Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Đề Tài: Nợ nước ngoài của Việt Nam thực trạng và các biện pháp đề xuất potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (449.67 KB, 51 trang )

Bài Luận
Đề Tài:
Nợ nước ngoài của Việt Nam thực
trạng và các biện pháp đề xuất
1
MỤC LỤC
Trang
Danh mục chữ viết tắt
Danh mục bảng biểu
Lời mở đầu
PHẦN 1: Khái niệm, phân loại và vai trò của nợ nước ngoài
Việt Nam 10
1.1. Khái niệm 10
1.2. Phân loại nợ nước ngoài 12
1.3. Vai trò của Nợ nước ngoài 14
1.4. Phương pháp xác định 15
PHẦN 2: Thực trạng về nợ nước ngoài ở Việt Nam nguyên nhân
và hạn chế của công tác quản lý nợ 16
2.1. Tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam 16
2.1.1. Các phương thức vay nợ chủ yếu của Việt Nam 16
2.1.2. Tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam 16
2.1.2.1 Tình hình chung 16
2.1.2.2 Lãi suất vay nợ của Việt Nam hiện nay 20
2.1.2.3 Cơ cấu nợ vay của Việt Nam 20
2.1.2.4 Các khoản nợ nước ngoài của việt nam một số năm gần đây 24
2.1.2.5 Hiệu quả sử dụng nợ vay 25
2.2. Tình hình quản lý nợ nước ngoài tại Việt Nam 28
2
2.2.1. Những thành tựu nổi bật của công tác quản lý nợ nước ngoài
ở Việt Nam 30
2.2.1.1 Quản lý nợ nước ngoài đã góp phần quan trọng vào phát


triển kinh tế và thu hút nguồn vốn ODA 30
2.2.1.2 Khung thể chế quản lý nợ nước ngoài đã được từng bước hoàn
thiện 31
2.2.1.3 Hệ thống tổ chức quản lý nợ nước ngoài đã hoàn thiện và
từng bước được cải thiện 31
2.2.1.4 Nâng lực cán bộ đang từng bước được nâng cao 31
2.2.2. Một số tồn tại trong vấn đề nợ nước ngoài hiện nay 32
2.2.2.1 Tồn tại trong vấn đề vĩ mô 32
2.2.2.2 Tồn tại trong các chính sách về việc quản lý nợ nước ngoài 32
2.2.2.3 Tồn tại trong việc đánh giá giám sát hiệu quả nợ nước ngoài 33
2.2.2.4 Tồn tại trong việc thống kê đúng và đủ về việc thực hiện nguồn
vốn được cấp từ nợ nước ngoài 33
2.3. Nguyên nhân 34
2.3.1. Yếu tố lịch sử 34
2.3.2. Thiếu hụt kinh nghiệm quản lý nợ 34
2.3.3. Nhiều văn bản cùng điều chỉnh một đối tượng quản lý 35
2.3.4. Thiếu hụt đối ngũ cán bộ chuyên môn 35
2.3.5. Hệ thống và quy trình kiểm định các dự án đầu tư còn yếu kém 35
2.3.6. Ứng dụng công nghệ thông tin còn yếu kém 36
3
PHẦN 3: Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vay và quản lý các
khoản vay nợ nước ngoài của Việt Nam 37
3.1. Các giải pháp đảm bảo khả năng tiếp nhận nợ vay nước ngoài 37
3.1.1. Đảm bảo tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững 37
3.1.2. Lựa chọn danh mục vay nợ hợp lý 37
3.1.3. Gia tăng dự trữ ngoại hối 38
3.2. Các giải pháp làm giảm chi phí vay nợ 39
3.2.1. Chính sách tỷ giá hối đoái 39
3.2.2. Ổn định lạm phát 39
3.2.3. Gia tăng hệ số tín nhiệm quốc gia 40

3.3. Các biện pháp sử dụng vốn vay hiệu quả 40
3.3.1. Kiểm soát nợ nước ngoài 41
3.3.2. Các biện pháp nhằm sử dụng nợ nước ngoài có hiệu quả 41
3.4. Các biện pháp quản lý nợ vay nước ngoài 43
3.5. Các biện pháp hỗ trợ 45
3.5.1. Ổn định môi trường thể chế 45
3.5.2. Cải thiện môi trường đầu tư 47
3.5.3. Phát triển nội lực nguồn kinh tế 47
3.5.4. Xây dựng môi trường tài chính hiệu quả 48
KẾT LUẬN 49
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 50
4
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
IMF Quỹ Tiền tệ Quốc tế
SNA Hệ thống thống kê tài khoản quốcgia
ODA Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức
OECD Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển
WB Ngân hàng Thế giới
WTO Tổ chức thương mại thế giới
JPY Đông Yên Nhật
NIB Ngân hàng đầu tư Bắc Âu
IBRD Ngân hàng quốc tế tái thiết và phát triển
IDA Hiệp hội phát triển quốc tế
IFAD Quỹ phát triển nông nghiệp quốc tế
NDF Quỹ phát triển Bắc Âu
NIB Ngân hàng đầu tư Bắc Âu
OPEC Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ
ADB Ngân hàng phát triển Châu Á
IFI Tổ chức tài chính quốc tế
GNI Tổng sản lượng quốc gia

