Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ở việt nam.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.32 KB, 24 trang )

Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ở việt nam
*lời mở đầu
Trớc ngỡng cửa của thế XXI, loài ngời bị cuốn hút vào một quá trình mang tính
chất quốc tế bao trùm hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội
của thế giới, đó là quá trình toàn cầu hoá mà cốt lõi của nó là toàn cầu hoá kinh
tế. Đây là một xu thế khách quan tác động một cách toàn diện đến mọi dân tộc. Nó
đặt mỗi quốc gia trớc những thời cơ và cả thách thức to lớn. Việt nam chúng ta
cũng không phảI là một ngoại lệ. Chính vì vậy từ khi chúng ta tiến hành đổi mới
(1986)nớc ta đã nỗ lực không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Chúng ta đã
ngặt háI đợc nhiều thành công trong việc hội nhập kinh tế quốc tế nh việc trở
thành viên chính thức của liên minh ASEAN(1996), tham gia khu vực mậu dịch tự
do AFTA, ký kết hiệp định thơng mại Việt-Mỹ.Việc hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra
cho việt nam những thời cơ và thách thức lớn. Chính vì vậy việc nghiên cứu, tìm
hiểu về hội nhập kinh tế quốc tế là việc hết sức cần thiết để chúng ta có thể tận
dụng chiệt để những cơ hội và vợt qua đợc những thách thức. để việt nam không chỉ
chánh đợc nguy cơ tụt hậu so với quốc tế mà còn phát triển sánh vai cùng 5 châu.
đề án đã đợc hoàn thành với sự hớng dẫn chỉ bảo nhiệt tình của giảng viên
PGS-PTS Mai hữu Thực. Em xin đợc nói lời cảm ơn chân thành tới thầy
Do trình độ còn hạn chế và vấn đề là rộng lớn, phức tạp nên trong quá trình
phân tích trình bầy còn nhiều thiếu sót và hạn chế nên em mong đợc sự chỉ dậy của
các thầy cô trong bộ môn.
1
đặT vấn đề
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan.trong hơn một thập kỷ lại
đây xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới có sự ra tăng mạnh mẽ gắn liền với sự
phát triển của khoa học-công nghệ; xu thế chuyển từ đối đầu sang đối thoại, thế giới
chuyển sang thời kỳ mới - hoà bình,hợp tác và phát triển; sự gia tăng hàng loạt vấn
đề toàn cầu nh môi trờng, dân số...Sự gia tăng mạnh mẽ của toàn cầu hoá kinh tế đặt
ra yêu cầu khách quan đòi hỏi các quốc gia phải có chiến lợc hội nhập phù hợp vào
nền kinh tế thế giới và khu vực. Trong bối cảnh này không thể phát triển nếu không
mở cửa hội nhập. Tuy vậy, hội nhập, một mặt sẽ đón nhận đợc những cơ hội cho phát


triển, song mặt khác cũng phải đối mặt với hàng loạt thách thức do chính xu thế toàn
cầu hoá đặt ra.
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới chuyển sang phát triển nền kinh tế thị tr-
ờng định hớng xã hội chủ nghĩa. Việc đẩy mạnh tham gia hội nhập vào nền kinh tế
thế giới và khu vực là một nội dung, một khía cạnh quan trọng của công cuộc đổi
mới hiện nay. Do vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu sâu về chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế là một vấn đề không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực
tiễn rất quan trọng.
Mặc dù hội nhập có cả tích cực và tiêu cực, song đối với việt nam để có thể thực
hiện đợc quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, đòi hỏi chúng ta, nói nh thủ tớng
phan văn khải, cần phảichủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế . Hội nhập chủ
động sẽ là phơng châm hợp lý bảo đảm cho chúng ta hoà nhập với cộng đồng thế giới
mà không bị hoà tan.
