Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Làm rõ tổ chức hoạt động quản lý nhà nước về lao động, liên hệ thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (41.63 KB, 4 trang )

Làm rõ tổ chức hoạt động quản lý nhà nước về lao động, liên hệ thực tiễn
Quản lý nhà nước về lao động là một trong những lĩnh vực quản lý của Nhà nước
thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, gồm các nội dung quản lý nhất định.
Việc quản lý lao động của nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định thị
trường lao động, đảm bảo cân bằng quyền và lợi ích giữa các chủ thể tham gia vào
quan hệ lao động.
Có thể hiểu, quản lý nhà nước về lao động là một chế định của luật lao động, bao gồm
tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ quản lý lao động giữa nhà nước
và các chủ thể khác trong xã hội. Quản lý nhà nước về lao động tiếng Anh là “State
management of labor”.
Quản lý nhà nước về lao động là một trong những lĩnh vực quản lý của Nhà nước
thơng qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, căn cứ vào nội dung quản lý, sử dụng
các biện pháp quản lý nhằm tác động vào đối tượng quản lý, bảo đảm và thúc đẩy
quan hệ lao động, thị trường lao động phát triển theo những định hướng mà Nhà nước
đã đặt ra.
Quản lý nhà nước về lao động bao gồm quan hệ giữa Nhà nước với người sử dụng lao
động và quan hệ giữa Nhà nước với người lao động.
Căn cứ Điều 212 Bộ luật Lao động 2019 quy định các nội dung quản lý nhà
nước về lao động có các khoản như sau:
1. Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về lao động.
=> Nội dung quản lý này nhằm bảo đảm về xây dựng thế chế phục vụ quản lý,
tạo công cụ quản lý, công cụ pháp luật là quan trọng nhất của quản lý nhà nước về lao
động.
2. Theo dõi, thống kê, cung cấp thông tin về cung cầu và biến động cung, cầu
lao động; quyết định chính sách tiền lương đối với người lao động; quyết định chính
sách, quy hoạch, kế hoạch về nguồn nhân lực, phân bố và sử dụng lao động toàn xã
hội, giáo dục nghề nghiệp, phát triển kỹ năng nghề; xây dựng khung trình độ kỹ năng
nghề quốc gia, khung trình độ quốc gia Việt Nam đối với các trình độ thuộc giáo dục
nghề nghiệp. Quy định danh mục nghề chỉ được sử dụng lao động đã qua đào tạo giáo
dục nghề nghiệp hoặc có chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia.
=> Đây là các nội dung nhằm phục vụ nhu cầu phát triển nguồn nhân lực.


3. Tổ chức và tiến hành nghiên cứu khoa học về lao động; thống kê, thông tin
về lao động và thị trường lao động, về mức sống, tiền lương và thu nhập của người lao
động; quản lý lao động về số lượng, chất lượng và biến động lao động.
=> Nội dung nhằm đảm bảo duy trì, ổn định và làm lành mạnh môi trường lao
động và quan hệ lao động.
4. Xây dựng các cơ chế, thiết chế hỗ trợ phát triển quan hệ lao động tiến bộ, hài
hòa và ổn định; thúc đẩy việc áp dụng quy định của Bộ luật này đối với người làm
việc khơng có quan hệ lao động; thực hiện việc đăng ký và quản lý hoạt động của tổ
chức của người lao động tại doanh nghiệp.


5. Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết khiếu nại, tố cáo
về lao động; giải quyết tranh chấp lao động theo quy định của pháp luật.
=> Quản lý việc thanh, kiểm tra những vi phạm trong lao động và xử lý tranh
chấp lao động, hội đồng hòa giải, tòa án lao động.
6. Hợp tác quốc tế về lao động.
=> Quản lý lĩnh vực đưa người Việt Nam đi lao động tại nước ngoài và quản lý
người lao động nước ngồi cơng tác, làm việc trên lãnh thổ Việt Nam
Trên đây là hệ thông công cụ đặc biệt quan trọng mà Nhà nước sử dụng để quản lý lao
động, điều tiết hoạt động của thị trường lao động, điều chỉnh việc thiết lập, duy trì và
chấm dứt quan hệ lao động. Các hoạt động duy trì, phát triển nguồn nhân lực cũng
được quan tâm và được thực hiện bằng nhiều chương trình, biện pháp và nguồn lực
khác nhau. Các hoạt động hỗ trợ thị trường lao động, làm lành mạnh môi trường lao
động, quan hệ lao động cũng được xúc tiến một cách hiệu quả hơn.
Căn cứ Điều 213 Bộ luật lao động 2019 quy định thẩm quyền quản lý nhà nước
về lao động cụ thể như sau:
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về lao động trong phạm vi cả nước.
2. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm trước Chính phủ
thực hiện quản lý nhà nước về lao động.
3. Bộ, cơ quan ngang Bộ, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có

trách nhiệm thực hiện và phối hợp với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội trong
quản lý nhà nước về lao động.
4. Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về lao động trong phạm
vi địa phương mình.
5. Chính phủ là cơ quan quản lý có thẩm quyền chung cao nhất, chịu trách
nhiệm trước Quốc hội và Nhà nước về tồn bộ cơng tác quản lý nhà nước về lao động.
* Liên hệ thực tiễn Thực trạng quản lý nhà nước về lao động trong doanh nghiệp
hiện nay:
Lao động là một hoạt động cơ bản của con người và xã hội lồi người, nó vừa
mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội sâu sắc. Các doanh nghiệp là khu vực đóng
góp phần lớn thu nhập quốc dân và tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Quản lý lao
động trong DN đòi hỏi các DN phải có trách nhiệm tuân thủ đầy đủ pháp luật của Nhà
nước, phát huy tốt các chính sách của Nhà nước. Hoạt động quản lý nhà nước về lao
động trong DN đặt ra việc giữ gìn, sử dụng hợp lý và hiệu quả nguồn nhân lực, đóng
vai trị quyết định thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế – xã hội của thời kỳ mới. Những
năm qua, công tác QLNN đối với lao động trong các DN đã đạt được một số kết quả
nhất định:


1. Bằng hệ thống pháp luật, Nhà nước đã thiết lập một hành lang pháp lý cho
hoạt động QLNN về lao động trong DN, bao gồm phạm vi, phương thức và nội dung
quản lý với những văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh chủ yếu, như: Hiến pháp
năm 2013; Bộ luật Lao động năm 2019,…Nhà nước đã xây dựng tiêu chuẩn của lao
động thông qua những quy định của pháp luật, đồng thời quy định về công tác kiểm
tra, giám sát và xử lý vi phạm. Hệ thống pháp luật ban hành không chỉ bảo đảm cho
quan hệ làm cơng hưởng lương được khuyến khích phát triển mà cịn bảo đảm quyền
bình đẳng của các thành phần kinh tế, quyền và nghĩa vụ của người lao động và người
sử dụng lao động, các thiết chế của thị trường lao động, cơ chế vận hành và giám
sát…
Tuy nhiên, pháp luật điều chỉnh quan hệ lao động trong DN cũng còn những

hạn chế nhất định, như: thiếu tính pháp điển, thiếu những định nghĩa cơ bản, chính
xác, chưa theo kịp sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Vai trò của các tổ chức
đại diện, nhất là tổ chức Cơng đồn mới chỉ dừng lại ở việc thăm hỏi động viên NLĐ,
chưa thoát ly khỏi sự lệ thuộc của các chủ DN.
2. Về các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm pháp luật lao
động trong DN. Các nội dung thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật
trong DN hiện tập trung vào những vấn đề cơ bản, như: kiểm tra các thỏa ước lao
động tập thể; tuyên bố thỏa thuận vô hiệu;…
Tuy nhiên, trong thực tiễn giải quyết tranh chấp, xung đột giữa NLĐ và DN,
việc hòa giải, đàm phán, thương lượng cịn mang đậm tính mệnh lệnh, hành chính.
Tình trạng đình cơng đang là một vấn đề nhức nhối xảy ra khá phổ biến ở các DN hiện
nay. Hoạt động này chủ yếu diễn ra một cách tự phát, nằm ngồi khn khổ pháp lý về
tranh chấp lao động tập thể.
3. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội là cơ quan chịu trách nhiệm trước
Chính phủ thực hiện QLNN về lao động trong các lĩnh vực cơ bản, như: việc làm và
bảo hiểm thất nghiệp; dạy nghề; lao động, tiền lương; bảo hiểm xã hội; an toàn lao
động…
Bên cạnh việc thực hiện đúng quy định của pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp cho NLĐ và chủ DN thì thời gian qua, việc tổ chức và quản lý lao động
trong DN vẫn còn một số tồn tại nhất định. Theo đó, việc tổ chức thực hiện các chính
sách, pháp luật cịn nhiều thiếu sót, nhất là việc đóng bảo hiểm xã hội, việc bảo đảm
vệ sinh, an tồn lao động cho NLĐ…
Về phía cán bộ quản lý vẫn cịn tình trạng yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, xa
rời thực tiễn, quan liêu và chưa giải quyết triệt để, thấu đáo các nội dung tranh chấp.
Những bất cập này có một phần nguyên nhân do thiếu thông tin, do phương pháp quản
lý yếu kém. Hơn nữa, cơ quan nhà nước cũng chưa ứng dụng công nghệ thông tin
trong quản lý nên công tác quản lý lao động trong DN chưa hiệu quả.
* Các biện pháp cải thiện những điểm chưa đạt được trong quản lý lao động trên
thực tiễn như sau:



Trong bối cảnh 4.0, Nhà nước cần đổi mới phương thức quản lý lao động trong
DN, tập trung ứng dụng khoa học và công nghệ trong quản lý, đổi mới sáng tạo trong
mơ hình tổ chức và phương thức quản lý theo hướng sau:
– Quản lý lao động trong DN dựa trên tích hợp cơng nghệ số hóa, hệ thống
điều khiển, mạng truyền thông để quản lý nguồn nhân lực. Từ đó đưa ra những dự liệu
về nguồn nhân lực nhằm điều tiết và có giải pháp phát huy sức mạnh nguồn nhân lực.
– Tối ưu hóa mơ hình quản lý lao động của Nhà nước theo đúng cơ chế, chính
sách hiện hành. Ứng dụng và sử dụng có hiệu quả chuỗi cung ứng thông minh, gắn kết
chặt chẽ hơn giữa nhu cầu của thị trường lao động và các DN, hỗ trợ về cơ chế, chính
sách trong việc xây dựng thị trường lao động trong nước và quốc tế.
– Xây dựng, hồn thiện hệ thống chính sách bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của Nhà nước, NLĐ và người sử dụng lao động trong DN.



×