XK Xuất khẩu
TC Tài Chính
NHNN Ngân hàng Nhà nước
ICOR Hệ số sử dụng vốn
NHTM Ngân hàng thương mại
FII Nguồn vốn đầu tư gián tiếp
FDI Nguồn vốn đầu tư trực tiếp
5
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1 Đánh giá theo mức độ nợ của các quốc gia theo % 15
Bảng 2.1 Tình hình nợ nước ngoài của Việt Nam từ 2003-2010 18
Bảng 2.2 Các chỉ tiêu về giám sát nợ nước ngoài của Việt Nam 21
Bảng 2.3 Quan hệ giữa thâm hụt thương mại và nợ nước ngoài của
Việt Nam giai đoạn 2005-2009 22
Bảng 2.4 Một số chủ nợ song phương lớn của Việt Nam 24
Bảng 2.5 Nợ vay từ các tổ chức đa phương của Việt Nam 25
6
Lời mở đầu
Nợ nước ngoài là một phần quan trọng và không thể thiếu trong tài chính mỗi
quốc gia. Từ những nước nghèo nhất ở châu Phi đến những quốc gia đang phát triển
như Việt Nam, Campuchia hay những cường quốc giàu có với trình độ phát triển
cao như Mỹ, Nhật, EU thì đều phải đi vay để phục vụ cho các nhu cầu chi tiêu và sử
dụng của chính phủ nhằm các mục đích khác nhau. Nợ nước ngoài cần phải được sử
dụng hợp lý, hiệu quả và quản lý tốt, nếu không thì khủng hoảng nợ nước ngoài có
thể xảy ra với bất cứ quốc gia nào tại bất cứ thời điểm nào và để lại những hậu quả
nghiêm trọng. Dù là công khai hay ngấm ngầm thì cũng đã có không ít những vụ
phá sản tầm cỡ quốc gia diễn ra trong suốt thời kỳ thế giới lâm vào khủng hoảng
kinh tế bắt nguồn từ Mỹ năm 2008. Có rất nhiều lý do dẫn tới cuộc khủng hoảng
toàn cầu này nhưng trong đó phải kể đến tình trạng nợ nước ngoài tràn lan ở nhiều
nước. Nợ nước ngoài khó kiểm soát ở nhiều quốc gia chính là nguyên nhân khiến

nền kinh tế phục hồi rất chậm chạp, mong manh và đứng trước nguy cơ tiếp tục
khủng hoảng. Kinh tế thế giới vừa trải qua cơn bão khủng hoảng dữ dội nhất kể từ
sau cuộc đại suy thoái 1929-1933 và đang chật vật hồi phục. Thế nhưng, sự hồi phục
hiện nay của kinh tế thế giới rất mong manh, bấp bênh và không loại trừ khả năng
có thể bị suy thoái trở lại bởi nhiều nguyên nhân, trong đó tình trạng nợ công tràn
lan ở nhiều nước là một nguyên nhân quan trọng.
Trong những năm gần đây, sự quan tâm của thế giới đang đổ vào Hy Lạp,
nơi mà núi nợ đang đè lên lưng nước này. Nó đã đẩy nền kinh tế nước này vào nguy
cơ sụp đổ với tổng số nợ công lên tới 300 tỷ Euro (chiếm 124% GDP năm 2009) và
mức thâm hụt ngân sách hai con số, trong khi tăng trưởng kinh tế tiếp tục âm. Hiện
nay, Hy Lạp là nước có mức nợ công thuộc loại nhiều nhất tại châu Âu so với quy
mô nền kinh tế và được ví như “một người bệnh đang trong thời kỳ nguy kịch”.
Mức độ tín nhiệm tài chính của nước này đã bị tụt xuống hạng BBB Điều này đồng
nghĩa với khả năng đi vay tiền từ bên ngoài trở nên khó khăn. Nếu không trả được,
7
Hy Lạp sẽ trở thành nước bị vỡ nợ, các chủ nợ sẽ tìm cách siết nợ, và như vậy, nền
kinh tế nước này sẽ rơi vào khủng hoảng khi mà các nhà đầu tư tìm cách tháo chạy
khỏi Hy Lạp. Tình trạng nợ công chồng chất không chỉ là hiện tượng đơn lẻ diễn ra
ở Hy Lạp hay Băng Đảo và Đu-bai gần đây, mà đã trở thành hiện tượng khá phổ
biến trên thế giới. Không riêng các nước đang phát triển mới đi vay, mà cả những
nước phát triển giàu có cũng mắc nợ.
Hiện nay, Mỹ là con nợ lớn thuộc loại hàng đầu thế giới với tổng số nợ lên
tới 13.000 tỷ USD, chiếm khoảng 93% GDP. Mức thâm hụt ngân sách của Mỹ năm
2010 dự kiến là 9,9%. Điều này báo hiệu núi nợ của Mỹ sẽ tăng lên tới mức xấp xỉ
100% GDP vào cuối năm nay.
Kể cả Nhật Bản, đã từng có thời người ta tưởng có thể sẽ “mua hết nước
Mỹ”, vậy mà bây giờ cũng trở thành một con nợ “cỡ bự” với mức nợ tương đương
với 227% GDP và thâm hụt ngân sách dự kiến 10,2 % năm 2010.
Rồi đến Trung Quốc, nước hiện được coi là chủ nợ nước ngoài lớn của Mỹ
và nhiều nước khác với nguồn dự trữ quốc gia trên 2000 tỷ USD, song cũng không