2
B\ nội dung
I/ tính tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế
1/ kháI quát về hội nhập kinh tế quốc tế
hội nhập kinh tế quốc tế là sự gia tăng nhanh chóng của các Họat động kinh tế
vợt qua mọi biên giới quốc gia, khu vực tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền
kinh tế tăng sự vận động phát triển hớng tới nền kinh tế thế giới thống nhất. Sự gia
tăng của xu thế này thể hiện ở sự mở rộng mức độ và quy mô mậu dịch thế giới, sự lu
chuyển của các dòng vốn trên phạm vi toàn cầu.
2 .Tính tất yếu.
Toàn cầu hoá kinh tế thế giới là một xu thế khách quan do tác động của sự phát
triển của lực lợng sản xuất. Những thập niên cuối thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn, hàng hoá, dịch vụ,
chuyển giao công nghệ trong phạm vi toàn cầu, xuất hiện nhiều hiện tợng mới nh th-
ơng mại đIện tử, đồng tiền ảo,nền kinh tế số... kéo theo sự ra đời lý thuyết mới về
kinh tế, đòi hỏi các dân tộc trên thế giới phảI có t duy mới đối với thách thức và cơ
hội trong quá trình phát triển.

Quá trình toàn cầu hoá diễn ra ở nhiều cấp độ, từ hợp tác song phơng giữa hai n-
ớc, hình thành các tam giác, tứ giác, các tiểu vùng, tổ chức khu vực, liên khu vực,
liên châu lục và các tổ chức toàn cầu với phơng thức đa dạng nh khu vực mậu dich tự
do, liên minh thuế quan, thị trờng chung, diễn đàn kinh tế, liên minh kinh tếTrên thế
giới hiện đã có hơn 100 tổ chức nh vậy.
Toàn cầu hoá là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh; mỗi nớc có thể tận dụng tối
đa thế và lực của mình để đảm bảo lợi ích của dân tộc trong quan hệ đa phơng và
song phơng với các nớc khác.
3
Các nớc công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới là những nớc sáng lập ra các
tổ chức kinh tế quốc tế nh IMF, WB, WTO, cũng nh nhiều tổ chức khu vực, đã và
đang tìm mọi cách chi phối hoạt động của các tổ chức đó từ việc đề cử ngời của mình
vào các chức vụ chủ chốt, đặt ra các định chế, chính sách, thao túng các hoạt động
tác nghiệp của các tổ chức đó nhằm phục vụ cho lợi ích của họ.
Các nớc đang phát triển cũng nh những nớc đang chuyển đổi cơ chế kinh tế th-
ờng vào thế yếu trong quan hệ kinh tế quốc tế, đã và đang tìm tiếng nói chung trên
các diễn đàn quốc tế, cũng nh phối hợp các hoạt động chung trong các cơ quan quốc
tế nhằm bảo vệ quyền lợi của mình, kiềm chế sự thao túng của các nớc lớn.
Giữa các nớc công nghiệp phát triển với nhau, cũng nh giữa các nớc đang phát
triển và đang chuyển đổi cơ chế kinh tế cũng thờng xuất hiện những quan điểm khác
nhau trong việc xử lý các vấn đề chung của thế giới, tranh chấp với nhau về thơng
mại, đầu t, chu chuyển vốn, sở hữu trí tuệ, bản quyền, thậm chí dẫn đến các cuộc
chiến tranh thơng mại trong quan hệ một số nớc nh Nhật-Mỹ về ôtô, EU- Mỹ về
chuối, Anh - một số nớc EU khác về thịt bò.
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế với thế giới là vấn đề chung cho tất cả các dân
tộc; nớc chiếm 1/4 tổng GDP toàn thế giới nh Mỹ, cũng nh nớc chiếm hơn 1/5 dân số
thế giới nh Trung Quốc mặc dù có chế độ xã hội khác nhau, cũng không thể đứng
ngoàI xu thế chung đó đợc.
