Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

Tiểu luận Nền KTHH nhiều thành phần pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337.04 KB, 38 trang )










Tiểu luận

Nền KTHH nhiều
thành phần

Lời nói đầu
Từ năm 1986 Việt Nam thực hiện việc chuyển nền kinh tế
sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp
luật, chính sách kế hoạch và các công cụ khác . Quá trình chuyển
tiếp đó đã đạt được những kết quả tuy là bước đầu nhưng đáng
khích lệ.
Chúng ta đã bắt đầu kiềm chế được lạm phát tr ong điều kiện
kinh tế phải đối phó với nhiều khó khăn và nguồn viện trợ từ bên
ngoài rất hạn chế. Năm 1986 tỉ lệ lạm phát là 487% năm 1994 đạt
mức hai con số: 14%.
Tốc độ trượt giá đã từ 15 -20% một tháng vào đầu năm 1989,
giảm xuống còn dưới 4% một tháng năm 1992.Trong nông nghiệp
từ chỗ hàng chục năm liên tục phải nhập khẩu lương thực thì nay
chúng ta đã đủ lương thực để phục vụ nhu cầu trong nước và lại
còn xuất khẩu một lượng đáng kể. Năm 1992, lần đầu tiên Việt
Nam xuất khẩu gạo, đứng thứ 3 th ế giới sau Mỹ và Thái lan.
Quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam với các nước


cũng tăng nhanh, mở rộng buôn bán với nhiều bạn hàng. Xuất
khẩu năm 1989 - 1991 tăng 28% năm, thu hút ngày càng nhiều
công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam với trên 400 dự án, vốn
đăng ký khoảng 3 tỷ USD. Lần đầu tiên sau nhiều thập kỷ đã xoá
bỏ chế độ tem phiếu và phân phối theo định lượng. Có thể nói,
chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, áp dụng
chính sách kinh tế mở đối với cả trong nước và ngoài nước là
bứơc mở đầu đổi mới cơ bản về đường lối xuyên suốt mọi lĩnh
vực hoạt động hay nói một cách khác cơ cấu kinh tế mới bắt đầu
có hiệu quả. Tuy nhiên, trong giai đoạn đổi mới này bên cạnh
những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế Việt Nam còn gặp
không ít những khó khăn. Trước hết đó là nguy cơ tụt hậu do:
Sự thiếu triệt để của công cuộc cải cách còn đang trong thời
kỳ tranh tối tranh sáng nên chỉ cần một bước sơ hở có thể dẫn nền
kinh tế đến chỗ sụp đổ.Việt Nam đang là một nước nghèo kém
phát triển, công nghiệp còn lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật nhất là
cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội quá yếu kém, không đồng bộ dân số
đông (hơn 70 triệu dân) tăng nhanh, nhiều người không có việc
làm, mức sống còn thấp, nhiều vấn đề về văn hoá - xã hội cần giải
quyết. Tốc độ phát triển của các quốc gia trong khu vực rất
cao, Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam á là một khu vực
đang diễn ra những hoạt động kinh tế sôi nôỉ nhất. Thứ hai là
còn tồn tại những mất cân đối do: Sự phát triển thiếu toàn
diện của cơ cấu kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Thực tế cho
thấy trong số các doanh nghiệp quốc doanh chỉ có 1/3 số doanh
nghiệp phát triển nhưng sự phát triển của họ đi liền với sự đầu tư
của nhà nước về vốn, đất đai và tín dụng 2/3 số doanh nghiệp còn
lại làm ăn thua lỗ. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đóng
góp đáng kể vào GNP nhưng nhìn chung chưa được quan tâm
thích đáng, đặc biệt trong việc xuất khẩu: Nhà nước chỉ cho phép

các doanh nghiệp quốc doanh được xuất khẩu những mặt hàng
trọng yếu trong nền kinh tế còn các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh chỉ được xuất khẩu những mặt hàng nói chung là đóng góp
không đáng kể vào thu nhập ngân sách. Xuất phát từ tình hình
thực tiễn và cũng từ sự say mê của em khi nghiên cứu vấn đề này
nên em chọn đề tài: “Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần”.Được sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo Lê Kim Châu
cùng với chút hiểu biết ít ỏi củamình, em mạnh dạn xin được
trình bày một số ý kiến cá nhân mình với hy vọng góp phần nhỏ
bé làm phong phú thêm hệ thống lý l uận trong công cuộc đổi mới
của nước ta hiện nay. Em rất mong được sự góp ý của thầy côvà
các bạn quan tâm đến đề tài này để bài viết hoàn thiện hơn. Em
xin chân thành cảm ơn và trân trọng ý kiến đóng góp.
Chương I I.Những vấn đề lý luận của nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần và quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác
- LêNin. Quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác - LêNin
1.Giải thích quan điểm. Trong việc nhận thức cũng như
trong việc xem xét các đối tượng cần phải đứng trên quan điểm
toàn diện. Như vậy câu hỏi đặt ra: quan điểm toàn diện là gì?
Quan điểm toàn diện thể hiện qua hai nguyên lý sau: a.Nguyên
lý phổ biến giữa các sự vật hiện tượng hay gọi là mối liên hệ
phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng. Các sự vật và hiện tượng
muôn hình, nghìn vẻ trong thế giới không có cái nào tồn tại một
cách cô lập, biệt lập mà chúng là một thể thống nhất, trong đó các
sự vật hiện tượng tồn tại bằng cách tác động lẫn nhau, ràng buộc
nhau, quy định và chuyển hoá lẫn nhau. Mối liên hệ này chẳng
những diễn ra ở mọi sự vật và hiện tượng trong tự nhiên trong xã
hội và trong tư duy con người mà còn diễn ra giữa các yếu tố các
mặt khác, các quá trình của mỗi sự vật hiện tượng. Có những
mối liên hệ chỉ đặc trưng cho một đối tượng hoặc một nhóm đối