phải là không mắc nợ. Theo Giáo sư Victor Shih từ trường Đại học Northwestern
của Mỹ, các chính quyền địa phương của Trung Quốc đã vay mượn tổng cộng trên
11 nghìn tỷ nhân dân tệ (tương đương với 1,68 nghìn tỷ USD) từ năm 2004 cho tới
cuối năm 2009 và Trung Quốc có thể sẽ phải đối mặt với thâm hụt ngân sách khổng
lồ, chiếm hơn 10% GDP trong năm 2010.
Ấn Độ, một nền kinh tế lớn đang lên ở châu Á cũng đang đối mặt với tình
trạng nợ công nặng nề. Tỷ lệ nợ so với GDP năm 2009 lên tới 88,9% và mức thâm
hụt ngân sách năm 2010 dự kiến là 6,8%. Hiện Ấn Độ bị xếp hạng tín dụng quốc gia
BBB- giống như Hy Lạp.
Trong liên minh châu Âu (EU), hầu hết các nước đều đang trong tình trạng
nợ nần. Ngay cả Đức, nền kinh tế mạnh nhất châu Âu, cũng đẫm mình trong nợ với
mức 84,5% GDP. Nợ công của Pháp cuối năm 2009 đã lên xấp xỉ 1500 tỷ Euro,
8
tương đương với 82,6 % GDP, mức thâm hụt ngân sách 7,6 % và dự kiến còn tiếp
tục với mức 7,1% năm 2010. Tình hình của Italy lại còn đáng buồn hơn với mức nợ
công lên tới 120 % GDP năm 2009 và dự kiến thâm hụt ngân sách 5,6% năm 2010,
trong khi tăng trưởng kinh tế tiếp tục khó khăn (-2,3%). Một số nước như Tây Ban
Nha, Bồ Đào Nha, Băng Đảo, Ai-xơ-len cũng đang lâm tình cảnh nợ nần bi đát. Các
nước này đều có tỷ lệ nợ gần ngang, thậm chí có nước còn lớn hơn GDP và thâm hụt
ngân sách vượt xa mức quy định (3%) của EU, trong khi triển vọng tăng trưởng kinh
tế rất ảm đạm. Trường hợp Tây Ban Nha rất đáng lo ngại và nhiều chuyên gia cảnh
báo rằng Tây Ban Nha có thể sẽ đi theo con đường của Hy Lạp, bởi với ngân sách
bị thâm hụt ngang mức 11,4% GDP, tổng nợ công và tư tương đương 300% GDP -
những con số này trầm trọng hơn của Hy Lạp rất nhiều. Trong khi đó, thất nghiệp
của Tây Ban Nha cũng rất cao, tới 20% (4,5 triệu người) và nhất là hệ thống ngân
hàng rất mong manh.
Việt Nam trong nền kinh tế thị trường và hội nhập cũng không tránh khỏi
tình trạng trên. Trong khi tích lũy từ nội bộ nền kinh tế thông qua chi tiêu để dành
của quốc gia liên tục giảm thì nợ nước ngoài liên tục tăng, nguồn để đầu tư tăng và
ngân sách lại ngày càng trở nên thâm hụt. Và đáng lo ngại hơn cả là vay nợ nhưng

làm ăn kém hiệu quả và khả năng trả nợ ngày càng khó khăn hơn. Điều đó càng
khiến nợ nước ngoài ở Việt Nam tăng cao và tiến tới mức nguy hiểm. Đối với Việt
Nam, việc vay mượn vốn nước ngoài để đáp ứng yêu cầu tăng mức đầu tư trong
nước nhằm nâng cao năng lực sản xuất trong tương lai là một giải pháp hợp lý. Bởi
vì Việt Nam cần nguồn lực con người và vốn cao hơn nữa để cạnh tranh trên thị
trường thế giới với các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn, ví dụ như sản phẩm
điện tử. Mặt khác, Việt Nam vẫn là nền kinh tế đang phát triển nên có thu nhập
tương đối thấp cần phải đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng và con người để nâng tỷ lệ giá
trị gia tăng trong dài hạn với dự kiến chỉ tiêu tăng trưởng GDP bình quân 7,5%-
8,5%/năm trong giai đoạn 2011-2015. Song song với đó, Việt Nam đang cần đầu tư
vào các lĩnh vực như bệnh viện, trường học, dạy nghề, phát triển hạ tầng giao thông,
9
giảm bớt chi phí dịch vụ tiện ích và viễn thông, củng cố môi trường kinh doanh và
tăng cường trình độ các trung tâm nghiên cứu phát triển, xây dựng các công trình
phúc lợi nhằm nâng cao đời sống nhân dân hơn nữa và làm cho bộ mặt kinh tế đất
nước ngày càng thay đổi tốt hơn. Nợ nước ngoài đang làm nóng nghị trường Quốc
hội, mà trong đó gây tranh cãi nhiều nhất là quy mô, tính an toàn và tài trợ nợ nước
ngoài.
Do đó nhóm 14 chọn chủ đề :
“ Nợ nước ngoài của Việt Nam thực trạng và các biện pháp đề xuất .”
Nội dung bài gồm 3 phần chính :
 Phần 1: Khái niệm, phân loại và vai trò nợ nước ngoài của Việt Nam
 Phần 2: Thực trạng nợ nước ngoài và công tác quản lý về vay nợ của Việt Nam.
 Phần 3: Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả vay nợ và quản lý nợ nước ngoài.
Mặc dù cũng rất cố gắng để thực hiện đề tài song do còn là sinh viên nên kiến thức
và lý luận vẫn còn yếu do đó bài làm không sao tránh khỏi những lỗi sai và sự thiếu
sót. Nhóm 14 rất mong nhận được sự góp ý chân thành của cô giáo hướng dẫn để đề
tài đem lại nhiều lợi ích trong thực tế hơn. Nhóm em xin chân thành cảm ơn!
Nhóm thực hiện : Nhóm 14
10