Do vậy, vấn đề đặt ra đối với nớc ta hiện nay không phảI là có hội nhập hay
không, mà là làm thế nào để đảm bảo đợc lợi ích dân tộc trong quá trình hội nhập về

kinh tế với thế giới.
Lợi ích dân tộc đợc thể hiện trong mục tiêu dàI hạn, nh đã đợc xác định trong
nhiều văn kiện của đảng và nhà nớc, là dân giầu, nớc mạnh, xã hội công bằng, văn
minh,đợc cụ thể hoá trong mục tiêu từng giai đoạn trung hạn 5 năm và hàng năm. hội
nhập kinh tế với thế giới góp phần thực hiện các mục tiêu đó bằng cánh mở rộng
4
không ngừng quan hệ kinh tế đối ngoại với các nớc và tổ chức quốc tế, tranh thủ tối
đa nguồn lực từ bên ngoàI để bồi dỡng nguồn lực trong nớc, tạo thành một hợp lực
nhằm đẩy nhanh và thực hiện có hiệu quả công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, thu
hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển giữa nớc ta với các nớc trong khu vực, từ
đó lại tạo ra đIều kiện để cho việc hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với các nớc trong
khu vực và trên thế giới.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trờng, tranh thủ thêm vốn,
công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định
hớng xă hội chủ nghĩa, thực hiện dân giầu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, trớc mắt là thực hiện thắng lợi những nhiện vụ nêu ra trong chiến lợc phát triển
kinh tế-xã hội năm 2001-2010 và kế hoạch 5năm 2001-2005.
II/ thực trạng hội nhập kinh tế của việt nam.
1. thực trạng kinh tế của việt nam.
a, Kết thúc năm 1999, năm thứ 9 của chiến lợc 10 năm (1991-2000), thế và
lực của nớc ta đợc nâng lên rõ rệt:
- Tốc độ tăng trởng kinh tế khá cao, bình quân GDP hằng năm trong
thời kỳ 1991- 1995 là 8,2%, hai năm 1996 và 1997 trên mức đó và hai năm tiếp theo
1998 và 1999 khoảng 5 %. Giá trị sản lợng công nghiệp tăng trên 10% và nông
nghiệp tăng trên 4%.
- Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu cao gấp 2 đến 3 lần tốc độ tăng
GDP. Ngoại trừ năm 1991 do giảm sút trong quan hệ buôn bán với Liên Xô (cũ) nên
kim ngạch xuất khẩu giảm 15,1%, từ 1992 đến 1997 tăng 25 đến 30% năm. Năm
1998 gần nh không tăng, năm 1999 tăng khoảng 23%. Tình trạng nhập siêu đã đợc
thu hẹp dần và từ 1998 về cơ bản đã cân bằng đợc cán cân thơng mại quốc tế. Kim

ngạch xuất khẩu năm 1999 đạt 11,5 tỷ USD, bằng 5 lần năm 1991. Cơ cấu hàng xuất
khẩu đã có biến đổi quan trọng theo hớng tăng dần giá trị gia tăng hàng xuất khẩu.
5
Từ chỗ có ít mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD, năm 1999 đã có
nhiều mặt hàng đạt trên 1 tỷ USD nh dầu thô, gạo, hàng dệt, may, giày dép.
- Du lịch và dịch vụ quốc tế đã đợc phát triển nhanh chóng, hàng ngàn
khách sạn, nhà hàng, trung tâm du lịch đã hình thành một mạng lới có thể thu hút
hàng năm nhiều triệu khách quốc tế. Các dịch vụ hàng không, hàng hảI, bu chính,
viễn thông, tàI chính, bảo hiểm, tín dụng quốc tế đã đợc phát triển nhanh và một số
dịch vụ đã đợc tầm cỡ khu vực.