tượng. Nhưng đồng thời có những mối liên hệ mang tính phổ quát
cho mọi đối tượng của tồn tại, những mối liên hệ như vậy được
gọi là liên hệ phổ biến. Các mối liên hệ giữa vai trò qui định
tư cách tồn tại của sự vật hiện tượng. Với một sự vật, hiện tượng
có thể có vô lượng các mối liên hệ khác nhau. Mối liên hệ đều có
những vị trí và vai trò khác nhau trong việc quy định những tư
cách tồn tại của các sự vật hiện tượng (xét trong một điều kiện
nhất định) Nguyên tắc toàn diện có nguồn gốc từ mối liên hệ phổ
biến đựơc nhận thức và được để lên thành nguyên lý chỉ đạo
phương pháp hành động và suy nghĩ. Trong nền kinh tế không có
một sự kiện kinh tế nào tồn tại trong trạng thái cô lập, tách rời
những sự kiện khác mà luôn nằm trong mối liên hệ với những
sự kiện kinh tế khác. Thực tế cho thấy, giá cả thị trường của mỗi
loại hàng hoá chỉ biểu hiện ra trong mối quan hệ với sự biến
động cung - cầu về loại hàng hoá đó, trong mối quan hệ với giá
cả và các loại hàng hoá khác (tỉ giá với các loại hàng hoá bổ
sung). Cũng giống như sự tác động qua lại giữa cung cầu và
giá cả trên thị trường hàng hoá, thị trường vốn, thị trường lao
động không tồn tại trong trạng thái cô lập và tách rời mà trong sự
liên hệ tác động qua lại. Chẳng hạn như mỗi sự biến động về
giá cả trên thị trường vốn (lãi suất) kéo theo hàng loạt các sự
biến động lan truyền trên các thị trường lao động, thị trường hàng
hoá. Như chúng ta đã biết lãi suất trên thị trường vốn giảm các
doanh nghiệp có cơ hội mở rộng đầu tư, phát triển sản xuất làm
cho giá cả sức lao động, tiền công, tiền lương tăng lên do đó giá
cả trên thị trường hàng hoá cũng tăng lên. Nhận thức được
mối liên hệ giữa các sự kiện kinh tế nhưng vấn đề là ở chỗ chúng
ta áp dụng nguyên lý này để xem xét, từ đó đề ra đường lố i chính
sách trong việc tổ chức cơ cấu nền kinh tế như thế nào?
b.Nguyên lý của phép biện chứng duy vật về sự phát triển

của sự vật, hiện tượng. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác -
LêNin. Vận động là một khái niệm dùng để chỉ mọi sự biến
động nói chung. Mọi sự vật và hiện tượng là một dạng của
vật chất trong quá trình vận động và được đặc trưng bởi một hình
thức vận động nhất định. Mọi sự vật sự kiện trong vũ trụ tồn tại
trong quá trình không ngừng chuyển hoá từ dạng này sang dạng
khác, từ hình thức này sang hình thức khác. Bất kỳ một sự
vận động nào cũng bao hàm trong một xu hướng rất nhiều xuyên
suốt quá trình từ qúa khứ đến hiện tại, đến tương lai. Trên bình
diện triết học, xu hướng vận động từ thấp đến cao, từ giản đơn
đến phức tạp, ngày càng hoàn thiện và phát triển. Tuỳ theo
các lĩnh vực khác nhau của thế giới vật chất mà sự phát triển thể
hiện khác nhau mà nguồn của nó là sự liên hệ, tác động lẫn nhau
giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật và hiện tượng. Song
không nên hiểu sự phát triể n bao giờ cũng diễn ra một cách giản
đơn thẳng tắp. Xét từng trường hợp cá biệt thì có những vận động
đi lên, tuần hoàn thậm chí đi xuống, nhưng xét cả quá trình
trong phạm vi rộng lớn thì vận động đi lên là khuynh hướng
thống trị. Khái quát tình hình trên, phép biện chứng duy vật khẳng
định: phát triển là khuynh hướng chung của sự vận động của sự
vật, hiện tượng.
Nguyên lý về sự phát triển chỉ cho chúng ta: Muốn thực sự
nắm được bản chất của sự vật hiện tượng, nắm được khuynh
hướng vận động của chúng phải có quan điểm phát triển. Quan
điểm này yêu cầu khi phân tích sự vật, hiện tượng trong sự vận
động, phải phát hiện các xu hướng biến đổi chuyển hoá của
chúng, khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ.
Nhưng trong quá trình phát triển ta phải hết sức chú ý đến
việc kế thừa và sáng tạo những thành quả mà sự vật, hiện tượng
trước đã đạt được.Phát triển không phải là vận động theo đường