PHẦNN 1: KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI VÀ VAI TRÒ NỢ
NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM
1.1. Khái niệm
Nợ nước ngoài là một khái niệm rộng lớn, chứa đựng nhiều yếu tố khác nhau.
Do đó để hiểu được khái niệm nợ nước ngoài, chúng ta cần phải tìm hiểu một số
khái niệm cơ bản sau:
 Nợ: là lượng tiền mà một công ty hoặc một cá nhân nợ một tổ chức
hoặc một cá nhân khác. Nợ phát sinh từ việc vay tiền để mua hàng hoá, dịch vụ
và các tài sản tài chính khác. Một khoản nợ được tạo ra khi người cho vay đồng ý
cho người đi vay một lượng tài sản nhất định.
 Nợ xấu: là một khoản tiền cho vay mà chủ nợ xác định không thể
thu hồi lại được và bị xoá sổ khỏi danh sách các khoản nợ phải thu của chủ
nợ.Với hai khái niệm cơ bản trên chúng ta có thể đi vào tìm hiểu thế nào là nợ nước
ngoài? Vậy thì một câu hỏi đặt ra lúc này là tại sao chúng ta phải tìm hiểu
khía cạnh nợ xấu trong nợ nước ngoài. Lịch sử kinh tế thế giới là một minh
chứng hùng hồn nhất cho tấm thảm kịch nợ không an toàn, đó là các cuộc khủng
hoảng nợ xảy ra ở một số khu vực trên thế giới. Hơn nữa, trong những năm vừa qua
thế giới đã chịu ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu như cuộc
khủng hoảng nợ công tại các nước Châu Âu, đặc biệt là cuộc khủng hoảng nợ tại Hy
Lạp. Theo nhận định của nhiều chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực kinh tế,
năm 2012 là một năm đầy những khó khăn và thử thách cho kinh tế thế
giới do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, trong đó khủng
hoảng nợ là một bộ phận cấu thành khủng hoảng kinh tế.
 Nợ Chính phủ (hay còn gọi là nợ công hay nợ quốc gia) là tổng giá trị các
khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương tới địa phương đi vay. Việc đi
vay này là nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách Nhà nước và thường được
đo lường bằng phần trăm so với tổng sản phẩm quốc nội GDP.
11
 Hỗ trợ phát triển chính thức (hay ODA, viết tắt của cụm từ Official
Development Assistance), là một hình thức đầu tư nước ngoài. Gọi là Hỗ trợ bởi vì

các khoản đầu tư này thường là các khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất thấp
với thời gian vay dài. Đôi khi còn gọi là viện trợ. Gọi là Phát triển vì mục tiêu danh
nghĩa của các khoản đầu tư này là phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi ở nước
được đầu tư. Gọi là Chính thức, vì nó thường là cho Nhà nước vay.
Ta có các quan niệm về nợ nước ngoài cụ thể như sau :
 Theo khoản 8 điều 2 quy chế vay và trả nợ nước ngoài (Ban hành kèm
theo Nghị định số 134/2005/NĐ-CP ngày 1 tháng 11 năm 2005 của Chính
phủ) thì: “Nợ nước ngoài của quốc gia là số dư của mọi nghĩa vụ hiện
hành (không bao gồm nghĩa vụ nợ dự phòng) về trả nợ gốc và lãi tại một
thời điểm của các khoản vay nước ngoài tại Việt Nam. Nợ nước ngoài của
quốc gia bao gồm nợ nước ngoài của khu vực công và nợ nước ngoài của
khu vực tư nhân”. Như vậy, theo cách hiểu này nợ nước ngoài là tất
cả các khoản vay mượn của tất cả các pháp nhân Việt Nam đối với nước
ngoài và không bao gồm nợ của các thể nhân (nợ của cá nhân và hộ gia
đình).
 Trong cuốn Thống kê nợ nước ngoài : Hướng dẫn tập hợp và sử dụng do
nhóm công tác liên ngành của IMF thì khái niệm nợ nước ngoài được
hiểu như sau: “Tổng nợ nước ngoài tại bất kỳ thời điểm nào là số
dư nợ của các công nợ thường xuyên thực tế, không phải công nợ
bất thường, đòi hỏi bên nợ phải thanh toán gốc và/hoặc lãi tại một
(số) thời điểm trong tương lai, do đối tượng cư trú tại một nền
kinh tế nợ và đối tượng không cư trú”. Theo khái niệm này, khái
niệm nợ nước ngoài không tách rời khái niệm đối tượng cư trú. Như vậy
xét về bản chất không có sự khác biệt đáng kể trong định nghĩa nợ nước
ngoài của quốc gia và quốc tế. Tuy nhiên định nghĩa về nợ nước
ngoài của quốc tế rõ ràng hơn. Khái niệm nợ nước ngoài của quốc
12
tế về cơ bản mang ý nghĩa thống kê và nhất quán với SNA. Để
đảm bảo tính nhất quán trong cách phân loại nợ nước ngoài, trong
phần dưới đây chúng tôi sử dụng phần định nghĩa chuẩn quốc tế về nợ

nước ngoài.
1.2. Phân loại nợ nước ngoài
Việc phân loại nợ nước ngoài có một vai trò quan trọng trong việc
công tác theo dõi, đánh giá vàquản lý nợ có hiệu quả.
 Phân loại theo chủ thể đi vay gồm: nợ công và nợ tư nhân được Chính phủ bảo
lãnh và nợ tư nhân.
 Nợ công và nợ tư nhân được Chính phủ bảo lãnh
Nợ công được định nghĩa là các nghĩa vụ nợ của các khu vực công và bao
gồm nợ của khu vực công cùng với nợ của khu vực tư nhân được khu vực công bảo
lãnh.
Nợ nước ngoài của khu vực tư nhân được công quyền bảo lãnh được
xác định là các công nợ nước ngoài của khu vực tư nhân mà dịch vụ trả nợ được
bảo lãnh theo hợp đồng bởi một đối tượng thuộc khu vực công cư trú tại cùng một
nền kinh tế với bên nợ đó.
 Nợ tư nhân
Loại nợ này bao gồm nợ nước ngoài của khu vực tư nhân không được
khu vực công của nền kinh tế đó bảo lãnh theo hợp đồng. Về bản chất đây là các
khoản nợ do khu vực tư nhân tự vay, tự trả.
 Phân loại theo thời hạn vay gồm: nợ ngắn hạn và nợ dài hạn.
 Nợ ngắn hạn
Nợ ngắn hạn là loại nợ có thời gian đáo hạn từ một năm trở xuống.
Vì thời gian đáo hạn ngắn, khối lượng thường không đáng kể, nợ ngắn hạn
thường không thuộc đối tượng quản lý một cách chặt chẽ như nợ dài hạn. Tuy nhiên
13
nếu nợ ngắn hạn không trả được sẽ gây mất ổn định cho hệ thống ngân hàng.
Đặc biệt khi tỷ trọng nợ ngắn hạn trong tổng nợ có xu hướng tăng phải hết
sức thận trọng vì luồng vốn rút ra đột ngột có thể gây bất ổn cho nền tài chính
quốc gia.
 Nợ dài hạn
Nợ dài hạn là những công nợ có thời gian đáo hạn gốc theo hợp đồng