- Đã thu hút đợc hơn 2400 dự án đầu t trực tiếp nớc ngoàI với vốn đăng ký 36 tỷ
USD, trong đó vốn đã thực hiện 15,5 tỷ USD, chiếm khoảng 28% tổng vốn đầu t toàn
xã hội thời kỳ 1991-1999. Hàng ngàn công ty, trong đó có nhiều công ty đa quốc gia
của gần 70 và vùng lãnh thổ đang hoạt động đầu t và kinh doanh ở nớc ta .Từ năm
1993, nớc ta đã nối lại khoản viện trợ phát triển (ODA), bình quân mỗi năm khoảng
1 tỷ USD đã đợc đầu t vào xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, tạo điều kiện cho các
ngành kinh tế phát triển.
Khi mà loàI ngời bớc vào thiên niên kỷ mới thì nớc ta cũng đã có thế và lực
mạnh hơn, cũng nh đã tích luỹ đợc những kinh nghiệm quý giá trong việc xây dựng
nên kinh tế thị trờng nhiều thành phần và trong quá trình hội nhập về kinh tế với thế
giới
b, Tuy vậy, thực trạng kinh tế nớc ta nhìn dới góc độ hội nhập kinh tế với thế
giớ cũng bộc lộ những nhợc đIúm đáng lu ý:
- Thời kỳ 1991-1995 là lúc mà ở trong nớc thì nguồn vốn vật chất còn hạn hẹp,
kinh nghiêm quản lý nhà nớc và kinh doanh trong nền kinh tế thị trờng còn cha
nhiều; ở ngoàI nớc thì tình hình quốc tế nhìn chung là bất lợi, Liên Xô (cũ) tan rã
làm giảm sút đột ngột quan hệ buôn bán chủ yếu của nớc ta với thế giớ. Mỹ và đồng
minh của Mỹ kéo dàI cuộc cấm vận về kinh tế với nớc ta cho đến đầu năm 1994,
nguồn ODA mới đợc nối lại từ 1993 và hết năm 1995 chỉ thực hiện đợc 1,73 tỷ USD.
6

Trong bối cảnh đó, toàn bộ các chỉ tiêu kế hoạch 5 năm 1991-1995 đã đợc thực hiện
vợt mức khá cao. Mức tăng thực tế bình quân hằng năm : GDP 8,2% (kế hoạch 5,5-
6,5%), giá trị sản lợng công nghiệp 13,5% ( KH 7,58,5), giá trị sản lợng nông
nghiệp 4,5%(KH 3,7-4,5%)...
- Thời kỳ 1996-2000 là thời kỳ có nhiều nhân tố thuận lợi hơn; ở trong
nớc thì nên kinh tế đang đà phát triển với tốc độ khá cao, đời sống vật chất tinh thần
của nhân dân nhìn chung đợc cảI thiện, hoạt động của thị trờng nội địa khá sôI động,
nền tàI chính tiền tệ đã đợc ổn định; ở ngoàI nớc thì với việc gia nhập ASEAN, tham
gia AFTA, ký hiệp định khung với EU và bình thờng hoá quan hệ với Mỹ vào tháng
7-1995, cũng nh là thành viên của APEC vào tháng 11-1998, vị thế nớc ta trên trờng
quốc tế đã đợc cảI thiện rõ rệt. Trong bối cảnh đó, trừ chỉ tiêu sản xuất nông nghiệp,
các chỉ tiêu kinh tế khác của kế hoạch 1996-2000 đạt thấp hơn nhiều so với mức dự
kiến.
- Tốc độ tăng giá trị sản lợng nông nghiệp dự kiến tăng 4,5- 5,5%/năm, có thể
đạt 5,1-5,2%/năm. Sản lợng lơng thực quy thóc năm 1999 đạt 33,8 triệu tấn vợt mức
dự kiến 30-32 triệu tấn của năm 2000.
- Tốc độ tăng GDP dự kiến 9-10%/năm nhng chỉ đạt khoảng 6,8%/năm
tơng đơng 2/3 mức dự kiến và thấp hơn nhiều so với mức tăng của 5 năm trớc đó.