thẳng mà chỉ là xu hướng vận động theo hướng tiến lên.
Đối với một nền kinh tế, xu hướng tăng trưởng tự vạch đường
đi biểu hiện xuyên qua các thời điểm mà ở đó ta có thể nhận thấy
hoặc là nó đang ở trạng thái tương đối ổn định (tổng cung = tổng
cầu) hoặc là trong trạng thái mở rộng phát triển sản xuất (tổng
cung < tổng cầu) hoặc là trong trạng thái thu hẹp lại sự khủng
hoảng và sang trạng thái (tổng cung > tổng cầu). Cứ mỗi khi nền
kinh tế lâm vào thời kỳ khủng hoảng, suy thoái nếu nó không đủ
sức để vượt qua đến thời kỳ hồi phục để tăng trưởng về sau thì nó
sẽ bị đào thải và loại bỏ bằng một cuộc cách mạng xã hội hay đảo
chính để thiết lập một trật tự kinh tế mới.
Vì vậy vận động bao hàm trong mình cả sự đào thải, loại bỏ,
nhưng phát triển từ thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp ngày
càng phát triển hoàn thiện hơn.
Việt Nam đang trong thời kỳ chuyển đổi từ một nền kinh tế
tập trung quan liêu bao cấp sang một nền kinh tế thị trường có
sự điều tiết của Nhà nước cơ cấu nhiều thành phần.
Khuynh hướng vận động và phát triển trở thành một quy luật
tất yếu khách quan trong mọi sự vật và hiện tượng. Đó là một
điều không thể tránh khỏi và không xuất phát từ ý muốn chủ
quan của con người dù sự vận động ấy có thể diễn ra sớm hay
muộn.
2Phân tích quan điểm toàn diện trên góc độ kinh tế.
Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) đã đề ra việc tiến hành
đổi mới toàn diện, trên mọi mặt của đời sống xã hội nhằm phát
triển đất nứơc và cũng nhờ đó chúng ta đã đứng vững trước cuộc
khủng hoảng của hệ thống chủ nghĩa xã hội.
Nước ta xuất phát từ một nước phổ biến là sản xuất nhỏ, lực
lượng sản xuất phát triển không đều và do đó các thành phần
kinh tế khác nhau cùng tồn tại. Nếu để phát triển tự phát trong nền

kinh tế th ị trường thì theo logic tự nhiên, nền kinh tế nước ta sẽ
đi đến chủ nghĩa tư bản. Vì thế một vấn đề đặt ra là nền kinh tế
nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội của ta chỉ có phù hợp
với quá trình lịch sử tự nhiên hay không?
Tại đại hội VII Đảng ta lại tiếp tục khẳng định công cuộc đổi
mới được khởi xướng từ Đại hội VI, đồng thời cũng khẳng định
con đường phát triển của theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Một
trong những đổi mới quan trọng nhất là xây dựng một mô hình xã
hội với nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước .
Xét trên tổng thể xã hội, mỗi thành phần kinh tế là một hệ
thống có những phương án kinh doanh riêng rất khác nhau về
nôị dung, chỉ tiêu và các bứơc đi để thích ứng một cách nhanh
nhạy, chính xác với mọi biến đổi về nhu cầu của xã hội. Do vậy
mỗi thành phần kinh tế đều có một vị trí và vai trò riêng trong
quá trình phát triển ki nh tế.
Mặt khác, sức mạnh cá biệt của từng thành phần chỉ có thể
phát huy được trong những điều kiện cụ thể, trong những lĩnh
vực nhất định, nghĩa là nếu chúng tồn tại biệt lập thì mỗi thành
phần kinh tế không có khả năng khai thác có hiệu quả c ác nguồn
nhân lực và tài lực ở từng ngành và từng vùng nhất định. Nhu cầu
khai thác triệt để mọi tiềm năng của đất nước, gắn phát triển sản
xuất với phát triển xã hội, gắn giải quyết việc làm ổn định và cải
thiện đời sống nhân dân vv qui định sự hiệp tác giữa các thành
phần kinh tế. ở đâu và khi nào còn tồn tại nhu cầu này thì quan hệ
giữa các thành phần kinh tế còn tồn tại. Toàn bộ những quan hệ
này hợp thành cấu trúc của hệ thống kinh tế nhiều thành phần mà
nên tách khỏi hệ thống sẽ không hiểu được vị trí và vai trò riêng
của từng thành phần.
Vì thế quan hệ giữa các thành phần kinh tế là quan hệ phổ