hoặc đã gia hạn kéo dài trên một năm tính từ ngày ký kết vay nợ cho tới ngày
đến hạn khoản thanh toán cuối cùng. Nợ dài hạn là loại nợ được quan tâm quản lý
nhiều hơn do khả năng tác động lớn đến nền tài chính quốc gia.
 Phân loại theo loại hình vay gồm: vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vay
thương mại.
 Vay hỗ trợ phát triển chính thức ODA
Theo định nghĩa của OECD, hỗ trợ phát triển chính thức bao gồm các
chuyển khoản song phương (giữa các Chính phủ) hoặc đa phương (từ các
tổ chức quốc tế cho Chính phủ), trong đó ít nhất 25% tổng giá trị chuyển khoản là
cho không. Tính ưu đãi của vay hỗ trợ phát triển chính thức. Vay hỗ trợ
phát triển chính thức là loại nợ có nhiều điều kiện ưu đãi, ưu đãi về lãi suất, về
thời gian trả nợ và thời gian ân hạn. Lãi suất của vay hỗ trợ phát triển chính thức
thấp hơn nhiều so với vay thương mại. Thời gian cho vay hỗ trợ phát triển chính
thức dài (có thể từ 10, 15 hay 20 năm) và thời gian ân hạn dài, do vậy các
nước đang phát triển thường hướng tới và tận dụng tối đa nguồn vốn này cho
quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, vay hỗ trợ phát triển chính
thức cũng có những mặt trái của nó. Tính ưu đãi của vay hỗ trợ phát triển chính
thức rất rõ rệt, bên cạnh đó, việc vay nợ hỗ trợ phát triển chính thức đôi
khi kèm theo những điều kiện ràng buộc khiến cái giá phải trả tăng lên đáng kể.
 Vay thương mại
14
Khác với vay hỗ trợ phát triển chính thức, vay thương mại không có ưu đãi cả
về lãi suất và thời gian ân hạn, lãi suất vay thương mại là lãi suất thị trường
tài chính quốc tế và thường thay đổi theo lãi suất thị trường. Chính vì vậy, vay
thương mại thường có giá khá cao và chứa đựng nhiều rủi ro. Việc vay thương mại
của Chính phủ phải được cân nhắc hết sức thận trọng và chi quyết định
vay khi không còn cách nào khác.
 Phân loại nợ theo chủ thể cho vay gồm : nợ đa phương và nợ song phương.
 Nợ đa phương: đến chủ yếu từ các cơ quan của Liên hợp quốc, WB, IMF,
các ngân hàng phát triển trong khu vực, các cơ quan đa phương như OPEC

và liên chính phủ.
 Nợ song phương: đến từ Chính phủ một nước như các nước thuộc
tổ chức OECD và các nước khác hoặc đến từ một tổ chức quốc tế
nhân danh một Chính phủ duy nhất dưới dạng hỗ trợ tài chính, viện
trợ nhân đạo bằng hiện vật.
1.3. Vai trò của Nợ nước ngoài
- Nợ nước ngoài tạo nguồn vốn bổ sung cho quá trình phát triển và tăng
trưởng phát triển kinh tế, điều chỉnh cán cân thanh toán quốc gia.
- Góp phần hỗ trợ cho các nước vay nợ tiếp thu được công nghệ tiên tiến,
học hỏi được kinh nghiệm quản lý của các nhà tài trợ nước ngoài.
- Tăng thêm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước, góp phần thu
hút , mở rộng các hoạt động đầu tư phát triển kinh tế đất nước.
- Góp phần chuyển đổi, hoàn thiện cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa.
Tuy nhiên có thể gây ra hạn chế nếu như ta không quản lý tốt: có thể gây tình
trạng nợ lớn, khó trả, dễ dẫn đến khủng hoảng nợ; dẫn đến sự phụ thuộc vào các chủ
nợ vì các khoản nợ thường gắn với các điều kiện; có thể trở thành bãi rác công nghệ
của thế giới; dễ xảy ra tình trạng tham nhũng, hối lộ…
15
1.4. Phương pháp xác định
Các chỉ tiêu thường được sử dụng để đánh giá mức nợ nước ngoài là:
- Tổng số nợ: tính theo giá trị tuyệt đối của một đồng tiền chuyển đổi tự do
nào đó, thường là USD.
- Số nợ đã trả: tính theo giá trị tuyệt đối của một đồng tiền chuyển đổi tự do.
- Tỷ lệ nợ/xuất khẩu (%): nếu < 160% thì mức nợ chưa đáng lo ngại.
- Tỷ lệ nợ/GDP(%): nếu tỉ lệ này từ 50% trở lên là mắc nợ nhiều.
- Tỷ lệ trả nợ (%): là tỷ số giũa chi phí trả nợ gốc và ãi chia cho giá trị xuất
khẩu hàng hóa và dịch vụ trong năm nhân với 100.
- Tỷ lệ trả lãi so với thu nhập xuất khẩu hàng hóa dịch vụ (%) : có nghĩa là
khi một số lớn nợ không trả nợ gốc nữa mà chỉ trả nợ một phần.
16