2.nhìn lại quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong những năm gần đây.
đIều cần nói là, không phảI chỉ có thập kỷ 90 vừa qua chúng ta mới tiến hành
hội nhập quốc tế. Nhìn lại chặng đờng phát triển của dân tộc ta, trên thực tế cha bao
giờ chúng ta tách khỏi nền kinh tế thế giới, chúng ta đã, đang và sẽ tiếp tục quá trình
hội nhập.
Trơc khi nhà nớc việt nam (việt nam dân chủ cộng hoà nay là cộng hoà xã hội
chủ nghĩa việt nam) ra đời việc tham gia vào tiến trình kinh tế thế giới của chúng ta
chịu sự chi phối của chủ nghĩa thực dân, đó thực chất là quá trình bị động. Sau khi n-
7
ớc việt nam dân chủ cộng hoà ra đời do đIều kiện chiến tranh nên việc phát triển kinh
tế và tham gia vào quá trình kinh tế quốc tế rất hạn chế. Trên thực tế từ năm 1945
đến khi chúng ta thực hiện đổi mới, quan hệ việt nam với khu vực (đông nam á) có

thể nói là bị ngừng chệ. Chúng ta chỉ tiến hành quan hệ hợp tác với các quốc gia
XHCN mà đáng chú ý là việc tham gia vào Hội tơng trợ kinh tế (SEV). Tham gia vào
SEVphần nhiều cũng không phảI xuất phát từ yêu cầu tất yếu của phân công hợp tác
về mặt kinh tế đối với Việt Nam. Nh vậy có thể thấy thập kỷ 90 là thập kỷ hội nhập
khởi đầu đúng nghĩa. Cũng vì vậy chúng tôI muốn đI sâu nhìn nhận lại quá trình hội
nhập kinh tế của ta thời gian này, từ đó có cơ sở cho những đề xuất và gợi ý cho tơng
lai.
Chúng ta biết rằng từ cuối thế kỷ 70, đất nớc lâm vào tình trạng khó khăn, cơ
chế kinh tế cũ tỏ ra không còn tác dụng, cơ chế mới cha hình thành. Viện trợ ở bên
ngoàI bắt đầu khó khăn, giảm sút, trong khi đó các thế lực thù địch trong và ngoàI
chống phá dồn ép ta trên các phơng diện. Gần suốt thập kỷ 80 chúng ta loay hoay tìm
phơng cách khắc phục song không những không hiệu quả mà còn làm cho tình trạng
khó khăn, phức tạp thêm. Đại hội VI của Đảng đã mở ra phơng cách mới, chúng ta
đã tiến hành đổi mới chuyển sang cơ chế thị trờng. Cùng với những đổi mới bên
trong chúng ta thực hiện chuyển hớng chiến lợc trong kinh tế đối ngoại, từng bớc hội
nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Tiếp theo tinh thần đổi mới của Đại hội VI, Đại hội VII và VIII, cùng các Nghị
quyết của Hội nghị Trung ơng trong các kỳ Đại hội đều có chú ý đến vấn đề hội nhập
quốc tế. Nếu nh Đại hội VI Đảng ta nhấn mạnh phảI gắn thị trờng trong nớc với thế
giới, giảI quyết mối quan hệ tiêu dùng trong nớc và xuất khẩu, có chính sách bảo vệ
thị trờng nội địa, thì tại Hội nghị Trung ơng lần thứ 3 khoá VII đã có bớc tiến trong
xác định cụ thể nội dung của hội nhập quốc tế, trong đó khẳng định phảI khai thông
quan hệ với các tổ chức kinh tế quốc tế. T tởng này đợc khẳng định lại tại Hội nghị
8
Trung ơng 7 khoá VII là từng bớc tham gia các hội, các tổ chức kinh tế, thơng mại
thế giới và khu vực.