biến mà sự phát triển của những quan hệ đó mà quá trình từng
bứơc xã hội hoá sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quá trình xã hội hoá của các lực lượng sản xuất luôn luôn
diễn ra trong cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường định hướng
quan hệ giữa các thành phần kinh tế cả trong quan hệ quốc gia
lần trong quan hệ quốc tế theo nguyên tắc các bên cùng có lợi.
Nguyên tắc này là nguyên tắc hoạt động của các thành phần
kinh tế trong quá trình hợp tác.
Việc thực hiện nguyên tắc này làm cho những ưu thế riêng
của các thành phần kinh tế trong việc phát triển lực lượng sản
xuất đều được phát huy. Các thành phần một mặt vừa kết hợp
với nhau, vừa bổ sung cho nhauvà dođó gắn yếu tố truyền thống
đã được chọn lọc trong quá trình phát triển xã hôị với yếu tố
hiện đại, gắn các trình độ phát triển khác nhau của lực lượng sản
xuất tạo thành “Lực lượng sản xuất mới” kết hợp sự biến đổi về
lượng với sự thay đổi về chất làm cho các thành phần kinh tế
cùng tồn tại và phát triển. Mặt khác , cơ chế thị trường với sự tác
động của quy luật giá trị, qui luật cung - cầu buộc các thành phần
kinh tế trong kinh daonh cạnh tranh với nhau quyết liệt và kết
quả là dẫn đến sự phát triển của sản xuất, đổi mới công nghệ đưa
khoa học kỹ thuật vào sản xuất, góp phần xây dựng cơ sở vật chất
- kỹ thuật của toàn xã hội. Trong cạnh tranh, thành phần kinh tế
nào có cơ chế hoạt động thích hợp sẽ có nhịp độ phát triển nhanh
hơn, tạo thành sự phát triển không đều, đặc biệt ở những vùng và
những ngành có quan hệ trực tiếp với thị trường thế giới thì sự
phát triển của các thành phần kinh tế đó sẽ diễn ra với tốc độ
nhanh chóng, tạo thành các bước nhảy vọt về chất, phá vỡ tính
cân bằng chính thể. Đó chính là nguyên nhân đưa đến các cuộc
khủng hoảng. Vì vâỵ, xuất hiện nhu cầu điều chỉnh tự giác nền
kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường nhằm

đảm bảo khai thác và phát triển toàn bộ những năng lực sản xuất
hiện có.
Nhà nước với tư cách là người đại diện cho mục tiêu phát
triển chung của toàn hệ thống kinh tế phải đóng vai trò chủ đạo
trong việc điều tiết nền kinh tế trên tầm vĩ mô, bảo đảm tỷ lệ
phát triển cân đối và nhịp nhàng giữa các thành phần kinh tế - xã
hội.
II. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
1. Tính tất yếu khách quan trong việc phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước,
khu vực kinh tế Nhà nước đã có những đóng góp q uan trọng
trong việc phát triển kinh tế phục vụ cho tiền tuyến. Chúng ta
không thể phủ nhận những đóng góp và thành quả mà khu vực
kinh tế đã đạt được.
Năm 1975 đất nước thống nhất. Chúng ta đã duy trì một nền
kinh tế tập trung với những tham vọng không thể thực hiện
được đó là tập trung phát triển công nghiệp nặng đồng thời phát
triển toàn diện công nghiệp nhẹ và nông nghiệp. Nguồn lực của
một nền kinh tế bao gồm ba yếu tố: Vốn, lao động, công nghệ.
Thời gian này chúng ta chưa thể có đầy đủ cả ba yếu tố.
Thứ nhất, đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh của cải đổ vào
phục vụ cuộc kháng chiến rất nhiều nên vốn tích luỹ trong nước
không còn là bao.
Thứ hai, cơ sở hạ tầng và máy móc trang thiết bị chiến tranh
tàn phá nặng nề.
Khi mà đầu vào chưa có đ ủ thì chắc chắn chúng ta không thể
phát triển nền kinh tế có hiệu quả được. Chính vì phát triển nền
kinh tế một cách thiếu toàn diện nên nền kinh tế sa sút, người dân
mất lòng tin với Đảng và Nhà nước.

Tình hình trong nước là như thế, trong khi đó trên thế giới
các mức trong khu vực đã và đang thực hiện một nền kinh tế hỗn
hợp có hiệu quả.
Vì vậy năm 1986, chúng ta chuyển nền kinh tế từ cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước.
Cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần đó là do
còn nhiều thành hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất .
Đại hội Đảng VII đã khẳng định các thành phần kinh tế đang tồn
tại khách quan tương xứng với tinhs chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất trong giai đoạn lịch sử hiện nay đó là:
thành phần kinh tế quốc doanh tập thể, cá thể, tư nhân tư bản chủ
nghĩa và tư bản Nhà nước.
Nền kinh tế nhiều thành phần trong sự vận động của cơ chế
thị trường ở nước ta là nguồn lực tổng hợp to lớn để đưa nền
kinh tế vượt khỏi thực trạng thấp kém, đưa nền kinh tế hàng hoá
phát triển kể cả trong điều kiện ngân sách Nhà nứơc hạn hẹp.
Nền kinh tế nhiều thành phần vừa phản ánh tính đa dạng
phong phú trong việc đáp ứng nhu cầu xã hôị vừa phản ánh tính
chất phức tạp trong việc quản lý theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Do đó, việc “phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
phải đi đôi với tăng cường quản lý của Nhà nứơc về kinh tế xã
hội”.
2.Những quan điểm chung về việc phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần.
Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tồn tại trong nó những
kiểu sản xuất hàng hoá không cùng bản chất, vừa thống nhất vừa
mâu thuẫn với nhau.
Tính thống nhất các thành phần kinh tế thể hiện:

Các thành phần kinh tế trong quá trình vận động không biệt
lập nhau mà gắn bó, đan xen xâm nhập lẫn nhau thông qua các
mối liên hệ kinh tế vì chúng đều là các bộ phận của hệ thống
phân công lao động xã hội thống nhất.
Sự thống nhất các thành phần kinh tế còn vì có yếu tố điều
tiết thống nhất đó là hệ thống các quy luật kinh tế đang tác động
trong thời kỳ quá độ và thị trường thống nhất.
Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế với nhau thể hiện :
Mâu thuẫn giữa công hữu và tư hữu, giữa tư nhân với tập thể, với
Nhà nước giữa xu hướng tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.
Mâu thuẫn là cội nguồn của mọi sự vận động và phát triển.
Trong hệ thống kinh tế thống nhất của nền kinh tế quá độ chứa
đựng những sự đối lập, những khuynh hướng đối lập, một mặt
bài trừ, phủ định lẫn nhau, cạnh tranh với nhau mặt khác chúng
thống nhất với nhau, thâm nhập, nương tựa vào nhau để tồn tại và
phát triển thông qua hợp tác và cạnh tranh, liên kết, liên doanh.
Các thành phần kinh tế đều được thừa nh ận tồn tại khách
quan và Nhà nước tạo điều kiện và môi trường để chúng tồn tại
trên thực tế.
Đối với doanh nghiệp Nhà nước, trước mắt và trong tương lai
vẫn có vai trò hết sức quan trọng có tính chất then chốt trong nền
kinh tế nước ta, đặc biệt là trên một số lĩnh vực. Tuy vậy cũng
không nên để cho các dn Nhà nước tồn tại tràn lan, nhất là
những cơ sở doanh nghiệp Nhà nước không nhất thiết phải nắm.
Cần tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước theo hướng
củng cố, kiện toàn để các doanh nghiệp này hoạt động có hiệu quả
và làm tốt chức năng, nhiệm vụ của mình là một loại công cụ, là
cơ sở vật chất -kỹ thuật của Nhà nứơc có tác động điều tiết nền
kinh tế.
Việc sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nứơc có thể thực hiện

theo các hướng:
Đầu tư tập trung ưu tiên cho các loại doanh nghiệp Nhà nước
theo thứ tự:
Thứ nhất, làm ăn có hiệu quả.
Thứ hai, đang hoạt động trong những ngành có vị trí then
chốt và chiến lược quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân.
Thứ ba, đang hoạt động trong những ngành có điều kiện phát
triển kỹ thuật và công nghệ tiến tiến, qua đó có thể tạo ra được
cơ sở để cải tiến cơ cấu công nghiệp, hiện đại hoá nền kinh tế.
 Đối với các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả trong các
ngành không quan trọng thì chuyển đổi sở hữu, sáp nhập, giải thể,
cho thuê hoặc bán đấu giá.
 Đối với các doanh nghiệp Nhà nước khác, khuyến khích
các doanh nghiệp tự bỏ vốn để đầu tư cải tạo, mở rộng sản xuất -
kinh doanh và vay vốn theo nguyên tắc “tự vay tự trả”.
Điều quan trọng là phải chuyển các doanh nghiệp Nhà nước
sang hoạt động theo cơ chế thị trường và trở thành một chủ thể
sản xuất - kinh doanh thực sự.
Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Chính sách phát
triển các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải được xây
dựng trên quan điểm:
 Không giới hạn sự phát triển.
 Cho phép các doanh nghiệp có đủ điều kiện quy định của
Nhà nứơc được mở rộng các hoạt động xuất nhập khẩu và liên
kết kinh tế với nứơc ngoài.
 Ngành nghề, thời gian và địa bàn hoạt động của doanh
nghiệp phải theo đúng quy định của Nhà nước.
 Khuyến khích các doanh nghiệp tổ chức theo các hình
thức sở hữu đan xen.
Với quan điểm này, các chính sách phát triển kinh doanh là

một thể thống nhất không phân biệt thành phần sở hữu và cơ quan
chủ quản các hình thức sở hữu đan xen nhau sẽ tạo nguồn động
lực mới cho sự phát triển của các thành phần kinh tế.




Chương II
Thực trạng phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần ở Việt Nam
I.Khái quát.
1/ Trong thời kỳ đầu cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, các xác định quốc doanh (doanh nghiệp Nhà nước) là lực
lượng kinh tế chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Chúng được
hình thành từ ba nguồn sau đây:
Thứ nhất: xây dựng mới bằng các nguồn vốn của ngân sách
Nhà nước, nguồn vốn viện trợ hoặc vốn đi vay (của Liên Xô cũ),
Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác trong thời kỳ đó.
Thứ hai: quốc hữu hoá các xí nghiệp tư nhân của các nhà tư
bản mại bản dân tộc đã ra nước ngoài hoặc các xí nghiệp Nhà
nước ở chế độ cũ.
Thứ ba: biến các xí nghiệp tư nhân của các nhà tư bản dân tộc
thành các xí nghiệp công tư hợp doanh, và sau đó thành các xí
nghiệp quốc doanh.
Cơ chế quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa lúc đó là cơ chế kế
hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp, tất cả đều do ngân sách
Nhà nước cấp và tất cả phải nộp vào ngân sách Nhà nước.
Trong nền kinh tế nước ta lúc bấy giờ:
 Các doanh nghiệp Nhà nước chiếm tỷ trọng gần như tuyệt
đối trong các ngành công nghiệp, thương nghiệp, giao thông vận