PHẦN 2: THỰC TRẠNG VỀ NỢ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM
NGUYÊN NHÂN VÀ HẠN CHẾ CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ NỢ
2.1. Tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam
2.1.1. Các phương thức vay nợ chủ yếu của Việt Nam
Ngoài yếu tố tiết kiệm trong nước, các quốc gia đang phát triển – có thể cho là
các quốc gia thiếu vốn - cần sự “giúp đỡ” từ yếu tố “ngoại sinh”, Chính phủ
cần phải huy động các nguồn lực từ bên ngoài nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn
phục vụ cho quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Nợ của Chính phủ chủ yếu
xuất phát từ ba nguồn chủ yếu sau đây:
- Nợ ODA (Nguồn vốn vay phát triển chính thức - phần cho vay ưu đãi trong
khoản hỗ trợ phát triển chính thức ODA).
- Vay thương mại qua các hợp đồng song phương và đa phương.
- Phát hành trái phiếu quốc tế (một hình thức vay nợ nước ngoài vừa mới
được Chính phủ áp dụng).
2.1.2. Tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam
2.1.2.1 Tình hình chung
Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế, xã hội năm 2010 và
nhiệm vụ năm 2011 tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XII, cho biết: “Đến hết
năm 2010, dư nợ Chính phủ tương đương khoảng 44,5% GDP, dư nợ nước ngoài
của quốc gia khoảng 42,2% GDP tăng so với con số 39% của năm 2009 và cao nhất
kể từ năm 2006 tương đương 32,5 tỷ USD tăng 4,6 tỷ USD so với năm trước, và dư
nợ công bằng 56,7% GDP ”. Do dư nợ tăng, tổng lượng tiền mà ngân sách phải dành
để trả các đối tác nước ngoài trong năm 2010 là 1,67 tỷ USD (riêng tiền lãi và phí là
hơn 616 triệu USD), tăng gần 30% so với con số 1,29 tỷ USD của năm 2009.
17
Trong khi đó, theo cảnh báo của Bộ Tài chính, dự trữ ngoại hối của Việt Nam
trong năm 2010 chỉ còn tương đương 187% tổng dư nợ ngắn hạn, giảm mạnh so với
con số 290% và 280% của các năm 2009 và 2008.
Quy mô nợ nước ngoài c%a Việt Nam tăng nhanh hơn d+ báo
Theo Bản tin nợ nước ngoài -Bộ Tài chính, đến 31/12/2009, tổng nợ nước

ngoài của Việt Nam (gồm nợ nước ngoài của Chính phủ và nợ do Chính phủ bảo
lãnh) là 27,929 tỷ USD, tương đương với khoảng 479,5 nghìn tỷ đồng; Trong đó, nợ
nước ngoài của Chính phủ là trên 23,9 tỷ USD. Đến 31/12/2010, tổng nợ nước ngoài
của Việt Nam lên tới hơn 32,5 tỷ USD, chiếm 42,2% GDP (so với mức 38,8% GDP
mà Chính phủ dự kiến hồi cuối năm 2010) và tăng 4,6 tỷ USD so năm 2009, đạt
mức nợ cao nhất kể từ năm 2005; Trong đó, 62% là nợ nước ngoài của Chính phủ,
38% là nợ nước ngoài của doanh nghiệp. Đối với nợ của Chính phủ, 93% nợ là vốn
ODA và nợ ưu đãi (trong đó 74% là vốn ODA). Đây là các khoản nợ dài hạn và có
lãi suất thấp,chủ yếu có lãi suất cố định từ 1 - 2,99%/năm.
Trước những quan ngại của nhiều đại biểu về vấn đề nợ công, Bộ trưởng Bộ
Tài chính Vương Đình Huệ cho biết thêm: tính đến 31/12/2010, tỷ lệ nợ Chính phủ
là 45,7% GDP, nợ nước ngoài là 42,2%, nợ công là 57,3%. Trong kế hoạch trình
Quốc hội, ước đến 31/12/2011, nợ công là 54,6%, đến 31/12/2012 là 58,4% GDP.
Chỉ số này được tính trên cơ sở dự kiến kịch bản tăng trưởng 6%, nếu như kịch bản
tăng trưởng đạt được mức 6,5%, tỷ lệ nợ công sẽ thấp hơn đáng kể.
Về phương pháp tính cũng có khác nhau, các nước phát triển tính tỷ lệ theo
giá trị đồng tiền, Việt Nam tính theo phương pháp giá trị danh nghĩa. Nếu quy theo
giá trị đồng tiền, tỷ lệ nợ công của Việt Nam còn thấp hơn. Tuy vậy, Chính phủ
cũng tính toán cơ cấu này đã và sẽ có thay đổi khi mà khoản ODA và ưu đãi đang
trả dần, khoản vay thương mại đang có xu hướng tăng lên vì Việt Nam đã được đưa
vào danh sách là nước có thu nhập trung bình.
18
Ngày 8/11/2011, Quốc hội đã thông qua nâng trần Nợ công của Việt Nam đến
2015 không quá 65% GDP, dư nợ của Chính phủ không quá 50% GDP và dư nợ
quốc gia không quá 50% GDP (so với mức đề nghị của Chính phủ là nợ quốc gia
không quá 50%, nợ Chính phủ không quá 53%, nợ công khoảng 60-65% GDP).
Bảng 2.1: Tình hình nợ nước ngoài của Việt Nam từ 2003-2010
Từ bảng số liệu trên có thể thấy rằng các chỉ tiêu đánh giá nợ nước ngoài đang
có xu hướng giảm dần qua các năm, năm sau giảm hơn năm trước (ngoại trừ chỉ tiêu
nợ dịch vụ). Đặc biệt trong giai đoạn 2008- nay, khi thế giới đang phải đối mặt với

cuộc khủng hoảng kinh tế và xảy ra nhiều biến động trên thế giới thì nợ nước ngoài
của Việt Nam không những không tăng mà còn có xu hướng giảm.
Cơ cấu nợ của Việt Nam năm 2006 - 2010 gồm nợ chính phủ chiếm
78,1%, còn lại là nợ được chính phủ bảo
lãnh


