drthuthuy.com/reseach/DuLieuMoiChoDRI_HCV.html

15/15



×