tải và xây dựng. Kinh tế tập thể chiếm tỷ trọng rất lớn trong các
ngành công nghiệp.
 Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động hầu hết trong mọi lĩnh
vực của nền kinh tế.
 Các doanh nghiệp đều có cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập
trung quan liêu, bao cấp chi phối, hiệu quả kinh tế kém.
Dưới ánh sáng đường lối của Đảng, trong mấy năm qua
chúng ta đạt được những thành tự đáng kể trong tăng trưởng kinh
tế, mở rộng thị trường. Hàng hoá phong phú cả về chủng loại,
mẫu mã và chất lượng. Lạm phát được kiềm chế, giá cả dần dần
được ổn định. Đời sống cán bộ công nhân viên chức và nhân dân
bước đầu được cải thiện.
Từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển
sang cơ chế tị trường, doanh nghiệp đã được “cởi trói”. Doanh
nghiệp Nhà nước được quyền tự chủ về nhiều mặt, tự chịu trách
nhiệm về đầu vào và đầu ra trong sản xuất - kinh doanh, tự mua
bán vật tư và sản phẩm.
Các thành phần kinh tế tư nhân, cá thể sau nhiều năm bị cấm
đoán, nay được tự do sản xuất - kinh doanh trở thành người bạn
đồng hành trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Sự phát
triển và cạnh tranh của các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp
hợp doanh trong nước với nước ngoài được thừa nhận.
Việt Nam từ một nền kinh tế khép kín đã và đang dần chuyển
sang nền kinh tế mở, có điều kiện tiếp xúc với thị trường thế giới,
với kỹ thuật và công nghệ sản xuất tiên tiến, với mô hình tổ chức
và phương pháp quản lý mới, hiện đại. Mọi thành phần kinh tế,
mọi loại hình doanh nghiệp được tự do cạnh tranh và phát triển
trong môi trường mới.
Những thắng lợi bước đầu rất quan trọng đó của công cuộc
đổi mới đất nước được thể hiện ở tốc độ tăng trưởng phát triển

kinh tế trong mấy năm gần đây và ở cơ cấu kinh tế chuyển dịch
theo xu hướng tiến bộ.
a)Về tăng trưởng kinh tế:
Trong năm 1922, tuy nền kinh tế của nước ta còn gặp nhiều
khó khăn, song đó cũng là năm đầu tiên chú ng ta đã hoàn thành
toàn diện và vượt mức các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch Nhà
nước. So với năm 1991, tổng sản phẩm trong nước tăng 10% thu
nhập quốc dân tăng 7,5% giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng
15%.
Tình hình sản xuất của năm 1993 tiếp tục tăng so với năm
1992.
b)Về cơ cấu kinh tế theo ngành nghề.
Đại hội Đảng lần thứ VI, trên cơ sở nhận rõ và phê phán
những thiếu sót, sai làm trước đây đã đề ra chủ trương xây dựng
và phát triển kinh tế phục vụ các chương trình kinh tế lớn của đất
nước trong giai đoạn trước mắt và lâu dài: sản xuất lương thực,
hàng tiêu dùng và xuất khẩu.
Thực hiện chủ trương đó, cơ cấu kinh tế ngành được thay đổi
một bước cơ bản, phù hợp với nền kinh tế thị trường ngày càng
mở rộng, tạo ra một bước phát triển mới trong việc phục vụ, đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng cấp thiết và ngày càng lớn của nhân dân ta
sau những năm chịu đựng thiếu thốn do chiến tranh kéo dài.
Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu trong mấy năm gần đây
cũng được đổi mới. Tỉ trọng hàng thành phẩm xuất khẩu tăng lên,
năm 1990, tỉ trọng đó là 8% năm 1991 tăng lên 17%. Tỉ trọng
hàng nhiêu liệu, khoáng sản nhập khẩu giảm từ 31,4% năm 1990
xuống 21,4% năm 1991. Tổng kim ngạch xuất khẩu thời kỳ 1986
- 1990 đạt 6,85 tỷ rúp/đô la: bằng 2,37 lần so với thời kỳ 1981 -
1985, tốc độ tăn g bình quân hàng năm là 27%. Năm 1990 xuất
khẩu đạt 2,2 tỷ rúp/ đôla, so với năm 1985 bằng 3,27 lần. Năm