Đại hội VIII của Đảng tiếp tục phát triển và khẳng định về sự cần thiết cũng nh
làm rõ thêm về nội dung và tiến trình hội nhập. Nghị quyết Đại hộ nhấn mạnh phảI
Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập khu vực và thế giới, hớng mạnh về xuất
khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nớc sản xuất có hiệu

quả. ĐIều chỉnh cơ cấu thị trờng để vừa hội nhập khu vực vừa hội nhập toàn cầu,
xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta và các đối tác. Chủ động tham gia thơng mại thế giới,
các diễn đàn,các tổ chức, các định chế quốc tế một cách có chọn lọc, với bớc đI thích
hợp.
Nh vậy có thể nói chủ trơng hội nhập của Đảng ta là nhất quán trong tiến trình
đổi mới. Đây chính là cơ sở rất quan trọng để triển khai, thúc đẩy hội nhập trên thực
tế.
TrảI qua hơn một thập kỷ từng bớc hội nhập chúng ta đã có đợc những kết quả
bớc đầu quan trọng trên các mặt thơng mại, đầu t, ngoại giao.. phá bỏ thế cô lập, tạo
ra môI trờng cùng hợp tác phát triển với các đối tác trên thế giới. Cụ thể về ngoại th-
ơng, chúng ta đã mở quan hệ kinh tế với 150 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới. Từ
năm 1990 đến 1999 tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam tăng 4,5 lần, khi đó tổng giá
trị nhập khẩu tăng hơn 4 lần. Trên thực tế kết thúc năm 1999 kim ngạch xuất khẩu và
nhập khẩu gần nh ngang bằng. Trong cơ cấu hàng hoá cũng có chuyển biến tích cực
theo hớng đa dạng mặt hàng, tăng dần những hàng hoá qua chế biến. Trong lĩnh vực
thu hút vốn nớc ngoàI chúng ta cũng đạt đợc những kết quả đáng khích lệ. Tính đến
tháng 9/1999 chúng ta đã thu hút 35,9 tỷ USD FDI của hơn 70 quốc gia và lãnh thổ
trên thế giới, trong đó đầu t vào công nghiệp và xây dựng la gần 51%. Cùng với vôn
FDI chúng ta còn tiếp nhận một lợng không nhỏ nguồn vốn qua kênh ODA. Nguồn
ODA thực sự có ý nghĩa quan trọng phát triển cơ sở hạ tầng, cả phần cứng và phần
mềm đối với Việt Nam. Tính ra mức vốn nớc ngoàI hiện nay chiếm khoảng 30% tổng
9
vốn đầu t xã hội. Tỷ lệ đóng góp của khu vực có vốn đầu t nớc ngoàI trong GDP đều
tăng lên qua các năm. Năm 1993 đạt 3,6%, đến năm 1998 đạt 9%; năm 1999 đạt
khoảng 10,5%. Nguồn thu ngân sách từ khu vực có vốn đầu t nớc ngoàI đạt 370 triệu
USD vào năm 1998.
Cùng với mở cửa thu hút vốn nớc ngoàI, gia tăng xuất khẩu, các doanh nghiệp
Việt Nam cũng đã mạnh dạn tham gia đầu t ra nớc ngoàI, kể cả vào những nớc phát
triển nh Nhật Bản. Tính đến nay các doanh nghiệp Việt Nam đã có 27 dự án đầu t ra
nớc ngoàI với tổng số khoảng 8 triệu USD, tập trung chủ yếu trong lĩnh vực chế biến

thực phẩm, thơng mại, dịch vụ và xây dựng v.v..Đồng thời trong những năm 90
chúng ta đã ký các hợp đồng đa 7 vạn lao động ra nớc ngoàI làm việc.