nợ chính quyền địa phương.
Trong nợ chính phủ, nợ nước ngoài chiếm 61,9%; nợ trong nước chiếm 38,1%.
Trong nợ nước ngoài, ODA chiếm tỷ trọng lớn. Cụ thể, năm 2009, nợ của Việt
Nam gồm nợ chính phủ chiếm 79,2%, nợ được chính phủ bảo lãnh chiếm 17,6%
19
và nợ chính quyền địa phương chiếm 3,1%; trong nợ chính phủ, nợ nước ngoài
chiếm 60%, trong đó có 85% là ODA.
Bảng 1: Cơ cấu nợ của Việt Nam năm 2006 - 2010
Đơn vị 2006 2007 2008 2009 2010 Bình
quân
Nợ chính
phủ
Tỷ
USD
23,7 24,1 31,2 37,8 45,3 32,4
Nợ chính
phủ
%GDP
39,0 33,8 36,5 40,4 44,6 38,9
Nợ chính
phủ
% Nợ
công

85,0 68,0 76,2 79,2 82,1 78,1
Nợ nước
ngoài của
chính phủ
Tỷ
USD
14,6 17,3 18,9 23,9 25,1*
20
Nợ nước
ngoài của
chính phủ
% Nợ
chính
phủ
61,6 71,6 60,7 60,0 55,4%** 61,9
Nợ nước
ngoài
c
ủa
khu
vực
công
%
GDP
26,7 28,3 25,1 29,3 N/A
Nợ nước
ngoài
c
ủa
khu

vực
công
% Nợ
công
58,2 56,9 52,4 57,5 N/A
(Nguồn: Bộ Tài Chính, Bản tin nợ nước ngoài số 6)
Chú thích: *, **: Số liệu 6 tháng đầu năm 2010
20
2.1.2.2 Lãi suất vay nợ v điu kin vay nợ của Vit Nam hin nay
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, lãi suất vay nợ của Việt Nam đang có xu
hướng tăng lên. Điều này có thể là hệ quả của việc Việt Nam đã gia nhập nhóm
nước có thu nhập trung bình cũng như việc uy tín nợ quốc gia bị ảnh hưởng do một
số bất ổn của kinh tế vĩ mô và sự kiện Vinashin.
Sang năm 2010, vay nợ với lãi suất thấp 1 - 2,99%/năm chiếm khoảng 65,5%
tổng dư nợ. Đặc biệt, các khoản vay có lãi suất cao từ 6 - 10%/ năm trong năm 2010
cũng đã lên tới 1,89 tỷ USD, gấp hơn 2 lần năm 2009. Hiện các chủ nợ chính của
Việt Nam vẫn là Nhật Bản, Pháp, ADB, WB Các chủ nợ này đã nâng lượng nắm
giữ trái phiếu Chính phủ Việt Nam lên hơn 2 tỷ USD trong năm 2010 (so với con số
hơn 1 tỷ USD của năm 2009).
Theo Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, lãi suất trung bình nợ nước
ngoài của Chính phủ đã tăng từ 1,54%/năm vào năm 2006 lên 1,9%/năm trong năm
2009 và năm 2010 đạt tới 2,1%/năm.
Thực tế cũng cho thấy, lãi suất vay nợ của Việt Nam đang có xu hướng tăng
lên cả do Việt Nam đã bị giảm mức nhận ưu đãi vì gia nhập nhóm nước có thu nhập
trung bình, cũng như do ít nhiều giảm cả mức tín nhiệm quốc gia (theo một vài đánh
giá cá biệt là từ BB+ xuống BB) vì những e ngại bất ổn của kinh tế vĩ mô và sự kiện
Vinashin
Theo quan điểm của IMF thì tiêu chí đánh giá an toàn nợ nước ngoài đối với
các quốc gia có thu nhập thấp dựa vào hiện giá thuần của nợ và dịch vụ nợ,
một chính sách nợ yếu đồng nghĩa an toàn về nợ và một chính sách nợ mạnh

đồng nghĩa với kém an toàn về nợ.
2.1.2.3 Cơ cấu nợ vay của Vit Nam
Nợ nước ngoài của Việt Nam khá đa dạng về cơ cấu tiền vay. Trên lý thuyết,
điều này được cho là có thể hạn chế rủi ro về tỷ giá, giảm áp lực lên nghĩa vụ trả nợ
nước ngoài của Chính phủ. Tuy nhiên, trên thực tế cơ cấu này cũng tiềm ẩn những
21
rủi ro khi có biến động trên thị trường tài chính thế giới. Tỷ trọng cao của các khoản
vay bằng USD (22,95%) và JPY (38,25%) gây nguy cơ gia tăng khoản chi gốc và
lãi khi tỷ giá USD/VND luôn có xu hướng tăng; và JPY đang lên giá so với USD.
Bảng 2.2: Các chỉ tiêu về giám sát nợ nước ngoài của Việt Nam
(Nguồn: IMF & Bản tin nợ nước ngoài số 5 )
Nếu quan sát diễn biến nợ nước ngoài trong một thời gian dài sẽ dễ dàng nhận thấy
xu hướng gia tăng nợ đã diễn ra trong những năm gần đây, từ mức 14,208 tỷ USD
22
năm 2005 lên 27,928 tỷ USD năm 2010. Nếu tiếp tục xu hướng này và không
có các biện pháp kiểm soát và quản lý nợ có thể khiến nợ nước ngoài trở nên
không an toàn. Nếu đặt nợ nước ngoài trong quan hệ đầu tư và tiết kiệm, ta thấy nợ
nước ngoài là nguồn bổ sung cho khoảng chênh lệch tiết kiệm trong nước thấp và
mức đầu tư tăng cao. Như vậy, để nợ nước ngoài không mất an toàn thì cần phải
nâng cao hiệu quả đầu tư trong nước, khuyến khích tiết kiệm toàn dân. Nếu xem xét
nợ nước ngoài trong quan hệ cán cán cân thương mại dưới góc độ xuất nhập khẩu
thì đây là một khoản vay mà các nhà đầu tư nước ngoài cho Chính phủ và
người tiêu dùng trong nước vay để thanh toán cho việc tiêu dùng quá mức,
khi đó để giảm nợ nước ngoài cần cải thiện cán cân thương mại, thực hiện các
giải pháp gia tăng xuất khẩu và kiểm soát nhập khẩu.
Bảng 2.3: Quan hệ giữa thâm hụt thương mại và nợ nước ngoài của
Việt Nam giai đoạn 2005-2009
(Nguồn: Thống kê tài chính c%a IMF và Bộ Tài Chính)
Theo Bản tin Nợ nước ngoài của BTC, dịch vụ nợ nước ngoài của Việt Nam
trong năm 2010 là 1,67 tỷ USD, trong đó riêng tiền lãi và phí là hơn 616 triệu USD,