1991, kim ngạch xuất khẩu so với năm 1990 tăng 14,7%. Trong
lúc đó kim ngạch nhập khẩu tăng chậm hơn. Năm 1990, kim
ngạch nhập khẩu đạt 2,5 tỷ rúp/đô la bằng 1,4 lần so với năm
1985, năm 1991 đạt 2,2 tỷ rúp/đôla, giảm 11,1% so với năm 1990.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa hình thành và tạo nên được
những ngành mũi nhọn của công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng,
nhằm làm chủ thị trường trong nước và cạnh tranh trên thị trường
nước ngoài.
c)Về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần:
Chuyển một nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung với thành
phần kinh tế thuần nhất sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần là một bước đổi mới quan trọng. Chúng ta không đặt nền
kinh tế hàng hoá đối lập với chủ nghĩa xã hội, không coi kinh tế
tư nhân, cá thể là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội, mà coi là bạn đồng
hành của kinh tế Nhà nước trên con đường phát triển kinh tế của
đất nước. Với quan điểm đó, kinh tế tư nhân được phục hồi và
phát triển, đã và đang có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị
trường. Tỉ trọng kinh tế tư nhân trong từng ngành và toàn bộ nền
kinh tế quốc dân đều tăng lên với mức độ khác nhau. Tỉ trọng
thành phần kinh tế quốc doanh giảm tương ứng.
Theo tài liệu của Tổng c ục Thống kê năm 1988, tỉ trọng kinh
tế quốc doanh giảm xuống còn 30,5%, tỉ trọng kinh tế ngoài quốc
doanh tăng lên: 69,5%. Đến năm 1991, kinh tế quốc doanh chiếm
37%, ngoài quốc doanh chiếm 63%. Thu nhập quốc dân và tổng
sản phẩm sản xuất ra của kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng
tăng.
Năm 1994, đất nước bắt đầu thực hiện quá trình công nghiệp
hoá -hiện đại hoá với chiến lược phát triển các thành phần kinh tế
hướng ra xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế
phải phát triển thế mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế,

điều quan trọng là phải tạo ra môi trường tự do để tất cả các thành
phần kinh tế có thể xuất khẩu.
Để tạo nguồn tích luỹ trong nước và để phù hợp với trình độ
khoa học - công nghệ trong nước, nhiệm vụ đầu tiên chúng ta thực
hiện đó xuất khẩu sản xuất thô hay chúng ta “bóc” tài nguyên
thiên nhiên để xuất khẩu. Hiện nay một số mặt hàng xuất khẩu
chủ yếu là: dầu lửa, than đá, gạo.
Việt Nam còn phải nhập khẩu hầu hết những linh kiện điện tử
và đồ điện dân dụng từ nước ngoài. Vì vậy nhiệm vụ thứ hai đặt
ra là sản xuất thay thế hàng nhập khẩu.
Đất nước đang đứng trước mâu thuẫn giữa yêu cầu đổi mới
trang bị kỹ thuật - công nghệ phát triển sản xuất trong nền kinh tế
quốc dân với khả năng tiền vốn eo hẹp của ngân sách và sức ép
của lực lượng lao động dôi dư cần được giải quyết việc làm.
Trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá này làm thế nào
chúng ta khuyến khích phát triển toàn diện các thành phần kinh tế
hướng ra xuất khẩu, nhất là ở vùng nông thôn có những làng nghề
truyền thống mà lâu nay bị mai một, cầu phục hồi phát triển để
tạo ra nhiều hàng hoá xuất khẩu thu ngoại tệ, góp phần tích luỹ
vốn nhằm đổi mới trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ theo hướng
hiện đại?
II.Thực trạng phát triển của các thành phần kinh tế hiện
nay.
Các thành phần kinh tế Việt Nam dựa trên ba hình thức sở
hữu: Nhà nước, tư nhân, hỗn hợp.
1/ Thành phần kinh tế Nhà nước:
Thành phần này dựa trên chế độ sở hữu Nhà nước về những
tư liệu sản xuất chủ yếu, gồm những đơn vị kinh tế mà toàn bộ số
vốn thuộc về Nhà nước hoặc phần của Nhà nước chiếm tỉ trọng
khống chế.

Theo số liệu thống kê, đến năm 1989 cả nước có 12.084
doanh nghiệp Nhà nước, với số vốn khoảng 10USD, trong đó các
doanh nghiệp Nhà nước trong ngành công nghiệp chiếm 49,3%
tổng số vốn xây dựng 9%, nông nghiệp 8,1%. Lâm nghiệp 1,2%.
Giao thông vận tải 14,8%; thương nghiệp 11,57%, các ngành khác
5,9%.
Hàng năm, thành phần kinh tế Nhà nước đã tạo ra khoảng 35
- 40% GDP và 22 - 30% GDP, đóng góp từ 60 - 80% tổng số thu
ngân sách.
Nhìn tổng quát, toàn bộ khu vự c kinh tế Nhà nước chưa tự
đảm bảo tái sản xuất giản đơn. Sự tăng trưởng hàng năm của khu
vực kinh tế Nhà nước chủ yếu do việc gia tăng lượng vốn và lao
động. Số đóng góp của khu vực kinh tế Nhà nước so với số chi
của ngân sách Nhà nước cho khu vực này từ năm 1990 trở về
trước là 1:3.
Sau ba năm cấu trúc lại và chuyển đổi cơ chế nhìn chung năm
1991 khu vực kinh tế Nhà nước có một số chuyển biến bước đầu.
Các doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp do
Trung ương quản lý trong ngành công nghiệp, t hương nghiệp,
giao thông vận tải và bưu điện viễn thông đã từng bước thích nghi
với cơ chế thị trường nên đã đi dần vào thế ổn định.
Nhưng những điểm sáng này chưa nhiều. Sự khởi sắc của
chúng vẫn chưa có cơ sở chắc chắn và lâu bền. Số doanh nghiệp
Nhà nước đang trong tình trạng phá sản hoặc có nguy cơ phá sản,
đình đốn vẫn chiếm quá nửa số doanh nghiệp Nhà nước hiện có.
Kết quả điều tra gần đây cho thấy, trong quá trình vận hành
cơ chế quản lý mới, kinh tế Nhà nước cũng bộc lộ nhiều mặt yếu
kém và hạn chế.
Một là, đại bộ phận doanh nghiệp Nhà nước còn gặp nhiều
khó khăn như thiếu vốn, thiếu thị trường, bị thua lỗ triền miên,