Việc hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới không chỉ cho phép ta thu đợc
vốn, mà dựa vào đó chúng ta nắm bắt đợc những công nghệ kỹ thuật và quản lý tiên
tiến, từng bớc tạo cho ta một đội ngũ công nhân có trình độ phù hợp cho việc phát
triển nền công nghiệp hiện đại trong thời đại ngày nay. Theo con số của vụ quản lý
dự án, bộ kế hoạch và đầu t, riêng trong khu vực có FDI đã thu hut 285,7 nghìn lao
động(số liệu đến tháng 8/1999).
Thực ra để đạt đợc những kết quả nh trên trong những năm qua Việt Nam đã có
những đổi mới cảI thiện môI trờng đầu t, đặc biệt là luật đầu t, mặc dù còn có nhiều
đIều cần đIều chỉnh, song đều đợc thừa nhận là luật cởi mở, có sức hút đối với FDI.
Chúng ta cũng có nhiều đổi mới trong lĩnh vực tàI chính tiền tệ, đIều chỉnh các mức
thuế theo hớng ngày càng tự do hơn.
Kết quả của hội nhập còn thể hiện rõ ở việc hội nhập và tham gia vào những
hoạt động của các tổ chức trong khu vực và toàn cầu. Chúng ta đã trở thành viên của
APTA, APEC, có quan hệ chặt với các tổ chức chuyên môn của UN, IMF và WB
cũng nh ADB. Đặc biệt chúng ta ký hiệp định thơng mại Việt Mỹ và đang xúc tiến
tham gia vào WTO.
10
Với việc hội nhập tích cực, chủ động nh trên đã góp phần quan trọng vào thành
tựa kinh tế- xã hội trong hơn mời năm đổi mới vừa qua. Không những phá bỏ thế bao
vây và cô lập và còn góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực cũng nh
trên trờng quốc tế.
Tuy vậy, đIều cũng cần thấy là, bên cạnh những kết quả, tiến trình hội nhập của
Việt Nam trong hơn mời năm qua cũng đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cả ở tầm vĩ
mô và vi mô cần suy nghĩ, giảI quyết để tiếp tục hội nhập ngày càng hiệu quả hơn.
3. Một số thuận lợi và khó khăn đặt ra đối với việc đẩy nhanh quá trình hội
nhập kinh tế khu vực và thế giới.
a.Những thuận lợi cơ bản.
Thứ nhất, Đảng cũng nh nhà nớc có những chủ trơng và chính sách nhất quán

cho việc chủ động tham gia vào tiến trình khu vực hoá và toàn cầu hoá.Chúng ta còn
nhớ khi bắt đầu bớc vào cảI cách đổi mới việc mở rộng quan hệ kinh tế với các quốc
gia, tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu cha phảI đã có tiếng nói
chung.ĐIều đó ảnh không nhỏ đến nhịp độ hội nhập. Nay với quan đIúm và nguyên
tắc rõ ràng chúng ta đẩy nhanh qúa trình hội nhập. Đờng lối ở tầm vĩ mô, về xu thế
không thể tránh khỏi đối với sự phát triển của việc tham gia toàn cầu hoá thực tế có
ý nghĩa rất lớn đối với sự nghiệp đổi mới, hội nhập của Việt Nam. Từ nhận thức này,
mà trong những năm qua Việt Nam đã có bớc chuyển đổi lớn trong chính sách phát
triển kinh tế nói chung, chính sách phát triển kinh tế đối ngoại noi riêng. Các chính
sách này đều theo định hớng tự do, tất nhiên ở các tầng cấp khác nhau phụ thuộc vào
thực lực cụ thể của mỗi lĩnh vực cụ thể.
Thứ hai, tham gia toàn cầu hoá chính là tranh thủ những đIều kiện quốc tế để
khai thác các tiềm năng kinh tế nớc nhà, phục vụ nâng cao đời sống nhân dân.Việt
Nam là quốc gia có nguồn tàI nguyên phong phú nhng cha đợc khai thác hiệu quả.
Với nguồn tàI nguyên phong phú không chỉ tạo đIều kiện cho việc phát triển các
11

×