tăng gần 30% so với con số 1,29 tỷ USD của năm 2009
Theo đại biểu quốc hội Trần Du Lịch, Nợ nước ngoài của Việt Nam hiện
tương đương 50 tỉ USD, lớn gấp 3 lần so với dự trữ ngoại hối (khoảng 14-15 tỉ
USD). Năm 2011, dự kiến trả nợ 86.000 tỉ đồng, chiếm 12,5% tổng thu NSNN;
23
năm 2012 sẽ phải trả 100.000 tỉ đồng, chiếm 13,5% tổng thu NSNN-Một con số
không hề nhỏ trong quy mô khiêm tốn của NSNN hiện nay (trong khi Nợ công của
Thái Lan chỉ có 44,1% GDP và dự trữ ngoại hối là 176 tỉ USD; Indonesia, Malaysia
nợ công chỉ có 26,9% GDP, Philippines 47,3% ).
Theo Bộ trưởng Tài chính Vương Đình Huệ, hiện nay tổng số dịch vụ nợ (trả
nợ cả gốc và lãi) của Chính phủ chiếm khoảng 14% - 16% tổng ngân sách nhà nước.
Trong khi đó, theo thông lệ quốc tế, mức dịch vụ nợ an toàn là không quá 30% tổng
thu ngân sách.
Đặc biệt, theo cảnh bảo của Bộ Tài chính, dự trữ ngoại hối của Việt Nam
trong năm 2010 chỉ còn tương đương 187% tổng dư nợ ngắn hạn, giảm mạnh so với
con số 290% và 2.808% của các năm 2009 và 2008; trong khi mức khuyến nghị của
Ngân hàng thế giới WB là trên 200%.
Cần nhấn mạnh rằng, việc mua vào thêm 4-7 tỷ USD trong những tháng đầu
năm 2011 ít nhiều đã cải thiện tỷ lệ an toàn nợ/dự trữ ngoại hối của Việt Nam. Song,
việc mua vào này không phải là giải pháp bền vững xét dưới góc độ chống lạm phát
tiền tệ, vì nó dễ trở thành nguồn xung lực làm tăng lạm phát tiền tệ ở nước ta, nhất là
khi chậm thu hồi các khoản tiền đã chi thông qua bán trái phiếu Chính phủ .
Ngoài ra, cần thấy rằng khả năng trả nợ từ nguồn thu NSNN đang và sẽ có thể
gặp căng thẳng trong bối cảnh mà, khác với thông lệ hằng năm đều vượt thu, dự
toán thu ngân sách năm 2011 được Bộ trưởng Bộ Tài chính đánh giá là "chưa năm
nào khả năng tăng thu căng thẳng như năm nay và có dấu hiệu chững lại từ tháng 7-
2011". Đặc biệt, nguồn thu thuế từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI)
trong quý II/2011 giảm 83% so với quý I, quý III dự kiến giảm 40% so với 6 tháng
đầu năm với 50% số doanh nghiệp khai lỗ. Trong khi đó, theo Bộ KH&ĐT, với
khu vực kinh tế tư nhân trong nước thì số doanh nghiệp giải thể, phá sản và dừng

hoạt động không nộp thuế đã xấp sỉ con số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới
trong năm 2011
24
Tóm lại, nợ nước ngoài của Việt Nam hiện nay vẫn còn trong giới
hạn an toàn nhưng xu hướng nợ nước ngoài đang gia tăng cho thấy, nếu không
có những giải pháp hợp lý kèm theo, thì nợ nước ngoài có thể mất an toàn và gây ra
các bất ổn kinh tế vĩ mô.
2.1.2.4 Các khoản nợ nước ngoi của Vit Nam một số năm gần đây
Phân theo chủ nợ của khoản nợ chính thức ta có các chủ nợ song phương và
đa phương. Gồm có các nước chủ nợ sau : Angeri, Trung Quốc, Nga, Hàn Quốc,
Hoa Kỳ, Pháp, Nhật Bản… và các tổ chức sau EIB, IBRD, IDA, IFAD, IMF, NDF,
NIB, OPEC, ADB…
 Nợ song phương: Mức nợ song phương lớn nhất của Việt Nam hiện nay là
Nhật Bản với mức nợ hằng năm đều > 50% tổng nợ vay của các chủ nợ lớn.
Tiếp đến là Pháp và Nga. Sau đây là số liệu cụ thể:
Bảng 2.4 : Một số chủ nợ song phương lớn của Việt Nam
Đơn vị tính :Triệu USD
2005 2006 2007 2008 2009
Angeri 158.3 127.82 96.71 42.6 66.6
Trung Quốc 128.25 141.53 169.94 186.41 359.08
Nhật Bản 3,945.55 4,526.02 5,449.99 6,773.66 8,290.94
Hàn Quốc 123.38 136.03 133.28 113.55 186.48
Hoa Kỳ 103.68 100.46 97.24 94.02 92.06
Pháp 676.05 784.03 1,009.36 911.72 1,112.52
25

×