phải “ăn dần” vào vốn. Hiện nay, trong tổng số doanh nghiệp Nhà
nước, chỉ khoảng 20 - 25% (chủ yếu là doanh nghiệp Nhà nước
trung ương) có lãi, 30 - 35% hoà vốn, còn lại khoảng 40% (chủ
yếu là doanh nghiệp địa phương) bị lỗ vốn. Số doanh nghiệp thua
lỗ chiếm tới 38% số tài sản cố định và 33% số lao động. Tình
hình phổ biến là thiếu việc làm, thừa nhân lực, đặc biệt trong
thương nghiệp, x ây dựng, thừa khoảng 40 - 50% số lao động hiện
có. Hiện nay có khoảng 80 - 90% số doanh nghiệp Nhà nước
quận, huyện, 50 - 60% số doanh nghiệp Nhà nước cấp tỉnh thuộc
tất cả các ngành kinh tế đang trong tình trạng đình đốn, không có
khả năng hoạt động. Số doanh nghiệp này hầu hết là quy mô bé,
kỹ thuật và công nghệ lạc hậu, không đồng bộ, sản phẩm làm ra
kém chất lượng.
Hai là, nhìn chung các doanh nghiệp Nhà nước có hiệu quả
thấp, mới huy động khoảng 40 - 50% năng lực sản xuất. Hệ số
sinh lời của vốn cố định trong kinh tế Nhà nước bình quân chỉ đạt
7% năm, trong đó, ngành công nghiệp 3%, giao thông vận tải 2%,
thương nghiệp 2%. Hệ số sinh lời vốn lưu động cũng chỉ đạt 11%/
năm, trong đó các ngành tương ứng đạt 10,6%, 9,4%, 9,5%. Mức
tiêu hao vật chất cho một đơn vị giá trị tổng sản phẩm xã hội cao
hơn so với kinh tế ngoài quốc doanh và gấp 1,3 - 2,2 lần mức
trung bình trên thế giới.
Mặt hàng làm ra đơn điệu, chậm cải tiến mẫu mã, chất lượng
thấp và không ổn định, chỉ khoảng 15% số loại sản phẩm đạt tiêu
chuẩn xuất khẩu, 65% đạt tiêu chuẩn trung bình, 20% đạt chất
lượng kém và quá kém.
Ba là, tài sản, vốn của Nhà nước giao cho doanh nghiệp phổ
biến là không được bảo tồn và phát triển, năng lực sản xuất không
được mở rộng và tái tạo, ngược lại bị thất thoát, hư hỏng, lãng phí
nhiều nhưng không biết quy trách nhiệm về ai.

Trong những năm gần đây, không ít doanh nghiệp đã lợi dụng
những kẽ hở của cơ chế quản lý mới chưa được hoàn chỉnh và
đồng bộ để mua đi bán lại tài sản, vật tư, khai báo sai doanh thu,
định ra những chế độ chi tiêu, phân phối rất tuỳ tiện trong đơn vị
khác để chia chác, làm giàu cho cá nhân, vi phạm lợi ích Nhà
nước.
Tình hình nêu trên đã làm cho vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà
nước bị lu mờ, nhất là trong điều kiện Nhà nước khuyến khích các
thành phần kinh tế khác phát triển, tạo ra môi trường cạnh tranh
theo cơ chế thị trường.
Vì vậy việc đánh giá kinh tế Nhà nước ở nước ta cần phải
đứng trên quan điểm lịch sử mà phán xét một cách khách quan,
toàn diện. Không nên chỉ đơn thuần dựa vào những yêu c ầu của
một nền kinh tế hàng hoá mà phê phán có tính một chiều, phủ
nhận mọi sự đóng góp quan trọng của kinh tế Nhà nước, thậm chí
đi đến chỗ cực đoan muốn xoá bỏ nó. Phải nghiêm túc vạch ra
những yếu kém của nó để khắc phục, làm cho kinh tế Nhà nước
chẳng những hoạt động có hiệu quả về mặt kinh tế, mà còn làm
tròn được trách nhiệm về mặt xã hội.
2/ Thành phần kinh tế tập thể:
Thành phần kinh tế tập thể dựa trên sở hữu hỗn hợp gồm các
đơn vị kinh tế do những người lao động tự nguyện góp vốn, góp
sức kinh doanh theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, bình đẳng
cùng có lợi.
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp, các
loại hình hợp tác này được Nhà nước bảo trợ áp dụng nhiều chính
sách ưu tiên cung cấp tư liệu sản xuất, nguyên vật liệu, giá cả, bảo

×